Bài gốc: How Asia Copeswith America’sZombie?
Bài viết của Stephen S. Roach, một giảng viên tại Yale University, ông còn là Non-Executive Chairman của chi nhánh Morgan Stanley châu Á và tác giả của cuốn The next Asia (do Wiley xuất bản năm 2009).
NEW HAVEN - Châu Á cần có một khách hàng mới. Một thế hệ sau cuộc khủng hoảng của những "khách hàng thây ma" (1) tại Hoa Kỳ có khả năng tăng trưởng què quặt cho tiêu thụ toàn cầu trong nhiều năm tới. Và điều đó có nghĩa là châu Á đang phát triển nhờ xuất khẩu hiện nay không có lựa chọn, nhưng có thể chuyển và dựa vào 3,5 tỷ người tiêu dùng của mình.
Tất nhiên, đây không phải là lần đầu tiên mà châu Á đã phải đối mặt với cái chết kinh tế đang diễn biến. Những thây ma tập đoàn Nhật Bản đang ở tâm điểm đầu tiên của "thập kỷ mất mát" trong những năm 1990s. Những công ty thiếu năng động được đặt vào hỗ trợ tín dụng cho sự sống bỡi các Zaibatsu (2) - các đối tác như là ngân hàng – đang trì hoãn thất bại không thể tránh khỏi của họ và duy trì sự thiếu hiệu quả và làm thoái chí dẫn đến sự sụp đổ sau hậu quả bong bóng trong tăng trưởng kinh tế Nhật Bản.
Tương tự như vậy, cuộc khủng hoảng 2008-2009 đang tạo ra những thây ma cần cứu trợ ở phương Tây. Từ Wall Street đến AIG (American International Group: tập đoàn bảo hiểm đa quốc gia của Mỹ) cho đến Detroit, Mỹ đã nhanh chóng giải cứu những tập đoàn khổng lồ và bỏ rơi một số tập đoàn khác. Anh và Châu Âu cũng làm tương tự, họ ném mạch sống đển RBS (Royal Bank of Scotland), HBOS (Tập đoàn ngân hàng và bảo hiểm của Anh), Lloyds, Fortis, Hypo Real Estate, và những tập đoàn khác. Ở phương Tây, lý do là ”quá lớn để sụp đổ”. Nó khác nhau như thế nào với suy thoái của Nhật Bản gần 20 năm trước?
Nhưng nổi bật nhất của những thây ma kinh tế như là một nhát dao cắt ngang rộng khắp ở người tiêu dùng Mỹ, những người vẫn còn những nỗi đau khổ từ sự tàn phá của cuộc Đại suy thoái. Bị ảnh hưởng bởi tỷ lệ thất nghiệp cao có tính lịch sử, mất việc làm ào ạt, và những đồng lương trì trệ, trong khi gánh các khoản thế chấp lún quá sâu, nợ quá nhiều, và tiết kiệm cổ phiếu, người tiêu dùng Mỹ bị siết họng hơn bao giờ hết.
Đúng lúc này thì, chính phủ Mỹ đã cố gắng hầu như tất cả mọi biện pháp để ngăn chặn tiêu dùng bằng cách điều chỉnh. Chính phủ Mỹ đã làm quá những đòi hỏi cần thiết cho trợ cấp thất nghiệp, bảo hiểm, mạng lưới an toàn xã hội đã được tung ra để ôm đồm việc ngăn chặn chương trình tịch biên nhà đất, các hình thức giãn nợ, và kích thích tiền tệ và tài chính một cách mạnh mẽ.
Lòng trắc ẩn là một dàn khung đạo đức của bất kỳ xã hội nào. Nhưng một lằn ranh mỏng ngăn cách nó với "sự hủy diệt sáng tạo" đó là điều cần thiết để thanh lọc một hệ thống sau khủng hoảng do những hành động thái quá. Nhật Bản vượt qua lằn ranh vào những năm 1990s, khi những công ty thây ma bị ngăn cản một cách đau đớn bằng những điều chỉnh cần thiết cho nền kinh tế sau phát triển bong bóng. Điều đó có thể xảy ra ở Mỹ nếu Washington tiếp tục chính sách ủng hộ bỏ qua sự thái quá thiếu thận trọng của quá khứ gần đây và ngăn cấm sự giãn nợ và quyết toán sửa chữa mà những thây ma người tiêu dùng của Mỹ bây giờ cần phải chữa lành vết thương hậu khủng hoảng.
Mặc cho các sáng kiến hỗ trợ đời sống của chính phủ, người tiêu dùng Mỹ dường như đang hướng đến năm cắt giảm chi tiêu. Thị phần tiêu thụ của Mỹ hiện đang cao, chiếm 70% GDP. Đó là nó đã xuống từ mức cao 71,3% vào đầu năm 2009, nhưng nó vẫn còn cao hơn 4% so với mức 66%, cái mức chiếm ưu thế trong 25 năm cuối của thế kỷ XX.
Phải trở lại thị phần trước đó khi người tiêu dùng Mỹ phải chuyển sự hỗn loạn do bùng nổ của thời kỳ thịnh vượng sang sự tỉnh táo trong tiêu dùng trong thời kỳ suy thoái . Đó là phép thuật chinh phục tốc độ tăng trưởng ở thị trường tiêu dùng Mỹ trong những năm tới - với một tác động dự đoán với quy mô lớn vào tiêu thụ toàn cầu. Hãy cứ nhìn, trong khi Mỹ chỉ chiếm 4,5% dân số thế giới, nhưng người tiêu dùng Mỹ chi tiêu đến mười ngàn ba trăm tỷ đô la hàng năm - nhiều nhất trên thế giới.
Vì vậy, với tăng trưởng tiêu dùng Mỹ bị hạn chế, những nơi nào sẽ xảy ra suy thoái như ở Mỹ? Châu Âu? hay Nhật Bản? Tôi không đặt dự đoán của mình vào một trong hai nơi này.
Châu Á là nơi phù hợp với tình hình. Là một khu vực xuất khẩu, châu Á vẫn còn phụ thuộc nhiều vào nhu cầu thị trường cuối cùng của người tiêu dùng ở các nước phát triển. Thị phần xuất khẩu của 12 nền kinh tế lớn nhất đang phát triển của châu Á đã tăng từ 35% sản lượng xuất khẩu của toàn khu vực vào cuối những năm 1990s lên 45% vào đầu năm 2007. Hiển nhiên là mỗi nền kinh tế trong khu vực hoặc là rơi vào suy thoái hoặc đột ngột trải qua tăng trưởng chậm khi thương mại toàn cầu sụt giảm vào cuối năm 2008. Không thể tách rời tăng trưởng kinh tế châu Á và thị trường tiêu thụ to lớn của Mỹ.
Châu Á cũng không nên có một ý thức sai lầm về an ninh từ tất cả những cường điệu hiện đang được chấp nhận với những hy vọng và ước mơ của một cái gọi là "thế giới hai tốc độ". Châu Á phải tìm kiếm sự hỗ trợ từ một nguồn nhu cầu mới, thay vì phụ thuộc nặng vào thị trường của phương Tây.
Nó phải bắt đầu bằng cách soi lại mình. Đối với phát triển châu Á hầu như giống nhau, cả tiêu dùng cá nhân nội địa hiện đang đứng ở mức thấp kỷ lục chỉ 45% của GDP – rớt mất mười phần trăm từ 55% thị phần mới đây vào năm 2002.
Không phải là nhu cầu tiêu dùng châu Á ngủ đông. Mà là, tăng trưởng kinh tế châu Á đang đi lệch hướng, nặng về xuất khẩu và đầu tư cố định như là phương tiện chính để thu hút lao động dư thừa và tạo ra thịnh vượng. Trong một thế giới sau khủng hoảng - suy giảm do thây ma người tiêu dùng của Mỹ - Nhu cầu quan trọng một châu Á chủ đạo xuất khẩu là cần tái cân bằng thúc đẩy tiêu thụ.
Không ở đâu có bằng chứng rõ ràng hơn ở Trung Hoa. Với thông tin tiêu dùng đã giảm đến một mức thấp kỷ lục 35% GDP trong năm 2008 (thấp hơn 10% chỉ tiêu của châu Á), Trung Hoa phải đối mặt với mệnh lệnh tái cân bằng lớn - tất cả phải cấp bách hơn nếu sau cuộc khủng hoảng mà tăng trưởng tiêu thụ ở phương Tây vẫn còn yếu.
Tin tốt lành là Trung Hoa dường như đã đi đến một kết luận tương tự. Kế hoạch 5 năm lần thứ 12 là tập trung vào ba sáng kiến thúc đẩy tiêu dùng: việc làm (đặc biệt là lao động dịch vụ); tiền lương (chú trọng tình trạng gia tăng đô thị hóa); và giảm tiết kiệm phòng ngừa cho tương lai ở hộ gia đình (bằng cách mở rộng của an sinh xã hội). Nếu Trung Hoa thực hiện ba mặt trận này - như tôi cho là nó sẽ xảy ra – Thì thông tin tiêu dùng của Trung Hoa có thể tăng khoảng 5% GDP từ nay đến năm 2015.
Đó sẽ là tin tốt cho nền kinh tế Đông Á - cụ thể là, Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Với dân số tương đối nhỏ - và một giảm sút dân số trong trường hợp của Nhật Bản - những nước này không có sự lựa chọn, nhưng phải dựa vào xuất khẩu và nhu cầu bên ngoài để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Lúc đó, đối với cả ba nước Nhật, Hàn và Đài, Trung Hoa sẽ thay thế Mỹ để trở thành thị trường xuất khẩu chủ yếu của họ.
Đó là sự thay đổi xảy ra đúng thời điểm (in the nick of time). Nếu Trung Hoa thành công trong việc thực hiện thúc đẩy tiêu dùng của chương trình nghị sự, phần còn lại của châu Á sẽ có vị thế tốt để tránh những hậu quả những thây ma từ thế hệ mới của người tiêu dùng Mỹ. Hoa Kỳ phản ứng như thế nào là một vấn đề hoàn toàn khác với vấn đề hiện thời của các nước châu Á.
Bản quyền: Project Syndicate, 2011.
www.project-syndicate.org
www.project-syndicate.org
---------------------------------------------------
Ghi chú của người dịch: 1. Zonbie Consumers: khách hàng thây ma. Còn có thể dịch là khách hàng tiêu thụ thoi thóp, hay khách hàng vật vờ, hấp hối… Ở đây tôi dùng từ thây ma để nói lên tình trạng sa sút không chỉ có thị trường tiêu thụ sau Đại khủng hoảng kinh tế mà còn cho cả các tập đoàn và công ty đang trên tình trạng sụp đổ.
2. Zaibatsu: từ của Nhật để chỉ các tập đoàn tài phiệt lớn kinh doanh nhiều lĩnh vực, trong đó có cả ngân hàng tư nhân của họ đứng đằng sau để hỗ trợ vốn cho sự phát triển hoặc khống chế sụp đổ do suy thoái của các công ty con trong một Zaibatsu. Ở Việt Nam gần đây, một số tập đoàn tư nhân lớn cũng đã bắt đầu tự gầy dựng cho mình những ngân hàng để tự hỗ trợ kinh doanh cho bản thân, bắt chước theo mô hình Zaibatsu của Nhật. Nhưng hướng phát triển và đầu tư của các loại Zaibatsu này của Việt Nam đang bị đi lệch hướng, là không vì thương hiệu Việt trên toàn cầu, mà chỉ tham gia vào đẩy lạm phát và bong bóng bất động sản ngày càng phình to.
BS Hồ Hải dịch - Asia Clinic, 15h50', ngày thứ Sáu, 20/5/2011
Những dự báo sai lầm về kinh tế Trung Quốc
VIT - Cùng với sự tăng trưởng kinh tế Trung Quốc, những dự báo sai lầm về nền kinh tế nước này đang ngày càng gia tăng. Trên thực tế, Trung Quốc không hề dẫn dắt kinh tế thế giới thoát khỏi suy thoái, bước tiến tới nền kinh tế thị trường của nước này đã dừng lại. Do đó có lẽ Trung Quốc mãi mãi cũng sẽ không thể vượt qua Mỹ.
Đó là nhận định của ông Derek Scissors, nghiên cứu viên của Trung tâm nghiên cứu châu Á Heritage
Mặc dù chịu ảnh hưởng bởi khủng hoảng tài chính, nhưng kinh tế Trung Quốc vẫn tăng trưởng nhanh. Chính những dự báo sai lầm về kinh tế Trung Quốc càng làm xôn xao dư luận. Một phần là do số liệu kinh tế mà chính phủ Trung Quốc cung cấp không đáng tin cậy và trên mức độ nhất định đó cũng là hậu quả của sự phán đoán và giải thích sai lầm của người Mỹ. Những lời thổi phồng như “10 năm Trung Quốc” và “thế kỷ Trung Quốc” là một sự hiểu sai lớn, một số trong đó đã được chứng minh là sai lầm rõ ràng.
Chính sách tốt bắt nguồn từ thông tin tốt. Nếu Mỹ muốn phản ứng sáng suốt trước sự trỗi dậy của Trung Quốc, thì cần phải lý giải đúng tốc độ và tính chất thực tế của sự phát triển này. Thổi phồng thực lực Trung Quốc và quấn quýt với những vấn đề sai lầm sẽ khiến chính sách kinh tế và ngoại giao của Mỹ mắc sai lầm, không ăn khớp với chiến lược đối phó Trung Quốc.
Thực tế đã chứng minh, không những Trung Quốc không hề dẫn thế giới thoát khỏi suy thoái kinh tế, mà còn tạo khoảng cách về trình độ kinh tế với Mỹ, càng không phải là túi tiền to của Mỹ, việc Trung Quốc chưa trở thành nền kinh tế dựa vào tiêu dùng mang ý nghĩa thật sự. Trái lại, tăng trưởng kinh tế Trung Quốc hiện tại là cái giá phải trả cho sự tăng trưởng kinh tế toàn cầu, về cơ bản, nền kinh tế lâu dài của Mỹ mạnh mẽ hơn Trung Quốc, việc Trung Quốc mua trái phiếu không quan trọng gì, hiện Trung Quốc vẫn quá phụ thuộc vào đầu tư hơn bất kỳ lúc nào trước đây, quốc gia này cũng là nước phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính lớn nhất thế giới cho đến nay.
Đối với Trung Quốc, vị trí của Mỹ lớn mạnh hơn nhiều so với tưởng tượng. Tuy nhiên, nước này cũng đang đối diện với những thách thức về chính sách như kho khăn trong việc khuyên bảo Trung Quốc tiến hành cải cách kinh tế thật sự. Mỹ sẽ khó tránh được những mối họa ngầm thay đổi ở bề nổi, chẳng hạn như tỷ giá, càng khó thu được tiến triển trong việc hối thúc Trung Quốc thúc đẩy thật sự cho tăng trưởng kinh tế thế giới.
Sai lầm 1: Trung Quốc hiện đang là động lực chính cho tăng trưởng kinh tế toàn cầu
Sự thật là: GDP Trung Quốc ảnh hưởng tới tăng trưởng của các nước khác trên thế giới
Tiêu chuẩn mà những người tin vào vị trí lãnh đạo của Trung Quốc áp dụng là tham khảo tình hình tăng trưởng GDP của mỗi một nước, rồi đem so sánh, sau đó xem nước nào chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng số lượng kinh tế toàn cầu. Nhưng điều này không phải là phương thức tác dụng thật sự của GDP.
Nếu một nước chi phối thành công các điều kiện thương mại, đồng thời thu về số tài sản cực lớn từ các đối tác của mình, GDP của nước đó sẽ tăng trưởng nhanh chóng, còn GDP của các đối tác sẽ thu hẹp hoặc tốc độ tăng trưởng rất chậm. Điều này cho thấy nước này đã lãnh đạo tăng trưởng kinh tế toàn cầu, nhưng trên thực tế nước này đút túi riêng trên cơ sở hy sinh các nước khác trên thế giới.
Nguyên nhân của sự hỗn loại này là việc GDP liên quan tới thương mại. Thặng dư thương mại giúp tăng GDP và thâm hụt thương mại làm giảm GDP. Trên thế giới, Trung Quốc sở hữu thặng dư thương mại lớn nhất, điều này đồng nghĩa, các nước khác trên thế giới đang có thâm hụt thương mại lớn với Trung Quốc.
Từ góc độ này cho thấy, Trung Quốc không hề phát huy bất kỳ vai trò gì trong tăng trưởng GDP toàn cầu. Thông qua thương mại, GDP của Trung Quốc tăng trưởng mạnh nhất, từ đó thu lợi lớn nhất từ các nước khác trên toàn cầu.
Sai lầm 2: Trung Quốc có thể vượt qua Mỹ trở thành nền kinh tế lớn nhất toàn cầu trong 10 năm tới.
Sự thật là: Trung Quốc có thể vĩnh viễn không thể vượt qua Mỹ
Một nhân tố trong dự đoán này là tỷ lệ tăng trưởng của Trung Quốc trong 30 năm qua, hai là tỷ lệ tăng trưởng kinh tế Mỹ trong 3 năm qua. Nhân tố thứ hai là quan trọng hơn cả: Nếu tỷ lệ tăng trưởng kinh tế Mỹ duy trì được ở mức của năm 2007 – 2009, xếp hạng GDP dường như không quan trọng. Mỹ cần phải nỗ lực hơn nữa để xác định chính sách quốc gia, cắt giảm mạnh thâm hụt ngân sách, ổn định lãi suất, phát triển thương mại, giảm cơ chế quản lý chính phủ, đặc biệt là thu thuế.
Nếu Mỹ áp dụng các biện pháp này, Trung Quốc cơ bản không thể vượt qua Mỹ, càng không thể có chuyện Trung Quốc vượt qua Mỹ trong 10 năm hay 15 năm tới. Lấy xu hướng của 30 năm trước để dự đoán 30 năm tới là một sai lầm cơ bản. Trung Quốc những năm 1949 – 1978 khác với Trung Quốc từ năm 2010 – 2040, do dó có đủ lý do tin rằng, từ năm 2010 – 2040 cũng sẽ không giống nhau.
Vấn đề quan trọng nhất và chắc chắn nhất là tình trạng dân số già đang đe dọa Trung Quốc. Đặc điểm của 30 năm qua là dân số gia tăng vô cùng có lợi cho tăng trưởng kinh tế Trung Quốc. Còn đặc điểm của 30 năm tới là điều kiện dân số không có lợi cho tăng trưởng kinh tế. Sự chuyển đổi cơ cấu dân số từ có lợi cho tăng trưởng đến bất lợi cho tăng trưởng sẽ bắt đầu vào giữa khoảng thời gian 10 năm, và sẽ tiếp tục vô thời hạn.
Năm 1985, số dân trong độ tuổi lao động từ 15 – 29 chiếm 47% tổng dân số. Nhưng đến năm 2030, họ sẽ chỉ còn chiếm 26%, dự đoán số người trên 65 tuổi sẽ đạt tới con số báo động 280 triệu người. Số nhân viên công tác quá ít, khó mà nuôi sống quá nhiều số người trong độ tuổi nghỉ hưu.
Nhật Bản - nhà thách thức kinh tế của Mỹ trước kia, đã từng gặp vấn đề tương tự. Trong 15 năm qua, kinh tế Nhật Bản cơ bản không tăng trưởng. Sau 15 năm tới, cơ cấu dân số Trung Quốc sẽ càng giống Nhật Bản hiện nay.
Việc Trung Quốc coi trọng nền công nghiệp cũng đã gây ra vấn đề ô nhiễm nghiêm trọng. Trung Quốc không muốn nghiên cứu những ảnh hưởng của ô nhiễm đối với tuổi thọ. Nhưng theo nhiều nguồn tin, ít nhất trong 10 qua, tình trạng dị tật bẩm sinh ngày càng nghiêm trọng, xảy ra ngay cả ở các tỉnh giàu có.
Mặc dù chịu ảnh hưởng bởi khủng hoảng tài chính, nhưng kinh tế Trung Quốc vẫn tăng trưởng nhanh. Chính những dự báo sai lầm về kinh tế Trung Quốc càng làm xôn xao dư luận. Một phần là do số liệu kinh tế mà chính phủ Trung Quốc cung cấp không đáng tin cậy và trên mức độ nhất định đó cũng là hậu quả của sự phán đoán và giải thích sai lầm của người Mỹ. Những lời thổi phồng như “10 năm Trung Quốc” và “thế kỷ Trung Quốc” là một sự hiểu sai lớn, một số trong đó đã được chứng minh là sai lầm rõ ràng.
Chính sách tốt bắt nguồn từ thông tin tốt. Nếu Mỹ muốn phản ứng sáng suốt trước sự trỗi dậy của Trung Quốc, thì cần phải lý giải đúng tốc độ và tính chất thực tế của sự phát triển này. Thổi phồng thực lực Trung Quốc và quấn quýt với những vấn đề sai lầm sẽ khiến chính sách kinh tế và ngoại giao của Mỹ mắc sai lầm, không ăn khớp với chiến lược đối phó Trung Quốc.
Thực tế đã chứng minh, không những Trung Quốc không hề dẫn thế giới thoát khỏi suy thoái kinh tế, mà còn tạo khoảng cách về trình độ kinh tế với Mỹ, càng không phải là túi tiền to của Mỹ, việc Trung Quốc chưa trở thành nền kinh tế dựa vào tiêu dùng mang ý nghĩa thật sự. Trái lại, tăng trưởng kinh tế Trung Quốc hiện tại là cái giá phải trả cho sự tăng trưởng kinh tế toàn cầu, về cơ bản, nền kinh tế lâu dài của Mỹ mạnh mẽ hơn Trung Quốc, việc Trung Quốc mua trái phiếu không quan trọng gì, hiện Trung Quốc vẫn quá phụ thuộc vào đầu tư hơn bất kỳ lúc nào trước đây, quốc gia này cũng là nước phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính lớn nhất thế giới cho đến nay.
Đối với Trung Quốc, vị trí của Mỹ lớn mạnh hơn nhiều so với tưởng tượng. Tuy nhiên, nước này cũng đang đối diện với những thách thức về chính sách như kho khăn trong việc khuyên bảo Trung Quốc tiến hành cải cách kinh tế thật sự. Mỹ sẽ khó tránh được những mối họa ngầm thay đổi ở bề nổi, chẳng hạn như tỷ giá, càng khó thu được tiến triển trong việc hối thúc Trung Quốc thúc đẩy thật sự cho tăng trưởng kinh tế thế giới.
Sai lầm 1: Trung Quốc hiện đang là động lực chính cho tăng trưởng kinh tế toàn cầu
Sự thật là: GDP Trung Quốc ảnh hưởng tới tăng trưởng của các nước khác trên thế giới
Tiêu chuẩn mà những người tin vào vị trí lãnh đạo của Trung Quốc áp dụng là tham khảo tình hình tăng trưởng GDP của mỗi một nước, rồi đem so sánh, sau đó xem nước nào chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng số lượng kinh tế toàn cầu. Nhưng điều này không phải là phương thức tác dụng thật sự của GDP.
Nếu một nước chi phối thành công các điều kiện thương mại, đồng thời thu về số tài sản cực lớn từ các đối tác của mình, GDP của nước đó sẽ tăng trưởng nhanh chóng, còn GDP của các đối tác sẽ thu hẹp hoặc tốc độ tăng trưởng rất chậm. Điều này cho thấy nước này đã lãnh đạo tăng trưởng kinh tế toàn cầu, nhưng trên thực tế nước này đút túi riêng trên cơ sở hy sinh các nước khác trên thế giới.
Nguyên nhân của sự hỗn loại này là việc GDP liên quan tới thương mại. Thặng dư thương mại giúp tăng GDP và thâm hụt thương mại làm giảm GDP. Trên thế giới, Trung Quốc sở hữu thặng dư thương mại lớn nhất, điều này đồng nghĩa, các nước khác trên thế giới đang có thâm hụt thương mại lớn với Trung Quốc.
Từ góc độ này cho thấy, Trung Quốc không hề phát huy bất kỳ vai trò gì trong tăng trưởng GDP toàn cầu. Thông qua thương mại, GDP của Trung Quốc tăng trưởng mạnh nhất, từ đó thu lợi lớn nhất từ các nước khác trên toàn cầu.
Sai lầm 2: Trung Quốc có thể vượt qua Mỹ trở thành nền kinh tế lớn nhất toàn cầu trong 10 năm tới.
Sự thật là: Trung Quốc có thể vĩnh viễn không thể vượt qua Mỹ
Một nhân tố trong dự đoán này là tỷ lệ tăng trưởng của Trung Quốc trong 30 năm qua, hai là tỷ lệ tăng trưởng kinh tế Mỹ trong 3 năm qua. Nhân tố thứ hai là quan trọng hơn cả: Nếu tỷ lệ tăng trưởng kinh tế Mỹ duy trì được ở mức của năm 2007 – 2009, xếp hạng GDP dường như không quan trọng. Mỹ cần phải nỗ lực hơn nữa để xác định chính sách quốc gia, cắt giảm mạnh thâm hụt ngân sách, ổn định lãi suất, phát triển thương mại, giảm cơ chế quản lý chính phủ, đặc biệt là thu thuế.
Nếu Mỹ áp dụng các biện pháp này, Trung Quốc cơ bản không thể vượt qua Mỹ, càng không thể có chuyện Trung Quốc vượt qua Mỹ trong 10 năm hay 15 năm tới. Lấy xu hướng của 30 năm trước để dự đoán 30 năm tới là một sai lầm cơ bản. Trung Quốc những năm 1949 – 1978 khác với Trung Quốc từ năm 2010 – 2040, do dó có đủ lý do tin rằng, từ năm 2010 – 2040 cũng sẽ không giống nhau.
Vấn đề quan trọng nhất và chắc chắn nhất là tình trạng dân số già đang đe dọa Trung Quốc. Đặc điểm của 30 năm qua là dân số gia tăng vô cùng có lợi cho tăng trưởng kinh tế Trung Quốc. Còn đặc điểm của 30 năm tới là điều kiện dân số không có lợi cho tăng trưởng kinh tế. Sự chuyển đổi cơ cấu dân số từ có lợi cho tăng trưởng đến bất lợi cho tăng trưởng sẽ bắt đầu vào giữa khoảng thời gian 10 năm, và sẽ tiếp tục vô thời hạn.
Năm 1985, số dân trong độ tuổi lao động từ 15 – 29 chiếm 47% tổng dân số. Nhưng đến năm 2030, họ sẽ chỉ còn chiếm 26%, dự đoán số người trên 65 tuổi sẽ đạt tới con số báo động 280 triệu người. Số nhân viên công tác quá ít, khó mà nuôi sống quá nhiều số người trong độ tuổi nghỉ hưu.
Nhật Bản - nhà thách thức kinh tế của Mỹ trước kia, đã từng gặp vấn đề tương tự. Trong 15 năm qua, kinh tế Nhật Bản cơ bản không tăng trưởng. Sau 15 năm tới, cơ cấu dân số Trung Quốc sẽ càng giống Nhật Bản hiện nay.
Việc Trung Quốc coi trọng nền công nghiệp cũng đã gây ra vấn đề ô nhiễm nghiêm trọng. Trung Quốc không muốn nghiên cứu những ảnh hưởng của ô nhiễm đối với tuổi thọ. Nhưng theo nhiều nguồn tin, ít nhất trong 10 qua, tình trạng dị tật bẩm sinh ngày càng nghiêm trọng, xảy ra ngay cả ở các tỉnh giàu có.
Theo Yeeyan