Phạm Anh Tuấn
Thomas L. Friedman xuất bản cuốn The World is Flat vào năm 2005. Xin phép được lưu ý động từ “to be” được chia ở thời hiện tại là is trong tựa sách. Cách dịch của nhóm dịch giả gồm Tiến sĩ Nguyễn Quang A, Cao Việt Dũng và Nguyễn Tiên Phong theo tôi là hoàn toàn đúng và nhóm dịch giả đã rất tinh tế khi không bỏ sót động từ: Thế giới là phẳng. Sự danh từ hóa tựa sách thành “thế giới phẳng” có thể được châm chước trong ngôn ngữ hàng ngày của những người bình thường. Song, sẽ là điều nguy hiểm khi có những người đang ngồi trong những văn phòng sang trọng ở tận đẩu tận đâu hùa theo cách nói khẩu hiệu hóa này để lớn tiếng dè bỉu tác giả của cuốn sách đã đành, họ còn cao ngạo cảnh báo người Việt Nam trong nước đừng ảo tưởng về một thế giới ngày hôm nay đang là phẳng (đơn cử bài viết có đầu đề là “Đừng hoang tưởng về một thế giới phẳng” được đăng trên Tuần Việt Nam ngày 6 tháng 4 năm 2011).
Friedman về căn bản là một nhà báo. Ông cố gắng ghi lại những gì đang xảy ra, đang đổi thay trên toàn thế giới ngày hôm nay. Tựa đề phụ của cuốn sách cho ta thấy rõ thêm mục đích của ông: Tóm tắt lịch sử thế kỷ XXI (A Brief History of the Twenty-First Century). Suốt cuộc trong cuốn sách người đọc thấy những thông tin và nhận xét trung thực, cẩn trọng đi kèm là số liệu, dẫn chứng, minh họa. Ông không ảo tưởng, bằng chứng là ông vẫn đề cập sự bất bình đằng giàu nghèo đang tiếp diễn trên toàn thế giới.
Tôi thấy tinh thần của cuốn sách là sự nhìn nhận những đổi thay đang diễn ra ngày hôm nay trên thế giới như là phương tiện, như là công cụ chứ không phải là mục đích. Những công cụ đó theo Friedman gồm những gì? Friedman gọi là mười “lực làm phẳng thế giới”.
Cho phép tôi bỏ qua các lực làm phẳng khác (đỡ mất thì giờ của người đọc) mà đi thẳng vào lực làm phẳng số 1 và lực làm phẳng số 10. Lực làm phẳng số 1 – Khi Bức tường đổ xuống và Cửa sổ đi lên. “Bức tường” ở đây tức là “Bức tường Berlin” còn “Cửa sổ” ở đây là hệ điều hành Windows của Bill Gates. Hai sự kiện diễn ra độc lập với nhau (phiên bản đầu tiên của Windows được phát hành năm 1985). Ông Bill Gates chắc chắn không phải là người đạp đổ bức tường kia. Nhưng “Từ nay trở đi, ngày càng nhiều nền kinh tế sẽ được cai quản từ dưới lên bởi lợi ích, yêu cầu, và nguyện vọng của nhân dân, hơn là từ trên xuống bởi các lợi ích của bè lũ cai trị hẹp nào đó” (trang 49 bản dịch Thế giới là phẳng năm 2005 của nhóm dịch giả nói tới ở trên). Sáu tháng sau khi Bức tường Berlin sụp đổ, toàn châu Âu đã thực sự được liên kết với nhau qua dịch vụ Internet tư nhân đầu tiên lúc đó là Compuserve và American Online và dĩ nhiên là không thể thiếu Windows (lúc đó còn chưa có “chuột”) của Bill Gates để có thể chạy được máy tính cá nhân.
Lực làm phẳng thứ 10 được Friedman gọi bằng một thuật ngữ “y học” rất gợi cảm (rất tiếc nhóm dịch giả đã giữ nguyên chữ tiếng Anh mà không dịch): các kích thích tố (steroids). Các “kích thích tố” đó gồm công nghệ số, công nghệ di động, khả năng tùy chỉnh cá nhân và công nghệ ảo (digital, mobile, personal and virtual). Chúng là các kích thích tố chứ không phải “chất dinh dưỡng”. Dùng nó để tạo ra các công cụ khác. Tôi hiểu các lực làm phẳng của Friedman chính là những thành tựu của nền văn minh hiện nay trong đó có công nghệ truyền thông và Internet. Internet là một công cụ hiện đại do con người hiện đại làm ra. Từ chối Internet hoặc sỉ nhục Internet? Chuyện kiểu này thì Nhà thờ thời Trung cổ đã làm rất tốt với cụ Bruno, cụ Galilei rồi!
Dee Hock, người sáng lập Visa International [Tập đoàn thẻ tín dụng quốc tế] và tác giả của Birth of the Chaordic Age [Sự ra đời của Thời đại Hỗn-Ổn] viết: “Không thể phủ nhận sự thật rằng chúng ta đã tạo ra sự phát triển chưa từng có trong lịch sử về khả năng tiếp nhận, lưu giữ, sử dụng và biến đổi thông tin. Quay trở lui là điều không thể. Dù chúng ta có thừa nhận điều đó hay không, dù có muốn hay không, dù có chào đón hay từ chối, dù điều đó là có tính xây dựng hay không, chúng ta – tất cả chúng ta và Trái đất – đều cùng tham gia vào sự thay đổi bất ngờ nhất, sâu sắc nhất, đa dạng và phức tạp nhất trong lịch sử của nền văn minh. Có lẽ cả trong lịch sử của chính Trái đất nữa”.
Karl Marx nói rằng con người là con người đích thực chừng nào biết dùng công cụ để chế tạo công cụ. Friedman đã cố gắng chỉ ra cái công cụ tiêu biểu của thời đại ngày nay. Đối xử xứng đáng với công cụ đòi hỏi đạo đức và văn hóa. Như thế, ông đâu có “tật xấu” nào như tác giả của bài viết trên Tuần Việt Nam được dẫn ở trên. Đặt vấn đề sai, miệt thị Friedman rồi lại lớn tiếng răn đe người khác dù biết đâu có thể là nói hộ ai đó, chưa chắc đã phải là một đức tính tốt.
P.A.T.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN
Đừng hoang tưởng về một thế giới phẳng
Thế giới cũng sẽ KHÔNG phẳng sau sự lan tỏa toàn cầu của mạng lưới Internet. Thế giới sẽ vẫn là thế giới ta đã quen biết suốt 5,000 năm lịch sử: rất nhiều cách biệt giữa các tầng lớp xã hội: giàu và nghèo, học thức và vô học, đạo đức và bất lương, thôn quê và thành thị, quốc gia phát triển và quốc gia nghèo đói. Nhưng công nghệ thông tin lại có khả năng làm gia tăng sự cách biệt này:...
Các chính trị gia và các chuyên gia thường thích dùng các danh từ thời thượng để phô trương tri thức về thế giới và tạo ấn tượng trong cộng đồng. Gần đây, họ hay nói đến các ngôn từ như kinh tế sáng tạo, mạng xã hội, hội nhập toàn cầu, công nghệ xanh, kỹ thuật số, chỉ số hạnh phúc... Nhưng một chữ bị lạm dụng nhiều nhất có lẽ là "thế giới phẳng".
Danh từ này được Thomas Friedman dùng làm đề tài cho một tựa sách vào 2005 để diễn tả một hiện tượng mới về xã hội và kinh tế do cuộc cách mạng Internet và công nghệ thông tin (IT) mang lại. Giả thuyết của ông là sự lan tỏa cùng khắp những thông tin và kiến thức nhanh chóng qua Internet đã san bằng mọi cách biệt về lợi thế kinh tế giữa các quốc gia, giữa các thể chế chính trị, và giữa các tầng lớp nhân dân. Kết quả là một thế giới phẵng lì, không còn rào cản vả bất cứ ai cũng có thể nắm bắt những cơ hội mới do công nghệ mới tạo dựng.
Tôi đã theo dõi nhiều bài viết của Friedman trên New York Times, tờ báo của giới mệnh danh là "tiến bộ" (liberal) của các trí thức khoa bảng Mỹ. Ông này có tật xấu là đơn giản hóa mọi vấn đề, rồi dựa trên một vài sự kiện đặc thù mà đặt ra các giả thuyết khá phi lý, phù hợp với quan điểm cá nhân của mình. Ông luôn quên đi sự phức tạp của mọi vấn đề bàn luận, dù là xã hội, kinh tế hay chính trị, dù là địa phương hay toàn cầu. Thế giới phẳng và một xã hội đại đồng bình đẳng là một hoang tưởng rất thời thượng của ông.
Ảnh minh họa: saga |
Máy tính, Internet, điện thoại di động và các dụng cụ công nghệ thông tin quả đã tạo nên một cách mạng vĩ đại về kiến thức và thông tin với tốc độ, tầm cỡ và chức năng. Nhưng thế giới sẽ vẫn là thế giới ta đã quen biết suốt 5,000 năm lịch sử: rất nhiều cách biệt giữa các tầng lớp xã hội: giàu và nghèo, học thức và vô học, đạo đức và bất lương, thôn quê và thành thị, quốc gia phát triển và quốc gia nghèo đói. Thực sự, công nghệ thông tin lại có khả năng làm gia tăng sự cách biệt này: người biết sử dụng IT sẽ khôn khéo dùng lợi thế cạnh tranh này của mình để kiếm tiền, kiếm quyền và đặc lợi nhiều hơn so với đám đông còn bỡ ngỡ.
Sự yêu thích hình tượng và viễn ảnh của một thế giới phẳng có lẽ bắt nguồn từ sự ao ước của rất nhiều nhà trí thức trẻ (trong đó có người viết bài này) với một con tim tha thiết về một xã hội công bằng, không có khác biệt giữa giàu nghèo, giai cấp hay phân khúc. Một thế giới đại đồng của những người bình đẳng về mọi khả năng và quyền lợi. Cuộc thí nghiệm vĩ đại nhất lịch sử đã diễn ra ở Liên xô và Trung Quốc hơn 70 năm. Ngày nay, tại hai xã hội này, sự cách biệt về giàu nghèo (theo chỉ số Gini) thuộc loại cao nhất trong 10 hạng đầu của thế giới (Top Ten).
Rất nhiều văn nghệ sĩ, trí thức và các bậc khoa bảng luôn luôn ta thán về hiện tượng bất công của xã hội, thường kết luận trong vội vã "đời không công bằng chút nào" khi so sánh sự thua kém của mình với những nhân vật mà họ nghĩ là không xứng đáng. Chính tôi cũng hay rơi vào trường hợp tự ti này khi không để lý trí suy xét.
Vào thời điểm 1968 sau khi tốt nghiệp Đại học ở Mỹ, tôi và một người bạn người Mã Lai tên là Michael cùng quay trở về nước. Trong khi tôi chật vật với lương giảng viên ở Đại Học Bách Khoa Phú Thọ, Michael được ông bố, vốn là một đại gia tăm tiếng ở Mã Lai, mua cho một ngân hàng rồi bổ nhiệm hắn làm Chủ Tịch TGĐ một ngân hàng đứng hàng thứ 8 ở Mã Lai vào thời đó. Ngay cả suốt cuộc đời 2 đứa trong 42 năm qua, trong khi tôi phải lên voi xuống ngựa, đi từ đỉnh cao của thịnh vượng đến vực thẳm của nghèo khó, Michael vẫn ung dung tự tại sống đời thượng lưu, thành công từ việc làm ngân hàng đến tạo dựng một đế quốc về địa ốc. Sau này, mỗi lần qua chơi, tôi vẫn rất ghen tỵ, chép miệng, "đời thật bất công".
Một người bạn khác ở VN cùng tôi mài ghế suốt 4 năm trung học. Anh ta tên Duy và là thần tượng của tôi hồi đó. Học giỏi, đẹp trai, con nhà giàu, nhưng trên hết, có một hạnh kiểm hoàn toàn, luôn luôn được bầu là trưởng lớp bởi các học trò và thầy cô. Ai cũng ngưỡng mộ. Anh thường ái ngại nhìn tôi bỏ lớp trốn học, đi tán gái, chọc phá làng xóm, và nói nếu không thay đổi tính nết, tương lai của tôi sẽ chìm sâu trong đống bùn. Tôi luôn luôn đồng ý, nhưng đã không bỏ được những thói quen xấu. Xong Tú Tài, anh thi đậu vào Đại Học Sư Phạm dễ dàng và trở thành một bậc thầy khả kính sau những năm học hành. Còn tôi, may mắn được học bổng Mỹ, bay đi tận nữa vòng trái đất, loay hoay làm lại đời mình. Một lần về thăm nhà năm 1992, Viện Đại học Cần Thơ mời tôi giảng dạy một buổi về Kinh Tế Mở Cửa của TQ cho các học sinh cũng như nhiều vị giáo chức tu nghiệp. Tôi ngỡ ngàng gặp lại Duy, thay đổi thứ bậc trong liên hệ thầy-trò. Anh ngượng ngùng, bỏ ngang lớp học sau tiết đầu và không trả lời điện thoại khi tôi kêu. Bạn bè cho biết hôn nhân của anh trắc trở, anh buồn đời làm một con sâu rượu giải sầu, và bị cấp trên "đầy đọa" vì nhiều lần say rượu trong lớp học. Tôi chắc Duy cũng đang nghĩ thầm, "đời thật bất công".
Cách nay ba tháng, một đại gia trẻ tuyên bố trong một buổi hội thảo là tương lai IT của VN sáng ngời, vì chỉ sau 10 năm, dân số VN có điện thoại di động bây giờ đã lên đến hơn 53 triệu người. Anh ta đồng hóa việc sỡ hữu một cái phone với trình độ kiến thức và hiệu năng của nền kinh tế sáng tạo, biểu hiện qua một công cụ IT phổ thông. Tôi có 2 người giúp việc nhà. Họ đều sở hữu điện thoại riêng cho cá nhân và nhờ những chương trình khuyến mãi, nói chuyện qua phone đến 4, 5 giờ mỗi ngày. Họ trao đổi liên tục với bạn bè, láng giềng, gia đình dưới quê về mọi chuyện lặt vặt, còn hơn Twitter của các siêu sao ở Hollywood. Thậm chí họ còn dùng điện thoại để chửi nhau, để khuyến nghị về số đề, về mua hụi, về chương trình kịch trên TV. Thậm chí, một bà đã gần 50 tuổi, có chồng và 4 đứa con ở quê, vẫn trả lời tất cả những cú phone từ người lạ, đóng vai trò một cô gái mới 20, đóng góp và giải tỏa các lời yêu thương ảo (như một loại phone sex rẻ tiền) cho rất nhiều bạn trai Việt.
Những bất công hay hố cách biệt vừa kể cũng có thể là do sự lựa chọn và sở thích của cá nhân. Năm trăm năm trước, ngài Nguyễn Bỉnh Khiêm đã ca tụng chữ "nhàn" và lối sống điền viên, "Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ. Người khôn người đến chốn lao xao". Nếu ta bắt ông phải sống trong một Net café, cạnh Ngã Sáu Chợ Lớn, nhìn khói bụi, dòng xe và biển người qua lại, chắc ông phải khóc tủi thân mỗi ngày. Còn nếu ai buộc tôi phải xa rời các trung tâm tài chính thế giới như New York, Luân Đôn hay Hồng Kông... để về sống ở xứ Cà Mau với những cánh đồng bất tận của chị Nguyễn Ngọc Tư chắc tôi cũng hóa điên. Dù tôi biết chỗ đậu xe ở Cà Mau không thể tốn 40 dollars mỗi ngày như New York.
Trong chuỗi hội thảo về đầu tư cho các doanh nhân và sinh viên Việt Nam vào tháng 3 vừa qua, tôi nói nhiều về Zuckerberg của Facebook. Anh chàng sinh viên 24 tuổi này đã bắt đầu với một ý tưởng và 1 ngàn dollars của bạn cùng phòng; và chỉ trong 4 năm tạo nên một tài sản mà Goldman Sachs đánh giá là 60 tỷ dollars; tương đương với 60% GDP của Việt Nam. Trong số 80 triệu dân hiện tại, có người Việt nào sẽ đứng lên đáp lời sông núi để chứng minh là thế giới đã phẳng như Friedman nói; hay chúng ta sẽ lại có thêm vài khẩu hiệu rẻ tiền về sáng tạo?