Thứ Bảy, 16 tháng 4, 2011

BÁN ĐỨNG SÀIGÒN

BÁN ĐỨNG SÀIGÒN (Gió o)
Larry Engelmann

BÁN ĐỨNG SÀIGÒN

Ngô Bắc dịch

Tiền biến mất.  Dầu xăng bị ăn trộm.  Nam Việt Nam bị sụp đổ và David Simmons vào tù.  Giờ đây, người Mỹ duy nhất bị truy tố về sự tham nhũng khổng lồ tiêu biểu cho những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh đã phá vỡ sự im lặng và tuyên bố sự vô tội của mình.

***
Các vụ ăn trộm xăng dầu và nạn tham nhũng lan tràn đã góp phần vào sự sụp đổ của Miền Nam Việt Nam.  Giờ đây, kẻ duy nhất bị truy tố về tội tham những giữa nạn trộm cắp lan tràn tuyên bố sự vô tội của mình
***
Graham Martin, vị đại sứ Hoa Kỳ cuối cùng tại Việt Nam, tin chắc ở hai điều: thứ nhất, David Simmons là một trong những nguyên do quan trọng nhất và gây xáo trộn nhiều nhất cho sự sụy sụp và làm mất Miền Nam Việt Nam, và thứ nhì, Simmons vô cùng mong muốn rằng anh ta không bị tìm thấy.
Tôi đã nói chuyện với một tá nhân viên khác của Tòa Đại Sứ Sàigòn và họ cũng nhớ đến Simmons và khuyến cáo tôi đi tìm anh ta nếu tôi muốn có một sự trình bày của kẻ thực sự nắm nội tình về những ngày cuối cùng của Sàigòn.  Tướng John Murray, đệ nhất tùy viên quân sự Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam và Tướng Homer Smith, đệ nhị và là vị tùy viên sau cùng, bổ túc tiếng nói của họ vào bản hợp ca.  Nhưng không ai có bất kỳ ý tưởng về nơi anh ta đang sinh sống hay ngay cả việc anh ta còn sống hay chăng.
       Các lượng định gây ngạc nhiên nhất về Simmons đến từ hai vị tướng lãnh Nam Việt Nam – cựu tư lịnh Không Quân và vị tư lịnh cuối cùng của Quân Khu III, khu vực bao quanh Sàigòn.  Mỗi vị cũng tin chắc rằng nếu có một kẻ nào phải chịu trách nhiệm nhiều hơn bất kỳ cá nhân nào khác cho sự thất trận của Nam Việt Nam, đó chính là David Simmons.
       Tôi đã hỏi các nhân chứng khác về Simmons.  Phần lớn đã không có một manh mối nào về anh ta.  Không một ký giả nào trong số một tá thành viên của đoàn báo chí tại Sàigòn mà tôi phỏng vấn đã từng nghe thấy tên họ đó trước kia.  Không người nào trong cơ sở của CIA (Cơ Quan Tình Báo Trung Ương) tại Sàigòn có thể xác định về anh ta.  Nhưng các nhà ngoại giao và các tướng lĩnh từng hay biết anh ta và các sĩ quan Nam Việt Nam nhớ anh ta thì không bao giờ quên được David Simmons.
       Theo sau một sự mách bảo đúng lúc từ một cựu trung tá Nam Việt Nam thân hữu, tôi đã tìm thấy anh ta.  Anh ta không vui vẻ khi tôi gọi điện thoại và tự giới thiệu mình.  Anh ta hỏi làm sao tôi đã có được số điện thoại của anh ta và tôi đã kể lại cho anh ta hay.  Tôi nói, đó là một vấn đề kiên trì và may mắn.  Tôi đề cập đến các vị Tướng Murray và Smith và anh ta đáp ứng một cách tích cực đối với danh tính của họ và hỏi về những gì họ đã nói về anh ta.  Sau khi tôi nói cho anh ta hay, anh ta nói chúng tôi có thể gặp gỡ -- một lần.  Anh ta cho tôi địa chỉ.  Tôi nói với anh ta tôi không ở xa mấy.  Tôi sẽ có mặt ở đó trong vòng 30 phút.
       Vào lúc đó Simmons làm chủ một nhà hàng Việt Nam nhỏ cùng với vợ anh ta tại Miền Nam California.  Simmons giữ sổ sách kế toán và giám thị nhân viên – phần lớn là các con của chính anh ta.  Vợ anh ta, một người Việt Nam, làm đầu bếp.  Cả gia đình sinh sống tại một căn buồng nằm bên trên nhà hàng.  Có tám đứa con, Simmons nói với tôi như thế.  Và chúng đều rất hạnh phúc.  Các đứa con không hay biết gì về kinh nghiệm của anh ta tại Việt Nam và sau đó.  Anh ta đã giữ một cuộc sống mai danh ẩn tích.
       “Bởi vì ông Tướng Murray đã khuyến cáo ông nói chuyện với tôi và bởi tôi kính trọng sự phán đoán của Tướng Murray, chúng ta có thể nói chuyện với nhau”, anh ta nói thế.  Anh ta yêu cầu tôi tuy thế hãy chờ đợi để có một khoảng cách thích đáng trước khi công bố câu chuyện của anh ta.  Và anh ta yêu cầu tôi đừng nói cụ thể nơi anh ta sinh sống .  Anh ta không muốn lại bị tìm thấy.

NHIÊN LIỆU CHO CHIẾN TRANH
      Simmons bắt đầu câu chuyện, “Đã rất lâu trước đây”.  “Đó là một thế giới khác, một đời sống khác.  Thật kỳ lạ.”  Anh ta khoanh tay lại trên mặt bàn và nhìn xuống chúng “.  “Trời ơi”, anh ta thì thầm, sau một lúc.  “Thật không dễ dàng để nói về nó.”
       Anh ta nói rằng “toàn thể sự việc về Việt Nam” khởi sự với anh ta vào năm 1962 khi anh ta đến Sàigòn với tư cách một đại úy Bộ Binh.  Anh ta đảm nhận “một chức vụ quản trị nhân viên” tại bộ chỉ huy Hoa Kỳ cho tới khi anh được giải ngũ tại hải ngoại vào năm 1969.  Sau đó anh ta ở lại trong nước [Việt Nam] và làm việc với tư cách quản trị viên việc thiết trí cho công ty Pacific Architects and Engineers (PA&E: Kiến Trúc Sư & Kỹ Sư Thái Bình Dương) tại Sàigòn.
       Khi khế ước của PA&E với Quân Đội [Hoa Kỳ] hết hạn, Simmons đi làm trước tiên cho Bộ Chỉ Huy Viện Trợ Quân Sự Việt Nam (Military Assistance Command Vietnam)[viết tắt là MACV, chú của người dịch] và sau đó cho Văn Phòng Tùy Viên Quốc Phòng (Defense Attaché’s Office, viết tắt là DAO).
       Simmons được tuyển dụng để làm việc kiểm tra phẩm chất cho quân đội trên việc nhập cảng và phân phối nhiên liệu.  “Họ đề nghị chức vụ đó cho tôi bởi tôi có căn bản về lãnh vực dầu hỏa”, anh ta nhớ lại.  Anh ta đã cố làm việc để thăng tiến cho đến khi anh ta được bổ nhiệm là trưởng ban dầu hỏa cho văn phòng DAO.
       Simmons cho hay anh ta đã nhận thấy mọi thứ “đều bị cắt giảm khá nhiều và cạn kiệt trong thời khoảng đó – cho đến khi có sự xiết chặt xảy đến”.  Sự xiết chặt là quyết định của Tổ Chức Các Nước Xuất Cảng Nhiên Liệu (Organization of Petroleum Exporting Countries: OPEC) do khối Ả Rập cầm đầu tiếp theo sau sự bùng nổ của Cuộc Chiến Tranh Yom Kippur War trong Tháng Mười 1973 nhằm cấm vận dầu hỏa sang Hoa Kỳ và các nước liên thuộc với Hoa Kỳ.
       Bởi có sự quan ngại của Tướng Murray về việc trao tiền trực tiếp cho các chính phủ tại Đông Nam Á để mua nhiên liệu, điều đã được quyết định rằng Simmons sẽ là “đại diện nhiên liệu” chính thức từ các nước trong vùng bị chỉ định là “liên thuộc của Hoa Kỳ” bởi Tổ Chức OPEC: Thái Lan, Căm Bốt, Lào, và Nam Việt Nam.  Sự chỉ định đã được chấp thuận và chỉ đạo bởi Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ.
       “Tất cả điều này là một mưu chước để tìm một đường lối hầu tiếp tục mua các sản phẩm nhiên liệu đã tinh lọc cho sự sử dụng quân sự tại bốn nước đó”, Simmons nói.  Các trách nhiệm của anh ta là thương thảo các hợp đồng với các nước sản xuất nhiên liệu, mang dầu thô về lọc tại Singapore và giám sát các sự nhập cảng.  Ông có hai nhân viên, cùng một số thư ký người Việt Nam.” “Như thế đó, một công tác khổng lồ khởi sự như vậy”, Simmons nói.
       “Chúng tôi đã phải ngụy trang các đường lối và phương tiện để chuyển tiền sao cho nó không thể bị truy tìm dấu vết một cách trực tiếp tới chính phủ Hoa Kỳ, và việc đó liên can đến việc can thiệp với Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam để chấp nhận các vụ chuyển tiền và chi phiếu do tôi cầm tay mang xuống cho họ.
       Họ kế đó đã sử dụng một phương pháp chuyển tiền bằng điện tín tinh vi để di chuyển hàng triệu mỹ kim này trong thời khoảng hai hay ba ngày đến các trương mục tại Singapore và Hồng Kông.  Khi đó tôi có thẩm quyền để giải ngân các ngân khoản đó cho các công ty lọc dầu và các công ty sản xuất nhiên liệu hầu thanh toán cho sản phẩm.”
       Simmons được nhắc nhở hàng ngày rằng “nếu công tác này thất bại, cuộc chiến tranh tại Việt Nam và tại Đông Dương sẽ ngừng lại.  Không có các sản phẩm nhiên liệu, một nỗ lực quân sự không thể tiếp tục.  Sự việc này sẽ đình chỉ [mọi thứ].  Nó sè làm đông lạnh bộ máy [chiến tranh].”

HÀNG TRIỆU BỊ MẤT MÁT
       Simmons đã đi mua xăng, dầu nặng, xăng máy bay, và các nhiên liệu và chất nhớt máy bay khác.  Anh ta đã thành công, anh ta nói, trong việc cung cấp mọi thứ mà Bộ Quốc Phòng đã chấp thuận cho Nam Việt Nam và ba quốc gia kia mà anh ta đại diện.
       “Công việc của tôi là xác định số lượng cần thiết là bao nhiêu trên một căn bản của thực tại”, anh ta nói.  “Công việc của tôi cũng nhằm bảo đảm rằng nó được phân phối tới bất kỳ nơi đâu mà nó cần thiết nhất và xác định số lượng cần thiết là bao nhiêu cho bất kỳ loại hoạt động cá biệt nào đã được hoạch định.  Đó là một công việc quá nặng nề, thực sự như thế.  Và không có ai ở đó để giúp đỡ tôi trong việc đó.”
       Chung cuộc, Simmons nói, anh ta yêu cầu Văn Phòng DAO chỉ định một kiểm toán viên thuộc Văn Phòng Kiểm Toán Chính Phủ (Government Accountability Office: GAO) đến văn phòng anh ta để kiểm tra các con số.
       “Khối lượng các sản phẩm chuyển giao, liệu các sản phẩm đã đến nơi chúng được chỉ định và trong số lượng giả định hay không, “ anh ta nói, “điều này thì không rõ ràng với anh ta.  Hoạt động đánh mất tất cả mọi sự minh bạch.  “Mặc dù chúng ta vẫn nhận được hàng trăm chữ ký của các sĩ quan Nam Việt Nam trên các tài liệu tiếp nhận – ai thực sự biết được?  Đó là một công tác bất khả thi hành.”
       Sản phẩm được trắc nghiệm tại các điểm giao hàng bởi một nhà thầu Hồng Kông, Simmons nhớ lại.  “Họ có mặt ở đó để bảo đảm về phẩm chất và số lượng.  Nhưng ai biết được là liệu các con số mà họ cung cấp là có chính xác hay không?  Tôi không hay biết gì cả.  Chính các sự lo ngại này khiến tôi đã viết một văn thư xuyên qua Tướng Murray gửi đến Cơ Quan GAO nói rằng, “tôi nghĩ các nhân viên của quý vị thực sự phải đến và nhìn thấy sự việc này”.
       Trên hết, tôi lo lắng cho chính hậu vận của mình.  Vì thê, Cơ Quan GAO đã đến và duyệt xét vấn đề.  Và thái độ của tôi là, nếu Cơ Quan GAO không tìm thấy bất kỳ lỗi lầm nào, tôi sẽ không phải lo lắng gì về điều đó nữa”.
       Simmons cho biết anh ta đã yêu cầu sự kiểm toán khi anh ta nhận thức rằng anh đã mất sự kiểm soát một tình trạng liên can đến hàng nhiều triệu mỹ kim.
       “Đa số khoản chi của ngân sách quân sự trong bất kỳ hoạt động quân sự nào giống thế là dành cho nhiên liệu”, anh ta nói.  “Và bởi giá cả tăng từ 16 xu một gallon [tương đương 3 lít 78, chú của người dịch] lên 40 hay 55 xu một gallon qua một buổi tối, chúng tôi đã kéo căng một ngân sách vốn dĩ đã khổng lồ vượt ra ngoài phạm vi [kiểm soát]”.
       Các khó khăn gia tăng gấp bội.
       Một số trong các trở ngại to lớn nhất của Simmons nảy sinh từ vấn đề thụ đắc dầu nhớt (hượt liệu hay dầu nhờn)).  Anh ta nói một nhà thầu kết ước về bảo đảm phẩm chất biết được các khó khăn đó và người đó đề nghị đứng ra thu gom dầu nhớt.  Simmons đã gửi đến nhà thầu một Lịnh Đặt Mua, và nhà thầu đã đáp ứng bằng một đề nghị rao bán.  Simmons đã thanh tra các cơ sở của nhà thầu, du hành hai lần sang Singapore và một lần sang Hồng Kông.  Anh ta đã nhìn thấy các khu vực cất giữ với các khối lượng lớn lao dầu nhớt hội đủ các điều kiện kỹ thuật quân sự.
       “Như thế tôi đã ký với ông ta một hợp đồng”, Simmons nói”.  Và nhà thầu đã không bao giờ cung cấp nhớt.  Tôi đã trả người đó tiền.  Hắn ta biến mất.  Lỗi ở ai?  Tôi đã bị đi tù vì chuyện đó!”, anh ta nói.  Simmons cho hay anh ta vẫn không biết là dầu nhớt có được chuyển giao hay không.
       Anh ta sau này hay biết rằng nhà thầu đã vay mượn tiền từ hai ngân hàng ở Sàigòn.  Vợ của Simmons có liên hệ với một trong hai ngân hàng đó, và điều đó tạo sự dễ dàng hơn cho nhà thầu để nhận được khoản xin vay – một sự kiện Simmons đã không hay biết mãi cho tới sau này.
       “Bà ấy đến gặp tôi 90 ngày trước khi chúng ta rút ra khỏi Việt Nam”, anh ta nhớ lại.  “Và bà ấy hỏi, “Có phải ông đã trả tiền cho kẻ này để mua nhớt hay không?”  Và điều đó làm tôi ngạc nhiên bởi tôi không bao giờ thảo luận công việc của tôi với bà ấy.  Vì thế tôi hỏi lại, “Bà biết những gì về nhà thầu đó?”  Khi đó bà ấy nói với tôi rằng nhà thầu đã bội tín trên các khoản trả nợ món vay của ông ta.  Ngân hàng đã yêu cầu vợ anh ta tìm hiểu những gì đã xẩy ra, và Simmons nói với bà vợ rằng ông đã thanh toán cho nhà thầu.
       “Đó chính là lúc mà tôi đúng ra phải báo cáo, ‘Này, các ông ơi, chúng tôi có một sự mâu thuẫn quyền lợi  Tôi đã không làm điều đó”.
       Các khoản vay từ ngân hàng Sàigòn đã không được hoàn trả.  Đồng tiền đã biến mất trong sự chuyển tiền bằng điện tín từ Hồng Kông sang Sàigòn.
       Ngay sau khi rời khỏi công việc chính phủ ít tháng trước khi có sự sụp đổ của Sàigòn, Simmons đã lo lắng cố gắng truy tìm số tiền.  Trong khi đó, Quân Đội Bắc Việt đang tiến gần đến Sàigòn.  Chiến Tranh Việt Nam và vai trò của Hoa Kỳ tại Đông Nam Á mau chóng đi đến hồi kết cuộc.

NẠN ĂN CẮP LỚN LAO
       Simmons nói anh ta nhớ phải đối diện với nạn tham nhũng hàng ngày.  Và, anh ta nói thêm, “Điều này không có nghĩa chỉ hạn chế vào phía chính phủ Việt Nam”.
       Anh ta nhớ lại một cuộc gặp gỡ với một Tư Lịnh Không Quân Việt Nam, Tướng Trần Văn Minh.  Simmons trình bày số lượng nhiên liệu mà anh ta cần đến là bao nhiêu, dựa trên bảng liệt kê của anh ta về số máy bay, số phi vụ trù liệu và các yếu tố khác.  ”Ý kiến tức thời của Tướng Minh”, anh ta nói, là “Chúng ta làm gì đối với kẻ ăn trộm nỏ”.
       Simmons nói anh ta sững sờ bởi câu hỏi và đã trả lời, “Đó là vấn đề của ông.  Việc đó phải được đình chỉ.”  Vào lúc đó, một đại tá Không Quân Mỹ hiện diện trong buổi họp nói, “Ông phải cho họ 25 phần trăn khoản giảm trừ vì nạn ăn trộm”. 
       “Tôi sẽ không làm điều đó!”, Simmons nhớ lại đã trả lời như thế.  “Nhưng viên đại tá nói, ‘Ông nhất thiết sẽ phải làm điều đó!’”
       “Các đại tá, các đại úy, các trung úy trong Không Quân Việt Nam đã ăn trộm nhiên liệu và cung cấp cùng với các hạ sĩ, các binh nhì, các trung sĩ”, Simmons nói.  Mọi chiếc xa Honda tại Sàigòn đều được chạy bằng xăng ăn trộm.  Và một khối lượng lớn trong chúng chạy sang phía bên kia – địch quân nhận được nhiên liệu bởi hàng xe vận tải từ các sĩ quan quân đội Nam Việt Nam.  Chúng ta tiếp tế nhiên liệu cho các kẻ thù của chúng ta cũng như cho các thân hữu của chúng ta”.
       Simmons đã tìm kiếm một vài cách để ngăn chặn nạn trộm cắp và mua bán.  “Toi đã nghĩ rằng nếu tôi có một cách để xác định nó, tách biệt với xăng dầu dành cho sự tiêu thụ dân sự, khi đó chúng ta có thể có một cách để phát hiện nơi nó phát sinh và có lẽ sẽ tịch thâu nó và thu hồi nó.
       “Vì thế tôi đã đòi mọi xăng quân sự phải được nhuộm màu xanh da trời.  Không còn màu đỏ nữa.  Mà là màu xanh.  Như thế đó, rồi thì bạn lái xe xuống các đường phố Sàigòn và ra tới Biên Hòa, và nhận thấy mọi cửa tiệm bán xăng trong các chai nhỏ bé, và chúng đều mang màu xanh.  Ai mua nó?  Viên cảnh sát mua nó cho chiếc xe Honda của ông ta, và viên trung sĩ sẽ ngừng lại và mua ít chai cho chiếc Honda của anh ta trên đường về nhà, hay biết hoàn toàn rõ rệt rằng nó bị ăn trộm từ quân đội [sic].  Không có cách nào khác để nhuộm nó thành màu xanh”.
       Có vấn đề bổ túc của sự ô nhiễm nhiên liệu.  Đã có một sự trì trệ nỗ lực quân sự vào một lúc bởi sự ô nhiễm của nhiên liệu.  “Chúng ta mất chín chiếc máy bay”, Simmons nói.
       “Nhiên liệu tại Căn Cứ Không Quân Tân Sơn Nhất bị dơ bẩn mọi lúc.  Tôi sợ muốn chết để bay ra khỏi đó trên một chiếc máy bay dân sự”.
       Anh ta báo cáo rằng người Việt Nam chở xăng vòng quanh trong các chiếc xe vận tải cổ lỗ với các màng lọc dơ bẩn.  Phẩm chất của nhiên liệu, anh ta vạch ra, có tính chất quan yếu đối với máy bay.
       “Khi giới quân sự Việt Nam nói với ông rằng vào lúc cuối cuộc chiến, họ không có đủ xăng máy bay để cho máy bay của họ cất cánh, điều đó, xin lỗi về sự dùng chữ, đúng là một sự nói láo (straight bulklshit)!  Cho đến tận ngày cuối họ vẫn có nhiên liệu cung cấp cho họ, nhiều hơn mức cần dùng” [sic].

KẺ ĐÓNG VAI PHỤ HAY
MỘT TAY NHIỀU THỦ ĐOẠN?
       Đó là lối mà Simmons nhớ về sự việc giờ đây.  Tuy nhiên, Bộ Tư Pháp, đã có một sự tường thuật khác biệt sâu xa về các hoạt động của Simmons tại Đông Nam Á.  Họ nói rằng anh ta là một bộ phận của một mạng lưới chuyển hướng phi pháp số nhiên liệu được chủ định dành cho việc chiến đấu chống lại kẻ địch khắp cõi Đông Nam Á.
       Nạn tham nhũng trong sự cung cấp các sản phẩm dầu hỏa không phải là một vấn đề mới.  Trong Tháng Giêng năm 1969, Văn Phòng GAO đã báo cáo rằng nhiều triệu gallons nhiên liệu chuyên chở đến các đơn vị quân đội Hoa Kỳ tại Thái Lan đã bị lấy trộm.  Văn Phòng GAO đã không thể xác định tầm mức đầy đủ của các sự tổn thất, nhưng Văn Phòng đã báo cáo lên Quốc Hội rằng cuộc điều tra của cơ quan này và một cuộc điều tra quân đội song hành cho thấy rằng hơn 5 triệu gallons nhiên liệu đã bị trộm riêng trong năm 1967.  “Các vụ trộm nhiên liệu nhiều hơn, không xác định được, có thể đã xảy ra và tầm mức đầy đủ của các sự tổn thất đã không được hay biêt”, Văn Phòng GAO nói như thế trong một bản báo cáo.
       Thượng Nghĩ Sĩ William Proxmire, một vị dân cử đảng Dân Chủ thuộc tiểu bang Wisconsin, kẻ đã yêu cầu mở cuộc điều tra, nói rằng đó là “một tình trạng làm chấn động và bi thảm”.  Các nhà điều tra nói rằng sự lỏng lẻo của chính phủ trong việc kiểm soát sự phân phối nhiên liệu và trong thủ tục thông qua các tài liệu chịu trách nhiệm phần nào cho nạn ăn cắp, vốn “được kéo dài chính yếu bởi sự thông đồng và giả mạo giấy tờ”.  Văn Phòng GAO cũng nói rằng nạn ăn trộm vẫn có thể đã xảy ra mà không bị phát giác ngay dù có “một hệ thống tinh vi hơn, được chấp hành một cách thích đáng”.
       Các vụ trộm đã được thực hiện bởi việc đặt ra các đơn vị quân sự giả tưởng trên các biên nhận chuyển giao, và bởi việc sử dụng các số xe giả tưởng, số sườn xe (vehicle identification numbers) của các xe không còn được sử dụng nữa, và các biên nhận chuyển giao cho thấy việc tái tiếp tế quá hà lạm.  Các vụ trộm khác được thực hiện từ các trạm tiếp tế phụ trách việc cung cấp nhiên liệu cho xe cộ Hoa Kỳ.
      Khi các kiểm toán viên của Văn Phòng GAO xem xét các tài liệu của Simmons, họ kết luận rằng đã có một đường dây có tổ chức hoạt động để chuyển các ngân khoản của Ngũ Giác Đài vào các trương mục ngân hàng tư nhân.  Họ đã báo cáo các sự khám phá của họ với Bộ Tư Pháp.
       Simmons không hay biết về bản báo cáo cuối cùng của Văn Phòng GAO, và vào khoảng đầu năm 1975 anh ta lạc quan về tương lai.  Anh ta nghĩ anh ta đã được bạch hóa việc làm sai phạm.  Cảm nghĩ của anh ta về sự bất khả bị xâm hại được nâng cao bởi sự kiện rằng anh ta đã có các quan hệ tốt về mặt chính trị và tài chính bên trong phạm vi Nam Việt Nam.  Anh ta kết hôn với một phụ nữ trẻ mà gia đình có sở hữu địa ốc tại Đà Nẵng và Sàigòn, các đồn điền cao su bên ngoài Sàigòn, các viện thẩm mỹ, các ngân hàng và các cửu hiệu nữ trang khắp nước, và có một quyền lợi kiểm soát tại Hàng Không Việt Nam (Air Vietnam), hãng hàng không của Nam Việt Nam, và tại một ngân hàng tại Sàigòn – Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam (National Bank of Vietnam).
       Tình hình quân sự tại Nam Việt Nam bị tan rã một cách mau chóng trong mùa xuân 1975.  Simmons xem ra đã nghĩ rằng khi hồi kết cuộc thực sự của chế độ Sàigòn xảy đến, anh ta sẽ tập họp gia đình của mình và bay đi và để mọi khó khăn của anh ta lại đàng sau.
       Simmons đang ở Hồng Kông khi Quân Đội Bắc Việt bắt đầu tiến gần vào Sàigòn trong Tháng Tư.  Nhưng đột nhiên, như thể tự trên trời rơi xuống, vào ngày 8 Tháng Tư, Bộ Tư Pháp đã nạp một đơn kiện dân sự tại Hồng Kông, chống lại Simmons, Pietro Marini, Richard Sakai, Tim Koon Hung Wong, Petroleum Management Consultants of Hong Kong, và Công Ty Wong’s International Trading.  Đơn kiện liên quan đến việc ăn trộm 4.4 triệu mỹ kim từ các ngân khoản của Ngũ Giác Đài được dành cho quân đội Nam Việt Nam và bị chuyển tới Hồng Kông.
       Andrew Davenport, tường trình vụ kiện cho tạp chí Far Eastern Economic Review đã kết luận trước hết rằng đó là “một câu chuyện cực kỳ phức tạp”.  Bổ túc cho bản chất mờ ám của những gì đã xảy ra và những gì đang tiếp diễn, vụ án được xử một cách kín đáo tại các phòng xử tại Hồng Kông và vì thế đã không có các tài liệu công khai của các biên bản lưu trữ dành cho các thông tín viên.  Davenport cũng nhận thấy rằng tòa lãnh sự Hoa Kỳ tại Hồng Kông đã nhận các chỉ thị nghiêm ngặt là không bình luận gì về các bị cáo.
       Tim Wong có nói chuyện với Davenport, và cho ông ấy hay rằng tất cả vụ kiện là về các lô hàng về dầu nhớt [hay dầu nhờn, dầu mỡ: lubricating oil] dành cho Quân Đội Nam Việt Nam đã bị ăn trộm trước khi tới được người nhận.  Anh ta chỉ biết được rằng số dầu đó đã được đặt mua bởi Simmons và Sakai và các đơn đặt mua của họ được đặt xuyên qua Marini là kẻ đã từng sống tại Sàigòn nhưng đã biến mất khi đơn kiện được đệ nạp.  Marini để lại địa chỉ liên lạc là “nhờ địa chỉ của Caltex Oil (của Kenya), tại Mombasa”.  Một phát ngôn viên của Caltex cho hay ông ta chưa bao giờ nghe nói về Marini và theo sự hiểu biết tốt nhất của đương sự, con người đó đã không ở Kenya.  Marini không bao giờ được trông thấy lại lần nào.
Wong tuyên bố không hay biết về cơ cấu của những gì đã xảy ra.  Sakai và Simmons đã thiết lập một công ty khác, Pan Asia Engineering Consultants, trong “năm 1973 hay đầu năm 1974”, và công ty đó đã được đăng ký một cách hợp pháp tại Hồng Kông.
Davenport tìm thấy Simmons và mô tả anh ta là “trẻ tuổi và để râu, mặc đồ bộ bằng vải khaki được may cắt riêng”.  Simmons nói anh ta không thể nêu ý kiến gì về vụ kiện bởi vì nó nằm trong tay “các tham vấn pháp lý của anh ta”.  Anh ta chỉ xác nhận rằng anh ta đã từng ở Việt Nam.
Vào ngày hôm sau, giống như Marini, Simmons đã biến mất.

Ý ĐỒ GIAN LẬN
Bruno Ristau thuộc Ban Gian Lận Dân Sự (Civil Fraud Division) của Bộ Tư Pháp đã giải thích với một thông tín viên của hãng thông tấn Associated Press rằng sự gian lận đã khởi sự hồi đầu năm 1974 sau khi Simmons được giao cho quyền hạn chấp thuận các khoản thanh toán được rút từ trương mục của Hoa Kỳ tại Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam.  Ristau cho hay ông có các bằng chứng rằng Simmons là kẻ chủ mưu chính yếu trong số các kẻ đồng mưu thuộc một hệ thống chấp thuận các khoản thanh trả cho các sản phẩm không bao giờ được chuyển giao.  Công ty Simmons-Sakai tại Hồng Kông, Ristau cho hay, là một “công ty trên giấy tờ”.
       Bộ Tư Pháp đã thành công trong việc phong tỏa các trương mục ngân hàng của các bị cáo và các công ty của họ cho đến khi vụ kiện được phán quyết.
       Nhưng các bị cáo Marini và Simmons đã biến mất.  Bộ Tư Pháp cho hay Simmons đã mua các đá quý trị giá 500,000 Mỹ Kim trước khi rời khỏi Hồng Kông.  Các đá quý, họ tuyên bố, có thể được dùng như tiền vốn linh động không thể truy tìm dấu vết được đối với một kẻ trốn chạy quốc tế.
       Simmons đã theo một chuyến bay thương mại từ Hồng Kông về Sàigòn.  Anh ta đã sắp xếp cho người vợ và bốn đưa con cùng bốn thành viên trong gia đình mở rộng của anh ta rời khỏi thành phố đang bị bao vây vào ngày 28 Tháng Tư trên một chuyến bay thương mại theo thời khóa biểu thường lệ sang Manila.
       Từ Manila họ bay về Los Angeles và sau đó lên Washington D.C.  Tại Washington D.C., Simmons đã tậu một chiếc xe tải (van) chở cả nhóm về nhà cha mẹ anh ta tại Porterwood, West Virginia.  Họ dọn vào một ngôi nhà lưu động trên nông trại của cha anh ta.
       Vào lúc Simmons về tới West Virginia, Nam Việt Nam đã không còn nữa.  Sàigòn đã trở thành thành phố Hồ Chí Minh.  Quá khứ đã chết và được chôn vùi, Simmons đã nghĩ thế.  Ai còn để ý đến các lô hàng dầu nhớt tại Nam Việt Nam làm gì nữa?  Anh ta đã trốn thoát, và đã an toàn và đang ở nhà với bè bạn và gia đình tại West Virginia.  Anh ta có nói chuyện với một thông tín viên địa phương của tờ nhật báo của Elkins, West Virginia và thảo luận về các cáo buộc của chính phủ đối với anh ta.  Anh ta nói anh ta tin tưởng và bắn tin rằng anh ta sẽ quay trở lại Hồng Kông để tự bào chữa.  “Chúng tôi cảm thấy chúng tôi sẽ đánh bại vụ kiện”, anh ta nói.
       Anh ta đã giải thích rằng tất cả các sản phẩm dầu hỏa bị cáo giác biến mất đã được thanh toán và đã được chuyển giao cho Quân Đội và Không Quân Nam Việt Nam và chỉ sau đó chúng mới biến mất.  Anh ta nói tình trạng rất khó khăn để cung cấp cho các đồng minh của Hoa Kỳ tại Đông Nam Á các sản phẩm dầu hỏa sau khi có sự cấm vận dầu hỏa của Tổ Chức OPEC lẫn các sự hạn chế trên sự sử dụng các nhiên liệu được sản xuất tại Hoa Kỳ để yểm trợ cho các hoạt động quân sự.  “Tôi đã tìm ra được một giải pháp”, anh ta nói.  “Không phải là một giải pháp rất được ưa chuộng, nhưng nó sẽ bảo đảm cho nhiên liệu được tiếp tục đổ vào”.
       Simmons tiếp tục giải thích rằng tại Đông Nam Á “Tôi đã đưa cổ mình ra bảo đảm để có được các sản phẩm dầu hỏa cho các đồng minh của Hoa Kỳ.  Tiền của chính phủ thường không được cung cấp khi các khoản thanh toán đã quá hạn phải trả, anh ta nói.  “Tôi vẫn liên tục thiếu nợ với các nhà cung cấp thương mại”.
       Simmons nói rằng anh ta không lo ngại bởi vì anh ta có trị giá nhiều hơn số các tài sản bị phong tỏa tại Hồng Kông.  Cố gắng để giải thích làm sao anh ta đã trở thành một kẻ giàu có trong khi làm việc cho chính phủ, anh ta nói nó đến từ gia đình bên vợ của anh.  Simmons nói anh ta dự định xây một ngôi nhà cho chính mình và gia đình anh ta tại Parsons và chọn cư sở thường trực tại tiểu bang West Virginia, ngay dù điều đó có nghĩa phải chuyển “việc làm ăn ở Á Châu của anh ta” cho kẻ khác điều hành.
       Nhưng anh ta không bao giờ có cơ hội đó.  Vào ngày 26 Tháng Sáu, 1975, Simmons bị bắt giữ bởi cảnh sát địa phương, các nhân viên FBI và một phụ tá Lục Sự Hoa Kỳ (deputy U. S. Marshal) tại nhà cha mẹ anh ta.  Họ đã theo dõi anh ta 10,000 dặm cho tới các ngọn đồi của tiểu bang West Virginia.  Anh ta bị chính thức buộc tội mâu thuẫn quyền lợi về việc nhận tiền, cất dấu bất hợp pháp biên nhận khoản tiền đó, và 19 tội hình sự liên bang khác.  Anh ta bị giam tại nhà tù Quận Randolph, ở Elkins, West Virginia.
       Tại Hồng Kông, một trong các kẻ hợp tác kinh doanh của Simmons đã đồng ý thương nghị với chính phủ, và cung cấp bằng chứng chống lại Simmons.  Ông ta chứng thực rằng công ty, Petroleum Management and Consultants, “không bao giờ cung cấp hay có ý định cung cấp sản phẩm”.  Ông ta cũng tuyên thệ rằng phần lớn số tiền bị chuẩn chi sai lạc đã được chuyển cho Simmons.
       Bộ Tư Pháp đã kết luận rằng cá nhân Simmons đã nhận được ít nhất 1.2 triệu trong vụ lường gạt., sẽ phải đối diện với một bản án tôi đa hai năm tù và phạt vạ 10,000 Mỹ Kim về tội mâu thuẫn quyền lợi, và 5 năm tù và 10,000 phạt vạ về tội che dấu sự kiện đối với chính phủ.  Tiền ký quỹ của anh ta được ấn định là 300,000 Mỹ Kim và anh ta bị giữ tại nhà tù Quận Randolph chờ ngày xét xử.  
       Simmons đã thuê mướn một luật sư địa phương, Delroy Harner, để đại diện cho anh ta.  Anh ta cũng cho chở vị trạng sư ở Hồng Kông, Gordon Hampton, đến West Virginia để đại diện anh ta trong vụ án.  Nhưng đã có sự thiếu hụt trào lượng tiền mặt mà anh ta không hề tính đến.  Các tích sản hữu hình của anh ta đã bị phong tỏa và anh ta đã không có khả năng đóng tiền ký quỹ thế chân.
       Simmons đã ra trình diện trước một vị thẩm phán liên bang hôm 29 Tháng Sáu để yêu cầu giảm bớt tiền ký quỹ.  Vị thẩm phán đã bác bỏ sự giảm bớt, tuyên bố rằng Simmons đã cho thấy một “mức độ cao của sự di chuyển, tinh toán tinh vi và năng lực cụ thể” để chạy trốn.
       Phụ Tá Biện Lý Hoa Kỳ Steve Jory đã nói với vị thẩm phán, “ Chúng tôi tin rằng anh ta sẽ rời khỏi Hoa Kỳ và rút hết khối lượng khổng lồ từ các tích sản của anh ta” nếu tiền ký quỹ được hạ xuống.  Jory đã vạch ra rằng chính phủ tin là Simmons có 900,000 Mỹ Kim trong các tích sản cá nhân bị phong tỏa tại Hồng Kông.  Simmons đề nghị giao nạp sổ thông hành của mình nếu tiền ký quỹ được giảm bớt.  Jory nói rằng Simmons có hai sổ thông hành.  Simmons đáp lại rằng sự chủ định của anh ta để ở lại tại Hoa Kỳ đã được chứng minh bởi sự kiện rằng anh ta đã không chạy trốn trước khi có sự bắt giữ anh ta tại nhà cha mẹ đương sự, bất kể sự biết trước của anh ta rằng các sự cáo buộc sẽ được đệ nap trước tòa.
       Simmons đã xuất hiện trước Thẩm Phán Liên Bang Robert Maxwell tại Quận Hạt Tư Pháp Hoa Kỳ tại Elkins một tuần sau đó, một lần nữa yêu cầu xin giảm bớt số tiền ký quỹ.  Lần này, anh ta nói bà vợ và gia đình anh ta đang ở một thời buổi khó khăn bởi họ không thể đọc hay nói Anh ngữ.  Worlie Simmons, cha của David, đề nghị đem nông trại 155 mẫu Anh (acres) làm khoản bảo đảm cho sự tạm tha đứa con của ông ta.  Nông trại được đánh giá từ 80,000 Mỹ Kim đến 100,000 Mỹ Kim.
       Maxwell nói rằng nếu Simmons chịu giao nạp sổ thông hành và trình diện hàng ngày với một viên chức của tòa án, anh ta sẽ đưọc chấp thuận cho ký quỹ.  Simmons đã đồng ý.
       Vào ngày 8 Tháng Chín, Simmons, một cách đáng ngạc nhiên, đã xin bãi bỏ phần điều trần trước một đại bồi thẩm đoàn.  Sự bãi miễn có nghĩa Bộ Tư Pháp có thể đệ trình vụ kiện của bộ chống lại anh ta trước Thẩm Phán Maxwell tại Quận Hạt Tư Pháp Hoa Kỳ trong vòng 3 đến 14 ngày.
       Một tuần sau đó, Simmons đã trình diện trước vị thẩm phán và thú nhận một trong 21 tội trạng cáo buộc anh ta.  Anh ta đã thú nhận với vị thẩm phán rằng anh ta đã chuyển 4.3 triệu mỹ kim trong một ý đồ lại quả (kickback) mà anh ta đã gom góp trong khi hành động như một đại diện tạo mãi cho quân lực Nam Việt Nam.  Một nửa số tiền đó đã tức thời được hoán cải thành các căn hộ chung cư, nữ trang và xe hơi.
       Như một phần của một thỉnh cầu thương nghị, Simmons nhìn nhận rằng anh ta là kẻ chủ mưu đàng sau sự biển thủ công quỹ và đồng ý để bắt đầu hoàn trả số tiền bằng cách chuyển giao “tiền mặt, nữ trang, các chiếc xe thời trang, và các căn hộ mà anh ta đã cất giấu tại Hồng Kông”.  Anh ta cũng đồng ý sự tịch thu tất cả các ngân khoản còn lại trong các trương mục ngân hàng của anh ta tại Hồng Kông.  Simmons đã chuyển lại cho chính phủ các khoản cho vay đã đáo hạn trả cho anh ta xuyên qua một công ty tài chính mà anh ta đã thiết lập tại Hồng Kông.  Các tích sản này được ước lượng là 417,000 Mỹ Kim trong các khoản cho vay có bảo đảm và 750,000 Mỹ Kim trong các khoản cho vay không có bảo đảm.
       Để bảo đảm rằng Bộ Tư Pháp sẽ nhận được toàn thể các tích sản của Simmons, Thẩm Phán Maxwell đã tuyên xử hình phạt tối đa trên một tội phạm duy nhất – năm năm tù và 100,000 Mỹ Kim phạt vạ.  Vị thẩm phán khuyến cáo rằng Simmons sẽ chịu án tù tại một nhà tù liên bang với mức độ an ninh tối thiểu.

TỘI ÁC + HÌNH PHẠT
       Một thông tín viên địa phương, Strat Douthat, theo dõi vụ xử và đã cố gắng sắp xếp chúng vào một khung cảnh lịch sử bi thảm.  Mọi người tại khu vực, ông đã viết, đều ghi nhớ ngày trong năm 1960 khi Simmons, “một thiếu niên nông trại đôi má xổ lông măng ở tuổi 17’ gia nhập quân đội, “và đi tìm kiếm sự giàu có của mình”.  Khi anh ta trở về quê vào Tháng Năm 1975, Douthat viết, “anh ta đã có được một người vợ Việt Nam, bốn đứa con và khoảng 3 triệu đồng”.
       Cách thức mà Simmons đã dành đoạt và đánh mất của cải của anh ta, Douthat nói, “mang lại một cái nhìn thoáng qua, phát hiện ít nhất một phương thức trong đó đồng tiền đóng thuế của Hoa Kỳ được chi tiêu như thế nào trong suốt sự can dự của xứ sở này tại Việt Nam”.
       Simmons nhớ lại một cách chua chát các tin đồn được loan truyền về anh ta trong báo chí địa phương.  “Họ nói tôi đã ăn cắp nhiên liệu và bán nó cho phe cộng sản”, anh ta nói, “và bởi các sự việc như thế chúng ta đã thua cuộc chiến.  Tất cả do lỗi của tôi.  Và khi đó tôi đang ngồi trong một phòng giam không thể nói một lời gì với bất kỳ ai ngoài luật sư của tôi”.
       Trung Tá William E. LeGro, người làm việc với Simmons tại Văn Phòng DAO, nói rằng mặc dù Simmons đã không chỉ đơn thân mang lại nhiều nguyên do cho sự sụp đổ, anh ta chắc chắc không phải là một kẻ không đáng trách.  Nhưng Simmons tự nhìn mình như một kẻ giơ đầu chịu báng thuận tiện nhất – và đúng lúc, một con dê tế thần duy nhất.
       Anh ta nói rằng văn phòng công tố Hoa Kỳ đề nghị anh ta một sự thương thảo.  Anh ta có thể thú nhận tội mâu thuẫn quyền lợi và che dấu một sự kiện có thực.  Anh ta đã quyết định chấp nhận cuộc thương nghị, anh ta nói, không phải bởi vì anh phạm tội mà bởi vì có một cuộc thăm viếng tại phòng giam của anh bởi một thành viên trong toán điều tra Quân Đội Hoa Kỳ cảnh cáo anh rằng nếu anh ta không chấp nhận sự thương nghị hay nếu anh ta tiết lộ ý đồ tối mật để cưỡng ép Tổ Chức OPEC vào việc bán các sản phẩm dầu hỏa, anh ta sẽ không bao giờ còn nhìn thấy gia đình lần nào nữa. “Sự ám chỉ là họ có thể bị gây tổn hại một vài cách nào đó”, ông nói.  “Hình phạt cho tội phạm có thể nặng tới năm năm tù nhưng công tố viện nêu ý kiến tôi có thể chịu án chỉ 18 tháng trước khi được phóng thích”.  Các cáo buộc về tội ngụy tạo và biển thủ sẽ được bãi nại nếu anh ta nhận tội nhẹ hơn.  Do vậy anh ta chụp lấy sự kết luận này.
       Trong khi anh ta ở trong tù, Cơ Quan Thuế Vụ Liên Bang IRS (Internal Revenue Service) gửi đến anh ta một giấy tính thuế 3 triệu mỹ kim trên các số thuế và khoản phạt chưa trả, dựa vào ngach số tiền anh ta được nói là đã biển thủ từ các hợp đồng dầu hỏa.  Các khoản này sau cùng đã được giải quyết, anh ta nói, bằng toàn thể ngạch số của trương mục ủy thác [của tù nhân] ([inmate] commissionary account) của anh ta – gồm 3 mỹ kim.
       Biện Lý Hoa Kỳ Jory có nói chuyện với các phóng viên sau buổi tuyên án và nói rằng chính phủ giờ đây đà có một bức ảnh khá hơn trước về khuôn khổ và tầm mức của thị trường chợ đen và các hoạt động bất hợp pháp khác liên can đến các ngân quỹ của Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam.  Dĩ nhiên, vấn đề rằng Miền Nam Việt Nam không còn hiện hữu nữa và chỉ có báo chí West Virginia địa phương là đã có bất kỳ sự chú ý nào đó vào những gì mà Biện Ly Jory đã phải nói.
       Không có tờ báo của thành phố quan trọng nào tường thuật câu chuyện về Simmons sau khi có sự buộc tội anh ta.  Tờ New York Times có cho chạy một mục về vụ kiện sau vụ nạp đơn tại Hồng Kông bởi Bộ Tư Pháp.  Phát ngôn viên John Chancellor của Chường Trình Tin Tức Buổi Tối (Nightly News) của hệ thống NBC có đọc một đoạn dài 13 giây về sự buộc tội Simmons nhưng không có chuyện nào khác về vụ xử hay hậu quả của nó bên ngoài tiểu bang West Virginia.
       “Tôi ngờ rằng đây là một vụ án biệt lập”, Biện Lý Jory nói về sự tham nhũng của Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam.  Nhưng không có ai lắng nghe.  Simmons nói với báo chí địa phương rằng anh ta sẽ kể lại “câu chuyện về phía anh ta” sau khi có sự tuyên án.  Nhưng anh ta đã không hề kể cho ai về kinh nghiệm của mình cho đến khi tôi tìm thấy anh ta tại nhà hàng ăn của anh ta.
       David Simmons là người Mỹ duy nhất bị xét xử, truy tố, và ở tù về các tội phạm phải tại Nam Việt Nam trong năm cuối cùng của sự hiện hữu của quốc gia đó.  Simmons trải qua 39 tháng tù trong nhà giam vì tội biển thủ.
       Trung Úy William Calley, bị truy tố về 53 vụ sát nhân tại xã Mỹ Lai hồi mùa xuân 1968, trải qua bốn tháng rưỡi trong tù vì các tội phạm của anh ta.  Calley đã dành được sự ủng hộ của công chúng trong vụ xét xử anh ta, kể cả của Thống Đốc Jimmy Carter của tiểu bang Georgia và Thống Đốc George Wallace của Tiểu bang Alabama.  Một cuộc thăm dò dân ý năm 1971 cho thấy rằng 79 phần trăm người Mỹ không đồng ý với phán quyết trong vụ Calley.
       Đã không có sự ủng hộ rộng rãi dành cho David Simmons.  Không vị thống đốc nào bước tới để bày tỏ cảm tình với anh ta và không tờ báo hay hệ thống truyền thông quan trọng nào theo dõi vụ xét xử anh ta.  Simmons đã trở thành điều gì đó giống như bản thân Chiến Tranh Việt Nam: tin tức của ngày qua tốt nhất là nên quên đi.
       Tiếp theo sau sự phóng thích ra khỏi nhà tù, Sommons đã đoàn tụ với gia đình anh ta tại Miền Nam California.  Anh ta đã làm việc tại nhà hàng của anh ta cùng với người vợ và gửi các đứa con anh ta đi theo học đại học và cố gắng để quên đi mọi điều đã xảy ra với anh ta tại Nam Việt Nam./-
-----
Larry Engelmann là tác giả của sáu quyển sách không phải là hư cấu, kể cả quyển “Tears Before the Rain: An Oral History of the Fall of South Vietnam”.  Ông hiện sống tại San Jose, và đang viết một quyển sách nhan đề “Our Share of Night”, về các vụ sát nhân hàng loạt Snoozy/Furlong/Bilek/Mallicoat tại San Jose trong các năm 1969-71. 
Nguồn: Larry Engelmann, Selling Saigon, Metro, Silicon Valley’s Weekly Newspaper, April 7-13, 2010, Vol. 26, No. 4, các trang 14-25. 

Ngô Bắc dịch và phụ chú
11/04/2011

Tổng số lượt xem trang