---Đầu năm chào hòa hợp, cuối năm vái dollar(danlambao)
Phạm Trần - Tại sao đã 8 năm trôi qua mà“Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài" của đảng Cộng sản Việt Nam làm theo Nghị quyết 36 ngày 26 tháng 3 năm 2004 vẫn chưa thực hiện nổi chủ trương “kiều bào là bộ phận không tách rời của dân tộc Việt Nam, bà con phải là bộ phận được Nhà nước bảo hộ như đối với người trong nước”?
Nhiều người Việt Nam ở nước ngòai đã về thả câu thử nước nhưng xem ra không thành, nhất là giới trì thức vì đảng và “trí thức đảng” không có cùng một suy nghĩ và hành động giống nhau.
Tại sao?
Hãy nghe lời giải thích của nguyên Bộ trưởng Ngọai giao Nguyễn Dy Niên nói với Báo điện tử ViệtnamNet ngày 23-01-2012: “Điểm lõi của Nghị quyết 36 là hòa hợp dân tộc, dù đã có những bước đi mạnh dạn song vẫn chưa thực sự trọn vẹn….”
“…Bối cảnh Nghị quyết 36 ra đời cách đây gần 10 năm, tôi nghĩ đó là thời điểm mà khi đất nước mang diện mạo mới bắt đầu định hình sau tái thiết, Trung ương đã thấy cần phải đưa ra những quyết định mạnh mẽ cho vấn đề này như một sự bức thiết. Dù khi làm công tác kiều bào thời điểm những năm thập niên 1990, khi đi đến các địa phương, tôi cảm nhận vấn đề này thực sự khó khăn. Chiến tranh ác liệt qua đi, có những vết thương vẫn còn đó, để nói chuyện ngồi lại với nhau, tha thứ là điều thực sự khó khăn. Ngay cả thời điểm bây giờ cũng vậy, không phải vết thương nào cũng lành, cũng vơi bớt. Tâm lý con người là vậy, khó có thể nói nhận thức ý chí lắm. Bởi lẽ đó, yếu tố thời gian là quan trọng.”
Nhưng tại sao vết thương chưa lành?
Bởi vì đảng CSVN chỉ muốn “hòa hợp” mà không muốn thật lòng “hòa giải dân tộc”. Đảng chỉ muốn người Việt ở nước ngoài về nước để “hòa” vào với đảng, chịu sự chỉ huy, lãnh đạo theo ý muốn và đường lối của đảng. Tuyệt nhiên đảng không muốn người bỏ nước quay về ngồi vào bàn nói chuyện phải trái để cùng chung lưng, đấu cật tái thiết đất nước trong tinh thần dân tộc huynh đệ.
Bằng chứng của một số người Việt đã quay về đầu tư vật chất và tinh thần phải “bỏ của chạy lấy người” trong những năm gần đây cho thấy đảng chỉ muốn nghe “yes” và quyết chống những ai có tư tưởng khác mình hay nói “no”, dù những kẻ có chức có quyền học hành chẳng bao nhiêu hay kiến thức hẹp hòi. Tinh thần “chủ - tớ”, quan liêu, tham nhũng, hống hách, độc tài, thiển cận nhưng lại muốn được ăn trên ngồi trốc của những cán bộ, đảng viên đã phơi trắng ra giữa ban ngày với chiếc “áo đảng” là thần hộ mạng.
Chúng ta hãy nghe tiếp lời ông Nguyễn Dy Niên: “Cốt lõi của Nghị quyết 36 là hòa hợp dân tộc và đoàn kết dân tộc. Nhưng muốn làm thì các mặt triển khai như thế nào? Điều này đòi hỏi không chỉ một cơ quan nhà nước như UB về người Việt Nam ở nước ngoài mà cả các cấp, các ngành, địa phương. Có thể nói cả hệ thống chính trị phải sẵn sàng và cùng tham gia mới thực hiện được. Đó là những điều đã tính tới khi Nghị quyết 36 ra đời.
Gần tròn 10 năm thực hiện Nghị quyết, nhìn lại, không thể phủ nhận đã có những bước rất tốt nhưng đoạn đường còn phải đi tiếp vẫn dài lắm. Nhưng sau 10 năm thì thực tiễn cũng cho thấy cần những đổi mới, bổ sung trong triển khai trên thực tế, có những điều phải sửa, phải chấn chỉnh và quyết liệt hơn.”
Nói như ông Niên cũng chỉ đúng một phần về phía đảng đối với nhiệm vụ phải làm theo tinh thần Nghị quyết 36. Bởi lẽ, khi nói đến “hòa hợp dân tộc và đoàn kết dân tộc” thì ông Niên phải nhìn lại gáy đảng xem đảng của ông đã “hòa hợp” và “đoàn kết” được đồng bào đang sống ở trong nước chưa?
Nguyên Bộ trường Ngọai giao Niên hãy hỏi đảng xem họ đã đối xử với người Việt miền Nam từ sau năm 1975 như thế nào? Và bây giờ, gần 37 năm sau, những người miền Nam còn sống sót, nhất là những thành phần Quân nhân, Thương phế binh, Cán bộ, Công chức,các đảng viên đảng Chính trị và các Nhà tu hành đi tù về có được đối xử công bằng như những “công dân Cộng sản” hay “cảm tình viên Cộng sản” không?
Không những đảng CSVN đã nuôi hận thù với những người còn sống mà cả những người đã chết cũng bị trả thù từ đời cha đến đời con, cháu thì làm sao đảng này còn có can đảm chìa tay ra bắt tay với người Việt đã ra đi vì chạy Cộng sản?
Chủ trương kỳ thị, hận thù đến tận xương tủy của người Cộng sản đới với các chiến sỹ anh hùng Hải quân Việt Nam Cộng hòa đã hy sinh trong trận chống quân Tầu xâm lăng Quần đảo Hòang Sa tháng 1/1974 là một bằng chứng vạch trần mặt trái khác của những câu chữ “đoàn kết dân tộc” trên môi miệng của Lãnh đạo Việt Nam.
Vì vậy, Tổ tiên ta mới nói “một sự bất tin, vạn sự bất tín” là như thế.
Sự thất tín của đảng CSVN sau khi chiếm được miền Nam còn được minh chứng với hàng trăm ngàn người miền Nam đi tù “cải tạo”, tuy không bi thảm như ác mộng “tắm máu”, nhưng sự chết dần, chết mòn và chết lâu dài cho đến hôm nay, sau 37 năm kết thúc chiến tranh giữa người Việt với nhau, sẽ tồn tại mãi mãi chừng nào những người CSVN vẫn còn “say men chiến thắng với cành Nguyệt Quế” như Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã cảnh giác khi ông còn sống.
Bài học của những sai phạm nghiêm trọng từ chủ trương cho đến chính sách trong suốt 10 năm khi đảng CSVN biến miền Nam trù phú thành một “Địa ngục miền Bắc” từ 1975 đến 1985 đã khiến đảng này phải “Đổi mới hay là chết” tại Đại hội đảng VI năm 1986 là một bằng chứng khác.
Cũng trong Cuộc phỏng vấn đầu năm của ViệtNamNet, ông Niên còn góp ý làm sao để lôi kéo được “trí thức kiều bào” về giúp nước.
Ông nói: “Lĩnh vực thứ hai rất quan trọng là làm thế nào cho trí thức kiều bào về trong nước, họ tham gia công việc giảng dạy, nghiên cứu, trao đổi với các nhà khoa học trong nước. Hiện nay đã làm được một vài việc được nhưng phần lớn những nhà trí thức chưa thật hiểu nhau lắm đâu. Sức mạnh của kiều bào, theo tôi, đó là chất xám. Với môi trường khoa học, văn hóa thuận lợi, nhiều người gốc Việt đã học tập và rất thành đạt.
Làm thế nào để kéo họ về? Nhất là trong bối cảnh giáo dục của chúng ta có nhiều vấn đề, làm thế nào thu hút được trí thức Việt kiều về để họ chia sẻ kinh nghiệm. Chúng ta làm còn ít, còn dè dặt. Dù ngay việc đưa một giáo sư Việt kiều về tham gia các công trình trong nước cũng khó khăn lắm, rất vất vả, công phu. Tôi nghĩ muốn đẩy hơn nữa, cơ quan chức năng phải tích cực hơn, đầu tư hơn.”
Ông Niên ở trong nước, một đảng viên kỳ cựu, từng là Bộ trưởng Ngọai giao đã đóng góp vào sự ra đời của Nghị quyết 36 mà dường như ông chưa biết tại sao đảng của ông đã thất bại trong kế họach chiêu dụ trên 300 ngàn trí chức, chuyên gia “Việt kiều” về giúp nước?
Đàng và nhà nước vẫn thường đề cao vai trò quan trọng của trí thức trong sự nghiệp xây dựng đất nước, nhưng Lãnh đạo chỉ thích nghe những trí thức nịnh hót mình và những kẻ chỉ biết gọi dạ bảo vâng, đôi khi có cả bằng gỉa, học dổm.
Trong khi đó nhiều trí thức “chính hiệu” muốn đóng góp khả năng cho đảng,muốn góp ý với nhà nước làm việc đúng và trúng thì đảng lại gạt phăng đi chỉ vì không phù hợp với ý muốn của đảng.
Điển hình như vụ hàng ngàn trí thức, chuyên viên hầm mỏ thượng thặng trong và ngoài nước, kể cả nguyên Phó Chủ tịch Nước Bà Nguyễn Thị Bình và Giám mục Nguyễn Thái Hợp của Giáo phận Vinh, Chủ tịch Ủy ban Công lý và Hòa bình của Giáo hội Cộng giáo Việt Nam đã gửi Kiến nghị can ngăn đảng dừng ngay Dự án khai thác Bauxite trên Tây nguyên vì lợi kinh tế thì ít mà hại đến con người và sự an nguy của Tổ quốc thì nhiều mà Bộ Chính trị và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã bác bỏ thẳng tay.
Đối với trí thức trong nước, nhiều người từng dậy Lãnh đạo đảng mà đảng còn đối xử như người dưng nước lã thì trí thức hải ngoại có kí lô nào với nhà nước không?
BÀI HỌC DƯƠNG TRUNG QUỐC
Cũng trong đợt phỏng vấn đầu năm về vấn đếu “Kiều bào”, ViệtNamNet còn nói chuyện với Nhà sử học, Đại biểu Quốc hội tỉnh Đồng Nai, ông Dương Trung Quốc.
Đề cập đến sự hạn chế đóng góp “chất xám” cho đất nước của người Việt ở nước ngòai, ông Quốc nói:
“Đúng là kiều hối đem lại cho nước ta một nguồn lực kinh tế không nhỏ, góp phần giải quyết khó khăn cho một bộ phận dân cư. Nhưng điều ta mong muốn hơn cả là sự đóng góp của họ trong lĩnh vực kinh tế, hiểu theo nghĩa đầu tư và chất xám. Đây là một nguồn lực to lớn, ta phải biết thu hút bằng những chính sách tốt.
Khi đất nước còn vô cùng khó khăn gian khổ mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi được rất nhiều kiều bào về cống hiến lâu bền cho đất nước, sao ta không học ngay bài học đó, đâu cần đi tìm đâu xa.
Bên cạnh những chế độ chính sách bảo đảm đời sống vật chất, điều quan trọng hơn đối với người trí thức, những người làm việc trong lĩnh vực sáng tạo, chính là tinh thần, cách ứng xử, sự tôn trọng thực sự.
Trong lĩnh vực khoa học công nghệ, vấn đề chủ yếu là ở trang thiết bị, nhưng với đội ngũ khoa học xã hội nhân văn thì phức tạp hơn. Những vướng mắc về nguyên lý, khái niệm, lập trường khiến ta không dễ tạo cho họ một môi trường đóng góp thực sự.”
Câu trả lời của Đại biểu Quốc hội “ngoài đảng” Dương Trung Quốc dường như không nói rõ ra một điều cơ bản và then chốt khiến trí thức hải ngọai dè dặt vì họ biết họ sẽ bị hạn chế về tự do ngôn luận và tự do tư tưởng, có thể mất cả tự do di chuyển, hội họp và lập hội nếu họ về “giúp nước”.
Bài học Gíáo sư Phạm Minh Hòang, đảng viên đảng Việt Tân (Việt Nam Canh Tân Cách Mạng Đảng) từ 1988 mới được ra tù sau 17 tháng là một bằng chứng của sự trở về dạy học giúp nước và sự hạn chế quyền tự do phát biểu quan điểm của mình, dù chỉ có nội dung xây dựng, không chủ trương chống đảng, chống chế độ!
Trước khi bị bắt ngày 13 tháng 8 năm 2010 và bị cáo buộc có “âm mưu lật đổ chế độ”, ông Phạm Minh Hòang là giảng viên tại Đại học Bách khoa Sài Gòn.
BẰNG CHỨNG NHÃN TIỀN
Để trả lời cho hai ông Nguyễn Dy Niên và Dương Trung Quốc, chúng ta hãy cùng đọc lời tâm huyết và thẳng thắn của Giáo sư Nguyễn Quốc Vọng của Đại học Kỹ thuật và thiết kế danh Tiếng RMIT tại Melbourne, Úc Đại Lợi.
Ông Vọng viết ngày 09/07/2010: “Tại sao cho đến nay vẫn có rất ít trí thức Việt kiều trở về nước phục vụ? Qua thực tiễn 2 năm trở về nước được làm việc, tôi thấy có những nguyên nhân chính sau đây:
► Việt Nam chưa thực sự thấy được mối quan hệ hữu cơ giữa khoa học kỹ thuật và phát triển kinh tế, nên một số chính sách và cơ chế để thu hút trí thức không được nghiêm chỉnh thực hiện. Một khi trí thức trong nước chưa được sử dụng đúng mức thì việc trở về của trí thức Việt kiều sẽ không bao giờ xảy ra vì họ đang được làm việc trong điều kiện tốt nhất của nước sở tại;
► Chưa làm tốt việc cung cấp thông tin về những vấn đề nhạy cảm (ví dụ như biên giới biển đảo, Hoàng Sa Trường Sa, quặng mỏ bauxit Tây Nguyên...) nên trí thức Việt kiều không thấy được Việt Nam đã có sự thay đổi, tiến bộ về mặt dân chủ, phản biện, tự do tôn giáo, từ đó đâm ra hoang mang, lo sợ… không muốn trở về nước;
► Chưa có đầu mối để tìm tòi, liên lạc, mời gọi… do chính trí thức Việt kiều đảm trách vì trong hàng trăm, hàng ngàn công nghệ cao của thế giới, phải là người có kiến thức mới có thể lựa chọn những công nghệ tốt nhất, thích hơp nhất và có lợi nhất cho đất nước;
► Thủ tục giấy tờ về nước phải thông qua nhiều Bộ ngành nên rất rườm rà, mất thời gian;
► Tinh thần “vọng ngoại” của một số ít người trong nước vẫn thích “mắt xanh mũi lõ” dù rằng có nhiều khi “mắt xanh mũi lõ” lại ở trình độ khoa học kỹ thuật thấp hơn, không hiểu Việt Nam hơn trí thức Việt kiều;
► Tính “địa phương” và “trong ngoài” còn khá phổ biến, môi trường làm việc dựa nhiều vào cảm tính nên nhiều khi không công bằng, thiếu tin tưởng làm trí thức Việt kiều trở thành những thứ trang trí, không có thực quyền và cơ hội đóng góp sở trường khoa học kỹ thuật của mình.
Từ những năm 1970 Hàn Quốc đã mạnh dạn triển khai chính sách mời gọi trí thức Hàn kiều ở Mỹ trở về đóng góp. Ba mươi năm sau Hàn Quốc vươn lên trở thành nền kinh tế thứ 13 của thế giới. Cũng thế Trung Quốc đã ứng dụng chính sách ưu đãi mời gọi trí thức Hoa kiều, và họ cũng đã tiến rất nhanh trong công cuộc hiện đại hoá công nghiệp hoá đất nước, trở thành nền kinh tế thứ ba trên thế giới. Chỉ có Việt Nam, đã hơn ba mươi năm sau ngày giải phóng, mà vẫn còn loay hoay mãi với câu hỏi về trí thức Việt kiều.”
AI NHỒI SỌ AI?
Đấy là kinh nghiệm thực tế của Giáo sư Nguyễn Quốc Vọng sau 2 năm kiên nhẫn “nếm mùi” Việt Nam.
Vậy thái độ của những kẻ có quyền trong đảng CSVN đối với “Việt kiều” như trường hợp Thứ trưởng Nguyễn Thanh Sơn, Chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài như thế nào?
Sơn nói với Báo chí tại Hà Nội ngày 02/11/2010, trong dịp Hội nghị tổng kết 6 năm thực hiện Nghị quyết 36:
(Hỏi): Thưa Thứ trưởng, được biết là ông sẽ đích thân có các cuộc gặp gỡ các phần tử đi ngược lại các lợi ích của dân tộc. Xin ông cho biết cụ thể các cuộc gặp đã được tiến hành như thế nào?
(Đ) Nguyễn Thanh Sơn: “Trong quá trình quá trình hòa giải, hòa hợp dân tộc, chúng ta không muốn đặt các tổ chức, cá nhân này ra khỏi vị trí với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài vì chúng ta muốn cảm hóa họ, cùng họ nhìn nhận một cách khách quan thực chất phát triển của đất nước, nhìn nhận khách quan vị thế phát triển của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Những người này có thể ra đi bằng nhiều con đường khác nhau, họ được tuyên truyền về những nỗi kinh hoàng không có hoặc không tưởng, họ bị nhồi nhét vào đầu quá nhiều những tư tưởng hận thù….”
“….Hiện nay, còn lại bộ phận không nhiều những người đi ngược lại lợi ích dân tộc và họ càng bị phân hóa, bị yếu đi bởi khi chúng ta tổ chức càng nhiều hoạt động ở trong và ngoài nước, bà con càng có nhiều thông tin, càng hướng về quê hương đất nước, hiểu về quê hương đất nước thì càng không tin họ. Chính vì vậy, số lượng dù còn ít nhưng họ lại rất quyết liệt, kiên quyết chống phá chúng ta vì họ đang hoảng loạn trước nguồn cung cấp tài chính của quốc gia sở tại và chính vị thế và uy tín của họ đang bị giảm sút.
Không có lý gì mà chúng ta không giành thế chủ động, chìa bàn tay với những người còn hiểu lầm về đất nước, còn mơ hồ về việc họ có thể lật đổ chế độ chúng ta. Chúng tôi đã quyết định có đoàn liên ngành cùng với các cơ quan báo chí trong nước đi công khai, gặp gỡ những phần tử còn chống đối quyết liệt nhất, cố tình không hiểu tình hình trong nước. Chúng tôi đã nêu công khai với Đại sứ quán Mỹ, thông qua cơ quan đại diện Ngoại giao ở các quốc gia như Mỹ, Canada... để có thông tin đến các tổ chức, cá nhân này. Họ rất bất ngờ trước kế hoạch này và lúng túng, cố tình không gặp.
Khi nào họ thực sự muốn gặp công khai như họ nói (nhưng thực ra khi yêu cầu gặp công khai họ lại không dám gặp), thì chúng tôi sẽ sẵn sàng gặp. Chúng tôi đang muốn gặp họ công khai với sự chứng kiến của phóng viên trong và ngoài nước, bà con kiều bào để tìm hiểu xem vì sao họ còn hận thù với đất nước. Và cũng để họ hiểu rõ rằng, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn mở rộng vòng tay đối với họ, nếu họ thực sự muốn hướng về Tổ quốc, mang lại lợi ích cho cộng đồng và cho đất nước.” (Trích Đài Tiếng Nói Việt Nam, VOV)
Câu trả lời của Sơn phản ảnh một thái độ gay gắt vì bị những người Việt ở nước ngòai được CSVN tiếp xúc tẩy chay không muốn đối thọai với một Chính quyền độc tài, đảng trị.
Mặc dù Sơn có nói đến hai chữ “hòa giải” trong câu trả lời, nhưng trong hành động, đảng CSVN chưa bào giờ muốn thật lòng “hòa giải” mà chỉ muốn người Việt ở nước ngòai về nước “hợp” vào chiếc lồng phản dân chủ để phục vụ đảng.
Đó Là lý do tại sao Nghị quyết 36 đã thất bại như lời hai ông Nguyễn Dy Niên và Dương Trung Quốc nói với ViệtnamNet trong những ngày đấu năm 2012.
Cũng trong cuộc họp báo ngày 02/11/2010, Nguyễn Thanh Sơn còn nói về việc cấp Visa vào Việt Nam như sau:
(H): Qua một số kênh báo chí quốc tế, một số đối tượng Việt Nam ở nước ngoài phản ánh về việc khó khăn trong xin visa về nước. Xin ông cho biết đối tượng nào không được giải quyết và chúng ta có công bố rõ ràng không?
(Đ): Thứ trưởng Nguyễn Thanh Sơn: Trước hết, những đối tượng bị cấm nhập cảnh Việt Nam, chúng ta đã có danh sách cụ thể. Đó là những đối tượng công khai tham gia các tổ chức hoạt động chống lại Chính phủ và Nhà nước Việt Nam với âm mưu lật đổ chính quyền. Phần lớn đây là những người chủ chốt, cầm đầu các Đảng phái phản động đang tìm cách chống đối lại chúng ta, đi ngược lại với lợi ích nhân dân. Chúng tôi đã phối hợp với các cơ quan chức năng ở nước ngoài nắm danh sách cụ thể của từng người.
Số còn lại không nằm trong danh sách chủ chốt, chúng ta vẫn cho về bình thường, để họ khỏi không thể bao biện rằng Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền hay cư trú đi lại. Con số này chúng ta cũng đã có con số thống kê chính xác và biết rõ họ về nước làm gì.
Có thể khẳng định, số người đến cơ quan đại diện nhận được visa hoặc không nhận được visa là do có tham gia hay không vào các tổ chức phản động chống phá đất nước.”
Có lẽ khi trả lời báo chí năm 2010, Sơn không ngờ đến năm 2011, nhà nước cũng đã cấm xuất cảnh nhiều Công dân Việt Nam chỉ vì họ đạ dám lên tiếng chông nhà nước chiếm đất Tôn giáo, chiếm nhà và tài sản của dân, và cả những công dân yêu nước xuống đường biểu tình chống Trung Cộng âm mưu lấn chiếm lãnh thổ và biển đảo của Việt Nam.
VÁI KIỀU HỐI
Thái độ “hòa hợp” một chiếu của đảng CSVN cũng thay đổi với “Việt kiều” khi có dính đến đồng Dollar của họ gửi về cho gia đình. Nhà nước CSVN đã không đổ công sức lao động mà hàng năm vẫn được hưởng gần 10 tỷ dollars. Riêng trong năm 2011 số tiền này là 9 tỷ.
Với tựa đề “Thu hút kiều hối năm 2011: Một mùa vàng bội thu”, Việt Nam Thống Tấn Xã viết trong Báo điện tử Vietkieu.Info ngày 27/12/2011: “Trong bối cảnh kinh tế thế giới khó khăn, VN tiếp tục là 1 trong 16 quốc gia nhận kiều hối nhiều nhất với 9 tỷ USD năm 2011.
Theo dự đoán của Ngân hàng Thế giới (WB), năm 2011 có thể là một “mùa vàng” kiều hối chuyển về Việt Nam, với doanh số ước đạt 9 tỷ USD. Như vậy, Việt Nam tiếp tục là một trong 16 quốc gia nhận kiều hối nhiều nhất thế giới.
Theo các ngân hàng thương mại, những năm trước, phổ biến tình trạng kiều hối chuyển qua các kênh không chính thức gây rủi ro cho người chuyển và khó thống kê được lượng kiều hối thực sự. Nhưng năm nay, lượng kiều hối chuyển về kênh chính thức qua ngân hàng đã tăng lên rõ rệt.
Doanh số chuyển tiền kiều hối tại Công ty Kiều hối Sacomrex năm 2011 ước đạt 1,65 tỷ USD; tại DongA Bank, ước tính đến tháng 12 thu hút khoảng 1,6 tỷ USD lượng kiều hối chuyển về, tăng 20% so với năm ngoái; VietinBank dự kiến cả năm đạt trên 1,3 tỷ USD, tăng 15% so với năm trước; Eximbank cũng cho biết lượng kiều hối qua ngân hàng này đạt trên 600 triệu USD, tăng 64% so với cùng kỳ năm ngoái.”
Ai cũng muốn biết khi nhận được số tiền khổng lồ “không làm mà có” này của “Kiều bào”, Nhà nước Việt Nam đã đối xử ra sao với người gửi và người nhận?
Liệu họ có thời giờ phân biệt tiền của ai gửi về không hay cứ thấy tiền là đút túi dù đồng tiền đó có thể là của những “Kiều bào” vẫn thường xuyên tham gia các hoạt động chống Nhà nước Việt Nam ở nước ngòai?
Thiết tưởng mỗi khi Thứ trưởng Ngọai giao Nguyễn Thanh Sơn mở miệng chỉ trích cay đắng người Việt chống đảng ở nước ngòai thì cũng đừng quên vái những đồng tiền Dollar đã “biết bay” về Việt Nam vào mỗi dịp Tết cuối năm. -/-
(01/012)
- Nhà sử học Dương Trung Quốc: ‘Tôi không nghĩ kiều bào còn lấn cấn’ (VNN).
- Cựu ngoại trưởng Nguyễn Dy Niên: Hòa hợp dân tộc: Không thể chờ nước chảy đá mòn (VNN).
- Liệu pháp thời gian là cần thiết song không thể mặc định như chuyện nước chảy đá mòn. Hòa hợp dân tộc cần sự chủ động từ trong nước hơn nữa - nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên nói về vấn đề hòa hợp dân tộc.
Dưới thời kỳ ông Nguyễn Dy Niên làm Bộ trưởng Ngoại giao - cơ quan tham vấn trực tiếp cho lãnh đạo Đảng, Nhà nước về chính sách kiều bào, một nghị quyết quan trọng đã ra đời - Nghị quyết 36 về kiều bào (năm 2004).
"Nghị quyết 36 mang tinh thần cốt lõi là hòa hợp dân tộc và đoàn kết dân tộc" - ông nói trong cuộc trò chuyện với VietNamNet đầu năm. Điều này được Nghị quyết khẳng định rõ "xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử do quá khứ hay thành phần giai cấp" để "tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai".
Với gần 10 năm công tác trực tiếp về vấn đề kiều bào (từ 1991-2000 trong vai trò Chủ nhiệm UB về người Việt Nam ở nước ngoài), ông Niên khẳng định nhờ có Nghị quyết này, trong gần 10 năm qua, đã có không ít những nút thắt được mở.
Điểm nhấn gần đây nhất là Luật Quốc tịch năm 2008 đã tạo điều kiện cho phép công dân Việt Nam có thể mang hai quốc tịch, Luật sửa đổi, bổ sung Điều 126 Luật nhà ở và Điều 121 Luật đất đai cho phép mở rộng đối tượng người Việt Nam ở nước ngoài được mua và sở hữu nhà ở tại Việt Nam, miễn thị thực cho kiều bào cư trú trong nước 3 tháng, bước đầu xây dựng chính sách, biện pháp thu hút chuyên gia, trí thức kiều bào trở về đóng góp cho đất nước....
Điểm lõi của Nghị quyết 36 là hòa hợp dân tộc - theo nguyên Bộ trưởng Ngoại giao - dù đã có những bước đi mạnh dạn song vẫn chưa thực sự trọn vẹn.
Quyết liệt hơn
37 năm sau chiến tranh giải phóng, thống nhất đất nước, chúng ta nêu vấn đề này vào thời điểm hiện nay mà vẫn chất chứa những điều chưa trọn vẹn. Vì sao, thưa ông?
Vấn đề hòa hợp dân tộc ai cũng thấy là đúng cả. Ai cũng thấy cần phải làm nhưng làm như thế nào thực sự không dễ dàng. Khi thống nhất đất nước, đất nước bộn bề công việc, có biết bao nhiêu vấn đề đặt ra. Lúc đó đất nước đứng trước khó khăn về tái thiết. Vấn đề hòa giải sau chiến tranh đòi hỏi quá trình, nôn nóng cũng không được.
Nguyên Bộ trưởng Nguyễn Dy Niên tại hội nghị tổng kết thực hiện Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài năm 2010.Ảnh: Phương Thuận |
Bối cảnh Nghị quyết 36 ra đời cách đây gần 10 năm, tôi nghĩ đó là thời điểm mà khi đất nước mang diện mạo mới bắt đầu định hình sau tái thiết, Trung ương đã thấy cần phải đưa ra những quyết định mạnh mẽ cho vấn đề này như một sự bức thiết. Dù khi làm công tác kiều bào thời điểm những năm thập niên 1990, khi đi đến các địa phương, tôi cảm nhận vấn đề này thực sự khó khăn. Chiến tranh ác liệt qua đi, có những vết thương vẫn còn đó, để nói chuyện ngồi lại với nhau, tha thứ là điều thực sự khó khăn. Ngay cả thời điểm bây giờ cũng vậy, không phải vết thương nào cũng lành, cũng vơi bớt. Tâm lý con người là vậy, khó có thể nói nhận thức ý chí lắm. Bởi lẽ đó, yếu tố thời gian là quan trọng.
Thực tiễn đổi mới hơn 20 năm qua đã đưa diện mạo đất nước bước sang một trang mới, và hiện thực đi quá nhanh, bối cảnh thế giới cũng đã khác, có nhiều thay đổi. Liệu những lấn cấn, chưa trọn vẹn có làm cho mọi việc sẽ lại chậm đi không, trong khi nguồn lực đất nước đang khát, từ tri thức đến khoa học công nghệ, nhân lực?
Nhận định thời gian để chúng ta có một Nghị quyết 36 như thế hơi dài cũng bởi tại chính thời gian là một liệu pháp để làm lành vết thương, dần lấp những nỗi đau, khoảng trống. Cốt lõi của Nghị quyết 36 là hòa hợp dân tộc và đoàn kết dân tộc. Nhưng muốn làm thì các mặt triển khai như thế nào? Điều này đòi hỏi không chỉ một cơ quan nhà nước như UB về người Việt Nam ở nước ngoài mà cả các cấp, các ngành, địa phương. Có thể nói cả hệ thống chính trị phải sẵn sàng và cùng tham gia mới thực hiện được. Đó là những điều đã tính tới khi Nghị quyết 36 ra đời.
Gần tròn 10 năm thực hiện Nghị quyết, nhìn lại, không thể phủ nhận đã có những bước rất tốt nhưng đoạn đường còn phải đi tiếp vẫn dài lắm. Nhưng sau 10 năm thì thực tiễn cũng cho thấy cần những đổi mới, bổ sung trong triển khai trên thực tế, có những điều phải sửa, phải chấn chỉnh và quyết liệt hơn.
3 điểm cốt lõi
Đó là những gì, thưa ông?
Có 3 lĩnh vực. Về kinh tế, năm 2011, kiều hối được ghi nhận là 9 tỷ USD, tất nhiên có đóng góp của mấy trăm nghìn lao động gửi về nhưng phần lớn của kiều bào. Cái này nói lên Việt Nam là điểm thu hút được đầu tư vì kinh tế thế giới khó khăn, họ thấy ở Việt Nam làm ăn tốt hơn. Bây giờ phải tận dụng, nhân cơ hội này phải thoáng hơn nữa cho kiều bào đầu tư về, chủ yếu là các lĩnh vực sản xuất. Đầu tư thì phải có lãi, đầu tư không có lãi thì ai đầu tư, thế thì phải tạo điều kiện thông thoáng về kinh tế. Các cơ quan chức năng kinh tế phải làm kỹ hơn.
Kiều bào dự hội nghị người Việt trên toàn thế giới, Hà Nội 2009. Ảnh: Lê Anh Dũng |
Lĩnh vực thứ hai rất quan trọng là làm thế nào cho trí thức kiều bào về trong nước, họ tham gia công việc giảng dạy, nghiên cứu, trao đổi với các nhà khoa học trong nước. Hiện nay đã làm được một vài việc được nhưng phần lớn những nhà trí thức chưa thật hiểu nhau lắm đâu. Sức mạnh của kiều bào, theo tôi, đó là chất xám. Với môi trường khoa học, văn hóa thuận lợi, nhiều người gốc Việt đã học tập và rất thành đạt.
Làm thế nào để kéo họ về? Nhất là trong bối cảnh giáo dục của chúng ta có nhiều vấn đề, làm thế nào thu hút được trí thức Việt kiều về để họ chia sẻ kinh nghiệm. Chúng ta làm còn ít, còn dè dặt. Dù ngay việc đưa một giáo sư Việt kiều về tham gia các công trình trong nước cũng khó khăn lắm, rất vất vả, công phu. Tôi nghĩ muốn đẩy hơn nữa, cơ quan chức năng phải tích cực hơn, đầu tư hơn.
Lĩnh vực thứ ba là giữ gìn bản sắc văn hóa của người Việt. Bây giờ thế hệ thứ hai, sắp tới là thế hệ thứ ba, thứ tư... làm thế nào họ giữ được văn hóa Việt? Cái này khó lắm, vì họ sống giữa biển cả mênh mông của văn hóa nước sở tại thì làm sao chốt lại được nét văn hóa Việt Nam.
Một vấn đề quan trọng là làm thế nào giữ được ngôn ngữ, văn hóa Việt. Mười năm qua, chúng ta in sách giáo khoa rồi gửi ra nước ngoài, một số nước như Lào, Campuchia chúng ta gửi giáo viên sang nhưng cũng vất vả, không dễ thành công. Chưa nói bên Mỹ, Pháp, các nước khác, bây giờ thế hệ thứ ba nói tiếng địa phương, nói tiếng Anh, Pháp, ít biết tiếng Việt.
Tổ chức trại hè vừa rồi các cháu về nước nhưng cũng hiểu tiếng Việt ít lắm. Nhưng khó không có nghĩa không làm được, mà phải làm được. Kinh nghiệm của cộng đồng người Nhật ở Brazil, người Hoa ở hầu như các nơi trên thế giới cho thấy họ vẫn giữ được ngôn ngữ gốc. Thế mạnh của họ là cộng đồng lớn. Mình ngoại trừ ở Mỹ, Pháp, Australia, một vài nơi thì quy mô cộng đồng tương đối, còn ở những nơi khác cộng đồng nhỏ, phân tán. Trong khi họ phải sống hòa nhập nước sở tại nên sẽ khó khăn giữ gìn bản sắc, ngôn ngữ. Dù ít hay nhiều, cần làm thế nào để họ vẫn giữ cái cốt cách của người Việt. Ví dụ ngày Tết thì nhớ đến ông bà, giao thừa...
Bản lề còn rộng
Trở lại vấn đề hòa hợp dân tộc - điểm cốt lõi của Nghị quyết 36, theo ông, làm thế nào để hiện thực hóa trọn vẹn khi mà thời gian cũng đã đủ dài?
Cái quan trọng nhất là làm thế nào để sự phân biệt giảm đi và người trong nước phải gần gũi hơn, chìa bàn tay ra để kéo lại. Như chuyện anh muốn vỗ tay thì phải vỗ bằng hai tay, chứ không thể một tay. Nó phải từ hai phía. Hai phía phải tìm cách để cùng gặp nhau. Cần thúc đẩy, làm mạnh hơn như tạo điều kiện cho kiều bào đầu tư rộng rãi hơn.
"Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, tiếp theo việc cho phép những quan chức, sỹ quan cấp cao chế độ Sài Gòn cũ được về nước, dân sự hóa nghĩa trang Bình An (tỉnh Bình Dương)... ta đã tạo điều kiện giúp tìm kiếm, cải táng hài cốt những người thân diện HO chết trong thời gian học tập, cải tạo. Bên cạnh đó, thúc đẩy việc thành lập các tổ chức của người Việt Nam ở Mỹ, Canada, Australia, hợp nhất tổ chức thành Tổng hội hoặc Hội người Việt Nam ở địa bàn có điều kiện…, hỗ trợ sự liên kết giữa các Hội người Việt Nam, các tổ chức doanh nhân kiều bào ở các nước để tạo sức mạnh tập hợp đoàn kết kiều bào... Ngoài ra sẽ cử các đoàn công tác liên ngành đến các địa bàn có đông kiều bào để chủ động trực tiếp đối thoại với các tổ chức và cá nhân còn mặc cảm, định kiến với đất nước...". Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Thanh Sơn, Chủ nhiệm UB về người Việt Nam ở nước ngoài |
--Nguyễn Trung: “Khép lại quá khứ, không ngoái lại quá khứ” (viet-studies 23-1-12) ◄◄- Khai bút của Nguyễn Trung – “Khép lại quá khứ – (Người Lót Gạch). - Mậu Thân và nỗi đau của Huế – (NV).-
Nhà văn Nguyễn Quí Đức. (Ảnh do nhân vật cung cấp)
Nhà văn Nguyễn Quí Đức: “Chúng ta đã chậm mất hai thế hệ để hòa giải”
Ông Nguyễn Quí Đức cho rằng muốn hòa giải với người thì trước hết phải hòa giải với chính mình.
Tóm lược
- Nguyễn Quí Đức sinh tại Đà Lạt, tốt nghiệp đại học ngành truyền thông tại San Francisco.
- Anh là tác giả cuốn hồi ký Where the Ashes Are (Addison-Wesley, 1994), đồng chủ biên hai tuyển tập Vietnam: A Travelers’ Literary Companion (Whereabouts Press) và Once Upon A Dream (Andrew & McMeel).
- Anh là dịch giả cuốn Behind the Red Mist ̣(Hồ Anh Thái) và The Time Tree (Hữu Thỉnh), giải chung kết Dịch thuật năm 2003 của Hiệp hội Phê bình Văn học tiểu bang California.
- Các truyện và thơ anh dịch của nhiều nhà văn, thơ trong và ngoài nước như Phùng Nguyễn, Nguyễn Huy Thiệp, Lê Minh Khuê, Nguyễn Bá Trạc, Mai Kim Ngọc, Trịnh Công Sơn v.v… được đăng tải trên nhiều tạp chí và tuyển tập văn nghệ như Zyzzyva, Manoa Journal, Watermark...
- Các sáng tác của anh đã được đăng tải trên Hợp Lưu, Văn, Văn Học, Under Western Eyes, Vestiges of War, Manoa Journal, Salamander…
- (Nguồn: Talawas)
Nhà văn Nguyễn Quí Đức là người đã giúp rất nhiều nhà văn Việt Nam chuyển ngữ và giới thiệu các tác phẩm của mình ra thế giới bên ngoài. Mặc dù đi nhiều, viết nhiều nhưng ông xuất bản rất ít. Ông đã sang Mỹ sinh sống từ sau năm 1975. Trước đó, cha ông, một công chức miền Nam, đã bị bắt trong cuộc tấn công tết Mậu Thân 1968 và bị giam tù 12 năm. Năm 1989, ông trở về Việt Nam lần đầu tiên và tới năm 2006 thì về ở hẳn để mở quán cà phê Tadioto trên phố Triệu Việt Vương, Hà Nội.
Bay Vút: Thưa ông, dưới góc nhìn của một người lưu vong sau khi trở về Việt Nam, ông nhìn vấn đề ‘mâu thuẫn dân tộc’ như thế nào?
Nguyễn Quí Đức: “Còn tùy là nói chuyện với ai và ở thế hệ nào. Mỗi thế hệ có sự khác nhau về tầm nhìn, sự hiểu biết về câu chuyện. Có thế hệ bị ảnh hưởng bởi cuộc sống thời chiến, bị va chạm với những hình ảnh và âm thanh họ nghe và thấy được nên họ có suy nghĩ khác. Nếu như đang sống trong thời chiến, một người thấy phi cơ ném bom xuống làng mình thì chắc chắn tư duy người này sẽ bị ảnh hưởng".
"Thế hệ lớn lên sau này không phải sống trong hoàn cảnh chiến tranh nên họ có cái nhìn bình tĩnh và mềm mỏng hơn. Bây giờ, rất ít người tò mò về quá khứ, về chiến tranh vì người ta cũng mệt khi nghe chuyện này. Hậu chiến, đời sống cơm áo, gạo tiền, là đủ mệt rồi. Thế nhưng những người lưu vong sau 30/4 vẫn cảm thấy vương vấn về chuyện ấy, bởi vì nó vẫn chưa được nói ra một cách thỏa đáng".
"Thoạt đầu những người sang Úc, Pháp, hay Mỹ cách đây mấy chục năm chưa có một chỗ đứng vững vàng nên họ cần một cái định nghĩa: ‘Tôi là ai’. Lúc đó, để trả lời câu hỏi này thì đấy chính là cái quá khứ của chiến tranh, những mất mát, những tranh đấu mà họ đã từng trải qua. Và họ cho rằng đấy là điều quan trọng nhất trong con người của họ. Vì ra nước ngoài họ là một con người khác, phải sống cuộc sống và tiếp thu một nền văn hóa khác. Họ mất hẳn quá khứ đồng thời họ cũng bị bứng khỏi cái gốc rễ cội nguồn".
"Sau này, khi họ tạo dựng được cuộc sống, tiếp nhận được nhiều thông tin thì câu chuyện nó cũng có khác đi. Khi những người trực tiếp tham chiến già đi, đến gần cái tuổi gần đất xa trời thì họ suy nghĩ khác. Cái quan trọng đối với họ bây giờ là về lại nơi họ đã sinh ra, lớn lên. Một số muốn trở về để chết trên mảnh đất quê hương".
"Mâu thuẫn khó khăn nhất của Việt kiều là ở trong nước vẫn không công nhận cái thể chế miền Nam là một chính phủ. Chính quyền hiện nay có thể không còn gọi họ là “ngụy” nữa nhưng đồng thời cũng không gọi là ‘chính phủ miền Nam’. Thật ra, những người này vẫn có những thể chế, những niềm tin và lý tưởng, chứ họ không phải là những người chạy theo Mỹ, để bị gọi là ‘phản quốc’".
"Có nhiều người miền Bắc nói với tôi rằng người lính Việt Nam Cộng hòa (VNCH) là những người phản bội tổ quốc. Khi nghe như vậy tôi cũng không biết giải thích gì với họ. Do đó, cũng khó mà nói chuyện. Những người trẻ tuổi hơn thì nói họ mệt chiến tranh lắm rồi, họ muốn ô tô, vật chất và của cải, họ muốn tương lai. Đấy là sự khác biệt rất lớn: những người nước ngoài về thì muốn tìm quá khứ, nguồn gốc, còn người ở trong nước thì muốn hướng tới tương lai giàu có, vinh quang”.
Bay Vút: Hòa bình lập lại, có thể thấy số phận những người lính VNCH rất cơ cực và phải nói là bi đát. Nhưng cho tới tận thời điểm này, tình hình cũng vẫn vậy, nhất là về mặt tinh thần. Mỗi năm vào các dịp kỷ niệm chiến thắng này kia, có lẽ họ sẽ rất buồn khi xem tivi hay đọc những bài báo viết về dịp 30/4?
Nguyễn Quí Đức: “Tôi nhìn nhận chuyện này ở một phạm vi rộng hơn và ở dưới góc độ văn hóa. Nếu tôi là người chiến thắng và nếu tôi là người tự trọng, tôi tự biết tôi là ai thì tôi chẳng cần phải chê bai người khác, hạ bệ người khác để tôi được hay ho hơn. Cái tâm lý miệt thị một người khác chính là cái tâm lý muốn tự đề cao mình lên, trong khi bản chất của sự việc thì chẳng cần phải thế”.
Bay Vút: Có cảm giác phía bên này vẫn coi phía bên kia là những đứa con “hư” của dân tộc nhưng các cụ ta có câu “con hư thì vẫn là con của mẹ”. Có lẽ chúng ta cần có cái nhìn nhân ái và bao dung hơn nữa, ông có thấy vậy không?
Nguyễn Quí Đức: “Tất nhiên là có. Chúng ta cần có thời gian để sự việc tự nó lắng xuống và qua đi, để có sự độ lượng. Bất cứ chính quyền nào cũng vậy, để bảo vệ chỗ đứng của mình, thì phải tự đề cao mình lên và đặt ra cái chỗ đứng thấp kém cho một người khác. Nhưng nếu họ vững tâm hơn, và nếu họ có cái lý chính đáng thì họ sẽ không cần cái đấy nữa".
"Còn với người dân hằng ngày thì cái nỗi đau của ông bộ đội miền Bắc cũng giống nỗi đau của người mẹ miền Nam mất con. Chúng ta đã quên rằng đấy là nỗi đau chung. Về vấn đề này nói theo tinh thần nhà Phật hay Thiên Chúa Giáo thì bao giờ cũng cần cái sự độ lượng, mà độ lượng thì bây giờ đúng là cái xa xỉ. Tôi nghĩ phải mất thêm một thời gian nữa thì chuyện này mới có thể êm xuôi".
Bay Vút: Bài học từ Đông Đức và Tây Đức năm 1989 khi bức tường Berlin sụp đổ, người dân hai miền đã ôm chầm lấy nhau và họ coi nhau là người Đức chứ không còn Đông hay Tây. Tuy nhiên, một số chính trị gia Tây Đức lại không coi như vậy mà vẫn có những quan ngại và định kiến về phía bên kia. Do vậy, tiến trình hòa giải dân tộc đã bị chậm mất một, hai thế hệ. Việt Nam dường như cũng đã mắc phải sai lầm đó, và chúng ta đã chậm mấy thế hệ và liệu còn phải chậm mấy thế hệ nữa thưa ông?
Nguyễn Quí Đức: “Đấy là điều đáng tiếc. Theo tôi thấy thì Việt Nam đã chậm mất hai thế hệ và có lẽ tình trạng này sẽ còn kéo dài thêm. Có một số dấu hiệu đang thay đổi, và tôi nghĩ đến một lúc nào đó vấn đề hòa giải sẽ tự mất đi. Bây giờ thế hệ trẻ trong nước ít người quan tâm đến chiến tranh hay mâu thuẫn, còn thế hệ người Việt trẻ ở nước ngoài thì vì được sống trong một môi trường giáo dục, văn hóa khác nên họ cũng không quan tâm đến nó. Những người lính già rồi cũng sẽ chết đi. Khi già thì họ sẽ có cái nhìn trầm tĩnh hơn. Những bức xúc đau khổ về những người cần hòa giải sẽ được nhìn nhận bình tĩnh hơn".
"Tôi chỉ mong nhà nước tự tin hơn, can đảm hơn để chấp nhận mọi thứ. Bây giờ Việt kiều về đây giúp tài chính, kỹ thuật. Nhưng cùng lúc đó ông ấy lại mang về những niềm tin, ý tưởng về dân chủ của cái xã hội khác. Đất nước có đủ niềm tin cho người ta có tiếng nói hay không? Do đó rất dễ hiểu là những người Việt kiều hoạt động trong lĩnh vực văn hóa là những người không được nhà nước tin tưởng nhiều lắm".
"Như tôi đây, khi trở về nước tôi đâu có xin visa làm báo chí được. Do đó vấn đề ở đây là mình yêu đất nước nhưng đất nước có yêu mình không. Thế nhưng tôi không vì thế mà chống đối. Tôi về tạo dựng công ăn việc làm với quán café này, mang một cái thái độ ứng xử với mọi người khác nhau. Nhưng sau một thời gian sống ở đây thì tôi cảm thấy con người không còn cái tinh thần cộng đồng như trước nữa. Mọi người mệt nhọc quá. Họ chỉ muốn vật chất, giành giật nhau, chạy xe lỡ va quệt là đánh nhau".
"Tuy nhiên, tôi lại thấy có những mâu thuẫn khác phát sinh. Ví dụ những người trẻ bây giờ được đi ra ngoài du học, tiếp nhận những ý tưởng mới và khi trở lại họ có được áp dụng và chấp nhận hay không? Đó lại là một chuyện khác. Đấy không còn là khác biệt vì chiến tranh, mà đấy là vấn đề liên quan tới tư tưởng của thể chế".
"Lấy bài học từ chiến tranh, tôi cho rằng với những người như thế thì khi họ về nước họ có làm được gì hay không, có áp dụng được gì hay không. Hay là vì sống trong một môi trường đầy cạm bẫy như ở Việt Nam thì họ có trở nên ‘hư hỏng’ hay không. Tôi gặp những người ở độ tuổi 30 sau khi đi học ở nước ngoài về bị bất đắc chí, họ chán nản. Ở tuổi 30 họ chẳng còn cái lý tưởng nào để sống và làm việc. Một số ít thì lập nghiệp chính bằng sự quen biết, tiền bạc”.
Bay Vút: Quá khứ là một điều không dễ gì quên, đặc biệt với bối cảnh chiến tranh ở Việt Nam giữa hai miền Nam-Bắc. Nhưng khi hòa bình lập lại, điều quan trọng là cách những người còn sống hành xử với nhau thế nào với nhau, đối xử ra sao với những người đã khuất. Theo ông, thế nào là cách hành xử có văn minh và hòa hợp với nhau nhất?
Nguyễn Quí Đức: “Tôi nghĩ cách hành xử văn minh nhất chính là im lặng. Tôi đặt ngược câu hỏi lại là nếu người miền Nam thắng cuộc thì người miền Nam viết sử như thế nào về người miền Bắc? Có tắm máu, có độ lượng, có thù hằn ai không? Tôi nghĩ là sẽ có, tệ hại hơn hay không thì chưa biết".
"Ngày trước tôi đi làm phóng sự về một lính Mỹ giết một người lính Việt cộng ở Thái Bình. Về sau người này tìm lại được hài cốt và mang trả lại cho gia đình người đã khuất. Trên đường đi làm phóng sự, khi tôi ngồi trên xe thì có ông lính người Bắc nói thao thao bất tuyệt về người lính miền Nam và cho rằng lính miền Nam rất man rợ, độc ác. Tôi ngồi nghe và lặng im chẳng nói gì vì chẳng biết nói gì lúc này cả. Về sau có người về kể lại với cái ông lính người Bắc ấy câu chuyện về gia đình tôi. Sau khi nghe ra, ông ấy gửi lời nhắn mời tôi về nói chuyện với thái độ rất nhã nhặn và hài hòa".
"Mỗi năm không biết bao nhiêu chương trình trên các đài truyền hình nói về các trận chiến này, trận chiến kia. Các chương trình vẫn đều nói cùng một giọng điệu, vẫn một kiểu nói rằng con người miền Nam là con người xấu xa, tàn ác… Tại sao người trong nước là người thắng cuộc, thường dễ tha thứ cho người ta hơn, tại sao không làm được điều ấy?".
"Như bố tôi đi tù 12 năm, giờ tôi hận thù thì cũng chẳng đòi được 12 năm ấy. Cái gì qua rồi thì đã qua rồi. Đòi hỏi hòa giải nằm ở chính mình trước, đường hai chiều bắt đầu từ một chiều”.
Bay Vút: Thưa ông, dưới góc nhìn của một người lưu vong sau khi trở về Việt Nam, ông nhìn vấn đề ‘mâu thuẫn dân tộc’ như thế nào?
Nguyễn Quí Đức: “Còn tùy là nói chuyện với ai và ở thế hệ nào. Mỗi thế hệ có sự khác nhau về tầm nhìn, sự hiểu biết về câu chuyện. Có thế hệ bị ảnh hưởng bởi cuộc sống thời chiến, bị va chạm với những hình ảnh và âm thanh họ nghe và thấy được nên họ có suy nghĩ khác. Nếu như đang sống trong thời chiến, một người thấy phi cơ ném bom xuống làng mình thì chắc chắn tư duy người này sẽ bị ảnh hưởng".
"Thế hệ lớn lên sau này không phải sống trong hoàn cảnh chiến tranh nên họ có cái nhìn bình tĩnh và mềm mỏng hơn. Bây giờ, rất ít người tò mò về quá khứ, về chiến tranh vì người ta cũng mệt khi nghe chuyện này. Hậu chiến, đời sống cơm áo, gạo tiền, là đủ mệt rồi. Thế nhưng những người lưu vong sau 30/4 vẫn cảm thấy vương vấn về chuyện ấy, bởi vì nó vẫn chưa được nói ra một cách thỏa đáng".
"Thoạt đầu những người sang Úc, Pháp, hay Mỹ cách đây mấy chục năm chưa có một chỗ đứng vững vàng nên họ cần một cái định nghĩa: ‘Tôi là ai’. Lúc đó, để trả lời câu hỏi này thì đấy chính là cái quá khứ của chiến tranh, những mất mát, những tranh đấu mà họ đã từng trải qua. Và họ cho rằng đấy là điều quan trọng nhất trong con người của họ. Vì ra nước ngoài họ là một con người khác, phải sống cuộc sống và tiếp thu một nền văn hóa khác. Họ mất hẳn quá khứ đồng thời họ cũng bị bứng khỏi cái gốc rễ cội nguồn".
"Sau này, khi họ tạo dựng được cuộc sống, tiếp nhận được nhiều thông tin thì câu chuyện nó cũng có khác đi. Khi những người trực tiếp tham chiến già đi, đến gần cái tuổi gần đất xa trời thì họ suy nghĩ khác. Cái quan trọng đối với họ bây giờ là về lại nơi họ đã sinh ra, lớn lên. Một số muốn trở về để chết trên mảnh đất quê hương".
"Mâu thuẫn khó khăn nhất của Việt kiều là ở trong nước vẫn không công nhận cái thể chế miền Nam là một chính phủ. Chính quyền hiện nay có thể không còn gọi họ là “ngụy” nữa nhưng đồng thời cũng không gọi là ‘chính phủ miền Nam’. Thật ra, những người này vẫn có những thể chế, những niềm tin và lý tưởng, chứ họ không phải là những người chạy theo Mỹ, để bị gọi là ‘phản quốc’".
"Có nhiều người miền Bắc nói với tôi rằng người lính Việt Nam Cộng hòa (VNCH) là những người phản bội tổ quốc. Khi nghe như vậy tôi cũng không biết giải thích gì với họ. Do đó, cũng khó mà nói chuyện. Những người trẻ tuổi hơn thì nói họ mệt chiến tranh lắm rồi, họ muốn ô tô, vật chất và của cải, họ muốn tương lai. Đấy là sự khác biệt rất lớn: những người nước ngoài về thì muốn tìm quá khứ, nguồn gốc, còn người ở trong nước thì muốn hướng tới tương lai giàu có, vinh quang”.
Bay Vút: Hòa bình lập lại, có thể thấy số phận những người lính VNCH rất cơ cực và phải nói là bi đát. Nhưng cho tới tận thời điểm này, tình hình cũng vẫn vậy, nhất là về mặt tinh thần. Mỗi năm vào các dịp kỷ niệm chiến thắng này kia, có lẽ họ sẽ rất buồn khi xem tivi hay đọc những bài báo viết về dịp 30/4?
Nguyễn Quí Đức: “Tôi nhìn nhận chuyện này ở một phạm vi rộng hơn và ở dưới góc độ văn hóa. Nếu tôi là người chiến thắng và nếu tôi là người tự trọng, tôi tự biết tôi là ai thì tôi chẳng cần phải chê bai người khác, hạ bệ người khác để tôi được hay ho hơn. Cái tâm lý miệt thị một người khác chính là cái tâm lý muốn tự đề cao mình lên, trong khi bản chất của sự việc thì chẳng cần phải thế”.
Bay Vút: Có cảm giác phía bên này vẫn coi phía bên kia là những đứa con “hư” của dân tộc nhưng các cụ ta có câu “con hư thì vẫn là con của mẹ”. Có lẽ chúng ta cần có cái nhìn nhân ái và bao dung hơn nữa, ông có thấy vậy không?
Nguyễn Quí Đức: “Tất nhiên là có. Chúng ta cần có thời gian để sự việc tự nó lắng xuống và qua đi, để có sự độ lượng. Bất cứ chính quyền nào cũng vậy, để bảo vệ chỗ đứng của mình, thì phải tự đề cao mình lên và đặt ra cái chỗ đứng thấp kém cho một người khác. Nhưng nếu họ vững tâm hơn, và nếu họ có cái lý chính đáng thì họ sẽ không cần cái đấy nữa".
"Còn với người dân hằng ngày thì cái nỗi đau của ông bộ đội miền Bắc cũng giống nỗi đau của người mẹ miền Nam mất con. Chúng ta đã quên rằng đấy là nỗi đau chung. Về vấn đề này nói theo tinh thần nhà Phật hay Thiên Chúa Giáo thì bao giờ cũng cần cái sự độ lượng, mà độ lượng thì bây giờ đúng là cái xa xỉ. Tôi nghĩ phải mất thêm một thời gian nữa thì chuyện này mới có thể êm xuôi".
Bay Vút: Bài học từ Đông Đức và Tây Đức năm 1989 khi bức tường Berlin sụp đổ, người dân hai miền đã ôm chầm lấy nhau và họ coi nhau là người Đức chứ không còn Đông hay Tây. Tuy nhiên, một số chính trị gia Tây Đức lại không coi như vậy mà vẫn có những quan ngại và định kiến về phía bên kia. Do vậy, tiến trình hòa giải dân tộc đã bị chậm mất một, hai thế hệ. Việt Nam dường như cũng đã mắc phải sai lầm đó, và chúng ta đã chậm mấy thế hệ và liệu còn phải chậm mấy thế hệ nữa thưa ông?
Nguyễn Quí Đức: “Đấy là điều đáng tiếc. Theo tôi thấy thì Việt Nam đã chậm mất hai thế hệ và có lẽ tình trạng này sẽ còn kéo dài thêm. Có một số dấu hiệu đang thay đổi, và tôi nghĩ đến một lúc nào đó vấn đề hòa giải sẽ tự mất đi. Bây giờ thế hệ trẻ trong nước ít người quan tâm đến chiến tranh hay mâu thuẫn, còn thế hệ người Việt trẻ ở nước ngoài thì vì được sống trong một môi trường giáo dục, văn hóa khác nên họ cũng không quan tâm đến nó. Những người lính già rồi cũng sẽ chết đi. Khi già thì họ sẽ có cái nhìn trầm tĩnh hơn. Những bức xúc đau khổ về những người cần hòa giải sẽ được nhìn nhận bình tĩnh hơn".
"Tôi chỉ mong nhà nước tự tin hơn, can đảm hơn để chấp nhận mọi thứ. Bây giờ Việt kiều về đây giúp tài chính, kỹ thuật. Nhưng cùng lúc đó ông ấy lại mang về những niềm tin, ý tưởng về dân chủ của cái xã hội khác. Đất nước có đủ niềm tin cho người ta có tiếng nói hay không? Do đó rất dễ hiểu là những người Việt kiều hoạt động trong lĩnh vực văn hóa là những người không được nhà nước tin tưởng nhiều lắm".
"Như tôi đây, khi trở về nước tôi đâu có xin visa làm báo chí được. Do đó vấn đề ở đây là mình yêu đất nước nhưng đất nước có yêu mình không. Thế nhưng tôi không vì thế mà chống đối. Tôi về tạo dựng công ăn việc làm với quán café này, mang một cái thái độ ứng xử với mọi người khác nhau. Nhưng sau một thời gian sống ở đây thì tôi cảm thấy con người không còn cái tinh thần cộng đồng như trước nữa. Mọi người mệt nhọc quá. Họ chỉ muốn vật chất, giành giật nhau, chạy xe lỡ va quệt là đánh nhau".
"Tuy nhiên, tôi lại thấy có những mâu thuẫn khác phát sinh. Ví dụ những người trẻ bây giờ được đi ra ngoài du học, tiếp nhận những ý tưởng mới và khi trở lại họ có được áp dụng và chấp nhận hay không? Đó lại là một chuyện khác. Đấy không còn là khác biệt vì chiến tranh, mà đấy là vấn đề liên quan tới tư tưởng của thể chế".
"Lấy bài học từ chiến tranh, tôi cho rằng với những người như thế thì khi họ về nước họ có làm được gì hay không, có áp dụng được gì hay không. Hay là vì sống trong một môi trường đầy cạm bẫy như ở Việt Nam thì họ có trở nên ‘hư hỏng’ hay không. Tôi gặp những người ở độ tuổi 30 sau khi đi học ở nước ngoài về bị bất đắc chí, họ chán nản. Ở tuổi 30 họ chẳng còn cái lý tưởng nào để sống và làm việc. Một số ít thì lập nghiệp chính bằng sự quen biết, tiền bạc”.
Bay Vút: Quá khứ là một điều không dễ gì quên, đặc biệt với bối cảnh chiến tranh ở Việt Nam giữa hai miền Nam-Bắc. Nhưng khi hòa bình lập lại, điều quan trọng là cách những người còn sống hành xử với nhau thế nào với nhau, đối xử ra sao với những người đã khuất. Theo ông, thế nào là cách hành xử có văn minh và hòa hợp với nhau nhất?
Nguyễn Quí Đức: “Tôi nghĩ cách hành xử văn minh nhất chính là im lặng. Tôi đặt ngược câu hỏi lại là nếu người miền Nam thắng cuộc thì người miền Nam viết sử như thế nào về người miền Bắc? Có tắm máu, có độ lượng, có thù hằn ai không? Tôi nghĩ là sẽ có, tệ hại hơn hay không thì chưa biết".
"Ngày trước tôi đi làm phóng sự về một lính Mỹ giết một người lính Việt cộng ở Thái Bình. Về sau người này tìm lại được hài cốt và mang trả lại cho gia đình người đã khuất. Trên đường đi làm phóng sự, khi tôi ngồi trên xe thì có ông lính người Bắc nói thao thao bất tuyệt về người lính miền Nam và cho rằng lính miền Nam rất man rợ, độc ác. Tôi ngồi nghe và lặng im chẳng nói gì vì chẳng biết nói gì lúc này cả. Về sau có người về kể lại với cái ông lính người Bắc ấy câu chuyện về gia đình tôi. Sau khi nghe ra, ông ấy gửi lời nhắn mời tôi về nói chuyện với thái độ rất nhã nhặn và hài hòa".
"Mỗi năm không biết bao nhiêu chương trình trên các đài truyền hình nói về các trận chiến này, trận chiến kia. Các chương trình vẫn đều nói cùng một giọng điệu, vẫn một kiểu nói rằng con người miền Nam là con người xấu xa, tàn ác… Tại sao người trong nước là người thắng cuộc, thường dễ tha thứ cho người ta hơn, tại sao không làm được điều ấy?".
"Như bố tôi đi tù 12 năm, giờ tôi hận thù thì cũng chẳng đòi được 12 năm ấy. Cái gì qua rồi thì đã qua rồi. Đòi hỏi hòa giải nằm ở chính mình trước, đường hai chiều bắt đầu từ một chiều”.