Mạnh Kim
Thảm họa hạt nhân lơ lửng tỏ ra ngày càng nghiêm trọng ở Nhật và người Nhật vẫn đang vật lộn từng ngày để khắc phục hậu quả sau trận động đất-sóng thần ngày 11-3-2011. Tuy nhiên, người ta vẫn tin rằng Nhật không chỉ có thể khắc phục mà còn hồi phục kinh tế quốc gia. Điều gì có thể khẳng định gần như chắc chắn như vậy?Vấn đề tinh thần với ý chí duy tân
Thảm họa thiên tai 11-3-2011 không phải là vụ thảm họa nghiêm trọng đầu tiên xảy ra đến nước Nhật. Năm 1995, một trận động đất kinh hoàng đã san thành bình địa phố cảng Kobe, ở thời điểm mà Kobe là một trong những trung tâm sản xuất quan trọng nhất của kinh tế Nhật và là cảng thương mại lớn thứ sáu thế giới. Trận động đất làm thiệt mạng 6.400 người, khiến hơn 300.000 nạn nhân khác trở thành vô gia cư và làm tổn thất hơn 100 tỉ USD. Người ta cứ nghĩ đống hoang tàn nát vụn sau trận động đất Kobe sẽ làm Nhật mất nhiều năm, nếu không nói nhiều thập niên, mới có thể hồi phục. Thế nhưng, như James Surowiecki viết trên New Yorker (28-3-2011), chỉ 12 tháng sau thảm họa, mậu dịch tại cảng Kobe bắt đầu hoạt động gần như bình thường và chỉ trong 15 tháng, khu vực sản xuất đã chạy đều ở mức bằng 98% thời điểm trước khi xảy ra động đất. Ở cấp độ quốc gia, sản xuất công nghiệp Nhật thậm chí tăng nhanh trong những tháng sau thảm họa Kobe; và tỉ lệ GDP quốc gia tăng trong hai năm sau đó đã vượt ngoài mọi dự đoán. Làm như thảm họa càng khiến người Nhật mạnh mẽ và ngoan cường hơn. Với một số dân tộc, tinh thần người dân có thể bị bẻ gãy và đổ sụm khi đối mặt thực tế quá kinh khiếp. Nhưng với người Nhật, sự đau khổ tột cùng lại mang đến cho họ sự cứng rắn dữ dội trong ý chí, như những mảnh nham thạch nguội cứng sau vụ phún xuất núi lửa. Ở một nước đối mặt thiên tai thường trực như Nhật, thống khổ đã hun đúc nên một tinh thần thép…
Đầu giờ trưa, một trận động đất kinh khủng 7,9 độ Richter đã xảy ra. 90% ngôi nhà trong khu vực bị đổ nát trong tích tắc. Xe lửa hành khách bị lật khỏi đường ray và bị hất tung xuống biển như món đồ chơi. Vài phút sau, một trận sóng thần cao khoảng 10m kéo vào, cuốn trôi vô số xe hơi, nhà cửa và con người rồi chôn hàng loạt thị trấn ngập kín trong đống bùn đen. Chưa hết, lửa cháy ngùn ngụt và lan rộng với tốc độ kinh hoàng được đẩy mạnh thêm bởi cường độ gió, và trở nên hung hãn hơn khi được châm thêm từ những ngôi nhà gỗ. Nhiều người đã chết chỉ bởi chạy trốn trên con đường nhựa đang bị nóng chảy. Hình ảnh kinh hoàng nhất của thảm họa là vụ chết cháy tập thể với khoảng 38.000 người khi họ chen chúc tại siêu thị Rikugun Honjo Hifukusho ở trung tâm Tokyo… Đó là sự kiện ngày 1-9-1923 tại Tokyo (theo lời thuật của Joshua Hammer, nguyên tổng thư ký tòa soạn tờ Newsweek, viết trên trang blog New York Times ngày 13-3-2011). Không chỉ Tokyo, thảm họa thiên tai nói trên cũng nghiền nát thành phố cảng Yokohama. Tổng cộng, khoảng 145.000 người bị thiệt mạng, 570.000 ngôi nhà bị phá hủy và 1,9 triệu người bị vô gia cư. Gần như toàn bộ hệ thống điện tín và điện thoại đều bị hỏng và tờ báo in đầy đủ tường thuật sự kiện, phát hành đầu tiên sau thảm họa, chỉ xuất hiện được vào ngày 4-9-1923… Ấy vậy, không đầy một thập niên sau, Nhật không chỉ hồi phục mà còn phát triển để trở thành một cường quốc kinh tế (lẫn quân sự). Đầu thập niên 1930, kinh tế Nhật mạnh đến mức họ đủ lực đề kháng để cản lại ảnh hưởng từ cuộc Đại suy thoái Mỹ lan rộng toàn cầu. Trong thực tế, sản xuất công nghiệp Nhật đã tăng gấp đôi vào thập niên 1930. Sản lượng sắt tăng từ 3.355.000 tấn năm 1937 lên 6.148.000 tấn năm 1943. Sản lượng thép tăng từ 6.442.000 tấn lên 8.838.000 tấn trong cùng thời gian. Đến năm 1941, công nghiệp máy bay Nhật đã có khả năng sản xuất 10.000 chiếc/năm (Wikipedia)…
Thế rồi Thế chiến thứ hai xảy ra. Nước Nhật sau năm 1945 trở nên tiêu điều khi phải trả giá cho giấc mộng bành trướng chủ nghĩa. Bao nhiêu công sức tích cóp và xây dựng kể từ thời Minh Trị bị tan tành theo bóng ma phát xít. Hơn 3 triệu người chết, khoảng 40% nhà máy và hạ tầng công nghiệp bị phá hủy; và sản lượng công nghiệp rơi xuống mức bằng 15 năm trước. Nhiều người tin rằng một thế kỷ sau Nhật cũng không thể lấy lại hình ảnh huy hoàng của thời trước 1945. Thế mà, người Nhật đã làm nên những kỳ tích không tưởng. Những năm đầu sau chiến tranh, họ tập trung tái thiết, đặc biệt lĩnh vực điện, công nghiệp nặng và phân bón. Một thập niên sau, sản lượng kinh tế đã bắt đầu ngang bằng giai đoạn trước chiến tranh rồi từ từ lấy đà tăng tốc. Từ 1953-1965, GDP Nhật tăng hơn 9%/năm; sản xuất và khai thác khoáng sản tăng 13%; xây dựng 11%; hạ tầng 12%… Đến năm 1965, các khu vực sản xuất trên đã sử dụng hơn 41% nhân lực (chỉ 26% là cho nông nghiệp).
Ở đây, cần nhắc lại, chính tinh thần tôn trọng duy tân và mở cửa đã giúp Nhật lập được một nền tảng vững như bàn thạch cho phát triển kinh tế. Từ thời Minh Trị (1868-1912), người Nhật đã mở rộng tay đón nhận những tư tưởng khoáng đạt từ phương Tây khi khuyến khích thế hệ trẻ tiếp thu cái hay trong kiến thức khoa học phương Tây. Trong giai đoạn này, hàng ngàn sinh viên Nhật đã được gửi sang Mỹ và châu Âu; trong khi Nhật thuê hơn 3.000 người phương Tây đến nước họ để dạy khoa học hiện đại, toán, kỹ thuật và ngôn ngữ. Sau năm 1945, tinh thần duy tân Minh Trị, thật ra được thai nghén từ thời tướng quân Tokugawa (1600–1868), bắt đầu tái hiện, bằng chính sách giáo dục với mục tiêu cốt lõi và tối thượng là hiện đại hóa đất nước. Ý chí kỷ luật cùng chính sách đề cao giáo dục đã trở thành hai trong số yếu tố bản lề mang lại sự thịnh vượng cho Nhật sau Thế chiến thứ hai. Công nghiệp Nhật bùng nổ còn, một phần, nhờ họ tạo ra được “triết lý” riêng cho hệ thống doanh nghiệp, với chủ trương Kaizen (改善 – “Cải thiện”), tức phải đổi mới và cải tiến liên tục, làm nền tảng. Tóm lại, có thể thấy, nếu thiếu đi cái nền căn bản của tinh thần duy tân được “đổ bê tông” từ thời Minh Trị – như một phần trong chính sách tầm quốc gia xuyên suốt lịch sử Nhật Bản hiện đại – Nhật khó có thể tạo nên được cái gọi là “điều kỳ diệu” vào những năm sau Thế chiến thứ hai, cũng như sau những trận thiên tai với hậu quả kinh khủng…
Còn nữa – đó là vấn đề trong sạch!
Về mặt kinh tế học, hai nhà kinh tế Mark Skidmore và Hideki Toya – sau khi nghiên cứu 89 quốc gia – kết luận rằng đất nước nào chịu nhiều thiên tai hơn thường có khuynh hướng phát triển nhanh và hiệu quả hơn (*). Lập luận này dường như gần với lý thuyết “cửa sổ vỡ” được xác định bởi kinh tế gia Frédéric Bastiat vào thế kỷ 19, với khái niệm cơ bản rằng việc đập vỡ cửa sổ thật ra là hữu ích xét về kinh tế, bởi nó mang lại việc làm cho thợ lắp kính. Nói cách khác, đổ nát mang lại tái thiết và tất nhiên đưa đến những chuyển động kích thích kinh tế. Không có khắc phục, sao có hồi phục?… Skidmore và Toya nhấn mạnh thêm, nền kinh tế của các quốc gia chịu nhiều thảm họa thiên tai tất nhiên không chỉ hồi phục nhờ việc “thay kính vỡ” mà còn được thúc đẩy bởi việc nâng cấp hạ tầng và kỹ thuật, chuyển hướng đầu tư sang các lĩnh vực mang lại tính hiệu quả cao hơn (sau thảm họa Kobe, thành phố này bỏ hẳn các nhà máy sản xuất giày cao su). Nói gọn lại, kế hoạch tái thiết của quá trình khắc phục thường đưa đến việc điều chỉnh lại, tái cơ cấu và thậm chí định dạng lại tư duy đầu tư cho phát triển…
Tất nhiên khả năng hồi phục còn tùy thuộc vài yếu tố khác. Dù ý chí người dân có bằng thép chăng nữa cũng chẳng giúp được gì cho công cuộc khắc phục, nếu một trong những vấn đề cốt lõi – là nguồn vốn tái thiết – bị cắt xén để đút vào túi bọn quan tham nhũng. Với một số nước, việc xử lý, tức phân bổ, nguồn vốn tái thiết là cơ hội bằng vàng để bọn “nha lại” địa phương rút rỉa và ăn đầu ăn đuôi. Sự “chấm mút” của bọn này, “ăn trên đầu trên cổ người dân” – như cách nói phổ biến – càng khiến kinh tế quốc gia “tăng tốc” đi mau đến chỗ phá sản!
(*) Xem: Economic Development and the Impacts of Natural Disasters, Working Paper 05 – 04, University of Wisconsin – Whitewater
-Đô Đốc Perry & Việc Mở Cửa Nước Nhật - Phạm Văn Tuấn tvvn.org
1. Nước Nhật và chính sách bế quan toả cảng
Thế kỷ 21 đã được gọi là Thế Kỷ Thái Bình Dương và các quốc gia ở chung quanh đại dương lớn nhất này đang đóng các vai trò rất quan trọng trong tương lai.
Tại vùng phía Bắc Thái Bình Dương, phần đất Alaska của Bắc Mỹ tiếp gần với phần đất Yakutsk của miền Tây Bá Lợi Á, thuộc nước Nga. Về phía tây nam của Thái Bình Dương là các hải đảo chạy gần như song song với lục địa châu Á, đó là các đảo Aleutian, Kurile, quần đảo Nhật Bản, quần đảo Phi Luật Tân ...
Vào thế kỷ 16 và 17, ba cường quốc đã thiết lập buôn bán với Nhật Bản là Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Hoà Lan. Người Bồ và người Hoà Lan đã tới Nhật Bản qua mỏm cực nam của châu Phi, còn người Tây Ban Nha tới từ thuộc địa của họ là Mễ Tây Cơ. Các người này bị người Nhật gọi là bọn “nam man” hay những kẻ man rợ của phương Nam, vì họ thường từ phía nam đi tới Nhật Bản.
Sang thế kỷ thứ 18 và 19, có thêm ba quốc gia nữa tìm cách buôn bán với Nhật Bản là nước Nga, nước Anh và Hoa Kỳ nhưng vào thời kỳ này, Nhật Bản đã áp dụng chính sách “bế quan toả cảng”, cấm đoán mọi giao dịch thương mại với các người nước ngoài, ngoại trừ với người Hoà Lan sinh sống tại Nagasaki. Vì thế, các người nước ngoài muốn làm thay đổi chính sách kinh tế kể trên không phải là một việc dễ dàng.
Quốc gia đầu tiên muốn gõ cửa Nhật Bản là nước Nga. Vào đầu thế kỷ 18, Đại Đế Peter (1672-1725) là Sa Hoàng có rất nhiều quyền lực và tham vọng, đã quyết định mở mang miền Siberia. Đây là một vùng đất bao la, rất giàu tài nguyên nhưng khí hậu rất khắc nghiệt. Vào thời đại của Sa Hoàng Peter, di chuyển hàng hoá qua miền Siberia chỉ trông cậy vào các con chó chạy trên những cánh đồng tuyết phủ mênh mông, còn dùng đường biển đi từ một hải cảng trên biển Baltic tới hải cảng Okhotsk tại Siberia phải mất hơn một năm. Hơn nữa, các hải cảng thuộc miền đông lại đóng băng 10 tháng trong một năm và chỉ dùng được trong 2 tháng 8 và 9. Việc chuyên chở tài nguyên Siberia là quặng mỏ và sản phẩm rừng, chỉ trông cậy vào các con tầu biển chở nặng và các hải trình dài đòi hỏi tới các hải cảng thân hữu để các con tầu này cập bến lấy đồ ăn và nước uống. Ngoài ra, các con tầu Nga đi tới Siberia còn cần một nơi chờ đợi cho băng tuyết tan đi. Một hải cảng của Nhật Bản đúng là một nơi lý tưởng. Với ý định như thế, Đại Đế Peter ra lệnh cho các học giả học tiếng Nhật qua các sách của người Hoà Lan và cho tầu thuyền thám hiểm các hòn đảo Kuril nằm giữa nước Nga và nước Nhật. Nhưng Đại Đế Peter đã chết trước khi có các tiếp xúc chính thức giữa hai nước.
Tới cuối thế kỷ 18, nước Nga lại có một nhà vua nhiều quyền lực là Nữ Hoàng Catherine (1729-1796). Bà vua này cố gắng nối tiếp các liên lạc chính thức với Nhật Bản nên vào năm 1792, một phái đoàn Nga đã tới hải cảng Nemuro thuộc hòn đảo phía bắc Hokkaido. Để có được tình cảm tốt đẹp, phái đoàn này còn đưa về Nhật Bản các người Nhật bị đắm tầu và được đối xử tử tế tại đất Nga. Phái đoàn Nga xin phép tới Edo là kinh đô của Nhật Bản thời đó để thương lượng việc buôn bán nhưng đã bị từ chối. Tới năm 1804, một phái đoàn Nga khác cũng tới hải cảng Nagasaki và cũng bị chính quyền Shogun (将軍 Tướng Quân) cự tuyệt.
Sự việc hai lần khước từ buôn bán với nước Nga đã khiến cho tại Edo, những người có trách nhiệm quốc gia phải quan tâm. Hokkaido là một hòn đảo thưa dân, ở phía bắc, rất cần được phát triển để mang lại thực phẩm cho các hòn đảo tại phía nam. Sự liên lạc với nước Nga có thể giúp ích cho việc phát triển này. Nếu phái đoàn Nga kiên nhẫn hơn, nán ở lại Nhật Bản lâu hơn thì việc thương lượng có thể có kết quả. Tuy nhiên, vị đại sứ Nga không kiên nhẫn, đã tự ý ra lệnh cho một tầu chiến tấn công một vùng biển của đảo Hokkaido. Việc dùng võ lực này đã khiến cho chính quyền Shogun quyết định tăng cường võ trang để bảo vệ Nhật Bản và càng cấm cản người nước ngoài.
Năm sau, 1808, một tầu chiến Anh chạy vào hải cảng Nagasaki và thuyền trưởng của con tầu đã bắt buộc vị tổng trấn thành phố phải cung cấp các đồ ăn và nước uống cần thiết. Nhiều tầu Anh khác cũng làm như vậy và vào năm 1824, đã có các cuộc chiến giữa các thuỷ thủ người Anh và một số người Nhật Bản.
Tất cả các biến cố kể trên phối hợp lại đã khiến cho chính quyền Shogun ban ra một sắc luật mới vào năm 1825, ra lệnh bắn phá tất cả các tầu thuyền ngoại quốc tới gần các bờ biển Nhật Bản và giết hay bắt tất cả các thuỷ thủ xa lạ. Các chính quyền địa phương Nhật được lệnh toàn quyền thi hành sắc lệnh này mà không cần hỏi về kinh đô Edo. Trước kia, các tầu biển nước ngoài nếu thiếu nước uống và đồ ăn thực sự, có thể ghé các hải cảng Nhật Bản trong một thời gian thật ngắn, nhưng sau khi sắc luật kể trên được ban hành thì mọi tầu bè ngoại quốc đều bị từ chối dứt khoát. Hành động cứng rắn của chính quyền Shogun kể trên lại càng làm cho chính quyền này bất lực về sau.
Cũng vào khoảng thời gian này, tại Trung Hoa, các thương nhân người Anh đã bán thuốc phiện trồng tại Ấn Độ cho các dân ghiền người Hoa. Vì thế Hoàng Đế Trung Hoa đã ra lệnh việc bán thuốc phiện phải bị chấm dứt và tại một hải cảng miền Quảng Đông, một số lớn thuốc phiện của người Anh bị tịch thu và đốt bỏ. Nước Anh vì vậy đòi nước Trung Hoa bồi thường và khi bị từ chối, các tầu chiến Anh đã bắn phá bờ biển Trung Hoa. Đó là cuộc «Chiến Tranh Nha Phiến». Lực lượng Trung Hoa không thể chống lại hạm đội Anh nên một số hải cảng Quảng Đông, hải cảng Thượng Hải và thành phố Nam Kinh bị chiếm đóng. Hiệp Ước Nam Kinh ký năm 1842 nhường cho nước Anh hòn đảo Hồng Kông gần Quảng Đông và đặc quyền cho phép người Anh buôn bán tại 5 hải cảng Trung Hoa.
Tại châu Á, Trung Hoa từ xưa vẫn được coi là một nước lớn, hùng mạnh nhất mà không thể chống cự nổi hạm đội Anh, điều này đã làm cho Nhật Bản phải suy nghĩ. Một số lãnh chúa Nhật đã khuyến cáo chính phủ nên giao thương ngay với các nước Tây Phương để có cơ hội mua võ khí ngõ hầu bảo vệ Nhật Bản. Tuy nhiên chính quyền Shogun vẫn cương quyết bế quan toả cảng, nhưng việc học hỏi Tây Phương có thể được làm ngơ để người Nhật biết cách chế tạo ra các võ khí mới.
2. Đô Đốc Perry tới nước Nhật
Sau nước Nga và nước Anh, Hoa Kỳ là quốc gia thứ ba đòi hỏi Nhật Bản phải mở hải cảng, giao thương với các nước ngoài. Vào thập niên 1840, Hoa Kỳ đã quan tâm tới Thái Bình Dương. Năm 1846, nước Anh công nhận quyền lợi của Hoa Kỳ tại miền đất Oregon và hai năm sau đó, Tây Ban Nha chịu nhường thuộc địa là miền California sau cuộc chiến tranh Mễ Tây Cơ. Năm 1849, cuộc khám phá ra vàng tại California đã tạo nên cuộc săn vàng sôi nổi tại miền tây Hoa Kỳ. Đã có một dự định xây dựng một đường xe lửa xuyên qua lục địa Bắc Mỹ và một dự án về tầu thuỷ băng qua Thái Bình Dương để tới Trung Hoa. Các quốc gia chính của châu Âu đang hướng về thị trường hàng triệu người tiêu thụ của châu Á để bán ra các sản phẩm dư thừa của họ, tạo nên bởi các phương pháp sản xuất của cuộc cách mạng kỹ nghệ. Hoa Kỳ cũng muốn chia phần trong việc tìm kiếm thị trường quốc tế. Ngoài ra vùng biển bắc Thái Bình Dương là nơi rất tốt để săn cá voi và đã có hơn 500 người Mỹ hành nghề tại vùng biển này. Những lý do kể trên khiến cho Hoa Kỳ hướng về châu Á.
Nhật Bản là miền đất nằm trên đường đi từ California tới Trung Hoa. Một thập niên về trước, nước Anh đã dễ dàng ép buộc Trung Hoa phải mở cửa để cho người nước ngoài vào buôn bán nên vào lúc này, Hoa Kỳ cũng muốn làm áp lực với Nhật Bản vì người Nga đang có các toan tính về thị trường Nhật. Vì thế, Hoa Kỳ phái một đoàn tầu chiến tới kinh đô Edo. Cầm đầu hạm đội Hoa Kỳ là Đô Đốc Matthew Calbraith Perry (1794-1858).
Đô Đốc Perry thuộc một gia đình hải quân truyền thống. Anh của ông là Oliver Hazard Perry là một vị anh hùng trong trận chiến Hồ Erie của cuộc chiến 1812. Còn chính Perry, ông đã chỉ huy lực lượng hải quân Mỹ lớn nhất thời đó trong cuộc chiến tranh Mễ Tây Cơ và đã thắng lợi trong cuộc tấn công hải cảng Veracruz. Ông cũng là một nhà ngoại giao trong các cuộc thương thảo tại Canada, Naples và Nigeria. Đô Đốc Perry luôn luôn bênh vực quan điểm là Hải Quân Mỹ nên dùng tầu thuỷ chạy bằng hơi nước để thay thế loại tầu biển dùng buồm, vì vậy trong hạm đội của ông đi tới Nhật Bản đã có hai tầu thuỷ. Ngoài ra, đặc tính thích hợp nhất của ông trong việc thương lượng với Nhật Bản là tính kiên nhẫn.
Mùa Thu năm 1852, Đô Đốc Perry rời hải cảng Annapolis để đi Nhật Bản, có Tổng Thống Hoa Kỳ Millard Fillmore tới tận nơi từ biệt. Đây là vị đô đốc thứ tư của Hoa Kỳ được gửi đi Nhật Bản kể từ năm 1845, vì các lần trước đều thất bại. Vào ngày Thứ Sáu, mồng 08/07/1853, hạm đội của Đô Đốc Perry tiến vào vịnh Edo (nay là vịnh Tokyo) trước các con mắt rất ngạc nhiên và thán phục của người Nhật Bản vì họ chưa từng được trông thấy hai chiếc tầu thuỷ chạy ngược gió. Hạm đội này đã bỏ neo tại thành phố Uraga, trên bờ phía tây của vịnh Edo.
Sự xuất hiện quá nhanh và bất ngờ của hạm đội Mỹ đã khiến cho chính quyền Shogun không biết cách phản ứng, vì vậy cách hay nhất của họ là trì hoãn việc đối phó, trong khi đó dân chúng Nhật đã kéo tới Uraga để nhìn thấy rõ các con tầu chiến Hoa Kỳ. Vào thời đó, các tầu thuyền của Nhật Bản còn làm bằng gỗ, thô sơ, không sơn phết, trong khi chiến hạm Mỹ được đóng theo kỹ thuật mới và sơn màu đen.
Lúc cập bến cảng Nhật Bản, Đô Đốc Perry đã từ chối gặp các nhân viên cấp dưới và sau một buổi lễ long trọng, đã trao bức thư của Tổng Thống Fillmore cho một hoàng tử Nhật để chuyển về cho Thiên Hoàng. Bức thư này đã nhã nhặn đòi hỏi ba điều: việc thương mại trên căn bản thử nghiệm, việc đối xử nhân đạo đối với các thuỷ thủ Mỹ gặp nạn và việc bán than đá cho các tầu thuỷ Hoa Kỳ. Chính quyền Shogun lúc đó đã không trả lời ngay mà yêu cầu hạm đội Mỹ ra đi vì bức thư đã được chấp nhận. Đô Đốc Perry hẹn sẽ trở lại sau một năm với một hạm đội hùng mạnh hơn. Shogun sau đó đã hội họp với các lãnh chúa để hỏi ý kiến và tìm ra giải pháp. Lòng ái quốc, lòng hãnh diện quốc gia và chính sách bế quan toả cảng đã không cho phép họ chấp nhận các điều yêu cầu của Hoa Kỳ. Nhưng vũ khí hùng mạnh của hạm đội Mỹ lại có thể gây nên những rắc rối giống như người Anh đã làm tại Trung Hoa.
Ngày 11/02/1854, Đô Đốc Perry trở lại vịnh Edo, lần này với 8 tầu chiến. 5 uỷ viên của chính quyền Shogun đã họp với Đô Đốc Perry tại một làng thuộc tỉnh Yokohama và cuối cùng, vào ngày 31/03, họ đã ký với nhau thoả ước Kanagawa, chấp thuận đối xử tử tế với các thuỷ thủ bị đắm tầu người Hoa Kỳ, cho phép các tầu biển Hoa Kỳ được cặp bến tại hải cảng Shimoda, nằm 100 dặm về phía nam của Edo, tại hải cảng Hokodate thuộc hòn đảo Hokkaido, và cũng chấp nhận trụ sở của một viên lãnh sự Hoa Kỳ tại Shimoda để sau này dàn xếp việc thương mại. Việc phê chuẩn thoả ước được phía Hoa Kỳ làm ngay, nhưng phía Nhật Bản đã để mất nhiều thời giờ hơn. Bắt chước Hoa Kỳ, các nước Anh, Hoà Lan và Nga cũng đòi hỏi các nhượng bộ tương tự và Nhật Bản không còn cách nào khác hơn là chấp nhận.
Tháng 08/1856, viên lãnh sự Hoa Kỳ đầu tiên tên là Towsend Harris tới nhận nhiệm sở tại hải cảng Shimoda. Vị này đòi hỏi Nhật Bản không những mở hải cảng để giúp các tầu biển cần tiếp liệu mà còn phải thi hành việc thương mại toàn diện. Vào thời này, nhiều người Nhật đã thấy rằng thoả ước bất công, có tính một chiều bởi vì Nhật Bản không thể buôn bán tại Hoa Kỳ, song Nhật Bản quá yếu, không làm sao ngăn cản được áp lực ngoại quốc và đã đến lúc phải chấm dứt chế độ Shogun Tokugawa (Tướng Quân) đã nắm quyền lực hai thế kỷ rưỡi. Các lãnh chúa đã bàn tính tới việc phục hồi quyền lực cho Thiên Hoàng. Kyoto do đó đã trở nên một trung tâm chính trị sôi động. Một khẩu hiệu phổ biến vào thời kỳ đó là «Tôn vinh Thiên Hoàng, đánh đuổi các kẻ man rợ». Một số lãnh chúa thế lực đã mời Thiên Hoàng và các nhà quý tộc tham dự vào các buổi bàn thảo về chính sách quốc gia, một việc làm đầu tiên trong nhiều thế kỷ.
Trong một cố gắng để làm yên lòng phe đối lập đối với các đòi hỏi thương mại mới, Shogun Tokugawa đã mang thoả ước để xin Thiên Hoàng chấp thuận. Vào các thập niên trước, tất nhiên Thiên Hoàng phải đồng ý nhưng lần này, Thiên Hoàng đã bác bỏ. Một lý do là vì hải cảng phải mở cửa là Osaka, quá gần với Kyoto. Thiên Hoàng lại khuyến cáo chính quyền Shogun phải quan tâm đến các ý kiến của các lãnh chúa mạnh thế.
Tháng 08/1858, Shogun thứ 13 tên là Iesada qua đời. Hội Đồng Niên Lão đã chỉ định một Đại Thần có quyền hành động như một nhà độc tài để phục hồi quyền hành trung ương. Vị này phải đủ mạnh để bắt giữ các lãnh chúa đối lập, chọn ra một Shogun mới và ký thoả ước với Hoa Kỳ. Vào lúc này, các nước Anh, Hoà Lan, Nga và Pháp cũng đòi hỏi các thoả ước tương tự, khiến cho sự bất mãn càng gia tăng nhất là khi nhiều người ngoại quốc bắt đầu tới Nhật Bản.
Năm 1860, vị Đại Thần bị ám sát chết. Lúc này, một số võ sĩ Samurai Nhật đã đốt nhà của nhiều người ngoại quốc và giết chết một số người khác. Tầu chiến các nước phương Tây liền trả thù lại bằng cách bắn phá các hải cảng Nhật. Chính quyền Shogun càng ngày càng trở nên bất lực, không kiểm soát nổi tình thế. Có hai thành phố đã mua lậu võ khí tây phương là Satsuma ở phía nam của đảo Kyushu, và Choshu ở phía tây của đảo lớn Honshu. Họ đã tổ chức được 2 đội quân gồm các samurai trẻ, có khả năng. Những người ngày thấy rằng cần phải thiết lập nên một chính phủ mới dưới quyền của Thiên Hoàng và huỷ bỏ chế độ Shogun (Tướng Quân). Một trong các samurai trẻ kể trên sau này trở nên một chính khách lỗi lạc của nước Nhật, đó là Ito Hirobumi, sinh năm 1841 trong một gia đình võ sĩ đạo thuộc miền Choshu.
Ito Hirobumi cho rằng cách hay nhất để học hỏi Tây Phương là đi qua phương Tây. Với đạo luật bế quan, ra khỏi nước Nhật có thể bị khép tội tử hình. Nhưng Ito, 22 tuổi, và 4 người trẻ khác đã trốn lậu trên một con tầu biển hướng tới Thượng Hải, đó là vào năm 1863. Tới Thượng Hải, Ito xin làm thuyền viên trên một con tầu khác để đi tới London, nước Anh.
Năm 1864, lãnh chúa tỉnh Choshu đã ra lệnh cho các đại pháo trên bờ bắn vào các con tầu ngoại quốc chạy vô các eo biển hẹp giữa hai đảo Honshu và Kyushu. Kết quả là các đại pháo này đã bị các tầu biển tây phương tiêu diệt dễ dàng. Rồi tỉnh Satsuma cũng gặp các kinh nghiệm tương tự. Điều chứng minh rõ ràng này đã khiến cho người Nhật Bản nhận biết sự cần thiết phải sử dụng võ khí và học hỏi kỹ thuật chiến tranh của Tây Phương. Ito Hirobumi được phái tới Nagasaki để lo việc nhập cảng võ khí của nước Anh.
Tháng 09/1866, vị Shogun thứ 14 chết sau 8 năm cầm quyền. Kế tiếp là Shogun thứ 15 và cũng là Tướng quân cuối cùng của giòng họ Tokugawa. Năm 1867, Thiên Hoàng qua đời, kế vị là một hoàng tử 14 tuổi tên là Mutsuhito.
Ngày 03/01/1868, các đội quân của hai tỉnh Satsuma và Choshu đã chiếm Hoàng Cung Kyoto. Những người lãnh đạo cuộc nổi dậy đã triệu tập một hội đồng hoàng tộc để điều khiển đất nước và hội đồng này gồm những người không muốn tiếp tục chế độ Shogun. Từ tháng 04/1868, Shogun trở thành một trong các lãnh chúa và quyền lực của giòng họ Tokugawa bị chấm dứt sau hai thế kỷ rưỡi.
Hội đồng cai trị Nhật Bản đã tuyên bố rằng Thiên Hoàng cần được phục hồi quyền lực cũ. Vị Vua của triều đại mới này là «Thiên Hoàng Minh Trị», người đã mở ra một trang sử rực rỡ cho nước Nhật.
Phạm Văn Tuấn