Thứ Sáu, 20 tháng 5, 2011

Đối ngoại quốc phòng phải lấy lợi ích quốc gia, dân tộc làm tiêu chí cơ bản

-Đối ngoại quốc phòng phải lấy lợi ích quốc gia, dân tộc làm tiêu chí cơ bản
Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh.
Lần đầu tiên trong các kỳ Đại hội của Đảng, Đại hội XI đã đề cập trực tiếp đến công tác đối ngoại quốc phòng (ĐNQP), đó là: "Tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế (HTQT) trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh"[1]. Trên cơ sở định hướng quan trọng đó của Đảng, cần nhận thức sâu sắc về mục tiêu của hội nhập quốc tế (HNQT) trên lĩnh vực quốc phòng, nhằm phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (BVTQ), góp phần thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng-an ninh (QP-AN) của đất nước. Mục tiêu này chính là lợi ích quốc gia, dân tộc và phải được xem là thước đo hiệu quả của mọi hoạt động đối ngoại nói chung và ĐNQP nói riêng.
Để bảo vệ lợi ích quốc gia, công tác ĐNQP trước hết cần nắm vững và vận dụng quan điểm của Đảng về đối tượng, đối tác được nêu rõ trong Nghị quyết TW8 (khóa IX) về Chiến lược BVTQ trong tình hình mới. Từ quan điểm nêu trên, việc xác định đối tượng, đối tác để hợp tác và đấu tranh trong công tác ĐNQP phải lấy lợi ích quốc gia, dân tộc làm tiêu chí cơ bản.
*
*      *
Quan hệ quốc tế về quốc phòng nhằm mục đích đem lại và bảo vệ các lợi ích quốc gia về chính trị, ngoại giao, quốc phòng-an ninh, khoa học-công nghệ, kinh tế... phục vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó chính là lợi ích cơ bản của đất nước, và cũng là mục tiêu cơ bản của công tác ĐNQP, trên nguyên tắc giữ vững độc lập, tự chủ, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, hợp tác phát triển, cùng có lợi.
Cần quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về mối quan hệ giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế, giữa bảo vệ lợi ích quốc gia với đóng góp cho hòa bình, ổn định của khu vực và trên thế giới. Trong quá trình hợp tác khu vực và quốc tế, do sự đan xen và mâu thuẫn về lợi ích, tất yếu sẽ dẫn đến những điểm đồng và bất đồng giữa các nước đối với các vấn đề an ninh-quốc phòng. Chúng ta cần chủ động, tích cực phát huy các điểm đồng, có giải pháp phù hợp khắc phục bất đồng nhằm thúc đẩy hợp tác để vừa bảo vệ được các lợi ích cơ bản của đất nước, vừa bảo đảm lợi ích chính đáng của các đối tác và lợi ích chung của khu vực và cộng đồng quốc tế. Tất cả các điểm đồng đều phải hướng về một điểm cơ bản là đồng về lợi ích-ở đây là lợi ích chính đáng của đất nước ta, của các nước bạn bè, đối tác, lợi ích chung của khu vực và thế giới chứ không phải là lợi ích cục bộ theo kiểu “được mình, hại người”; ngược lại, càng không thể vì lợi ích “chung chung” mà quên đi hay coi nhẹ mục đích lợi ích cơ bản, tiên quyết, đó là lợi ích của dân tộc mình.
Giữ vững độc lập tự chủ là nguyên tắc cơ bản, bất di bất dịch và cần được quán triệt trong mọi kế hoạch, biện pháp công tác ĐNQP, là cơ sở để nâng cao vị thế, uy tín của đất nước trong quan hệ quốc tế, là điều kiện để hội nhập thành công. Hội nhập quốc tế ngày càng sâu thì ảnh hưởng của các vấn đề quốc tế đến an ninh của mỗi nước ngày càng lớn, tạo ra thách thức đối với độc lập tự chủ của tất cả các nước, nhất là khi các nước lớn can dự ngày càng mạnh mẽ vào khu vực. Chúng ta giữ vững độc lập tự chủ, bảo vệ lợi ích của đất nước đồng thời tôn trọng độc lập tự chủ và lợi ích của các nước khác. Thực tế cho thấy, trong thời gian qua, nhờ giữ vững độc lập tự chủ, tôn trọng lợi ích của đất nước ta và của các nước đối tác mà chúng ta đã tăng cường quan hệ hữu nghị với tất cả các nước, nâng cao hiệu quả hợp tác, đồng thời từng bước bàn bạc, đấu tranh giải quyết các bất đồng.
Hội nhập quốc tế trên lĩnh vực quốc phòng, nhằm tăng cường sức mạnh quốc phòng của đất nước cả về tiềm lực và thế trận, để giữ vững độc lập, tự chủ của đất nước. Ngược lại, giữ vững độc lập, tự chủ là điều kiện thuận lợi cơ bản để tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng. Nếu không có độc lập, tự chủ thì không thể hợp tác quốc tế thành công, và dù có “thân thiện” đến mấy cũng không đem lại lợi ích đích thực cho đất nước, mà sẽ càng ngày càng sa vào lệ thuộc. Khi chúng ta giữ độc lập tự chủ, giành lợi ích cho đất nước thì cũng phải tôn trọng độc lập tự chủ và lợi ích của các nước khác. Nếu một nước đối tác không có độc lập tự chủ thì khó có thể hợp tác bền vững và đem lại lợi ích cho tất cả các bên. Đồng thời phải giữ cho được quan hệ bình đẳng, không phân biệt giữa nước lớn và nước nhỏ. Muốn vậy, công tác ĐNQP cần tiếp tục thực hiện đa dạng hóa, đa phương hóa các mối quan hệ để chúng ta không bị lệ thuộc vào bất cứ mối quan hệ nào. Đồng thời, cần tích cực, chủ động, sáng tạo trong hợp tác quốc phòng, thúc đẩy các mối quan hệ quốc phòng phát triển cả bề rộng và chiều sâu.
*
*      *
Thấm nhuần tư duy của Đảng về hội nhập quốc tế, công tác ĐNQP trong thời gian tới cần tập trung thực hiện tốt các nhiệm vụ chính sau đây: 
Một là, hợp tác quốc phòng (HTQP) trong những năm tới cần được tiến hành đồng bộ với HNQT trên các lĩnh vực khác để tạo thành một thể thống nhất trong chiến lược chung của quốc gia, giữ vững mối quan hệ hữu cơ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. ĐNQP không chỉ nhằm tăng cường khả năng quốc phòng của đất nước mà còn phải tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp CNH, HĐH, phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Trước hết và trên hết, công tác ĐNQP phải đấu tranh giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc phát triển đất nước, đóng góp tích cực cho hòa bình, ổn định và phát triển trong khu vực và trên thế giới.
Hai là, tích cực tham gia bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và lợi ích quốc gia. ĐNQP phải trở thành một trong những lực lượng nòng cốt cùng toàn dân thực hiện thắng lợi chiến lược BVTQ. Đẩy mạnh HTQP với các đối tác để có thể giải quyết hiệu quả các vấn đề an ninh có liên quan, đẩy mạnh hợp tác với các nước láng giềng để bảo vệ an ninh biên giới, giữ vững chủ quyền của Tổ quốc. Phối hợp chặt chẽ với ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân, kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh ngoại giao với đấu tranh trên thực địa để làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và lợi ích quốc gia của Việt Nam. Hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế, trong bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và các lợi ích quốc gia là hai mặt của một vấn đề, không thể xem nhẹ mặt nào. Chúng ta đấu tranh không khoan nhượng trên những vấn đề có tính nguyên tắc nhưng lại mềm dẻo, linh hoạt trong các vấn đề cụ thể để có thể hợp tác giải quyết các bất đồng, thông qua hợp tác để tác động, đấu tranh nhằm hạn chế các hoạt động xâm phạm chủ quyền của Tổ quốc.
Nhìn chung lại, công tác ĐNQP nhằm mục đích tạo lợi thế trên phạm vi quốc tế và khu vực phục vụ cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trọng tâm là đấu tranh bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, độc lập tự chủ của đất nước, không để bị lôi kéo phục vụ lợi ích cho các thế lực nước khác. Đồng thời cần phải công khai minh bạch về chính sách ĐNQP để xây dựng lòng tin trong bạn bè quốc tế và phát huy tối đa sức mạnh chính nghĩa của ta.
Ba là, công tác ĐNQP góp phần quan trọng trong đấu tranh chống diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ, bảo vệ Đảng, chế độ XHCN và ổn định chính trị của đất nước. Thông qua mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả hợp tác, ĐNQP tăng cường sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau giữa quân đội và nhân dân ta với quân đội và nhân dân các nước, làm cho các nước hiểu rõ hơn đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, bản chất tốt đẹp của chế độ XHCN. Như vậy, ĐNQP có thể làm thất bại ngay từ bên ngoài các luận điệu tuyên truyền chống chế độ XHCN của các thế lực thù địch. Mặt khác, ĐNQP phải đấu tranh có hiệu quả đối với âm mưu nhằm phi chính trị hóa quân đội, tách quân đội khỏi sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, phòng và chống các hoạt động tuyên truyền phản cách mạng, các tác động tiêu cực của HNQT đến tư tưởng của quân đội.
Bốn là, ĐNQP tích cực góp phần xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Thông qua các hoạt động HTQT, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội có bản lĩnh chính trị vững vàng, tiếp thu các kiến thức quân sự hiện đại của thế giới. Mặt khác, thông qua các cơ chế hợp tác công nghiệp-khoa học kỹ thuật-thương mại quốc phòng, tranh thủ các nguồn lực về vốn, khoa học-công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến…, để trang bị cho quân đội các loại vũ khí, khí tài ngày càng hiện đại, phù hợp với điều kiện và nghệ thuật quân sự Việt Nam, làm cho đất nước ngày càng tự chủ về khoa học, kỹ thuật quân sự, đáp ứng yêu cầu xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh toàn diện trong thời đại cách mạng khoa học kỹ thuật.
*
*     *

Trong thời gian tới, cần tập trung phát triển các mối quan hệ quốc phòng theo chiều sâu, nâng cao hiệu quả công tác ĐNQP. Kết hợp chặt chẽ giữa hợp tác song phương và đa phương trong một chiến lược, kế hoạch thống nhất, phát huy lợi thế của mỗi loại hình, tạo các cơ chế thích hợp để nâng cao thế và lực của ĐNQP Việt Nam nói riêng, của nền quốc phòng toàn dân nói chung.
Quan hệ quốc phòng song phương với các nước láng giềng cần được ưu tiên và không ngừng phát triển ngày càng sâu sắc, phát huy các điểm đồng về lợi ích kinh tế, mô hình phát triển, nhu cầu hợp tác xây dựng biên giới hoà bình, hữu nghị, bảo vệ an ninh chung và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định…
Quan hệ quốc phòng với Lào và Cam-pu-chia dựa trên cơ sở tình hữu nghị truyền thống, tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau, nâng cao hiệu quả, đi vào thực chất đáp ứng nhu cầu bảo vệ an ninh của mỗi nước. Trong điều kiện các nước bạn còn có những khó khăn, nền kinh tế-quốc phòng còn chưa phát triển… nhưng trên cơ sở tôn trọng độc lập tự chủ và lợi ích của bạn, chúng ta cần xây dựng mối quan hệ hợp tác vừa đem lại lợi ích cho đất nước mình, vừa tạo điều kiện giúp bạn mạnh lên, đồng thời tăng cường mối quan hệ truyền thống đoàn kết, gắn bó thêm sâu sắc, bền vững và lâu dài.
Cần coi trọng và tập trung đầu tư cho quan hệ HTQP với Trung Quốc-quốc gia láng giềng có truyền thống quan hệ hữu nghị tốt đẹp, hiện đang là đối tác hợp tác chiến lược toàn diện với Việt Nam, đồng thời cũng đang tồn tại những vấn đề khác biệt-nhất là những vấn đề trên Biển Đông cần được giải quyết trong tình đồng chí, anh em, láng giềng gần gũi, bằng biện pháp hòa bình, tuân thủ luật pháp quốc tế, công khai minh bạch, trên cơ sở tôn trọng và tin cậy lẫn nhau. Ở đây, quan hệ Quốc phòng có một ý nghĩa và tác dụng rất đặc biệt để tăng cường hợp tác phát triển về mặt chiến lược, vừa để đấu tranh giải quyết những khác biệt, hướng tới một quan hệ thật sự tốt đẹp, bình đẳng, ổn định, bền vững, lâu dài. Muốn có được mối quan hệ tốt đẹp như vậy, hòa hiếu chưa đủ, mà quan trọng hơn cả là ta phải giữ cho được độc lập tự chủ và tìm kiếm lợi ích chung trên con đường phát triển của hai nước. Thực tế cho thấy trong thời gian qua, khi chúng ta giữ vững độc lập tự chủ, tôn trọng lợi ích của bạn thì chúng ta đã tăng cường quan hệ hữu nghị với Trung Quốc, từng bước nâng cao hiệu quả hợp tác, đồng thời bàn bạc giải quyết những bất đồng còn tồn tại.
Quan hệ quốc phòng giữa Việt Nam với các thành viên của ASEAN cần chú trọng hiệu quả trong quá trình xây dựng Cộng đồng chính trị-an ninh ASEAN, cần đặt trọng tâm vào những nội dung gắn với an ninh của Việt Nam như vấn đề an ninh biển, vấn đề sông Mê Kông... Cần chú ý thích đáng để mở rộng hợp tác với các đối tác lớn như Nga, Ấn Độ, Mỹ... và dần dần đi vào thực chất ở các khía cạnh, nội dung và mức độ khác nhau, đáp ứng nhu cầu quốc phòng của đất nước. Chúng ta cũng coi trọng và tiếp tục phát triển quan hệ quốc phòng với các nước bạn bè truyền thống như Cu-ba, các nước Đông Âu, Liên Xô trước đây…
Quan hệ quốc phòng đa phương cần phát huy các thành tích đã đạt được trong năm Việt Nam đảm nhiệm Chủ tịch ASEAN, tiếp tục khẳng định vai trò của cơ chế Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN (ADMM) và Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+), cũng như tiếp tục nghiên cứu để tham gia ngày càng sâu hơn vào các hoạt động HTQP đa phương khác trong khuôn khổ Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) và các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc.
*
*     *
Để hoàn thành tốt các nhiệm vụ nêu trên, cần chú trọng nâng cao hiệu quả hoạt động ĐNQP, tiếp tục đưa các mối quan hệ quốc tế về quốc phòng đi vào chiều sâu. Muốn vậy, trước hết phải nâng cao toàn diện chất lượng công tác nắm tình hình, tham mưu chiến lược đối ngoại trong chiến lược BVTQ, trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Cần nâng cao chất lượng công tác tham mưu cho Quân ủy Trung ương, lãnh đạo Bộ Quốc phòng, lãnh đạo Đảng, Nhà nước về chiến lược ĐNQP và các chủ trương, chính sách cũng như các biện pháp cụ thể trong quá trình HNQT. Chủ động đề xuất các chủ trương, chính sách đối ngoại với Đảng, Nhà nước và Quân đội, kiến nghị các giải pháp, đối sách thích hợp, xử lý các tình huống phức tạp. Nâng cao khả năng nắm bắt thông tin và nghiên cứu chiến lược, nhất là dự báo chính xác về tình hình thế giới và khu vực có liên quan đến quốc phòng Việt Nam, tăng cường công tác phối hợp giữa các ngành, các cấp, giữa nắm và nâng cao khả năng phân tích, xử lý thông tin.
Nâng cao khả năng thực hiện hoạt động ĐNQP của lực lượng chuyên trách cũng như của các cá nhân, đơn vị có liên quan đến hoạt động đối ngoại của quân đội là vấn đề then chốt trong việc nâng cao hiệu quả công tác ĐNQP thời gian tới. Đội ngũ cán bộ ĐNQP chuyên trách phải nắm vững đường lối, chính sách quốc phòng, đối ngoại và được đào tạo để trở thành các chuyên gia có trình độ cao. Mặt khác, cần bồi dưỡng kiến thức và năng lực thực hiện công tác ĐNQP cần thiết cho đội ngũ sĩ quan, trong đó chú trọng cán bộ chủ trì, cán bộ tham gia hoạt động ĐNQP tại các đơn vị trọng điểm. Cần tiếp tục đầu tư thích đáng, có hiệu quả cơ sở vật chất, hoàn thiện các cơ chế thực hiện, hiệp đồng thực hiện nhiệm vụ ĐNQP.
Để nâng cao hiệu quả hoạt động ĐNQP, các cấp, các ngành, nhất là lãnh đạo, chỉ huy các cơ quan, đơn vị trong quân đội cần nhận thức đúng về vai trò công tác ĐNQP trong thời kỳ đẩy mạnh HNQT. Đây là một nhiệm vụ quan trọng của QP-AN; sự kết hợp giữa công tác đối ngoại với công tác quốc phòng, quân sự, là thành tố không thể thiếu trong sức mạnh quốc phòng của đất nước. Mọi hoạt động của công tác ĐNQP đều phải được tính toán cẩn trọng, thực hiện nghiêm túc, triệt để với độ chính xác cao. Chúng ta cần đấu tranh với nhận thức cho rằng, công tác đối ngoại chỉ mang tính chất lễ tân, tiếp khách nên khi tiến hành chỉ qua loa, đại khái, chỉ chú trọng hình thức, không chú trọng nội dung, thiếu tính mục đích, thiếu hiệu quả đối với QP-AN của đất nước cũng như thực hiện nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị mình.
Trong thời kỳ phát triển mới của đất nước, công tác ĐNQP cần tiếp tục quán triệt sâu sắc đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước, bám sát sự chỉ đạo của Quân uỷ Trung ương, Bộ Quốc phòng, chủ động, tích cực phát triển đồng bộ, toàn diện, có chiều sâu, lấy hiệu quả làm thước đo thực hiện nhiệm vụ của quân đội, nhiệm vụ quốc phòng của đất nước, phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Trung tướng NGUYỄN CHÍ VỊNH, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng
[1] - ĐCSVN- Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG, H.2011, tr.233.

Tổng số lượt xem trang