-Người Trung Quốc đang thậm thụt phao tin về những lợi ích cốt lõi của họ ở Biển Nam Trung Hoa anhbasam -
Current Intelligence--Kit Dawnay
(Kit Dawnay hiện là phóng viên đưa tin về vùng Viễn Đông của tạp chí Current Intelligence. Hiện ông sống ở Hồng Kông).
Ngày 28 tháng 4 năm 2011
Dùng mọi thủ đoạn để điều khiển dư luận về Biển Nam Trung Hoa [Biển Đông]: sự thật, điều bịa đặt và còn cái quái quỉ gì nữa mà chúng ta chịu không thể biết được …
–
Hồi giữa tháng 10 năm 2010 báo chí dồn dập tiết lộ rằng Trung Quốc đã mở rộng lợi ích cốt lõi của họ bao gồm cả Biển Nam Trung Hoa. Báo chí cho rằng Trung Quốc lần đầu tiên nói ra điều này tại một cuộc gặp gỡ giữa họ với giám đốc Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ Jeffrey Bader và thứ trưởng ngoại giao James Steinberg. Bây giờ thì báo chí mới phát hiện ra rằng có lẽ điều này chưa hề xảy ra.
Sự tiết lộ nói trên của báo chí có thể khiến chúng ta đặt giả thuyết là Ngoại trưởng Hilary Clinton hồi tháng 5 năm 2010 có thể đã nghe nhầm hoặc thậm chí đã cố tình kích động cho căng thẳng thêm – khi bà nói rằng ông Đới Bỉnh Quốc [Dai Binguo], ủy viên Quốc vụ viện Trung Quốc phụ trách đối ngoại, cũng coi Biển Nam Trung Hoa là một lợi ích cốt lõi. Không rõ là sự hiểu lầm này đã xuất hiện bằng cách nào và tại sao nó lại xuất hiện. Có thể là do cách nói không được rõ ràng và cũng có thể Trung Quốc đúng là đã phát biểu như thế nhưng bây giờ lại muốn chùn lại trước thái độ kiên quyết của Mỹ hoặc cũng có khi là Mỹ đã cố tình giải thích sai câu nói của ông Đới Bỉnh Quốc để có cớ mà khôi phục lại sự ảnh hưởng ở khu vực.
Căng thẳng ở Biển Nam Trung Hoa đã dậy lên sau khi Malaysia, Philippines và Việt Nam đệ trình hồ sơ lên Ủy ban chuyên trách về Công ước về Luật Biển (UNCLOS) của Liên Hiệp Quốc trước hạn cuối cùng là tháng 5 năm 2009 để chính thức hóa những tuyên bố chủ quyền và chuyện này đã làm Trung Quốc có phản ứng tức giận. Trung Quốc liên tục tăng cường sức mạnh quân sự trên Biển. Họ đã thành lập một căn cứ tàu ngầm lớn tại Yilun thuộc đảo Hải Nam để tăng cường cho các căn cứ hải quân của tỉnh Quảng Đông và hiện nay họ đang khoe khoang về các hàng không mẫu hạm sắp được hoàn thành. Mỹ vẫn duy trì sự hiện diện thường xuyên của Hạm đội 7, còn Việt Nam và Malaysia đang mua tàu ngầm và Philippine, nước yếu nhất cho tới nay, thì đang được Mỹ hỗ trợ về hải quân và tuần tiễu trên biển.
Nhưng mối quan hệ tranh chấp rõ rệt nhất là giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đó là một mối quan hệ đầy mâu thuẫn, bắt nguồn chủ yếu từ chỗ Việt Nam là một nước nhỏ hơn rất nhiều. Từ năm 111 cho tới năm 939 khi Ngô Quyền thành lập triều đại độc lập đầu tiên của đất nước này, vùng châu thổ sông Hồng là tỉnh An Nam thuộc đế chế Trung Hoa. Sự kiện lịch sử này (và cả sau đó nữa) thường được viện dẫn như là lý do đủ để giải thích thái độ thù địch, song sự thực không đơn giản như vậy. Sự cai trị của Trung Quốc có ảnh hưởng sâu sắc tới Việt Nam. Một tầng lớp quan lại cai trị đất nước được tuyển chọn qua thi cử đã ra đời ở đất nước này. Tầng lớp tinh hoa có học thức của đất nước này rất tôn thờ thơ ca Trung Quốc và họ sử dụng chữ Hán cho tới khi người Pháp đưa chữ Quốc ngữ dùng mẫu tự La Tinh vào Việt Nam hồi đầu thế kỷ 20. Trong quá khứ và cho đến tận ngày nay xã hội Việt Nam chịu ảnh hưởng rất nhiều từ Khổng giáo, truyền thống tôn ti trật tự được đề cao thể hiện ở chỗ người ta không bao giờ ăn nói trống không với nhau. Có thể nói Việt Nam còn giữ được ảnh hưởng của Khổng Giáo còn nhiều hơn Trung Quốc lục địa bởi vì cuộc cách mạng ở nước này ít hủy diệt các truyền thống hơn so với cuộc Cách mạng Văn hóa của Mao.
Thế nhưng người Việt Nam lại có ý thức rất rõ về những khác biệt giữa Việt Nam với Trung Quốc. Ảnh hưởng của tư tưởng Trung Hoa tới các mối quan hệ quốc tế của Việt Nam là bài học trong bối cảnh hiện nay. Về mặt lịch sử, Việt Nam xưa kia từng là một thực thể bé nhỏ tồn tại trong vùng ảnh hưởng của Trung Hoa, các nước láng giềng nhỏ hơn đều phải nộp triều cống cho các hoàng đế Trung Hoa. Hệ thống này trên thực tế đã đem lại một mức độ tự chủ có lợi – một số sử gia cho rằng lợi ích chủ yếu lại thuộc về những quốc gia nộp cống vật bởi vì họ được thuận lợi hơn trong quan hệ buôn bán. Nhưng trong chuyện này còn có cả vai trò của chính sách thực tế nữa [realpolitik], với Trung Hoa luôn nhìn vào vua để giữ cân bằng các nước tranh giành nhau quyền lực, chẳng hạn như Việt Nam, Thái Lan hoặc vương quốc Khmer. Trong hoàn cảnh như vậy thì Việt Nam do ý thức được rằng láng giềng của nó là một nước lớn cho nên Việt Nam cố gắng duy trì mối quan hệ tốt với Trung Quốc ngay cả khi Việt Nam đã lợi dụng hệ thống này để kiếm lợi – chẳng hạn như vào thế kỷ 18 thì Việt Nam cũng có nước chư hầu cống nạp của mình và đã chiếm được đất đai của vương quốc Khmer khi đó đang suy yếu.
Nhìn vào mối quan hệ [giữa Việt Nam và Trung Quốc] trong thời hiện đại thì thấy được những khuynh hướng mâu thuẫn nói trên. Trong những năm 1920 khi các tổ chức yêu nước tìm cách giải phóng Việt Nam khỏi sự cai trị của người Pháp thì tất cả đều nhìn vào Trung Quốc để nuôi khát vọng, coi Trung Quốc là nơi ẩn náu và ủng hộ mình. Hồ Chí Minh, chẳng hạn, nói lưu loát tiếng Quảng Đông và tiếng Quan Thoại và từng có thời gian sống rất lâu ở Trung Quốc sau khi trở về từ Pháp và Nga trong những năm 1920. Ông đã xây dựng mối quan hệ vững chắc với Đảng Cộng sản Trung Quốc, thậm chí năm 1950 ông đã đi cùng Mao trên một chuyến tàu hỏa trở về Trung Quốc sau khi Hiệp ước Trung-Xô được ký kết. Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh Trung Quốc đã cưu mang những người Việt Nam chống Pháp và Bắc Kinh thậm chí còn có lập trường ủng hộ mạnh hơn trong cuộc chiến tranh chống Mỹ trong những năm 1960. Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc trên thực tế đã gửi tới 300 ngàn quân tới Bắc Việt Nam để làm công việc sửa chữa đường xá hoặc làm lính của các đơn vị pháo phòng không, bằng cách đó đã giúp Việt Nam rảnh tay có thêm lực lượng vào chiến đấu ở miền Nam.
Song mối quan hệ đã trở nên xấu đi trong những năm 1970. Khi sự chia rẽ Sô-Trung ngày càng trở nên xấu đi thì Việt Nam đột nhiên thấy mình bị kẹt giữa Nga và Trung Quốc. Chuyến viếng thăm Trung Quốc của Nixon vào năm 1972 thật là tệ hại, nó diễn ra vào lúc Washington đang ném bom Bắc Việt Nam. Nhưng phải mãi tới sau chiến thắng năm 1975 của Hà Nội thì sự cắt đứt quan hệ với Trung Quốc mới xảy ra. Sự cắt đứt quan hệ này xảy ra bởi vì Việt Nam tỏ ra muốn tự khẳng định mình giữa các nước láng giềng xung quanh, thể hiện ở cuộc xâm lăng của Hà Nội vào Căm Pu Chia cuối năm 1978. Đặng Tiểu Bình đã đáp trả vào tháng 2 năm 1979 bằng một cuộc tấn công vào Bắc Việt Nam. Hành động này đã gặp phải sự kháng cự mạnh mẽ và Quân Giải phóng Nhân dân đã nhanh chóng rút lui, nhưng số người chết là rất lớn. Số thương vong bên phía Trung Quốc là khoảng 40 nghìn người còn phía Việt Nam là khoảng 100 nghìn. Hai nước đã tuyệt giao, Việt Nam hợp tác chặt chẽ với Liên bang Sô Viết trong những năm cuối của Chiến tranh Lạnh.
Mối quan hệ ấm lên trong những năm 1990. Hai nước nối lại quan hệ ngoại giao chính thức vào năm 1991. Năm 1999 hai nước đã đề ra nguyên tắc chỉ đạo gồm 16 chữ [vàng] để cải thiện quan hệ song phương và năm 200o đã giải quyết xong những vấn đề biên giới trên đất liền và trên biển ở Vịnh Bắc Bộ ở miền Bắc sau đó đã công bố một Tuyên bố chung về Hợp tác toàn diện trong Thế kỷ mới. Năm 2006 hai nước đã thành lập một Ban chỉ đạo Quan hệ song phương và sau đó vào năm 2008 đã nâng quan hệ song phương lên mức đối tác chiến lược, điều này cho thấy hai nước đã có những mối liên kết đặc biệt mật thiết. Năm 2005 quan hệ quốc là ở mức hạn chế và tháng 11 năm 2010 Trung Quốc và Việt Nam lần đầu tiên đã tổ chức Đối thoại An ninh Quốc phòng Chiến lược. Quan hệ thương mại hiện nay là rất mạnh. Năm 2010 Trung Quốc đã đầu tư khoảng 250 triệu đô la Mỹ vào Việt Nam. Thương mại song phương trị giá khoảng 25 tỉ đô la Mỹ, mặc dì cán cân thương mại là không cân bằng, Việt Nam chủ yếu bán hàng hóa chưa thành phẩm và năm 2010 Việt Nam đã bị thâm hụt thương mại với Trung Quốc gần 12 tỉ đô la Mỹ.
Mối quan hệ kinh tế hiện nay [giữa Trung Quốc và Việt Nam] đang ngày càng được củng cố vững vàng. Việt Nam bị thâm hụt tài khoản vãng lai [current account deficit – tức nhập siêu] vào khoảng 8% GDP và dự trữ ngoại hối đang thấp tới mức nguy hiểm. Trong vài năm qua chính phủ đã ép các ngân hàng nhà nước mở rộng tín dụng thật nhanh và cái giá phải trả là một tình trạng tràn ngập các khoản nợ xấu. Sự phá sản của tập đoàn Vinashin đã khiến cho mức tín nhiệm tín dụng của Việt Nam bị hạ bậc. Mối lo ngại chủ yêu giờ đây có lẽ là tỉ lệ lạm phát đang vượt ra khỏi tầm kiểm soát. Theo số liệu ước đoán chính thức thì giá cả sẽ tăng trên 12%, một phần bởi vì tiền “đồng” của Việt Nam đã bị phá giá nhiều lần trong vòng hai năm qua. Khủng hoảng cán cân thanh toán đang trở thành một khả năng có thể xảy ra và Việt Nam có thể buộc phải cầu cứu các tổ chức cho vay quốc tế. Một số nhà bình luận cho rằng trong trường hợp đó các nhà lãnh đạo của Việt Nam sẽ thích thảo luận với Bắc Kinh hơn là thảo luận với IMF; mặc dù cầu cứu Bắc Kinh thì sẽ gặp thử thách về chính trị song các điều kiện do Trung Quốc đưa ra có thể chứng tỏ là thích hợp hơn đối với bất kỳ sự đấu giá tài sản bắt buộc nào. Thực vậy, vào cuối tháng 4 vừa rồi Ngân hàng Phát triển Trung Quốc đã đề nghị cho Việt Nam vay 1,5 tỉ đô la Mỹ để đầu tư dự án xây dựng nhà ở cho người có thu nhập thấp, điều này cho thấy là Trung Quốc đang trở thành một đối tác thương mại được ưa thích hơn.
Song, đừng chờ đợi Hà Nội sẽ đi chệch khỏi truyền thống lâu nay là nó tự nhận là mang thân phận chư hầu của Trung Quốc trong khi vẫn lẳng lặng rào giậu nhà mình. Đúng thế, Thủ tướng Dũng hồi tháng 10 năm 2010 đã tuyên bố rằng tàu chiến nước ngoài được phép thuê sử dụng Vịnh Cam Ranh. Việt Nam cũng đang triển khai các kế hoạch hiện đại hóa cảng Cam Ranh với số tiền vay của Nga tương đương hơn 200 triệu đô la Mỹ và năm nay sẽ tiếp nhận chiếc tàu ngầm lớp kilo chạy diesel đầu tiên và sau đó là 5 chiếc nữa. Bằng cách này Việt Nam đang tìm cách ngăn chặn Trung Quốc như trước đây Việt Nam đã từng làm khi cho phép Nga sử dụng Vịnh Cam Ranh từ năm 1979. Mỹ về phần mình đang hi vọng sẽ được phép sử dụng cảng Cam Ranh mặc dù Việt Nam có thể lưỡng lự cho phép Mỹ vì sợ chọc tức Bắc Kinh.
Câu hỏi thú vị là liệu có phải Mỹ đã chọn cách thổi phồng vấn đề “lợi ích cốt lõi” để thúc Việt Nam mở cửa Vịnh Cam Ranh hay là có phải Trung Quốc đã chùn bước trước sức ép của Mỹ. Cách nào đi nữa thì Việt Nam vẫn tiếp tục duy trì chính sách chung sống với Trung Quốc trong khi vẫn cố gắng tối đa duy trì sự tự chủ – giống như các nước khác có quan hệ yếu thế hơn vẫn làm. Lãnh tụ của nước Mehico Porfirio Diaz một lần đã than vãn về cảnh ngộ khốn khổ của đất nước ông như sau: “Thật tội nghiệp cho đất nước Mehico; ở quá xa Chúa mà lại quá gần nước Mỹ”. Hồ Chí Minh thì nói theo cách thô hơn, năm 1945 ông đã nói thế này: “Tôi thà ngửi cứt của người Pháp thêm 5 năm nữa còn hơn là ăn cứt của người Trung Quốc trong suốt quãng đời còn lại”.
Ẩn ý của hai người đều na ná nhau, nhưng cách diễn đạt di dỏm của Diaz nghe có vẻ làm mủi lòng người nghe hơn.
Người dịch: Hiền Ba
Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2011
(Kit Dawnay hiện là phóng viên đưa tin về vùng Viễn Đông của tạp chí Current Intelligence. Hiện ông sống ở Hồng Kông).
Ngày 28 tháng 4 năm 2011
Dùng mọi thủ đoạn để điều khiển dư luận về Biển Nam Trung Hoa [Biển Đông]: sự thật, điều bịa đặt và còn cái quái quỉ gì nữa mà chúng ta chịu không thể biết được …
–
Hồi giữa tháng 10 năm 2010 báo chí dồn dập tiết lộ rằng Trung Quốc đã mở rộng lợi ích cốt lõi của họ bao gồm cả Biển Nam Trung Hoa. Báo chí cho rằng Trung Quốc lần đầu tiên nói ra điều này tại một cuộc gặp gỡ giữa họ với giám đốc Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ Jeffrey Bader và thứ trưởng ngoại giao James Steinberg. Bây giờ thì báo chí mới phát hiện ra rằng có lẽ điều này chưa hề xảy ra.
Sự tiết lộ nói trên của báo chí có thể khiến chúng ta đặt giả thuyết là Ngoại trưởng Hilary Clinton hồi tháng 5 năm 2010 có thể đã nghe nhầm hoặc thậm chí đã cố tình kích động cho căng thẳng thêm – khi bà nói rằng ông Đới Bỉnh Quốc [Dai Binguo], ủy viên Quốc vụ viện Trung Quốc phụ trách đối ngoại, cũng coi Biển Nam Trung Hoa là một lợi ích cốt lõi. Không rõ là sự hiểu lầm này đã xuất hiện bằng cách nào và tại sao nó lại xuất hiện. Có thể là do cách nói không được rõ ràng và cũng có thể Trung Quốc đúng là đã phát biểu như thế nhưng bây giờ lại muốn chùn lại trước thái độ kiên quyết của Mỹ hoặc cũng có khi là Mỹ đã cố tình giải thích sai câu nói của ông Đới Bỉnh Quốc để có cớ mà khôi phục lại sự ảnh hưởng ở khu vực.
Căng thẳng ở Biển Nam Trung Hoa đã dậy lên sau khi Malaysia, Philippines và Việt Nam đệ trình hồ sơ lên Ủy ban chuyên trách về Công ước về Luật Biển (UNCLOS) của Liên Hiệp Quốc trước hạn cuối cùng là tháng 5 năm 2009 để chính thức hóa những tuyên bố chủ quyền và chuyện này đã làm Trung Quốc có phản ứng tức giận. Trung Quốc liên tục tăng cường sức mạnh quân sự trên Biển. Họ đã thành lập một căn cứ tàu ngầm lớn tại Yilun thuộc đảo Hải Nam để tăng cường cho các căn cứ hải quân của tỉnh Quảng Đông và hiện nay họ đang khoe khoang về các hàng không mẫu hạm sắp được hoàn thành. Mỹ vẫn duy trì sự hiện diện thường xuyên của Hạm đội 7, còn Việt Nam và Malaysia đang mua tàu ngầm và Philippine, nước yếu nhất cho tới nay, thì đang được Mỹ hỗ trợ về hải quân và tuần tiễu trên biển.
Nhưng mối quan hệ tranh chấp rõ rệt nhất là giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đó là một mối quan hệ đầy mâu thuẫn, bắt nguồn chủ yếu từ chỗ Việt Nam là một nước nhỏ hơn rất nhiều. Từ năm 111 cho tới năm 939 khi Ngô Quyền thành lập triều đại độc lập đầu tiên của đất nước này, vùng châu thổ sông Hồng là tỉnh An Nam thuộc đế chế Trung Hoa. Sự kiện lịch sử này (và cả sau đó nữa) thường được viện dẫn như là lý do đủ để giải thích thái độ thù địch, song sự thực không đơn giản như vậy. Sự cai trị của Trung Quốc có ảnh hưởng sâu sắc tới Việt Nam. Một tầng lớp quan lại cai trị đất nước được tuyển chọn qua thi cử đã ra đời ở đất nước này. Tầng lớp tinh hoa có học thức của đất nước này rất tôn thờ thơ ca Trung Quốc và họ sử dụng chữ Hán cho tới khi người Pháp đưa chữ Quốc ngữ dùng mẫu tự La Tinh vào Việt Nam hồi đầu thế kỷ 20. Trong quá khứ và cho đến tận ngày nay xã hội Việt Nam chịu ảnh hưởng rất nhiều từ Khổng giáo, truyền thống tôn ti trật tự được đề cao thể hiện ở chỗ người ta không bao giờ ăn nói trống không với nhau. Có thể nói Việt Nam còn giữ được ảnh hưởng của Khổng Giáo còn nhiều hơn Trung Quốc lục địa bởi vì cuộc cách mạng ở nước này ít hủy diệt các truyền thống hơn so với cuộc Cách mạng Văn hóa của Mao.
Thế nhưng người Việt Nam lại có ý thức rất rõ về những khác biệt giữa Việt Nam với Trung Quốc. Ảnh hưởng của tư tưởng Trung Hoa tới các mối quan hệ quốc tế của Việt Nam là bài học trong bối cảnh hiện nay. Về mặt lịch sử, Việt Nam xưa kia từng là một thực thể bé nhỏ tồn tại trong vùng ảnh hưởng của Trung Hoa, các nước láng giềng nhỏ hơn đều phải nộp triều cống cho các hoàng đế Trung Hoa. Hệ thống này trên thực tế đã đem lại một mức độ tự chủ có lợi – một số sử gia cho rằng lợi ích chủ yếu lại thuộc về những quốc gia nộp cống vật bởi vì họ được thuận lợi hơn trong quan hệ buôn bán. Nhưng trong chuyện này còn có cả vai trò của chính sách thực tế nữa [realpolitik], với Trung Hoa luôn nhìn vào vua để giữ cân bằng các nước tranh giành nhau quyền lực, chẳng hạn như Việt Nam, Thái Lan hoặc vương quốc Khmer. Trong hoàn cảnh như vậy thì Việt Nam do ý thức được rằng láng giềng của nó là một nước lớn cho nên Việt Nam cố gắng duy trì mối quan hệ tốt với Trung Quốc ngay cả khi Việt Nam đã lợi dụng hệ thống này để kiếm lợi – chẳng hạn như vào thế kỷ 18 thì Việt Nam cũng có nước chư hầu cống nạp của mình và đã chiếm được đất đai của vương quốc Khmer khi đó đang suy yếu.
Nhìn vào mối quan hệ [giữa Việt Nam và Trung Quốc] trong thời hiện đại thì thấy được những khuynh hướng mâu thuẫn nói trên. Trong những năm 1920 khi các tổ chức yêu nước tìm cách giải phóng Việt Nam khỏi sự cai trị của người Pháp thì tất cả đều nhìn vào Trung Quốc để nuôi khát vọng, coi Trung Quốc là nơi ẩn náu và ủng hộ mình. Hồ Chí Minh, chẳng hạn, nói lưu loát tiếng Quảng Đông và tiếng Quan Thoại và từng có thời gian sống rất lâu ở Trung Quốc sau khi trở về từ Pháp và Nga trong những năm 1920. Ông đã xây dựng mối quan hệ vững chắc với Đảng Cộng sản Trung Quốc, thậm chí năm 1950 ông đã đi cùng Mao trên một chuyến tàu hỏa trở về Trung Quốc sau khi Hiệp ước Trung-Xô được ký kết. Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh Trung Quốc đã cưu mang những người Việt Nam chống Pháp và Bắc Kinh thậm chí còn có lập trường ủng hộ mạnh hơn trong cuộc chiến tranh chống Mỹ trong những năm 1960. Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc trên thực tế đã gửi tới 300 ngàn quân tới Bắc Việt Nam để làm công việc sửa chữa đường xá hoặc làm lính của các đơn vị pháo phòng không, bằng cách đó đã giúp Việt Nam rảnh tay có thêm lực lượng vào chiến đấu ở miền Nam.
Song mối quan hệ đã trở nên xấu đi trong những năm 1970. Khi sự chia rẽ Sô-Trung ngày càng trở nên xấu đi thì Việt Nam đột nhiên thấy mình bị kẹt giữa Nga và Trung Quốc. Chuyến viếng thăm Trung Quốc của Nixon vào năm 1972 thật là tệ hại, nó diễn ra vào lúc Washington đang ném bom Bắc Việt Nam. Nhưng phải mãi tới sau chiến thắng năm 1975 của Hà Nội thì sự cắt đứt quan hệ với Trung Quốc mới xảy ra. Sự cắt đứt quan hệ này xảy ra bởi vì Việt Nam tỏ ra muốn tự khẳng định mình giữa các nước láng giềng xung quanh, thể hiện ở cuộc xâm lăng của Hà Nội vào Căm Pu Chia cuối năm 1978. Đặng Tiểu Bình đã đáp trả vào tháng 2 năm 1979 bằng một cuộc tấn công vào Bắc Việt Nam. Hành động này đã gặp phải sự kháng cự mạnh mẽ và Quân Giải phóng Nhân dân đã nhanh chóng rút lui, nhưng số người chết là rất lớn. Số thương vong bên phía Trung Quốc là khoảng 40 nghìn người còn phía Việt Nam là khoảng 100 nghìn. Hai nước đã tuyệt giao, Việt Nam hợp tác chặt chẽ với Liên bang Sô Viết trong những năm cuối của Chiến tranh Lạnh.
Mối quan hệ ấm lên trong những năm 1990. Hai nước nối lại quan hệ ngoại giao chính thức vào năm 1991. Năm 1999 hai nước đã đề ra nguyên tắc chỉ đạo gồm 16 chữ [vàng] để cải thiện quan hệ song phương và năm 200o đã giải quyết xong những vấn đề biên giới trên đất liền và trên biển ở Vịnh Bắc Bộ ở miền Bắc sau đó đã công bố một Tuyên bố chung về Hợp tác toàn diện trong Thế kỷ mới. Năm 2006 hai nước đã thành lập một Ban chỉ đạo Quan hệ song phương và sau đó vào năm 2008 đã nâng quan hệ song phương lên mức đối tác chiến lược, điều này cho thấy hai nước đã có những mối liên kết đặc biệt mật thiết. Năm 2005 quan hệ quốc là ở mức hạn chế và tháng 11 năm 2010 Trung Quốc và Việt Nam lần đầu tiên đã tổ chức Đối thoại An ninh Quốc phòng Chiến lược. Quan hệ thương mại hiện nay là rất mạnh. Năm 2010 Trung Quốc đã đầu tư khoảng 250 triệu đô la Mỹ vào Việt Nam. Thương mại song phương trị giá khoảng 25 tỉ đô la Mỹ, mặc dì cán cân thương mại là không cân bằng, Việt Nam chủ yếu bán hàng hóa chưa thành phẩm và năm 2010 Việt Nam đã bị thâm hụt thương mại với Trung Quốc gần 12 tỉ đô la Mỹ.
Mối quan hệ kinh tế hiện nay [giữa Trung Quốc và Việt Nam] đang ngày càng được củng cố vững vàng. Việt Nam bị thâm hụt tài khoản vãng lai [current account deficit – tức nhập siêu] vào khoảng 8% GDP và dự trữ ngoại hối đang thấp tới mức nguy hiểm. Trong vài năm qua chính phủ đã ép các ngân hàng nhà nước mở rộng tín dụng thật nhanh và cái giá phải trả là một tình trạng tràn ngập các khoản nợ xấu. Sự phá sản của tập đoàn Vinashin đã khiến cho mức tín nhiệm tín dụng của Việt Nam bị hạ bậc. Mối lo ngại chủ yêu giờ đây có lẽ là tỉ lệ lạm phát đang vượt ra khỏi tầm kiểm soát. Theo số liệu ước đoán chính thức thì giá cả sẽ tăng trên 12%, một phần bởi vì tiền “đồng” của Việt Nam đã bị phá giá nhiều lần trong vòng hai năm qua. Khủng hoảng cán cân thanh toán đang trở thành một khả năng có thể xảy ra và Việt Nam có thể buộc phải cầu cứu các tổ chức cho vay quốc tế. Một số nhà bình luận cho rằng trong trường hợp đó các nhà lãnh đạo của Việt Nam sẽ thích thảo luận với Bắc Kinh hơn là thảo luận với IMF; mặc dù cầu cứu Bắc Kinh thì sẽ gặp thử thách về chính trị song các điều kiện do Trung Quốc đưa ra có thể chứng tỏ là thích hợp hơn đối với bất kỳ sự đấu giá tài sản bắt buộc nào. Thực vậy, vào cuối tháng 4 vừa rồi Ngân hàng Phát triển Trung Quốc đã đề nghị cho Việt Nam vay 1,5 tỉ đô la Mỹ để đầu tư dự án xây dựng nhà ở cho người có thu nhập thấp, điều này cho thấy là Trung Quốc đang trở thành một đối tác thương mại được ưa thích hơn.
Song, đừng chờ đợi Hà Nội sẽ đi chệch khỏi truyền thống lâu nay là nó tự nhận là mang thân phận chư hầu của Trung Quốc trong khi vẫn lẳng lặng rào giậu nhà mình. Đúng thế, Thủ tướng Dũng hồi tháng 10 năm 2010 đã tuyên bố rằng tàu chiến nước ngoài được phép thuê sử dụng Vịnh Cam Ranh. Việt Nam cũng đang triển khai các kế hoạch hiện đại hóa cảng Cam Ranh với số tiền vay của Nga tương đương hơn 200 triệu đô la Mỹ và năm nay sẽ tiếp nhận chiếc tàu ngầm lớp kilo chạy diesel đầu tiên và sau đó là 5 chiếc nữa. Bằng cách này Việt Nam đang tìm cách ngăn chặn Trung Quốc như trước đây Việt Nam đã từng làm khi cho phép Nga sử dụng Vịnh Cam Ranh từ năm 1979. Mỹ về phần mình đang hi vọng sẽ được phép sử dụng cảng Cam Ranh mặc dù Việt Nam có thể lưỡng lự cho phép Mỹ vì sợ chọc tức Bắc Kinh.
Câu hỏi thú vị là liệu có phải Mỹ đã chọn cách thổi phồng vấn đề “lợi ích cốt lõi” để thúc Việt Nam mở cửa Vịnh Cam Ranh hay là có phải Trung Quốc đã chùn bước trước sức ép của Mỹ. Cách nào đi nữa thì Việt Nam vẫn tiếp tục duy trì chính sách chung sống với Trung Quốc trong khi vẫn cố gắng tối đa duy trì sự tự chủ – giống như các nước khác có quan hệ yếu thế hơn vẫn làm. Lãnh tụ của nước Mehico Porfirio Diaz một lần đã than vãn về cảnh ngộ khốn khổ của đất nước ông như sau: “Thật tội nghiệp cho đất nước Mehico; ở quá xa Chúa mà lại quá gần nước Mỹ”. Hồ Chí Minh thì nói theo cách thô hơn, năm 1945 ông đã nói thế này: “Tôi thà ngửi cứt của người Pháp thêm 5 năm nữa còn hơn là ăn cứt của người Trung Quốc trong suốt quãng đời còn lại”.
Ẩn ý của hai người đều na ná nhau, nhưng cách diễn đạt di dỏm của Diaz nghe có vẻ làm mủi lòng người nghe hơn.
Người dịch: Hiền Ba
Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2011
Tàu Nga ghé cảng Việt: Russian naval visit a message for Beijing (SCMP 29-4-11)
- Phỏng vấn Thạc sĩ Hoàng Việt: Hội thảo Quốc gia về Biển Đông lần thứ hai — (RFA). – Vai trò của Hoa Kỳ trong vùng châu Á Thái Bình Dương — (VOA). – Đất thiêng trên biển Đông (Thanh niên). – “Cổ tích” về tình yêu lính biển(Dân Việt). - Dương Danh Huy: Về bài về vùng biển Bãi Cỏ Rong trên báo Manila Times — (boxitvn).-Sự đồng thuận của ASEAN là sức mạnh bảo vệ Biển Đông(VIT) - Thủ tướng Ôn Gia Bảo 'trấn an' Đông Nam Á (Đất Việt)-Malaysia và Indonesia là điểm đến trong chuyến thăm Đông Nam Á bốn ngày của Thủ tướng Ôn Gia Bảo. Đó có phải là dấu hiệu cho thấy Trung Quốc chọn hai nước làm đột phá khẩu, trấn an và mở rộng ảnh hưởng xuống Đông Nam Á?- China to foster cooperation with Asean