Nguyễn Xuân Nghĩa - Việt Báo 110520
Những mộng ước bất khả trong một thảm kịch lớn
Hai người nhìn hai hướng -
Thủ tướng Israel Binyamin Netanyahu và Tổng thống Mỹ
Barack Obama trong buổi tiếp xúc với báo chí ngày 20 Tháng Năm.
Sau bài diễn văn hôm 19 về đối sách của Hoa Kỳ trong khu vực Á Rập Hồi giáo, và vụ đụng độ nháng lửa hôm sau với Thủ tướng Israel là Binyamin Netanyahu, Tổng thống Barack Obama chuẩn bị qua Âu Châu trong năm ngày công du, từ 23 đến 27, để giải quyết nhiều vấn đề của Âu Châu và mối quan hệ với Liên bang Nga. Chuyện Âu Châu, tuần sau ta sẽ tính.
Kỳ này, xin tìm hiểu về dự kiến của Tổng thống Mỹ tại khu vực Á Rập, nhất là một hồ sơ nan giải trong khu vực có tên là "Levant", miền Đông của Địa Trung hải.
Với Âu Châu và Pháp - tác giả của chữ này tư thời Trung Cổ - đó là nơi mặt trời mọc, là bậc thềm tiến về Châu Á. Quan trọng nhất, đó là đất sống của dân Do Thái từ thời Thượng cổ và ngày nay là vùng tranh chấp của xứ Israel với dân Palestine.
Trong bài diễn văn dài 45 phút hướng về dư luận bên ngoài, Tổng thống Obama trình bày niềm tin của mình về một trào lưu dân chủ tất yếu trong thế giới Á Rập, mà Hoa Kỳ có nhiệm vụ yểm trợ. Bỏ bên ngoài những lý do chính trị nội bộ, quan điểm của ông thật ra không khác với chủ trương của vị tiền nhiệm George W. Bush và lý luận của cánh "tân bảo thủ": Hoa Kỳ phải phát huy dân chủ để có hòa bình khi người dân xứ khác được tự do. Và ông tin rằng những biến động từ gần sáu tháng nay trong khu vực Bắc Phi và Trung Đông là biểu hiện của trào lưu dân chủ.
Người ta có quyền đồng ý hay không về cách nhận định và diễn giải - narrative - của ông về biến cố này. Nhưng khi giàng hồ sơ Palestine vào kịch bản dân chủ hóa, có khi Tổng thống Mỹ lại gặp hậu quả bất lường và rủi ro lớn. Được Hạ viện trong tay đảng Cộng Hoà mời qua và sẽ phát biểu trước Quốc hội về vấn đề này, Thủ tướng Netanyahu biết là ông Obama lật đật nói trước. Và cho rằng ông ta nói hớ nên lập tức phản công ngay tại Tel Aviv trước khi lên đường qua Mỹ phó hội.
Vì hồ sơ này quá phức tạp, chúng ta cần nhìn ra bối cảnh và các yếu tố loạn hay trị tiềm ẩn bên trong.
***
Thứ nhất, xin nói về định nghĩa.
Chúng ta có dân tộc Do Thái - người Jews - hậu thân của người Do Thái cổ - Hebrew - và ngày nay có quốc gia Israel của dân Do Thái. Từ thời Thượng cổ và trong Thánh Kinh, dân Do Thái đã sinh sống, bành trướng, chiến đấu và bị khuất phục và đầy đọa nhiều lần trong khu vực này. Sau mấy ngàn năm như vậy, cho tới thế kỷ XX, dân Do Thái phát triển một bản năng sinh tồn rất mạnh khiến nhiều người khâm phục mà cũng làm nhiều người nghi ngại, thù ghét.
Còn lại, dân Á Rập trên đất Palestine - gọi là dân Palestinian - thì xin giải thích sau vì liên quan tới địa dư và lịch sử là chuyện kế tiếp.
Về địa dư, khu vực Levant, ngày nay cũng được gọi là "Trung Đông", nằm từ ven biển hướng Đông của Địa Trung hải vào tới lưu vực sông Jordan và đồi núi vây quanh. Phía Bắc có xứ Lebanon và Syria, phía Đông có sa mạc Syria của Bán đảo Á Rập, phía Tây Nam là sa mạc của Bán đảo Sinai thuộc xứ Ai Cập. Đây là khu vực bao trùm hay tiếp cận với các quốc gia là Lebanon, Syria, Jordan, Israel và Ai Cập, Egypt.
Thứ ba, xin nói về lịch sử, với hai dấu mốc là hai trận Thế chiến của thế kỷ XX.
Trong bốn thế kỷ, từ 1517 đến 1919, khu vực Levant là một tỉnh của Đế quốc Hồi giáo Ottoman, gọi là tỉnh Syria. Khi Đế quốc Ottoman liên kết với Đức trong Thế chiến I và năm 1919 tan rã cùng sự bại trận của Đức, khu vực Levant rơi vào vòng kiểm soát - chia chác - của hai cường quốc "chiến thắng" tại Âu Châu là Anh và Pháp. Chuyện ấy gieo mầm cho những tai họa ở đây, khi họ chia cho các thị tộc thiểu số quyền cai trị trên từng vùng đất được gọi là "quốc gia" theo quan điểm của Âu Châu, trên những lãnh thổ chưa có quốc dân.
Bây giờ gom lại cả tấm bản đồ và cuốn lịch, ta có thảm kịch Palestine.
Từ năm 1916, mật ước Anh-Pháp gọi là Sykes-Picoty - có sự đồng ý của Đế quốc Nga - đã chuẩn bị thực đơn sáu món về lãnh thổ của Đế quốc Ottoman: sau khi đánh gục Ottoman thì sẽ chia xứ này thành nhiều mảnh! Sau Thế chiến I, riêng tại khu vực Levant, Anh và Pháp cắt nhỏ tỉnh Syria rồi gom lại thành nhiều nước được ban cho các thị tộc đã yểm trợ họ trong Thế chiến.
Thuộc quyền giám hộ của Pháp, phía Bắc tỉnh Syria được cắt riêng thành nước Syria. Nhưng Pháp xắn một phần của Syria thưởng cho hệ phái Thiên chúa giáo Maronite lập ra nước Liban hay Lebanon, là tên một rặng núi. Quốc gia Lebanon thành hình mà thật ra chưa có quốc dân thống nhất, còn Syria thì coi Lebanon là phần đất của mình bị cắt mất và là nơi mình có quyền can thiệp để khai thác.
Quản lý phía Nam tỉnh Syria cũ, Anh trao quyền lãnh đạo cho dòng Hashemite trên cả khu vực Levant và Bán đảo Á Rập. Khi dòng Saudi chiếm phân nửa và lập ra xứ Saudi Arabia từ giữa năm 1920, Anh tưởng thưởng dòng Hashemite phần còn lại của bán đảo Á Rập để lập ra Vương quốc Trans-Jordan, là nước Jordan này nay, và vùng đất gọi là Vương quốc Iraq, sau này bị phe quân đội cấp tiến theo chủ nghĩa Nasser lật đổ vương quyền để lập ra xứ Iraq.
Trong cả khu vực, deo đất hẹp nằm tại miền Nam núi Hermon và Tây ngạn sông Jordan là một huyện của tỉnh Syria, xưa kia là đất "Filistia" do tên của dân Philistine mà người ta có thể đọc thấy trong Thánh Kinh. Hai nước Anh và Pháp lấy lại tên cũ mà gọi đó là đất Palestine.
Chưa hết nhức đầu.
Khu vực Levant là của dân Á Rập, thuộc thị tộc này hay hệ phái kia, nhưng đều theo Hồi giáo, không thuộc sắc tộc Ba Tư như Iran hay Thổ như Turkey. Tuy vậy, mẫu số chung là "Á Rập Hồi giáo" chưa kết tinh thành một cộng đồng quốc gia như ta hiểu ngày nay mà vẫn có những dị biệt và tranh chấp về thị tộc, về hệ phái tôn giáo lẫn thể chế chính trị, là thế quyền hay thần quyền, quân chủ hay "dân chủ", v.v....
Khi các thị tộc lớn của dân Á Rập đều được trao đất thành lập ra các quốc gia, dân Á Rập trên đất Palestine bị bỏ quên. Họ bị các quốc gia Á Rập kia bỏ rơi, nghi ngờ và xua đuổi, chẳng khác gì dân Do Thái cũng lần mò về đó sinh sống!
Xứ Syria thì coi đất Palestine y như Lebanon và Jordan: thuộc chủ quyền của mình mà bị Âu Châu xén mất. Còn dân Palestine thì chỉ là thần dân của Syria. Nói đến một quốc gia độc lập cho dân Palestine là có sự phản đối của Syria!
Dòng Hashemite ngự trên đất lạ là Jordan thì cũng coi đất Palestine này là của mình. Thực tế thì Vương quốc Jordan đã chiếm Tây ngạn sông Jordan, sau này cứ được gọi tắt là West Bank, và phía Đông của Thánh địa Jerusalem, là hai vùng ngụ cư của dân Palestine bị Israel chiếm cứ từ 1967.
Thật ra, xứ Jordan không muốn Palestine biến thành một quốc gia, đã hai lần từ chối việc đó vào năm 1948 và 1967 và một lần tàn sát dân Palestine sống tại Jordan, đẩy họ qua xứ Lebanon (năm 1970). Nỗi lo của dòng Hashemite là dân Palestine từ hướng Tây dạt qua sẽ sinh con đẻ cái tại Jordan và có ngày đảo chính vương quyền, là điều đã xảy ra mà không thành, thành tích của Yasser Arafat và tổ chức PLO!
Cách đất Palestine một sa mạc Sinai, xứ Ai Cập cũng không yên tâm với dân Palestine vì cho rằng đất Palestine này là một phần lãnh thổ của "Cộng hoà Á Rập Thống nhất", do Ai Cập lập ra với Syria! Rất kỵ quốc gia Israel từ ngày thành lập vào năm 1948, Ai Cập lại trông cậy vào dân Do Thái và Chính quyền Israel để Palestine không thể trở thành một quốc gia độc lập.
Nhưng ngần ấy quốc gia đều khích lệ tinh thần độc lập của dân Palestine để phát huy sức mạnh Á Rập Hồi giáo chống lại một "kẻ thù chung" mà rất được việc. Là dân Do Thái và xứ Israel! Toàn những mưu cao chước lạ!
Ngay sau ngày lập quốc thời 1948, dân Do Thái tại chỗ đã đón nhận di dân và đồng bào của họ để củng cố quốc gia Israel. Trong khi đó, cũng từ ngày ấy, dân Palestine bị đồng bào Á Rập của họ tại các nước lân bang xua đuổi, và chỉ được gom vào hai tụ điểm là Tây ngạn Jordan và Dải Gaza, để ca bài hát chống Do Thái.
Sự thâm hiểm của Anh và Pháp từ 1916 đến 1967 chỉ thua kém sự gian ác của các nước Á Rập chung quanh từ 1967 cho đến nay! Không nhìn ra điều ấy mà cứ phê phán chuyện Palestine thì khó hiểu ra nỗi khó của Hoa Kỳ!
***
Bây giờ đến chuyện xứ Israel của người Do Thái.
Đa số truyền thông Mỹ và cả thế giới cứ nói đến nhóm vận động Do Thái ("Jewish Lobby") trong chính trường Hoa Kỳ. Họ ít đọc lại lịch sử và quên mất địa dư của khu vực Levant.
Trên đà sụp đổ của Đế quốc Ottoman, Đế quốc Anh thời đó muốn kiểm soát khu vực Levant và vì vậy mới cùng Pháp chia nhau xả thịt tỉnh Syria thành từng mảnh như đã nói ở trên. Qua Thế chiến II, có hai đại cường khác cũng ngó vào vùng đất trung chuyển giữa Âu và Á, Tây và Đông. Đó là Liên Xô và Hoa Kỳ. Vì vậy, song song cùng tranh chấp và đấu lực tại Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ, hai nước lãnh đạo Chiến tranh lạnh cùng ngó vào đất Levant của Đế quốc Anh đang suy tàn, và Thực dân Pháp đã hết thời.
Chính là hai xứ này đã gây sức ép với Anh và vận động sự thành lập của quốc gia Israel. Chủ nghĩa Zionism và tinh thần độc lập của dân Do Thái đã khôn khéo khai thác chiều hướng này. Đây là chuyện khác, sẽ tìm hiểu trong dịp khác.
Liên Xô ủng hộ sự thành lập quốc gia Do Thái với dân định cư có cùng... ý thức hệ. Đa số di dân Do Thái bước vào đất Israel là đến từ Nga, với quan niệm xây dựng nông trại theo kiểu "đồn điền" - vừa sản xuất vừa chiến đấu - và phát huy mô thức "công xã" của Liên Xô. Nhìn lại thì người dân lập ra quốc gia Israel thì đến từ Nga, tiền bạc là do dân Do Thái tại Mỹ chung góp một phần! Sau này, Israel mới là mảnh đất của dân Do Thái đến từ tứ xứ.
Chũng nhớ lại thì từ năm 1948 cho đến 1967, Israel là một nước thân Xô viết, chống Mỹ, được Pháp yểm trợ và gây khá nhiều vấn đề cho Hoa Kỳ. Vụ khủng hoảng Kênh đào Suez năm 1956 là một nhắc nhở. Sau năm 1967, Hoa Kỳ mới đảo ngược quyết định, khi Israel mất chỗ tựa vào nước Pháp và tách dần khỏi ảnh hưởng Xô viết. Ít ai trong dư luận Mỹ nhìn ra chuyện này, còn dư luận thông dịch viên từ truyền thông Mỹ thì càng mù.
Nói về "lobby Do Thái", trong 54 năm liền, ảnh hưởng rất lớn của dân Do Thái tại Mỹ chưa từng khiến nước Mỹ lấy những quyết định có lợi cho Israel mà có hại cho quyền lợi của Hoa Kỳ - là định nghĩa của "chi phối". Dân Do Thái cũng không có khả năng chìm hay nổi để chọn người lên lãnh đạo nước Mỹ. Tiến trình tuyển cử và bầu bán quá phức tạp của một xứ quá đa diện như Hoa Kỳ hoàn toàn vượt qua khả năng của các phù thủy Do Thái.
Và ngày nay, đa số dân Do Thái, từ tài phiệt đến trí thức và nghệ sĩ cùng các hiệp hội của họ tại Mỹ dồn tiền ủng hộ đảng Dân Chủ và có lập trường khá nghiêm khắc với Chính quyền Israel. Chỉ có một thiểu số là dồn phiếu bên Cộng Hoà để bảo vệ quốc gia Israel. Khác với George W. Bush là còn bênh vực xứ Israel - mà không vì thế lực tiền bạc của lobby Do Thái, còn Barack Obama thì cần hoà giải với thế giới Hồi giáo nên có lập trường khá đối nghịch với Israel.
Cho tới đề nghị hôm 19 Tháng Năm vừa qua! Với nhiều người Do Thái, Obama có thể gây sức ép và hy sinh Israel để lấy lòng khối Á Rập. Và tưởng rằng quyền lợi của dân Palestine và dân Á Rập là một.
***
Ở tại chỗ, Israel có khả năng tự vệ chống lại mọi cuộc xâm lược của các lân bang, nhờ địa dư hình thể và thực lực rất kém của các lân bang này.
Hãy nói về chuyện phòng thủ đó.
Muốn tấn công Do Thái từ hai ngả Đông Tây thì phải vượt qua sa mạc Negev hoặc sa mạc Sinai, là điều bất khả cho cả Jordan và Ai Cập. Hai xứ này đã trả giá cho việc thử nghiệm đó. Muốn tấn công từ mạn Bắc, Syria không thể vượt qua núi mà chỉ còn khoảng trống vài chục cây số, từ Cao nguyên Golan tới biển Galilee, và sẽ bị du kích Israel cho phơi thây trên sông Jordan. Còn lại chỉ có xứ Lebanon phía Bắc - và lực lượng Hezbollah trong xứ Lebanon - có thể vượt sông Litani ở phía Nam và pháo kích vào lãnh thổ Israel.
Nhưng khu vực này là vùng buôn bán cần thiết cho Lebanon với các nước Địa Trung hải và Lebanon không dại gì hy sinh sự phồn thịnh của mình để vẽ lại bản đồ Israel cho dân Palestine! Trừ phi có sự xúi giục của một cường quốc ở xa là Iran, qua trung gian của lực lượng Hezbollah và xứ Syria...
Bên trong, người Do Thái miền duyên hải và miền Bắc thì giỏi buôn bán và có tinh thần hiếu hòa hơn là dân Do Thái ở phía Đông, vốn dĩ thường xuyên ứng chiến từ thời lập quốc 1948. Phe "diều hâu" Do Thái ở phía Đông cũng cần đất sống và hàng rào phòng ngự nên lấn dần vào Tây ngạn sông Jordan là nơi sinh hoạt của dân Palestine do Israel kiểm soát từ năm 1967 sau khi đoạt lấy của Jordan. Còn lại, dân Palestine chỉ có deo đất hẹp ở hướng Tây Nam là Dải Gaza, nay thuộc quyền kiểm soát của lực lượng Hamas, nổi tiếng với phương pháp khủng bố và chủ trương tiêu diệt quốc gia Israel.
Như vậy, về mặt phòng thủ, Israel có đủ sức tự vệ trước áp lực của các nước Á Rập vây quanh.
Nhưng Israel không thể cưỡng lại áp lực của các đại cường ở xa, như Hoa Kỳ hay Liên Xô. Chuyện gần là tự vệ thì Chính quyền Tel Aviv còn giải quyết được bằng quân sự, chứ chuyện đối phó với các đại cường ở xa thì phải dùng phương pháp ngoại giao.
Hý họa tuyệt vời của Michael Ramirez trên tờ IBD ngày 21 Tháng Năm.
Obama thủ vai Moses chỉ lộn đường về miền Đất Hứa!
Hý họa tuyệt vời của Michael Ramirez trên tờ IBD ngày 21 Tháng Năm.
Obama thủ vai Moses chỉ lộn đường về miền Đất Hứa!
Vận dụng ngoại giao để từ chối lui về biên cương 1967, tức là ra khỏi Tây ngạn sông Jordan, là điều Thủ tướng Netanyahu nói thẳng tại cuộc họp báo với Tổng thống Obama trưa Thứ Sáu 20: lui về đó là hết đất phòng thủ trước một số khuynh hướng Palestine cực đoan chỉ muốn tiêu diệt xứ Israel. Nhân tiện, Netanyahu cho Obama một bài học về địa dư: không còn Tây ngạn, lãnh thổ Israel ở nơi đó chỉ có bề ngang là chín dậm, hay quãng 15 cây số, bằng phân nửa thủ đô Mỹ và vùng phụ cận, gọi là vòng đai Beltway!
Dùng phương pháp ngoại giao để cho thấy dân Palestine ở Tây ngạn sông Jordan chỉ có tương lai và sinh hoạt kinh tế nếu hợp tác với Israel và được Chính quyền Tel Aviv yểm trợ. Ngoại giao để chứng minh rằng khu thị trấn trên Dải Gaza không có tương lai kinh tế và dân cư cũng chẳng có thể ra khỏi khu vực này để kiếm ăn nơi khác nếu tiếp tục ủng hộ lực lượng Hamas.
Nhìn như vậy thì việc thành lập một quốc gia Palestine, như Tổng thống Obama chủ trương, là điều nan giải trong thực tế. Và như đã nói ở trên, các nước Á Rập chung quanh không thật lòng với viễn ảnh đó.
Còn lại, một quốc gia Palestine với hai mảnh Gaza và West Bank thì sẽ có hai đầu và có ngày chia hai như Pakistan và Bangladesh năm 1971. Khu vực Gaza là những thị trấn chật chội thiếu tài nguyên trừ nhân lực nheo nhóc sẽ không có kinh tế mà chỉ có cứu trợ. Khu vực West Bank thì có hy vọng hơn, nhưng còn tùy vào nguồn nhân lực là di dân từ Gaza đi qua, dưới sự kiểm soát của Israel. Nếu lãnh đạo Palestine có thiện chí và thống nhất chủ trương hiếu hòa để sống chung thì may ra giải pháp quốc gia Palestine tại West Bank còn có thể thành hình, với sự yểm trợ, nuôi dưỡng và kiểm soát của Israel.
Nhưng, vì sao chưa tiến tới thống nhất ý kiến trong hai nhóm Palestine - ôn hoà theo Fatah tại Tây ngạn và cực đoan theo Hamas tại Dải Gaza - mà Tổng thống Hoa Kỳ đã nói đến việc Israel phải thương thuyết với phe Palestine? Và chưa thương thuyết mà đã đòi Israel phải trở về vị trí của năm 1967 thì cũng tựa như đòi xứ Israel tự sát.
Nhẹ nhất, nếu là một chiến thuật thương thảo do Obama đề nghị, thì chiến thuật này sẽ thất bại vì chỉ khuyến khích xu hướng cực đoan của dân Palestine là đòi Israel nhượng bộ thêm. Ngớ ngẩn!
Kết luận ở đây là dân Palestine chính là nạn nhân của các nước Á Rập Hồi giáo. Hy vọng tạm bợ của họ lại nằm trong tay kẻ thù, là chính quyền Israel của dân Do Thái. Cứu tinh của họ, vì có thể khuất phục Israel, chính là Hoa Kỳ, một siêu cường ở xa, đang có những tính toán ngây ngô hay ma quỷ khác.
Nhưng giả thuyết ấy mà xảy ra - tức là Mỹ khống chế Israel để lấy lòng khối Á Rập - dân Do Thái tại đây sẽ không tự sát. Và toàn khu vực Levant sẽ thành biển lửa trước sự hả hê của Iran!
-- Hội đàm Mỹ-Israel về nhà nước Palestin — (BBC). - Bắc Kinh tăng cường quan hệ với Islamabad vào lúc Pakistan bị áp lực từ Mỹ — (RFI).
-Hoa Kỳ và vụ Osama Bin Laden
Nguyễn Xuân Nghĩa 110507
Vài Câu Hỏi Nhỏ Về Một Chuyện Lớn
Sau khi Hoa Kỳ hạ sát trùm khủng bố Osama bin Laden, cuộc chiến của Hoa Kỳ chưa kết thúc. Nước Mỹ có thể nhân thắng lợi tâm lý xuất phát từ một thành quả chiến thuật mà điều chỉnh toàn bộ chiến lược của mình. Các nước trên thế giới đang theo dõi chuyện đó.... Chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu sau.
Đầu tiên là vài chi tiết nhỏ của một chuyện lớn.
Chính quyền của Tổng thống Barack Obama đạt một lợi thế chính trị nhất thời trong bối cảnh của một chu kỳ tranh cử, đúng hai tuần sau khi ông chính thức thông báo việc tái tranh cử. Nhưng, cũng chính nhu cầu tranh cử đó khiến chính quyền của ông lật đật khai thác kết quả chiến thắng với quá nhiều vụng về.
Cách thức thông báo tin tức, rất long trọng vào đêm mùng một Tháng Năm giờ thủ đô Hoa Kỳ về một biến cố xảy ra trước đó mấy tiếng đồng hồ, vào rạng sáng mùng hai giờ thủ đô Pakistan, mang nhiều kịch tính. Tức là có sự dàn dựng. Với một biến cố quan trọng như vậy, việc dàn dựng là cần thiết để đạt mục đích yêu cầu.
Trước hết, xin có đôi lời giải thích về chuyện dàn dựng này.
****
Khi tranh cử trong những năm 2007-2008, ông Obama có thể đả kích Chính quyền Cộng Hoà của Tổng thống George W. Bush về mọi chuyện. Dù không đồng ý, ta có thể thông cảm được với thủ thuật chính trị khi tranh cử!
Một thí dụ là quyết định tấn công Iraq vào đầu năm 2003, với lý do là chế độ Saddam Hussein có kế hoạch chế tạo và dự tính sử dụng võ khí tàn sát (WMD). Vì chủ trương phản chiến và chống lại quyết định này, ông Obama có thể phê phán ông Bush là gian dối khi Hoa Kỳ không tìm ra loại võ khí đó tại Iraq.
Nhưng sau khi đắc cử và có cơ hội ngồi vào vị trí quyết định và tham khảo những dữ kiện thật của bộ máy an ninh quốc gia, Tổng thống Obama đã phải thấy thế nào là cảnh ngộ "tình ngay lý gian": tất cả các bộ máy tình báo của Mỹ và của các nước đều e ngại kế hoạch WMD này của Saddam. Ngay sau khi Chiến dịch Iraq khai mở, chính ông Bill Clinton - vị tiền nhiệm của Bush - đã cảnh báo các đơn vị tác chiến Mỹ về nguy cơ bị võ khí hóa học.
Nếu là người thành thật, ông Obama đã có thể kết luận rằng mình có sai lầm, nói ra hay không sự sai lầm đó thì còn tùy theo lòng chân tín của ông.
Nếu là người am hiểu ông cũng có thể thầm kết luận là nhiều khi lãnh đạo phải lấy quyết định trên cơ sở của những thông tin thiếu toàn hảo và tìm cách giảm thiểu rủi ro sai lầm. Lãnh đạo thật thì phải có phản ứng đó mà chuẩn bị ứng phó.
Cũng thế, khi tranh cử rồi cầm quyền, ông Obama có thể đồng ý hay không với quyết định "tăng cường khai thác nghi can" bị tình báo và an ninh của Mỹ giam giữ - tăng cường tới mức độ trấn nước hoặc tra tấn, tùy định nghĩa. Nhưng cần đối chiếu với thực tế là "lãnh đạo phải lấy quyết định trên cơ sở của thông tin bất toàn". Những nỗ lực của Chính quyền Bush nhằm thu thập và cải tiến thông tin đó trong nhiều năm liền có góp phần cho việc xác định mục tiêu và tiêu diệt Osama bin Laden. Nhưng hoàn cảnh "tình ngay lý gian" là điều phổ biến.
Chính quyền Bush bị đả kích về việc khai thác tù binh - thực tế thì chỉ có ba nghi can bị trấn nước tổng cộng trong 15 phút - và ông Bush đã loay hoay xoay trở rất nhiều với bái toán pháp lý và đạo đức của trại tù Guantanamo. Khi cầm quyền, quyết định đầu tiên của ông Obama là đóng cửa trại Guantanamo - mà không xong - và còn cho công tố viên độc lập điều tra xem các nhân viên CIA có phạm tội tra tấn hay không! Người tiến hành việc đó là Tổng trưởng Tư pháp Eric Holder.
Và ngày 16, hai tuần trước khi bin Laden bị hạ sát, ông Holder này còn tuyên bố là khó có hy vọng tìm ra Osama bin Laden! Vì Tổng trưởng Tư pháp chưa được biết về một kế hoạch tuyệt mật? Hay cũng chuyện "tình ngay lý gian"....
Phổ biến nhất chính là sự hoài nghi của thế giới về nước Mỹ, về những gì lãnh đạo Mỹ nói ra và thi hành.
Lý do hay lý cớ, mục tiêu dài hạn và mục đích ngắn hạn - hay mục tiêu trung gian - là những gì đó khá phức tạp. Phức tạp nhất là cảm quan và ấn tượng của thiên hạ có khi không phản ảnh sự thật nhưng lại có ảnh hưởng thực tế. Thuyết âm mưu - conspiracy theory - là điều phổ biến, nhưng người ngu dại mà tin vào đó cũng có thể ảnh hưởng tới cảm quan và lá phiếu! Barack Obama đã thừa hưởng cảm quan đó mà trở thành Tổng thống.
Lên vị trí lãnh đạo, đến lượt ông cũng cần chú ý đến yếu tố "ấn tượng" - perception - này khi chuẩn bị tái tranh cử.
Vì vậy, dàn dựng việc thông báo kết quả truy lùng và tiêu diệt Osama bin Laden là một nhu cầu chính đáng. Lãnh đạo giỏi phải là người đã phải chuẩn bị trước phần vụ thi hành và phần diễn tả - narrative - về việc thi hành đó sao cho ăn khớp. Và phát huy được chính nghĩa của Hoa Kỳ. Việc thi hành đã được các chiến binh và nhân viên tình báo an ninh hoàn thành tốt đẹp.
Phần diễn tả của lãnh đạo là một hài kịch về sự lụp chụp!
Chỉ vì kịch bản và việc diễn tả phần vụ thi hành được liên tục điều chỉnh trong ba bốn ngày liền với nhiều mâu thuẫn gây thêm ngờ vực do dư luận Hoa Kỳ, Hồi giáo và thế giới.
Thiếu gì cách trưng bày kết quả hầu vẫn chứng minh sự thật mà không tiết lộ bí mật về nghiệp vụ an ninh? Chi tiết có nhiều lắm, xin miễn nói ở đây vì không là mục tiêu của bài viết. Thí dụ như có trưng bày hình ảnh xác chết của bin Laden hay không và nếu cần chứng minh tính xác thực của lời tuyên bố của Tổng thống thì Hoa Kỳ có thể làm những gì khác? Tại sao mỗi ngày mới châm thêm một số chi tiết cho đến sau cùng Bộ Quốc phòng mới phải đưa ra mấy băng hình đã tịch thu trong căn nhà của bin Laden? Vì sao không nói từ đầu là sẽ có lúc - trong những ngày tới - Hoa Kỳ trình bày sự thể cho rõ ràng sau khi nghiên cứu tường tận ngần ấy chi tiết?
Chỉ vì lập tức cần tiếng vỗ tay?
Thí dụ khác là việc phố biến hình ảnh của toàn ban tham mưu về an ninh ngồi quanh Tổng thống nhỏ thó nhún nhường như một câu sinh viên ngay trong Phòng Ứng Chiến - Situation Room - của Phủ Tổng thống để trực tiếp theo dõi tin tức của vụ đột kích. Rất hay! Nhưng sau đó giải thích ra sao về tin tức cũng do chính quyền đưa ra là trong khoảng 40 phút nhập trận - có giao tranh hay không - hình ảnh đã bị gián đoạn mất 25 phút! Hoá ra là cả ban tham mưu chụp hình làm cảnh trước một màn ảnh màu đen?
Tự gây ra trò cười cho thiên hạ thì có phải là một hài kịch về sự lụp chụp không?
Thực tế thì ra khỏi nước Mỹ, ít ai biết và chấp nhận một sự thật là Tổng thống Hoa Kỳ không thể nói dối. Sai lầm thì còn tha thứ được, chứ gian dối là điều bất khả về luật pháp. Quốc hội và công luận Mỹ có quyền phán xét về việc đó, cho nên lời tuyên bố của Tổng thống không thể là chuyện đùa! Thế giới nhiều khi chưa hiểu như vậy, mà đó cũng là "luật chơi". Rules of the game.
Bây giờ, hãy nói thêm vài hàng về thành quả chính trị.
Thuần về chính trị, và rút tỉa kinh nghiệm từ thời Kennedy đến nay, thông thường, sau một chiến thắng gây chấn động như vậy, uy tín của Tổng thống có thể tăng từ 10 đến 13 điểm. Ưu thế đó có thể tồn tại từ 20 đến 22 tuần, ít ra là năm (5) tháng quý báu trong một chu kỳ tranh cử chỉ còn 18 tháng. Vậy mà tỷ lệ tín nhiệm Obama không tăng được như vậy, trung bình chỉ thêm có sáu điểm!
Chiến binh Hoa Kỳ làm tròn nhiệm vụ mà lãnh đạo không có khả năng khai thác, dù là đã ra tận hiện trường "Ground Zero" của vụ 9-11 để đặt vòng hoa tưởng niệm nạn nhân, rồi vòng qua trại lính úy lạo chiến sĩ...
Một ứng cử viên xuất sắc vẫn có thể trở thành một tổng thống tầm thường.
Bây giờ đến chuyện tương lai.
****
Trước hết là tư thế đệ nhất siêu cường dân chủ mà thực chất đế quốc của nước Mỹ.
Hoa Kỳ có nền dân chủ pháp trị kỳ cựu nhất, lại còn muốn làm gương cho thế giới về tính chất chính đáng, lẽ chính danh, của nhiều quyết định nhạy cảm, thí dụ như có giết người hay không, trong hoàn cảnh nào, vì sao là thích đáng? Giữa đạo và thuật, giữa đạo đức và thủ thuật chính trị, tiếng nói của nước Mỹ và lời phát biểu của Tổng thống có tầm quan trọng của nó.
Bên trong là với luật pháp Mỹ và bên ngoài là với ngoại giao của quốc tế.
Nếu không có lời giải thích hay diễn tả thích hợp, thành tích diệt trừ Osama bin Laden có thể gây phản tác dụng cho uy tín của Hoa Kỳ. Khi hiểu như vậy, ngôn từ diễn tả là điều quan trọng và phải được chuẩn bị cân nhắc từ trước, trong từng kịch bản, từng giả thuyết. Vì làm hay không, nói hay đừng, vẫn là quyền của lãnh đạo Hành Pháp.
Nếu có điều kiện bắt và/hay giết Osama bin Laden, lãnh đạo phải cân nhắc và có lẽ đã cân nhắc từ ba giác độ đạo đức, pháp lý và thực tế. Phần còn lại là diễn giải sao cho hợp lý về sự thể, về kết quả sau cùng.
Xin nêu ra đây vài câu hỏi để ta hiểu ra bài toán rất trừu tượng mà thiết thực sau này cho thế giới.
Hoa Kỳ đã cho máy bay không người lái UAV vào lãnh thổ Pakistan để tập kích các cơ sở và đặc công khủng bố. Trong hai năm, Chính quyền Obama ra lệnh tănh cường các phi vụ UAV gấp bốn lần so với tám năm của Chính quyền Bush. Ngang ngược hay chính đáng? Nhân danh điều gì để phán xét và quyết định?
Ngay trước khi bin Laden bị giết - hành quyết, bắn hạ dù có phản ứng và võ khí hay không - cũng sức mạnh Hoa Kỳ, dưới nhãn hiệu của Minh ước NATO, đã tập kích dinh thự của lãnh tụ Moammar Gaddafi tại thủ đô Libya, khiến con trai út và cháu của Gaddafi bị tử nạn. Luật lệ của Hoa Kỳ và công pháp quốc tế có cho phép ám sát như vậy không? Lợi và hại của quyết định này nên được cân nhắc ra sao?
Câu hỏi ấy mở rộng ra vấn đề "quy tắc tham chiến", cách hành xử với kẻ thù trong một cuộc chiến "chống khủng bố toàn cầu": bắt giam, truy tố ra tòa, hành quyết, hoặc giết ngay tại hiện trường.... Khi "hiện trường" lại là một quốc gia khác như Pakistan, hoặc không là một nước tuyên chiến với Hoa Kỳ như Libya, chúng ta có vấn đề.
Loại vấn đề sở trường của cánh tả, của đảng Dân Chủ, của nhà luật học Barack Obama trước khi làm Tổng thống!
Dân Mỹ có thể hài lòng với quy luật "ăn miếng trả miếng" và "giết dân Mỹ thì có chạy lên đàng trời cũng không thoát", v.v... Cánh tả cũng có thể viện dẫn "quyền can thiệp chính đáng vì lý do nhân đạo" - động lực của việc tấn công Libya - nhưng sẽ trả lời sao về việc Chính quyền Clinton tấn công Cộng hoà Serbia và góp phần lật đổ Slobodan Milosevic, hoặc ông Bush lật đổ chế độ Baghdad đưa đến chuyện Saddam Hussein bị treo cổ? Saddam Hussein giết nhiều người Kurd và Shia hơn tổng số nạn nhân của al-Qaeda, chế độ Taliban và lãnh tụ Gaddafi!
Những câu hỏi này dẫn ta tới... ông Lý Quang Diệu.
Năm xưa, khi bị phàn nàn về việc Singapore nọc một thanh niên Mỹ đánh cho vài roi, hoặc kết án tử hình những ai tàng trữ ma túy, Lý Quang Diệu có câu trả lời rất đáng suy ngẫm. Singapore là một đảo quốc rất nhỏ nên vì lý do an ninh sinh tử mà phải thi hành những luật lệ bị xứ khác kết án là hà khắc. Singapore không có khả năng của Mỹ là tung quân vào bắt giam lãnh tụ một xứ khác, như Manuel Noriega, để đem về xét xử theo công lý của Hoa Kỳ!
Đệ nhất siêu cường dân chủ Hoa Kỳ, dưới quyền lãnh đạo của một Tổng thống am hiểu vì đã từng giảng dạy về Luật hiến pháp - và có lập trường chủ hòa, thiên tả - vừa có một quyết định lạnh mình là cho quân đột nhập một xứ khác để ám sát một tên trùm khủng bố. Thành tích chiến thuật mở ra một cuộc tranh luận về đạo đức và pháp lý của nước Mỹ!
Sau vụ này, các lãnh tụ độc tài đang gặp vấn đề khủng bố, như Liên bang Nga, Trung Quốc hay c ảSaudi Arabia, đều ngợi ca thành tích của Mỹ. Nhưng dư luận và lãnh đạo các nước Tây phương - đồng minh của Hoa Kỳ - đều tỏ vẻ dè dặt hơn. Điển hình là nước Đức. Chưa nói đến xu hướng thiên tả ngay tại Hoa Kỳ.
Phản ứng của họ đã làm giảm tác dụng úy lạo của Tổng thống Obama khi ông tới đặt vòng hoa tưởng niệm tại Ground Zero ở New York. Một màn biểu diễn tại Mỹ bị nhiều nơi xối nước lạnh.
Sâu xa hơn vậy, biến cố này mở ra một kỷ nguyên mới của việc ra lệnh ám sát. Những sát thủ hay bọn giết mướn đều có thể khoác áo Kinh Kha mà gọi Hoa Kỳ là Bạo Tần!
So sánh với chuyện đó thì việc dùng tên lãnh tụ thổ dân Apache là Geronimo làm mật hiệu cho chiến dịch hạ sát bin Laden chỉ là sơ xuất nhỏ. Nhiều đơn vị tác chiến Mỹ đã hô tên GE.RO.NI.MO. làm khẩu hiệu xung phong vì kính trọng tinh thần quyết tử của nhân vật này. Nhưng lãnh đạo Mỹ thì không nên lầm lẫn như vậy! Quả nhiên là bị hiệp hội của thổ dân Mỹ phản đối nên phải đổi thành Neptune's Spear. Mũi đinh ba của Thủy thần!
Chi tiết nhỏ cho thấy khiếm khuyết lớn của các đạo diễn làm diễn viên Obama bị trật vở, lộn tuồng! Trong các kỳ sau ta mới xét tới chiến lược Hoa Kỳ và hậu quả toàn cầu của vụ Obama diệt Osama....
-Một bức hình bằng cả ngàn chữ? Trùng Dương
Vì câu nói gần như cliché đó mà nhiều người khi nhận được tấm hình Osama bin Laden với khuôn mặt nát bấy đầy máu me đã vội vã chuyển đi như sợ người khác chuyển trước mình, đoạt mất niềm tự hào mình là người nắm được cái tin nóng hổi “vừa thổi vừa xem” đó trước tiên.
Tôi không còn nhớ nổi đã nhận được bao nhiêu ấn bản bức hình “nóng” đó trong hộp thơ điện tử của mình vào ngày 2 và 3 tháng 5, sau khi có tin Osama bin Laden bị giết ngày 1 tháng 5, từ những người quen cũng như không quen nhưng sợ tôi bị hụt xem bức hình vô cùng quan trọng đó -- một bằng chứng hùng hồn là bin Laden đã chết thật rồi.
Ảnh White House/Flickr
Bức hình chụp vào tối ngày mồng 1 tháng 5, trong lúc Tổng thống Obama, phó TT Joe Biden và ban tham mưu an ninh quốc gia đang theo giõi cuộc hành quân chớp nhoáng của toán Hải quân SEAL Team Six ập vào sào huyệt của đầu não Osama bin Laden của tố chức khủng bố al Qaeda ở Abbottabad, Pakistan, mà kết quả như mọi người đã biết.
Bức hình thu hút tôi mãnh liệt, mà nếu không phải là do một công chức nhiếp ảnh viên chụp (và do đấy không có quyền sở hữu hình đó vì nó thuộc vào của công, public domain), thì, như tôi đã viết trong bài “Từ phòng hội toà Bạch Ốc…”, rất đáng được giải nhiếp ảnh báo chí danh giá Pulitzer.
Trước hết về kỹ thuật, đó là một bức hình có bố cục rất chặt chẽ, với mọi người có mặt trong hình, trừ ông tướng Marshall B. “Brad” Webb ngồi cạnh Obama đang táy máy với cái laptop của ông, còn thì ai cũng dán mắt vào một màn hình mà ta không thấy, trên đó có lẽ đang diễn ra cảnh đột kích sào huyệt bin Laden xẩy ra cách đó trên 7,000 miles. Trên từng khuôn mặt là sự căng thẳng tột độ.
Đặc biệt là hình ảnh của Bộ trưởng Ngoại Giao Hillary Clinton với một tay bụm miệng như ngăn một phản ứng trước những diễn biến trên màn hình, nói lên sự căng thẳng trong phòng hội trước các diễn biến có thể là ngộp thở đang diễn ra trên màn ảnh trực tiếp truyền hình cuộc đột kích. Đặc biệt cũng vì bà là người đàn bà duy nhất ngồi trong phòng hội (nếu không kể tới bà Giám đốc cơ quan chống khủng bố Audrey Tomason nhỏ con đứng ở hậu cảnh bên lối cửa vào), một hình ảnh chưa hề thấy trong những hình chụp sinh hoạt của Situation Room kể từ khi được thành lập vào năm 1961 dưới thời Tổng thống John F. Kennedy.
Phản ứng của bà Clinton đối với tôi là một diễn tả độc đáo, may mắn có được khiến bức hình thêm phần sống động, nếu không nói đấy chính là trung tâm điểm của bức hình. Thế nhưng có nhiều người thuộc nhóm ủng hộ nữ quyền (feminism) không hài lòng, cho là phản ứng của bà Clinton nói lên sự yếu đuối của người đàn bà. Nhận xét này đã khiến bà Clinton phải lên tiếng rằng thì là bà bụm miệng chẳng qua là để ngăn một cơn ho do bị dị ứng mùa xuân (spring allergy) đấy thôi, và bà không thể nhớ được lúc đó đang thấy gì trên màn ảnh.
Tất nhiên, trên tất cả là sự kiện vị tổng thống trong hình là Obama, một người da đen mà lần đầu tiên lịch sử Hoa Kỳ có được. Nhà báo John Black đã, sau khi nghiên cứu bức hình và phỏng vấn một số các chuyên gia chính trị và xã hội, đã viết một bài tiểu luận ngắn song giá trị, “What ‘Situation Room Photo’ reveals about us.” (http://articles.cnn.com/2011-05-05/us/iconic.photo_1_black-men-photo-national-security-team?_s=PM:US)
Black đã gọi đó là bức hình cổ điển (classic) mang nhiều tính chất lịch sử. Lịch sử không những vì nó đã ghi lại giây phút mấu chốt trong chiến dịch lùng bắt trùm khủng bố bin Laden thành công sau 10 năm tốn bao công lao và sinh mạng; mà còn là một bức chân dung của xã hội Mỹ ngày nay với một vị tổng thống da mầu, một nữ bộ trưởng ngoại giao (mặc dù không phải là đầu tiên), nói lên kết quả, dù mới chỉ là khởi thủy, của những phấn đấu cho nguyên tắc bình đẳng – All men are created equal -- giữa những người khác chủng tộc, tôn giáo, chính kiến, và phái tính nhằm thực hiện lý tưởng đã được đề ra khi Hoa Kỳ tuyên ngôn độc lập khỏi sự đô hộ của Anh Quốc vào ngày 4 tháng 7 năm 1776. (http://www.ushistory.org/declaration/document/)
Tất nhiên vẫn có người cho là bức hình do dàn cảnh (staged), như lời cáo buộc của Alex Jones thuộc PrisonPlanet.com, có khuynh hương thích gây bút chiến, và có nguyên một Web site, InfoWars.com, và cả một cơ sở truyền hình, PrisonPlanet.TV, để làm việc này.
Trong khi đó, không thiếu người cũng đã, bất chấp lưu ý của toà Bạch Ốc trên trang hình tại Flickr.com, “vô tư” biến đổi bức Situation Room Photo tùy theo cảm hứng của mình. Đến Forbes.com, một Web site chuyên về tài chánh và thương mại cũng nhẩy vào sân chơi, với hai đề nghị về cái mà các nhân vật trong Sit Room Photo đang nhìn. Một là, Forbes đoán, họ đang nhìn cái… đồng hồ đếm nợ nần của Mỹ (The National Debt Clock); và hai là danh sách Forbes về những phụ nữ quyền lực nhất (Forbes List of the Most Powerful Women).
Forbes còn cho cái Web link, http://www.forbes.com/pictures/hf45hfd/obama-playing-playstation#content, để vào xem những hình kiểu “vô tư” hơn thế, nhưng với sự trợ giúp của chương trình PhotoShop, mà họ đã thu lượm được đó đây trên Internet, và đặt tựa là “The White House Situation Room Internet Meme.”
Phần tôi là một câu hỏi khá đơn giản (vì tôi mắc “bệnh” ghi-xuất-xứ và vốn vẫn dốt về cách chụp hình bằng Manual): Bức Sit Room Photo ấy do nhiếp ảnh viên nhà nước tên gì và đã dùng máy gì và settings ra sao vậy? Thì đây là câu trả lời: Photo credits and settings: Photographer: Pete Souza; Canon 5D MkII, 35mm f/1.4L USM, f/3.5, 1/100s, ISO 1600. Nghe… rõ chửa?
(TD, 05/2011)
Từ bức ‘hình tử thi’ của bin Laden…
Lần đầu nhận được “hình tử thi” bin Laden tôi còn chịu khó trả lời cho người gửi, một phần vì người đó là ông anh rể của tôi. Ông ấy năm nay đã 76 tuổi, nguyên trung tá của quân lực Việt Nam Cộng Hoà, vô cùng thanh liêm, đánh giặc mấy lần suýt chết, di tản sang Mỹ từ 1975, đi làm thợ hàn để nuôi con ăn học, rất quan tâm tới thời cuộc, nhất là chuyện Việt Nam, và là người tôi vẫn khuyến khích dùng computer cho cái óc hoạt động để nó sinh sản tế bào mới giúp làm chậm lại việc mất trí nhớ.
Tôi cho ông ấy biết là mới hồi sáng tôi nghe trên National Public Radio là các viên chức tòa Bạch Ốc còn đang thảo luận nên hay không nên phổ biến những hình ảnh chắc chắn là ghê rợn của xác chết bin Laden, đầu não của vụ không tặc 9/11 và của tổ chức khủng bố al Qaeda, sau khi bị toán Navy SEAL Team Six triệt hạ.
“Anh cẩn thận đừng phổ biến khi chưa biết chắc, vô tình đổ thêm dầu vào lửa đấy,” tôi viết dặn dò ông. “Chỉ nên phổ biến tin tức hình ảnh từ các hãng tin lớn như CNN, ABC, NBC, CBS, AP, Reuters, vv., và từ các báo như NY Times, LA Times hoặc Washington Post thôi. Mà ngay cả khi nhận được các tin này dán trong e-mail, nói là của các hãng tin trên, thì cũng nên xem lại, bằng cách copy và paste cái tựa vào Search box của Google nhờ kiểm chứng lại giùm, trước khi chuyển đi. Chính phủ Mỹ cẩn thận lắm, họ còn đang tranh luận xem có nên phổ biến hình mà chỉ có mình họ có thôi, vì có thể bị phản ứng ngược trong giới Muslims còn nhiều người ngưỡng mộ ông bin Laden và rất cực đoan.”
Thực ra thì không chỉ những người đã gửi “hình” bin Laden bị bắn chết vì sợ tôi chưa được thấy. Nhiều báo chí thế giới, kể cả một số bên Âu châu, cũng vội vã in hình này lên trang nhất. Ngoài ra, có ít ra ba thượng nghị sĩ Mỹ thuộc đảng Cộng Hoà tuyên bố đã được thấy hình bin Laden chết, và có vị cũng đã blackberried bức hình đó đi bốn phương. Trong khi thượng nghị sĩ Dianne Feinstein, chủ tịch Ủy ban Tình Báo Quốc Hội, một trong một số nghị sĩ có mặt tại các buổi họp báo cáo của Giám đốc cơ quan tình báo CIA Leon Pannetta, cơ quan đã điều động cuộc đột kích vào sào huyệt của bin Laden ở Abbottabad, Pakistan, cho biết không có một nghị sĩ nào đã từng thấy hình xác bin Laden, kể cả bà.
Trang Lens – Photography, Video and Visual Journalism trên Web site của tờ New York Times, ngày 4 tháng 5, chạy một cái tít mà tôi không khỏi mỉm cười khi đọc: “Wanted – Dead, Alive or Photoshopped”, với bài blog của David W. Dunlap, tóm gọn những vụ việc xung quanh bức hình “lịch sử” đó, tại http://lens.blogs.nytimes.com/2011/05/04/wanted-dead-alive-or-photoshopped-2/?nl=todaysheadlines&emc=tha2.
Cùng ngày trên vào buổi chiều, Tổng thống Barrack Obama tuyên bố dứt khoát là toà Bạch Ốc sẽ không phổ biến hình ảnh xác bin Laden sau khi bị bắn hạ.
Tôi thở phào nhẹ nhõm, vì đã sợ có chuyện ngược lại.
Cho đến ngày hôm qua, tôi, một cử tri không đảng phái (non-partisan) -- nghĩa là không thuộc đảng nào, Dân chủ hay Cộng hoà hay Độc lập hay cả Xanh (Green) mặc dù tôi rất quan tâm tới việc bảo vệ môi trường, đã lái xe hybrid từ gần 10 năm nay cũng vì vậy – đã đồng ý với từng việc làm của chính phủ của ông Obama, mà tôi đã mô tả qua bài “Từ phòng họp tại toà Bạch Ốc… tới sàn bay hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson”, đã đăng tại http://www.diendantheky.net/2011/05/tu-phong-hop-tai-toa-bach-oc-toi-san.html.
Tôi tán thành việc Hoa Kỳ chôn cất tử tế bin Laden trong vòng 24 tiếng đồng hồ theo đúng với phong tục của Hồi giáo, cả việc dành cho người quá cố một buổi lễ thủy táng (vì không có quốc gia nào nhận cho đất chôn và cũng không đủ thì giờ thu xếp) vào 2 giờ sáng ngày 2 tháng 5 từ boong tầu của hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson (và đấy là lý do tôi chọn bức hình của chiếc Vinson chụp vào lúc sắp rạng đông cho phù hợp, vì hãnh diện với việc làm của Hoa Kỳ, quê hương bây giờ của tôi, hơn là vì lý do nào khác).
Một số người phản đối việc thủy táng này, vì thủy táng vốn là một vinh dự đối với người thủy thủ, sao lại dành cho một trùm khủng bố đã giết hại và gây tàn phế cho bao nhiêu ngàn con người dân cũng như quân. Theo tôi, việc gì có thể làm để giảm thiểu phản ứng bạo lực của những phần tử qua khích Hồi giáo thì nên làm. Ta không cần thêm người chết hoặc mang thân tàn phế suốt đời họ nữa.
Tất nhiên vẫn có nhiều người đòi phải có hình bin Laden chết mới chịu tin là bin Laden đã chết thực rồi. Họ còn thách thức sao ông Obama đã đăng tải mẫu khai sinh dài của mình trên Web site của tòa Bạch Ốc để chứng mình ông thực sự được sinh ra Hawaii, thì tại sao không phổ biến hình bin Laden tử thương để chứng minh bin Laden đã bị giết. Tôi lại không khỏi không nghĩ tới cái tít viết rất khéo trên trang Lens hôm qua của tờ NY Times: “Wanted – Dead, Alive or Photoshopped”.
Và những người đòi phổ biến hình xác chết bin Laden viện dẫn là “một bức hình trị giá bằng cả ngàn lời” và đòi phải có nó, bằng mọi giá. Tôi chợt nghĩ: Người Việt tị nạn chắc chưa quên bức hình định mệnh của Eddie Adams chụp ông tướng Nguyễn Ngọc Loan bắn chết tên Việt cộng vào dịp Tết Mậu thân 1968, tuy cũng trị giá cả ngàn lời, cộng với giải thưởng danh giá Pulitzer Prize cho phóng viên nhiếp ảnh, vậy mà vẫn không nói lên được chuyện gì thực sự xẩy ra ở đằng sau bức hình đó, khiến bao tai ương sau đó đã đổ xuống thân phận của VNCH.
Họ đòi phải trưng hình bin Laden sau khi bị bắn chết bằng mọi giá. Bất kể giá nào? Kể cả việc phe quá khích Hồi giáo sẽ dùng hình xác bin Laden để tập hợp, nuôi chí phục thù, để rồi gây thêm những vụ đánh bom giết hại người vô tội? Tưởng tượng ta nhìn thấy ảnh người thân của mình bị giết, mặt mũi tan nát, máu me lênh láng? Phản ứng của ta ra sao? Phẫn nộ? Nổi điên? Và nếu có súng ống, bom đạn trong tay, liệu ta có đi tìm kẻ đã giết người thân yêu của mình để thanh toán?
Tôi có ông handyman, tên Ed, thường sửa nhà cho tôi, trung niên, tráng kiện, đầy nam tính, rất tận tâm. Chúng tôi chưa hề nói chuyện chính trị, ngay cả thời cuộc. Nhưng tôi biết ông ta thuộc loại bảo thủ thứ nặng vì một lần, khi không, ông ta chuyển cho tôi (và trên 100 người quen và khách hàng của ông, vì ông ta không dùng Bcc, nên tôi thấy cả trăm địa chỉ e-mail trên điện thư), một bài liệt kê con số những người có súng ống trong tay ở Mỹ, lên tới mấy chục triệu, vì quyền mang súng của họ đã được Tu chính pháp số hai (Second Amendment) của Mỹ công nhận. Rồi tác giả cái điện thư đó kết luận Hoa Kỳ không cần phải duy trì một lực lượng quân đội đông đảo và tốn kém như vậy, vì đã có những đoàn dân quân (militia) này sẵn sàng bảo vệ đất nước nếu cần. Biết các nhóm dân quân này thường có tinh thần kỳ thị chủng tộc và cả phụ nữ, tôi đã tính hỏi đùa Ed liệu anh có chịu bảo vệ tôi, một phụ nữ Á đông, khi cần, không. Nhưng tôi bỏ qua, xoá điện thư Ed chuyển cho tôi đi. Tuy vậy, tôi biết Ed là người bảo thủ, có thể cả kỳ thị chủng tộc, mặc dù anh ta đối với tôi rất tốt, ân cần, vì tôi là khách hàng của anh ta.
Hai hôm sau khi tin bin Laden bị giết, có lẽ kềm lòng không nổi nữa, Ed chuyển đi một cái “Cáo phó” (Obituary) của ai đó gửi cho anh, cho cả thẩy trên 140 người thân và quen mà anh ta có địa chỉ e-mail, kể cả tôi. Thoạt tiên tôi tưởng là cáo phó về bin Laden. Hoá ra là cáo phó cho… nước Mỹ: sinh 1776 (năm Hoa Kỳ tuyên bố độc lập với Anh Quốc), chết 2008 (năm Obama đắc cử tổng thống). Thứ này tôi đã nhận được nhiều, từ khi nước Mỹ có vị tổng thống đầu tiên là người (nửa) da đen. Đây là một thứ urban legend, tiên đoán ngày mạt vận của nước Mỹ với việc đắc cử của Obama, một người da đen, dù chỉ có 50 phần trăm đen. Thế nhưng nó lưu hành trên Internet và được nhiều người tin, như đã tin hình bin Laden bị bắn chết.
Ed, cũng như tác giả của “cáo phó” cho nước Mỹ và chắc còn nhiều người khác nữa, có lẽ không chấp nhận được việc Obama và ban tham mưu của ông đã làm được cái việc mà tiền nhiệm của ông, Tổng thống George W. Bush của đảng Cộng Hoà, đã không làm được trong suốt thời gian từ 2001 đến 2008, với bao nhiêu ngàn lính Mỹ đã bị hy sinh và nhiều ngàn người phải mang thương tích suốt đời, đấy là chưa kể dân sự bị chết oan tại Iraq và Afghanistan, và một nước Mỹ kinh tế te tua, nợ nần có lẽ tới đời con cháu của chúng ta cũng không trả hết được.
Thực ra, công bình mà nói, ông Bush hồi ấy chưa thành công vì cũng tại chưa đến lúc vậy thôi, vì không ai phủ nhận được sự thành công của chính phủ của ông Obama đã được xây dựng trên chính những nỗ lực liên tục của chính phủ tiền nhiệm, với sự phối hợp của nhiều cơ quan trong chính phủ, từ tình báo tới quân đội, trong suốt 10 năm qua.
Tôi không dám hình dung chuyện gì sẽ xảy ra nếu chính phủ Mỹ công bố hình ảnh xác bin Laden. Tôi đồng ý với ông Obama khi ông tuyên bố: “[Phổ biến hình ảnh để minh chứng bin Laden đã thực sự bị giết] không phải là bản chất của chúng ta. Mọi người biết đấy, chúng ta không khoe những thứ này như một thành tích.” (That’s not who we are. You know, we don’t trot out this stuff as trophies.)
Có nhà báo nói, nửa đùa nửa thật, thôi thì đành chờ… WikiLeaks cung cấp những hình đó vậy.
… tới bức ‘Situation Room Photo’
Đến hôm nay, ngày 6 tháng 5, bức hình nay có tên là Situation Room Photo, tự nó đã có đời sống riêng của nó, và người chụp vốn là nhiếp ảnh viên chính thức của toà Bạch Ốc, đã hẳn không còn là cha tinh thần của nó nữa. Hàng triệu người đã thấy nó, đã bị lôi cuốn, đã thích thú, đã soi bói, đã bàn luận và phân tích, cả chất vấn, và mặc sức… hoán đổi (altered, hoặc tiếng nhà nghề là photoshopped).