M. Bulgakov (1891-1940)
- – Stalin đã thuyết phục Mikhail Bulgakov không rời khỏi Liên Xô như thế nào? (VHNA)
Lời người dịch: Mikhail Bulgakov (15/5/1891 – 12/3/1940) là một trong những nhà văn lớn nhất và kì bí nhất của nước Nga, hành trình cuộc đời, hành trình văn chương của ông trên dưới trăm năm đầy gian nan thăng trầm nhưng hướng về bất tử. Mối quan tâm đối với sự nghiệp sáng tác của Bulgakov mỗi ngày một tăng ở Nga và ở nhiều nơi trên thế giới, hầu hết tác phẩm của ông được in, tái bản, dịch, dựng phim... Xuất hiện ngày càng nhiều những công trình nghiên cứu "Bulgakov học". Ông là một trong số rất ít nhà văn được làm "Bách khoa toàn thư"; và đặc biệt, Bulgakov có lẽ là một trong những nhà văn có tác phẩm được đưa lên và được đọc nhiều nhất trên mạng Internet.
Dưới đây là đoạn trích từ cuốn sách Stalin và các nhà văn (Nxb Eksmo, 2009) của nhà phê bình nổi tiếng Benedikt Sarnov về mối quan hệ giữa Stalin với Mikhail Bulgakov.
Vào tháng 7 năm 1929, M. A. Bulgakov gửi đến “Tổng Bí thư Đảng I. V. Stalin, Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương M. I. Kalinin, Tổng Cục trưởng Tổng Cục Văn học Nghệ thuật A. I. Sviderski, Aleksei Maksimovitr Gorki” một TUYÊN BỐ(1), trong đó viết rằng ông “không còn đủ sức tồn tại, bị truy bức, biết rằng sẽ không được in sách và dựng kịch trong lãnh thổ Liên Xô”, và “bị hành hạ đến suy nhược thần kinh”, ông gửi tới tất cả các quan chức nêu trên (về thực chất là tới Stalin) lời thỉnh nguyện “TRỤC XUẤT TÔI RA KHỎI LÃNH THỔ LIÊN XÔ CÙNG VỚI VỢ TÔI L. E. BULGAKOVA, người cũng đồng ý với đề nghị này”.
Ngày 30 tháng 7 cùng năm, Tổng Cục trưởng Tổng cục Văn học Nghệ thuật Cộng hòa XHCN Liên bang Nga A. I. Sviderski báo cáo Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Liên xô A. P. Smirnov về cuộc gặp và nói chuyện kéo dài với Bulgakov. Sviderski nói rằng ông có ấn tượng Bulgakov là một người đang bị truy bức, cùng đường và thậm chí không được khỏe về tâm thần. Theo ông, Bulgakov muốn, hay ít nhất cũng sẵn sàng hợp tác với chính quyền Xô viết, nhưng người ta “không cho và không giúp ông ta trong việc này”. Trong điều kiện như vậy, Sviderski cho rằng yêu cầu của nhà văn được xuất cảnh cùng với vợ ra nước ngoài là đúng và cần được đáp ứng.
Ngày 03 tháng 8 năm đó, Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng A. P. Smirnov chuyển đến Molotov(2) lá đơn của Bulgakov cùng bức thư của Sviderski và đề nghị gửi chúng tới các Ủy viên chính thức và dự khuyết Bộ Chính trị. Đồng thời ông tỏ ý nên thay đổi thái độ đối với Bulgakov. Không truy bức ông, mà phải “kéo về phía chúng ta”. Còn đối với yêu cầu của nhà văn trục xuất ông ra nước ngoài thì cần phải từ chối, vì “thả ông ta ra nước ngoài với tâm trạng đó có nghĩa là làm tăng thêm kẻ thù”.
Ngày 28 tháng 3 năm 1930 Bulgakov, không đợi được lời đáp nào cho “Tuyên bố” của mình, đã viết một bức thư thống thiết gửi “Chính phủ Liên Xô” (thực tế là cho Stalin), trong đó viết: “Tôi kêu gọi lòng nhân đạo của chính quyền Xô Viết và đại lượng cho phép tôi, một nhà văn không thể có ích ở trong nước, được tự do”.
Ngày 14 tháng 4 – tức là hai tuần sau khi bức thư này được gửi đi – Maiakovski đã tự bắn vào đầu.
Ngày 14 tháng 4 – tức là hai tuần sau khi bức thư này được gửi đi – Maiakovski đã tự bắn vào đầu.
Ngày 18, một ngày sau lễ an tang nhà thơ vừa tự sát, Stalin gọi điện cho Bulgakov.
Không thể nghi ngờ rằng giữa hai sự kiện đó có một sự liên hệ trực tiếp.
Sau vụ tự sát làm rung chuyển cả nước Nga và thế giới của Mayakovski thì Stalin chỉ còn thiếu thêm vụ tự sát của một nhà văn nổi tiếng bị hành hạ đến tuyệt vọng!
Mục tiêu mà Stalin muốn đạt được bằng cuộc điện thoại đó là rõ ràng. Cần phải làm yên lòng nhà viết kịch đang ở trong trạng thái thần kinh không lành mạnh, bằng một cách nào đó tháo gỡ tình huống - nếu không giải quyết được dứt điểm thì ít ra cũng làm dịu đi.
Giải quyết tình trạng đó, tức là tháo gỡ cái nút bi kịch này, Stalin không thể. Bởi vì chỉ có thể giải quyết nó bằng hai cách.
“Tôi xin lưu ý rằng, không được viết đối với tôi cũng có nghĩa là bị chôn sống”, - Bulgacov đã viết trong bức thư của mình.
Cũng bằng chính những lời lẽ như vậy, một năm sau Zamiatin(3) viết cho Stalin: “... bị kết án tử hình, người viết lá thư này yêu cầu Ông thay mức án đó bằng một mức án khác. Không được viết và xuất bản đối với người nghệ sĩ đồng nghĩa với cái chết”.
Chỉ có một sự lựa chọn thay thế cho “mức án cao nhất” này: trục xuất ra khỏi biên giới.
Nhưng ra lệnh cho phép xuất bản sách và dựng kịch của Bulgakov thì Stalin không thể. (Vì sao không thể sẽ được nói đến dưới đây). Còn tại sao không thể đáp ứng yêu cầu trục xuất nhà văn khỏi Liên Xô thì chúng ta đã biết: “Thả ông ta ra nước ngoài với tâm trạng đó có nghĩa là làm tăng thêm kẻ thù”.
Stalin còn có thể làm gì trong tình huống này?
Chỉ có một: Chấp nhận phương án mà chính Bulgacov đã đưa ra trong bức thư của mình: “Tôi đề nghị bổ nhiệm tôi làm đạo diễn thử nghiệm ở Nhà hát Nghệ thuật số Một, trường học tốt nhất do các bậc thầy K. S. Stanislavski và V. I. Nemirovich-Dantrenko lãnh đạo.
Nếu không được làm đạo diễn, tôi xin làm diễn viên đóng vai phụ. Nếu làm diễn viên phụ cũng không được, tôi xin làm công nhân sân khấu.
Nếu cả điều đó cũng không thể được, tôi xin Chính phủ Xô Viết xử trí tôi như Chính phủ thấy cần thiết, nhưng hãy xử trí như thế nào đó, bởi vì đối với tôi, một nhà viết kịch đã có năm vở kịch, nổi tiếng ở Liên Xô và nước ngoài ngay trước mắt, VÀO THỜI ĐIỂM NÀY, là đói rách, bị vứt ra đường phố, và chết”.
Đó là một cơn kích động thần kinh. Hoặc, nếu bạn muốn, một ẩn dụ. Vì đâu phải ông thực sự muốn xin được bổ nhiệm làm diễn viên phụ hoặc công nhân sân khấu.
Vừa được nghe câu nói đầu tiên của Stalin: “Chúng tôi đã nhận được thư của ông ... Ông sẽ có lời đáp tốt đẹp” - Bulgacov đã tràn trề hi vọng.
Lời đáp tốt đẹp đối với ông chỉ có thể là một: bãi bỏ lệnh cấm đối với các vở kịch của ông. Tức là bãi bỏ “mức trừng phạt cao nhất”. Hoặc ít ra là thay “mức án cao nhất” này bằng một mức án khác: trục xuất khỏi đất nước.
Về phương án lựa chọn “lời đáp tốt đẹp” này đã được Stalin bóng gió để lộ trong câu nói tiếp theo của mình: “Mà có đúng là ông muốn xin ra nước ngoài? Chẳng lẽ chúng tôi đã làm ông chán ngấy lắm rồi sao?”
Đang sẵn hi vọng bởi lời bảo đảm của lãnh tụ rằng lời đáp cho bức thư của mình sẽ tốt đẹp, tức là hi vọng về việc bãi bỏ lệnh cấm đối với các vở kịch của mình, Bulgakov đáp:
- Trong thời gian gần đây tôi đã suy nghĩ rất nhiều về việc nhà văn Nga có thể sống ở ngoài Tổ quốc được không. Và tôi nghĩ rằng không thể.
Câu trả lời đó đã làm lãnh tụ hài lòng:
- Ông nói đúng. Tôi cũng nghĩ vậy.
Có thế chứ! Nhờ ơn Chúa! Nghĩa là bây giờ sẽ tiếp theo “lời đáp tốt đẹp” mà nhà văn đã được hứa hẹn.
Nhưng liền đó - như một xô nước lạnh dội lên đầu:
- Ông muốn làm việc ở đâu? Ở Nhà hát Nghệ thuật?
Thất vọng, Bulgakov lẩm bẩm:
- Vâng, tôi cũng muốn ... Nhưng họ ...
Mức án tử hình đã không được hủy bỏ. Còn sự thay thế “mức án cao nhất” bằng lệnh trục xuất ra nước ngoài thì chính ông vừa từ chối xong.
Vậy thì trong trường hợp này, “lời đáp tốt đẹp” ông được hứa hẹn là gì? Chỉ là người ta sẽ không để ông chết đói?
Một thất bại hoàn toàn.
Thực tế là Bulgakov đã KHÔNG NHẬN ĐƯỢC MỘT CHÚT GÌ đối với bức thư thống thiết của ông.
Có vẻ như đây chính là lúc để rơi vào tuyệt vọng hoàn toàn. Nhưng trái với mọi logic và lẽ thường tình, cuộc nói chuyện này với Stalin không những không làm suy yếu mà thậm chí còn tăng thêm hi vọng của ông vào một quyết định tốt đẹp cho số phận nhà văn của mình.
“Một công dân có những vở kịch được diễn, rồi người ta cấm chúng, vậy thì sao? Tại sao công dân đó, Sidor, Peter hay Ivan, lại gửi đủ các thứ đơn từ đến Ban Chấp hành Trung ương và Hội đồng Dân ủy, mà lại còn về chuyện nước ngoài? Và anh ta sẽ nhận được gì? Sẽ không có gì hết. Không xấu cũng không tốt. Đơn giản là sẽ không có câu trả lời. Và thế là đúng, là hợp lý. Bởi vì nếu bắt đầu trả lời tất cả các công dân Sidor này thì mọi việc sẽ trở nên hỗn loạn. Lí thuyết là thế, anh Vinkenti Vikentievitr ạ! Chỉ có điều nó chẳng để làm gì. Bởi vì vào đúng lúc tuyệt vọng nhất, thật may mắn, hơn một năm trước Tổng Bí thư đã phá vỡ lí thuyết đó, gọi điện cho tôi. Anh hãy tin vào đánh giá của tôi: ông ta đã dẫn dắt câu chuyện một cách mạnh mẽ, rõ ràng, quan cách và lịch sự. Trong trái tim của nhà văn lóe lên một tia hi vọng: Chỉ còn một bước nũa là ta sẽ được gặp ông ta và sẽ biết được số phận”. (M. Bulgakov. Tuyển tập tác phẩm, năm tập, tập 5. Moskva, 1990, trang 461 - 462).
Benedikt Sarnov
Đoàn Tử Huyến dịch
(Nguồn:http://www.m-a-bulgakov.ru)
(1)Nguyên văn tiếng Nga ЗАЯВЛЕНИЕ (Lời tuyên bố), còn có nghĩa là Đơn từ.
(2) Viatreslav Molotov (1890 – 1986): Nhà hoạt động chính trị Nga, Ủy viên Chủ tịch đoàn BCH Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội đồng Dân ủy Liên xô.
(1)Zamiatin (1884 – 1937): nhà văn Nga, tác giả của tiểu thuyết Chúng ta, bị cấm in ở Liên Xô, từ năm 1931 sống lưu vong ở Pháp.
-Bulgakov: Hành trình gian nan, thăng trầm và hướng về bất tử (15/05/2011)
- Mikhail Bulgakov (15/5/1891 – 12/3/1940) là một trong những nhà văn lớn nhất và kì bí nhất của nước Nga, hành trình cuộc đời, hành trình văn chương của ông trên dưới trăm năm đầy gian nan thăng trầm nhưng hướng về bất tử.
LTS: M. Bulgakov là nhà văn Nga khá quen thuộc với bạn đọc nước ta qua các tiểu thuyết Nghệ nhân và Margarita, Trái tim chó, Những quả trứng định mệnh, vở kịch Những ngày cuối cùng (Puskin) do Đoàn Tử Huyến chuyển ngữ. Nhân dịp 120 năm ngày sinh của nhà văn, xin trích đăng bài tổng hợp của dịch giả Đoàn Tử Huyến từ một số bài viết của mình thực hiện trong quá trình giới thiệu M. Bulgakov với bạn đọc Việt Nam.
Mikhail Bulgakov (15/5/1891 – 12/3/1940) là một trong những nhà văn lớn nhất và kì bí nhất của nước Nga, hành trình cuộc đời, hành trình văn chương của ông trên dưới trăm năm đầy gian nan thăng trầm nhưng hướng về bất tử. Mối quan tâm đối với sự nghiệp sáng tác của M. Bulgakov mỗi ngày một tăng ở Nga và ở nhiều nơi trên thế giới, hầu hết tác phẩm của ông được in, tái bản, dịch, dựng phim... Xuất hiện ngày càng nhiều những công trình nghiên cứu "Bulgakov học". Ông là một trong số rất ít nhà văn được làm "Bách khoa toàn thư"; và đặc biệt, Bulgakov có lẽ là một trong những nhà văn có tác phẩm được đưa lên và được đọc nhiều nhất trên mạng Internet.
Mikhail Bulgakov sinh ra, lớn lên và học hành tại thành phố Kiev, nên đến nay vẫn còn những tranh luận ông là nhà văn Nga hay Ucraina? Năm 1916, tốt nghiệp xuất sắc chuyên ngành Y khoa, ông tham gia Thế chiến I với tư cách bác sĩ. Từ tháng 9 năm 1921 đến cuối đời, M. Bulgakov sống và làm việc tại Moskva.
M. Bulgakov có thiên hướng văn học rất sớm - chín tuổi ông đọc Những linh hồn chết, rất thích văn trào phúng của N. Gogol, Saltưkov - Sedrin. Ông bắt đầu viết văn khi còn đang đi học. Những năm nội chiến ông đã có một số vở kịch được diễn tại mặt trận, làm báo, viết nhiều tiểu phẩm và truyện ngắn. Đầu năm 1925, phần thứ nhất tiểu thuyết Bạch vệ của ông ra mắt bạn đọc và được dư luận đánh giá cao, được chuyển thể thành kịch nói Những ngày của anh em Turbin và trình diễn thành công lớn tại Nhà hát Nghệ thuật Moskva.
Cũng trong năm 1925, M. Bulgakov in các thiên truyện vừa Ổ quỉ, Những quả trứng định mệnh và viết Trái tim chó. Ông lần lượt cho ra đời các kịch bản: Căn hộ của Dôia (1927), Chạy trốn (1928), Molier (1929) v.v... M. Bulgakov trở thành kịch tác gia Nga lớn nhất kể từ Sekhov. Nhưng vào thời đó xung quanh các tác phẩm của ông diễn ra những cuộc tranh luận quyết liệt. M. Gorki, V. Veresaiev, K. Stanislavxki… đánh giá cao M. Bulgakov, nhưng những người phủ nhận ông nhiều hơn và quyết liệt hơn.
Theo lời nhà văn, trong một thời gian ngắn trên báo chí đã xuất hiện 298 bài phê bình thù địch tác phẩm của ông, buộc tội ông đứng về phía Bạch vệ bôi nhọ cách mạng. Từ năm 1929, sau ý kiến Stalin cho rằng Chạy trốn là một hiện tượng chống Xô Viết, hầu hết các vở kịch của M. Bulgakov bị cấm diễn. Sách của ông không được in, người quen lánh dần, tiền hết, không có việc làm, muốn xin làm người gác cổng cũng chẳng ai dám nhận. Trong cảnh cùng quẫn đó, ngày 28 tháng 3 năm 1930, M. Bulgakov gửi cho Chính phủ Xô Viết một lá thư: "... Tôi xin Chính phủ Liên Xô lưu ý rằng tôi không phải là một nhà hoạt động chính trị, mà là một nhà văn, toàn bộ sản phẩm của tôi, tôi đã trao cho sân khấu Xô Viết (...) Tôi xin lưu ý rằng, không được viết đối với tôi có nghĩa là bị chôn sống (...) Nếu những gì tôi viết không đủ sức thuyết phục và tôi buộc phải chung thân im lặng ở Liên Xô, tôi đề nghị Chính phủ Xô Viết cho tôi việc làm theo nghề nghiệp ở nhà hát với tư cách đạo diễn (...) Nếu không được làm đạo diễn, tôi xin làm diễn viên đóng vai phụ. Nếu làm diễn viên phụ cũng không được, tôi xin làm công nhân sân khấu..."
Hai mươi ngày sau, 18 tháng 4 năm 1930, tức là bốn ngày sau khi thiên tài V. Maiakovski bắn vào đầu tự tử để lại bài thơ tuyệt mệnh và bức chúc thư Gửi đồng chí Chính phủ, Stalin đích thân gọi điện cho M. Bulgakov. Tổng bí thư trung ương Đảng hứa giúp đỡ nhà văn, hẹn sẽ trực tiếp gặp nói chuyện với ông. Khẩu súng lục đã chuẩn bị sẵn trong ngăn kéo, M. Bulgakov đem vứt xuống hồ ở công viên Novodevitre. Mấy ngày sau ông được nhận vào làm đạo diễn ở Nhà hát Nghệ thuật Moskva.
Quan hệ của Stalin với những nhà văn Xô Viết thời đó là một đề tài thú vị. Stalin rất quan tâm đến những sáng tác của M. Bulgakov. Theo tài liệu lưu trữ của Nhà hát Nghệ thuật Moskva, Stalin đã xem Những ngày của anh em Turbin 15 lần, xem duyệt Căn hộ của Dôia không ít hơn 8 lần. Stalin đánh giá Những ngày của anh em Turbin đã chứng minh sự phá sản của phong trào Bạch vệ, còn về vở Chạy trốn thì gợi ý nó có thể được diễn nếu tác giả viết thêm một vài cảnh để làm rõ nguyên nhân thất bại của phe Bạch vệ. Nhưng nhà văn giữ nguyên lập trường nghệ thuật của mình, và Chạy trốn sau ba chục năm mới bắt đầu được dựng, được in thành sách, được quay phim...
M. Bulgakov chờ đợi và đặt nhiều hi vọng vào cuộc gặp gỡ với Stalin, nhưng nó đã không bao giờ diễn ra. Ngày 30 tháng 5 năm 1931, M. Bulgakov viết tiếp một bức thư đề gửi Tổng bí thư trung ương Đảng Stalin. Thư viết: "Tôi xin thông báo rằng, sau một năm rưỡi im lặng, trong tôi có những dự định mới lại bùng lên với một sức mạnh không thể kìm nổi, những dự định đó rộng lớn và mãnh liệt, tôi xin Chính phủ tạo điều kiện cho tôi thực hiện chúng (...) Tôi có những dự định, nhưng không có sức lực, không có những điều kiện cần thiết để làm việc".
Nhà văn tự gọi mình là "Con sói văn học duy nhất trên văn đàn Nga" (...) "Người ta khuyên tôi nên nhuộm lông đi. Một lời khuyên vô nghĩa. Sói dù có nhuộm, có cắt lông đi thì nó vẫn không thể nào giống với chó cảnh nuôi nhà được".
"Người ta đối xử với tôi như đối với một con sói. Và đã nhiều năm nay người ta săn đuổi tôi như săn đuổi một con thú bị bắt nhốt vào trong khoảng sân rào kín theo các nguyên tắc của một cuộc đầu độc văn học.
Tôi không căm giận, nhưng tôi rất mệt, và cuối năm 1929 thì tôi gục. Bởi vì con thú cũng có thể mệt lắm chứ.
Con thú đã tuyên bố rằng nó không phải là sói nữa, không phải là nhà văn nữa. Từ bỏ nghề nghiệp của mình. Im lặng. Điều đó, xin nói thẳng ra, là hèn nhát.
Không có một nhà văn nào lại có thể im lặng được. Nếu anh ta im lặng, thì có nghĩa đó không phải là nhà văn chân chính.
Còn nếu nhà văn chân chính mà im lặng thì anh ta sẽ chết”.
Những lời trên của M. Bulgakov nói lên cốt lõi quan niệm của ông về thiên chức của nhà văn. Điều sau này ông đã thể hiện đầy đủ và trọn vẹn qua hình tượng Nghệ Nhân trong cuốn tiểu thuyết lớn nhất của mình. Cho đến cuối đời M. Bulgakov đã làm trọn thiên chức đó: ông không im lặng, ông sáng tác. Mặc dù từ cuối những năm 1920 cho đến khi ông mất, và thêm cả gần một phần tư thế kỉ tiếp theo, ông không được in một dòng nào, hàng loạt tác phẩm của ông vẫn lần lượt ra đời: các vở kịch Adam và Eva, Đảo thắm, Niềm hoan lạc, Những ngày cuối cùng (Puskin), kịch bản chuyển thể Những linh hồn chết, Chiến tranh và hòa bình, v.v... Tổng số ông viết đến mười bốn vở kịch; văn xuôi có Molier (truyện danh nhân), Tiểu thuyết sân khấu (Những ghi chép của người quá cố), và tác phẩm bất hủ Nghệ Nhân và Margarita.
Và từ năm 1962 bắt đầu sự "lớn tiếng" của M. Bulgakov. Trong vòng chừng dăm năm, với một số (chưa phải là tất cả!) tác phẩm được công bố, M. Bulgakov đã trở thành "hiện tượng" trong độc giả Xô Viết và vượt ra biên giới ngoài nước. Tuy nhiên, giới phê bình chính thống, các giáo sư vẫn chưa đánh giá cao ông. Phải đến thời "Cải tổ" cuối thập kỉ 1980, Bulgakov mới thực sự hiện diện hết tầm cỡ của mình. Tất cả những gì ông viết ra đều được in đi in lại, nhiều tác phẩm được dịch ra tiếng nước ngoài, đưa lên sân khấu.
Đặc biệt, tác phẩm của ông có một sức hút ma quái đối với các nhà làm phim - hầu hết những tiểu thuyết, truyện vừa của ông đã được đưa lên màn bạc. Xuất hiện vô vàn các công trình nghiên cứu, các sách chuyên luận về sự nghiệp sáng tác của ông. Những nhà văn lớn của thế kỉ, từ Tr. Aitmatov đến Gabriel Marquez, đánh giá cao M. Bulgakov và thừa nhận ảnh hưởng lớn lao của ông đối với nhiều nhà văn trên thế giới.
Ông mất lúc 16 giờ 39 phút ngày 10 tháng Ba năm 1940 vì bệnh xơ cứng thận, chưa qua nổi tuổi 49.
Đoàn Tử Huyến
Mikhail Bulgakov (15/5/1891 – 12/3/1940) là một trong những nhà văn lớn nhất và kì bí nhất của nước Nga, hành trình cuộc đời, hành trình văn chương của ông trên dưới trăm năm đầy gian nan thăng trầm nhưng hướng về bất tử. Mối quan tâm đối với sự nghiệp sáng tác của M. Bulgakov mỗi ngày một tăng ở Nga và ở nhiều nơi trên thế giới, hầu hết tác phẩm của ông được in, tái bản, dịch, dựng phim... Xuất hiện ngày càng nhiều những công trình nghiên cứu "Bulgakov học". Ông là một trong số rất ít nhà văn được làm "Bách khoa toàn thư"; và đặc biệt, Bulgakov có lẽ là một trong những nhà văn có tác phẩm được đưa lên và được đọc nhiều nhất trên mạng Internet.
Mikhail Bulgakov (15/5/1891 – 12/3/1940) |
Mikhail Bulgakov sinh ra, lớn lên và học hành tại thành phố Kiev, nên đến nay vẫn còn những tranh luận ông là nhà văn Nga hay Ucraina? Năm 1916, tốt nghiệp xuất sắc chuyên ngành Y khoa, ông tham gia Thế chiến I với tư cách bác sĩ. Từ tháng 9 năm 1921 đến cuối đời, M. Bulgakov sống và làm việc tại Moskva.
M. Bulgakov có thiên hướng văn học rất sớm - chín tuổi ông đọc Những linh hồn chết, rất thích văn trào phúng của N. Gogol, Saltưkov - Sedrin. Ông bắt đầu viết văn khi còn đang đi học. Những năm nội chiến ông đã có một số vở kịch được diễn tại mặt trận, làm báo, viết nhiều tiểu phẩm và truyện ngắn. Đầu năm 1925, phần thứ nhất tiểu thuyết Bạch vệ của ông ra mắt bạn đọc và được dư luận đánh giá cao, được chuyển thể thành kịch nói Những ngày của anh em Turbin và trình diễn thành công lớn tại Nhà hát Nghệ thuật Moskva.
Cũng trong năm 1925, M. Bulgakov in các thiên truyện vừa Ổ quỉ, Những quả trứng định mệnh và viết Trái tim chó. Ông lần lượt cho ra đời các kịch bản: Căn hộ của Dôia (1927), Chạy trốn (1928), Molier (1929) v.v... M. Bulgakov trở thành kịch tác gia Nga lớn nhất kể từ Sekhov. Nhưng vào thời đó xung quanh các tác phẩm của ông diễn ra những cuộc tranh luận quyết liệt. M. Gorki, V. Veresaiev, K. Stanislavxki… đánh giá cao M. Bulgakov, nhưng những người phủ nhận ông nhiều hơn và quyết liệt hơn.
Theo lời nhà văn, trong một thời gian ngắn trên báo chí đã xuất hiện 298 bài phê bình thù địch tác phẩm của ông, buộc tội ông đứng về phía Bạch vệ bôi nhọ cách mạng. Từ năm 1929, sau ý kiến Stalin cho rằng Chạy trốn là một hiện tượng chống Xô Viết, hầu hết các vở kịch của M. Bulgakov bị cấm diễn. Sách của ông không được in, người quen lánh dần, tiền hết, không có việc làm, muốn xin làm người gác cổng cũng chẳng ai dám nhận. Trong cảnh cùng quẫn đó, ngày 28 tháng 3 năm 1930, M. Bulgakov gửi cho Chính phủ Xô Viết một lá thư: "... Tôi xin Chính phủ Liên Xô lưu ý rằng tôi không phải là một nhà hoạt động chính trị, mà là một nhà văn, toàn bộ sản phẩm của tôi, tôi đã trao cho sân khấu Xô Viết (...) Tôi xin lưu ý rằng, không được viết đối với tôi có nghĩa là bị chôn sống (...) Nếu những gì tôi viết không đủ sức thuyết phục và tôi buộc phải chung thân im lặng ở Liên Xô, tôi đề nghị Chính phủ Xô Viết cho tôi việc làm theo nghề nghiệp ở nhà hát với tư cách đạo diễn (...) Nếu không được làm đạo diễn, tôi xin làm diễn viên đóng vai phụ. Nếu làm diễn viên phụ cũng không được, tôi xin làm công nhân sân khấu..."
Hai mươi ngày sau, 18 tháng 4 năm 1930, tức là bốn ngày sau khi thiên tài V. Maiakovski bắn vào đầu tự tử để lại bài thơ tuyệt mệnh và bức chúc thư Gửi đồng chí Chính phủ, Stalin đích thân gọi điện cho M. Bulgakov. Tổng bí thư trung ương Đảng hứa giúp đỡ nhà văn, hẹn sẽ trực tiếp gặp nói chuyện với ông. Khẩu súng lục đã chuẩn bị sẵn trong ngăn kéo, M. Bulgakov đem vứt xuống hồ ở công viên Novodevitre. Mấy ngày sau ông được nhận vào làm đạo diễn ở Nhà hát Nghệ thuật Moskva.
Quan hệ của Stalin với những nhà văn Xô Viết thời đó là một đề tài thú vị. Stalin rất quan tâm đến những sáng tác của M. Bulgakov. Theo tài liệu lưu trữ của Nhà hát Nghệ thuật Moskva, Stalin đã xem Những ngày của anh em Turbin 15 lần, xem duyệt Căn hộ của Dôia không ít hơn 8 lần. Stalin đánh giá Những ngày của anh em Turbin đã chứng minh sự phá sản của phong trào Bạch vệ, còn về vở Chạy trốn thì gợi ý nó có thể được diễn nếu tác giả viết thêm một vài cảnh để làm rõ nguyên nhân thất bại của phe Bạch vệ. Nhưng nhà văn giữ nguyên lập trường nghệ thuật của mình, và Chạy trốn sau ba chục năm mới bắt đầu được dựng, được in thành sách, được quay phim...
M. Bulgakov chờ đợi và đặt nhiều hi vọng vào cuộc gặp gỡ với Stalin, nhưng nó đã không bao giờ diễn ra. Ngày 30 tháng 5 năm 1931, M. Bulgakov viết tiếp một bức thư đề gửi Tổng bí thư trung ương Đảng Stalin. Thư viết: "Tôi xin thông báo rằng, sau một năm rưỡi im lặng, trong tôi có những dự định mới lại bùng lên với một sức mạnh không thể kìm nổi, những dự định đó rộng lớn và mãnh liệt, tôi xin Chính phủ tạo điều kiện cho tôi thực hiện chúng (...) Tôi có những dự định, nhưng không có sức lực, không có những điều kiện cần thiết để làm việc".
Nhà văn tự gọi mình là "Con sói văn học duy nhất trên văn đàn Nga" (...) "Người ta khuyên tôi nên nhuộm lông đi. Một lời khuyên vô nghĩa. Sói dù có nhuộm, có cắt lông đi thì nó vẫn không thể nào giống với chó cảnh nuôi nhà được".
"Người ta đối xử với tôi như đối với một con sói. Và đã nhiều năm nay người ta săn đuổi tôi như săn đuổi một con thú bị bắt nhốt vào trong khoảng sân rào kín theo các nguyên tắc của một cuộc đầu độc văn học.
Tôi không căm giận, nhưng tôi rất mệt, và cuối năm 1929 thì tôi gục. Bởi vì con thú cũng có thể mệt lắm chứ.
Con thú đã tuyên bố rằng nó không phải là sói nữa, không phải là nhà văn nữa. Từ bỏ nghề nghiệp của mình. Im lặng. Điều đó, xin nói thẳng ra, là hèn nhát.
Không có một nhà văn nào lại có thể im lặng được. Nếu anh ta im lặng, thì có nghĩa đó không phải là nhà văn chân chính.
Còn nếu nhà văn chân chính mà im lặng thì anh ta sẽ chết”.
Bìa cuốn sách Nghệ Nhân và Margarita (bản tiếng Việt ) |
Và từ năm 1962 bắt đầu sự "lớn tiếng" của M. Bulgakov. Trong vòng chừng dăm năm, với một số (chưa phải là tất cả!) tác phẩm được công bố, M. Bulgakov đã trở thành "hiện tượng" trong độc giả Xô Viết và vượt ra biên giới ngoài nước. Tuy nhiên, giới phê bình chính thống, các giáo sư vẫn chưa đánh giá cao ông. Phải đến thời "Cải tổ" cuối thập kỉ 1980, Bulgakov mới thực sự hiện diện hết tầm cỡ của mình. Tất cả những gì ông viết ra đều được in đi in lại, nhiều tác phẩm được dịch ra tiếng nước ngoài, đưa lên sân khấu.
Đặc biệt, tác phẩm của ông có một sức hút ma quái đối với các nhà làm phim - hầu hết những tiểu thuyết, truyện vừa của ông đã được đưa lên màn bạc. Xuất hiện vô vàn các công trình nghiên cứu, các sách chuyên luận về sự nghiệp sáng tác của ông. Những nhà văn lớn của thế kỉ, từ Tr. Aitmatov đến Gabriel Marquez, đánh giá cao M. Bulgakov và thừa nhận ảnh hưởng lớn lao của ông đối với nhiều nhà văn trên thế giới.
Ông mất lúc 16 giờ 39 phút ngày 10 tháng Ba năm 1940 vì bệnh xơ cứng thận, chưa qua nổi tuổi 49.
Đoàn Tử Huyến
- "Cái khao khát đã đến độ trong tôi muốn chấm dứt những đau khổ của người viết văn buộc tôi gửi lên Chính phủ Liên Xô một lá thư trung thực....Tôi đề nghị Chính phủ Xô Viết lưu ý rằng tôi không phải là một nhà hoạt động chính trị, mà là một nhà văn, toàn bộ sản phẩm của tôi, tôi đã trao cho sân khấu Xô Viết".
LTS: Nhà văn Bulgacov đã viết trong sự cảm thấy cơn túng quẫn của bản thân: không tìm được việc làm để sinh nhai và có thể không còn được viết.... Ông viết trong sự thất vọng của một nhà văn đối với những bài báo mà sự suy diễn và áp đặt của nó có thể hủy diệt trí lực và sự tồn tại của một con người như ông. Khi viết bức thư và gửi nó đi, có nghĩa là Bulgacov còn niềm tin vào bản thân mình và những người nhận thư, còn khát vọng viết và sống.
Và điều đáng nói nhất là trong sự khốn quẫn, nhà văn này vẫn rạch ròi nhận biết mình:... Tôi không phải là một nhà hoạt động chính trị, mà là một nhà văn, toàn bộ sản phẩm của tôi, tôi đã trao cho sân khấu Xô Viết.
Niềm tin và hi vọng của ông quả là có cơ sở. Hai mươi ngày sau, 18 tháng 4 năm 1930 (tức là bốn ngày sau khi thiên tài V. Maiakovski bắn vào đầu tự tử để lại bài thơ tuyệt mệnh và bức chúc thư Gửi đồng chí Chính phủ) Stalin đích thân gọi điện cho M. Bulgakov. Tổng bí thư trung ương Đảng đã hứa giúp đỡ nhà văn, hẹn sẽ trực tiếp gặp nói chuyện với ông. Khẩu súng lục đã chuẩn bị sẵn trong ngăn kéo, M. Bulgakov đem vứt xuống hồ ở công viên Novodevitre. Mấy ngày sau ông được nhận vào làm đạo diễn ở Nhà hát Nghệ thuật Moskva.
Vì niềm cảm kích, trân trọng với nhà văn dịch giả Đoàn Tử Huyến vì những gì mà ông đã làm cho văn học Nga nói chung và văn học Xô Viết nói riêng, chúng tôi xin đăng bức thư này như một tư liệu tham khảo. Bản này do dịch giả Đoàn Tử Huyến gửi đến Bee.net.vn sáng 14/5.
M. Bulgakov (1891-1940) |
Moskva, 28 tháng 3 năm 1930.
Tôi là Mikhail Aphanasevich Bulgakov
(Moskva, phố Bolsaia Pirogorskaia, nhà 35a, phòng 6).
Tôi xin gửi lên Chính phủ Liên Xô bức thư sau:
1
Sau khi toàn bộ các tác phẩm của tôi bị cấm, nhiều công dân biết tôi là một nhà văn đã lên tiếng cho tôi cùng một lời khuyên như sau:
Viết một “vở kịch cộng sản” (tôi để những đoạn trích trong ngoặc kép), và ngoài ra, gửi lên Chính phủ Liên Xô một bức thư hối lỗi, trong đó bày tỏ việc từ bỏ những quan điểm trước đây của tôi được thể hiện trong các tác phẩm văn học của tôi, và hứa rằng từ nay sẽ làm việc như một nhà văn đồng hành(1) trung thành với lí tưởng cộng sản.
Mục đích: tự cứu mình thoát khỏi những vùi dập, đói khổ và cuối cùng là cái chết tất yếu.
Tôi đã không nghe theo lời khuyên đó. Chắc gì tôi đã cải thiện được vị thế của mình trong con mắt Chính phủ Liên Xô sau khi viết một bức thư dối trá và thể hiện cú nhào lộn chính trị dơ dáy và ngây thơ như vậy. Còn vở kịch cộng sản thì tôi cũng không thử viết, bởi vì tôi biết trước rằng sẽ không thành.
Cái khao khát đã đến độ trong tôi muốn chấm dứt những đau khổ của người viết văn buộc tôi gửi lên Chính phủ Liên Xô một lá thư trung thực.
2
Trong khi phân tích những bài báo được lưu trữ trong hồ sơ của tôi, tôi phát hiện ra qua mười năm hoạt động văn học của tôi trên báo chí Liên Xô đã có 301 bài viết về tôi, trong đó có ba bài khen, còn số bài thù địch chửi rủa là 298.
298 bài báo này là tấm gương phản chiếu cuộc đời viết văn của tôi.
Trong một bài thơ đăng báo người ta gọi Aleksei Turbin, nhân vật vở kịch Những ngày của anh em Turbin của tôi, là “ĐỒ CHÓ ĐẺ”(2), còn tác giả của vở kịch được giới thiệu như một kẻ bị ám ảnh bởi cái “THỜI MỤC NÁT CHÓ MÁ”. Người ta viết về tôi như một gã DỌN BÀN đi nhặt nhạnh những thứ cơm thừa canh cặn sau khi cả tá khách ăn đã NÔN MỬA ra đấy.
Người ta viết rằng:
“MISKA Bulgakov ông bạn vàng của tôi, XIN LỖI VỀ CÁCH DIỄN ĐẠT, CŨNG LÀ NHÀ VĂN KIA ĐẤY, lục lọi TRONG ĐỐNG RÁC THỐI RỮA... Gì thế này, tôi hỏi, người anh em, CÁI MÕM của anh... Tôi là người tế nhị, cứ VÁC CHẬU MÀ KHỤC VÀO GÁY HẮN... Không có lũ Turbin bọn phàm tục đâu cần đến chúng ta cũng như CHÓ CÁI CẦN GÌ ĐẾN NỊT VÚ. Tòi đâu ra, ĐỒ CHÓ ĐẺ, TÒI ĐÂU RA MỘT GÃ TURBIN, cầu cho gã TRƠ KHẤC CẢ TIẾNG LẪN MIẾNG. (Sinh hoạt NGHỆ THUẬT, số 44 năm 1927).
Người ta viết: “Về Bulgakov, kẻ trước sau vẫn là một QUÁI THAI TƯ SẢN MỚI, phun nước bọt tẩm thuốc độc nhưng vô tác dụng lên giai cấp công nhân và lí tưởng cộng sản của họ (báo Sự thật Đoàn thanh niên cộng sản, ngày 14 tháng 10 năm 1920).
Người ta thông báo rằng tôi thích KHÔNG KHÍ ĐÁM CƯỚI CHÓ MÁ xung quanh bà vợ tóc hung nào đó của một người bạn (A.Lunatrarski(3), báo Tin tức, ngày 8 tháng 10 năm 1926), và rằng từ vở kịch của tôi Những ngày của anh em Turbin BỐC MÙI THỐI (Biên bản cuộc họp Ban tuyên huấn vào tháng Năm năm 1927), và vv..., và vv...
Xin thông báo ngay, tôi trích dẫn không phải để kêu ca các nhà phê bình hay để khơi ra một cuộc tranh luận nào đó. Mục đích của tôi nghiêm túc hơn nhiều.
Tôi xin chứng minh bằng các tư liệu có trong tay rằng toàn bộ báo chí Liên Xô, và cùng với báo chí là tất cả các cơ quan được giao trách nhiệm kiểm soát các chương trình biểu diễn, trong suốt những năm hoạt động văn học của tôi đều nhất trí với một sự HUNG HÃN KHÁC THƯỜNG chứng minh rằng các tác phẩm của Mikhail Bulgakov không thể tồn tại được ở Liên Xô.
Và tôi tuyên bố rằng báo chí Liên Xô HOÀN TOÀN ĐÚNG.
3
Điểm xuất phát của bức thư này đối với tôi là tác phẩm đả kích(4) của tôi, vở kịch Đảo thắm.
Toàn bộ giới phê bình Liên Xô, không trừ một ai, đều tuyên bố rằng nó “bất tài, bất lực, nghèo nàn” và rằng nó là một “tác phẩm bôi nhọ cách mạng”. Một sự nhất trí hoàn toàn, nhưng nó bị phá vỡ một cách bất ngờ và hết sức đáng ngạc nhiên.
Trong số 12 của Thông tin biểu diễn (năm 1928) xuất hiện một bài điểm tin của P. Noviski, trong đó thông báo rằng Đảo thắm là một “vở kịch trào phúng hay và sắc sảo”, trong đó hiện lên bóng dáng đáng sợ của một Đại pháp quan bóp nghẹt sự sáng tạo nghệ thuật và cổ xuý những KHUÔN MẪU KỊCH BẢN NÔ LỆ, PHI LÍ MỘT CÁCH XU NỊNH, xóa bỏ cá tính của người diễn viên và nhà văn, rằng Đảo thắm nói về một thế lực đen tối, đáng sợ nhào nặn nên những kẻ NÔ BỘC, XU NỊNH VÀ TÂNG BỐC...
Trong bài nói rằng “nếu thế lực đen tối đó đang tồn tại thì SỰ PHẪN NỘ VÀ CHÂM CHỌC ĐỘC ĐỊA CỦA NhÀ VIẾT KỊCH ĐƯỢC GIỚI TƯ SẢN CA NGỢI LÀ CÓ CƠ SỞ”
Xin dám hỏi: chân lí ở đâu?
Rốt cuộc thì Đảo thắm là cái gì? Là “vở kịch bất tài, nghèo nàn” hay một “tác phẩm đả kích sắc sảo”?
Chân lí ở trong bài báo của Noviski.
Tôi không tự đánh giá vở kịch của tôi sắc sảo đến đâu, nhưng tôi thừa nhận rằng trong vở kịch quả hiện lên một bóng dáng đáng sợ, và đó là bóng dáng của Ủy ban Biểu diễn. Chính Ủy ban này đã đào tạo nên những kẻ nô bộc, tâng bốc và những kẻ nịnh bợ nơm nớp lo sợ. Chính nó giết chết các tư tưởng sáng tạo. Nó đang giết và sẽ giết chết nền kịch Xô Viết.
Tôi không nói thầm trong các xó xỉnh những suy nghĩ trên. Tôi đưa chúng vào vở kịch châm biếm và dựng nó trên sân khấu. Báo chí Xô Viết bênh vực Ủy ban Biểu diễn, viết rằng Đảo thắm là một vở kịch vu khống(5) cách mạng. Đó là lời lẽ thiếu nghiêm túc của trẻ con. Trong vở kịch không có sự vu khống cách mạng vì nhiều nguyên nhân, do thiếu chỗ tôi chỉ xin nêu lên một trong số đó: KHÔNG THỂ vu khống được cách mạng vì cách mạng quá sức lớn lao. Tác phẩm đả kích không phải là sự vu khống, và Ủy ban Biểu diễn không phải là cách mạng.
Nhưng khi báo Đức viết rằng Đảo thắm là lời kêu gọi tự do báo chí đầu tiên ở Liên Xô (Cận vệ trẻ, số 1 năm 1929), thì họ viết đúng. Tôi thừa nhận điều đó. Đấu tranh với kiểm duyệt, dù nó là như thế nào và tồn tại dưới chính quyền nào, là nghĩa vụ nhà văn của tôi, cũng như kêu gọi tự do ngôn luận. Tôi là người ủng hộ nhiệt thành sự tự do đó và thiết nghĩ nếu có ai trong số các nhà văn định chứng minh rằng nó không cần cho anh ta, thì anh ta chẳng khác gì một con cá công khai tuyên bố rằng nó không cần nước vậy.
4
Đó là một trong những đặc điểm của sáng tác của tôi, và chỉ một mình nó cũng đã hoàn toàn đủ để các tác phẩm của tôi không tồn tại được ở Liên Xô. Nhưng gắn liền với đặc điểm thứ nhất này là tất cả những đặc điểm còn lại được thể hiện trong các tác phẩm trào phúng của tôi: những sắc thái đen tối và thần bí (tôi là MỘT NHÀ VĂN THẦN BÍ) mà tôi dùng để mô tả vô số những điều quái dị trong cuộc sống của chúng ta, cái chất độc địa trong ngôn ngữ của tôi, thái độ hoài nghi sâu sắc đối với quá trình cách mạng diễn ra trong đất nước lạc hậu của tôi và việc đem đối lập nó với sự Tiến Hóa Vĩ Đại mà tôi ngưỡng mộ, và cái quan trọng nhất là sự mô tả những đặc điểm đáng sợ của nhân dân tôi, những đặc điểm mà từ rất lâu trước cách mạng đã gây ra những đau khổ khôn tả cho người thày của tôi là M. E. Saltưkov - Sedrin(6).
Khỏi cần nói rằng báo chí Liên Xô không nghĩ đến việc chỉ ra một cách nghiêm túc tất cả những cái đó, mà chỉ lo đưa ra những thông báo thiếu sức thuyết phục rằng văn trào phúng của M. Bulgakov là “SỰ VU KHỐNG”.
Chỉ một lần, khi tôi mới bắt đầu nổi tiếng, có người đã nhận xét với vẻ ngạc nhiên trịch thượng:
“M. Bulgakov ĐANG MUỐN trở thành một nhà văn trào phúng của thời đại chúng ta” (Phát hành sách, số 6 năm 1925).
Than ôi, động từ “muốn” đặt ở thời hiện tại là vô ích. Phải đưa nó về thời quá khứ hoàn thành: M. Bulgakov ĐÃ TRỞ THÀNH NHÀ VĂN TRÀO PHÚNG, và đúng vào lúc mà không một thứ văn trào phúng thực sự nào (dám xâm nhập vào các vùng cấm) lại có thể được tồn tại ở Liên Xô.
Không phải tôi là người có vinh hạnh nói lên cái ý tưởng hình sự đó trên báo chí. Nó được thể hiện hết sức rõ ràng trong bài báo của V. Blium (số 6, Báo Văn học), và ý tưởng của bài báo đó được tóm lược một cách xuất sắc và chính xác vào một công thức sau:
BẤT KÌ NHÀ VĂN TRÀO PHÚNG NÀO Ở LIÊN XÔ ĐỀU MƯU HẠI CHẾ ĐỘ XÔ VIẾT.
Vậy tôi có thể tồn tại được ở Liên Xô hay không?
5
Và cuối cùng, những đặc điểm sau chót của tôi trong các vở kịch đã bị giết chết như Những ngày của anh em Turbin, Chạy trốn và Bạch vệ là: kiên trì mô tả giới trí thức Nga như tầng lớp ưu tú nhất ở đất nước chúng ta. Cụ thể, mô tả gia đình trí thức - quý tộc bị số phận lịch sử nghiệt ngã ném sang phe Bạch vệ trong những năm nội chiến, theo truyền thống của Chiến tranh và hòa bình. Sự mô tả như vậy là hoàn toàn tự nhiên đối với một nhà văn gắn bó máu thịt với giới trí thức.
Nhưng những sự mô tả như thế dẫn đến hậu quả là tác giả của chúng ở Liên Xô, cùng với các nhân vật của mình, bị gán cho - bất chấp những cố gắng to lớn ĐỨNG TRÊN CẢ PHE ĐỎ LẪN PHE TRẮNG MỘT CÁCH VÔ TƯ - cái danh hiệu bạch vệ thù địch, và với danh hiệu đó thì, như ai cũng hiểu, có thể coi mình là kẻ bỏ đi ở Liên Xô.
6
Chân dung văn học của tôi đã hoàn tất, và đó cũng là chân dung chính trị. Tôi không thể nói có thể tìm thấy ở đó một tội phạm nặng đến mức nào, nhưng tôi xin đề nghị một điều: không đi tìm một cái gì ở ngoài chân dung đó. Nó được dựng lên hoàn toàn trung thực.
7
Hiện nay tôi đã bị hủy diệt.
Sự hủy diệt đó được dư luận xã hội Xô Viết đón nhận hết sức vui mừng và được gọi là THÀNH TỰU.
R. Pikel, khi nói về sự hủy diệt đó (báo Tin tức, ngày 15 tháng 9 năm 1929), đã phát biểu một ý tưởng đầy bao dung như sau:
“Bằng điều đó chúng ta không muốn nói rằng tên của Bulgakov đã bị gạch khỏi danh sách các nhà viết kịch Xô Viết”.
Và an ủi nhà văn bị cắt cổ rằng đây là “chỉ nói về những tác phẩm kịch quá khứ của anh ta”.
Nhưng cuộc sống, mà đại diện là Ủy ban Biểu diễn, đã chứng minh rằng sự bao dung của R. Pikel là không có cơ sở nào cả.
Ngày 18 tháng 3 năm 1930, tôi nhận được công văn của Ủy ban Biểu diễn thông báo một cách ngắn gọn rằng kịch bản Sự nô dịch của những kẻ đạo đức giả (Molier), một vở kịch không phải quá khứ mà là mới viết của tôi, KHÔNG ĐƯỢC PHÉP TRÌNH DIỄN.
Nói tóm lại, bằng hai dòng chữ của tờ công văn đã chôn vùi công sức làm việc ở các kho sách, trí tưởng tượng của tôi, kịch bản được các chuyên gia sân khấu hàng đầu đánh giá là một tác phẩm xuất sắc.
R. Pikel đã lầm. Đã bị giết chết không chỉ các tác phẩm quá khứ, mà cả những vở kịch hiện tại và tất cả những vở kịch tương lai của tôi. Và tự tay tôi, tôi đã ném vào lò sưởi một tập bản thảo cuốn tiểu thuyết viết về quỷ sứ, một tập bản thảo hài kịch và phần đầu cuốn tiểu thuyết thứ hai của tôi - Tiểu thuyết Sân khấu(7).
Tất cả các tác phẩm của tôi đều vô vọng.
8
Tôi đề nghị Chính phủ Xô Viết lưu ý rằng tôi không phải là một nhà hoạt động chính trị, mà là một nhà văn, toàn bộ sản phẩm của tôi, tôi đã trao cho sân khấu Xô Viết.
Tôi đề nghị lưu ý đến hai nhận xét sau đây về tôi trên báo chí Xô Viết.
Cả hai đều thuộc về những kẻ thù không khoan nhượng đối với các tác phẩm của tôi, và vì vậy, chúng rất có giá trị.
Năm 1925 có người viết:
“Xuất hiện một nhà văn thậm chí không khoác áo kẻ đồng hành” (L. Averbakh, báo Tin tức, ngày 20 tháng 9 năm 1925).
Và năm 1929:
“Tài năng của anh ta cũng hiển nhiên như tính phản động xã hội trong sáng tác của anh ta”. (R. Pikel, báo Tin tức, ngày 15 tháng 9 năm 1929).
Tôi xin lưu ý rằng, không được viết đối với tôi cũng có nghĩa là bị chôn sống.
9
TÔI ĐỀ NGHỊ CHÍNH PHỦ LIÊN XÔ RA LỆNH CHO TÔI KHẨN CẤP RỜI BỎ LÃNH THỔ LIÊN XÔ CÙNG VỚI VỢ TÔI LÀ LIUBOV EVGHENIEVNA BULGAKOVA(8).
10
Tôi kêu gọi lòng nhân đạo của chính quyền Xô Viết và đại lượng cho phép tôi, một nhà văn không thể có ích ở trong nước, được tự do.
11
Nếu như tất cả những gì tôi đã viết không đủ sức thuyết phục và tôi phải chung thân im lặng ở Liên Xô, tôi đề nghị Chính phủ Xô Viết cho tôi việc làm theo chuyên môn và giới thiệu tôi vào làm việc ở nhà hát với tư cách đạo diễn trong biên chế.
Tôi cố tình nhấn mạnh lời đề nghị về một MỆNH LỆNH DỨT KHOÁT, về SỰ GIỚI THIỆU, vì rằng tất cả những cố gắng của tôi tìm việc làm trong cái lĩnh vực duy nhất mà tôi có thể có ích cho Liên Xô như một chuyên gia đặc biệt lành nghề đều đã thất bại hoàn toàn. Tên tuổi của tôi đã bị làm cho vấy bẩn đến mức những lời đề nghị hợp tác từ phía tôi đều khiến mọi người hoảng sợ, mặc dù ở Moskva rất nhiều diễn viên và đạo diễn, và cùng với họ là các giám đốc nhà hát, đều biết rất rõ sự am hiểu sân khấu hoàn hảo của tôi.
Tôi đề nghị Liên Xô chấp nhận một chuyên gia đạo diễn và diễn viên hoàn toàn trung thực, không hề có một ý đồ phá hoại nào, sẵn sàng dựng một cách tử tế bất kì vở kịch nào, từ kịch của Shakespeare đến kịch của những tác giả hiện đại.
Tôi đề nghị bổ nhiệm tôi làm đạo diễn thử nghiệm ở Nhà hát Nghệ thuật số Một, trường học tốt nhất do các bậc thầy K. S. Stanislavski và V. I. Nemirovich-Dantrenko(9) lãnh đạo.
Nếu không được làm đạo diễn, tôi xin làm diễn viên đóng vai phụ. Nếu làm diễn viên phụ cũng không được, tôi xin làm công nhân sân khấu.
Nếu cả điều đó cũng không thể được, tôi xin Chính phủ Xô Viết xử trí tôi như Chính phủ thấy cần thiết, nhưng hãy xử trí như thế nào đó, bởi vì đối với tôi, một nhà viết kịch đã có năm vở kịch, nổi tiếng ở Liên Xô và nước ngoài, ngay trước mắt, VÀO THỜI ĐIỂM NÀY, là đói rách, bị vứt ra đường phố, và chết.
M. BULGAKOV
Đoàn Tử Huyến (dịch từ nguyên tác tiếng Nga (10).
-----------------------------------
(1) ... Nhà văn đồng hành: chỉ những nhà văn không phải xuất thân giai cấp vô sản, nhưng sau cách mạng hoặc tự nguyện hoặc buộc phải đi cùng (đồng hành) với giai cấp vô sản..
(2) Viết hoa trong nguyên bản.
(3) A. Lunatrarski (187-1935): nhà văn, nhà lý luận, bộ trưởng Giáo dục từ năm 1917.
(4) Tác phẩm đả kích: nguyên tác là памфлет, các từ điển tiếng Việt dịch là Tác phẩm đả kích, có lẽ chưa thật chuẩn.
(5) Vu khống: tiếng Nga là пасквиль, từ điển dịch là văn nhục mạ, văn vu khống.
(6) Saltưkov - Sedrin (1826-1889): nhà văn trào phúng Nga, cùng với N. Gogol được Bulgakov coi là thầy của mình.
(7) Tức là tiểu thuyết Nghệ Nhân và Margarita, kịch bản Niềm khoái lạc và Tiểu thuyết sân khấu.
(8) Liubov Evghenievna Bulgakova: người vợ thứ hai của Bulgakov, năm 1930 ông sống với bà này, khi đó chưa gặp Elena Sergeievna là người vợ cuối cùng.
(9) Stanislavski (1863-1938), Nemirovich - Dantrenko (1858-1943): các đạo diễn cách tân vĩ đại Nga.
(10) Nguyên tác tiếng Nga Провительству, 28 марта 1930 года, Đoàn Tử Huyến dịch theo bản sao đã được tác giả sửa chữa, lưu giữ tại thư viện Lenin, in trong tập M. BULGAKOV, TUYỂN TẬP TÁC PHẨM NĂM TẬP, tập 5, M., 1990. Đến nay đã có gần 200 bức thư của M. Bulgakov được công bố, và đây là một trong những tài liệu quan trọng giúp hiểu thêm nhân cách, cá tính và quan điểm sáng tác của nhà văn.
(1) ... Nhà văn đồng hành: chỉ những nhà văn không phải xuất thân giai cấp vô sản, nhưng sau cách mạng hoặc tự nguyện hoặc buộc phải đi cùng (đồng hành) với giai cấp vô sản..
(2) Viết hoa trong nguyên bản.
(3) A. Lunatrarski (187-1935): nhà văn, nhà lý luận, bộ trưởng Giáo dục từ năm 1917.
(4) Tác phẩm đả kích: nguyên tác là памфлет, các từ điển tiếng Việt dịch là Tác phẩm đả kích, có lẽ chưa thật chuẩn.
(5) Vu khống: tiếng Nga là пасквиль, từ điển dịch là văn nhục mạ, văn vu khống.
(6) Saltưkov - Sedrin (1826-1889): nhà văn trào phúng Nga, cùng với N. Gogol được Bulgakov coi là thầy của mình.
(7) Tức là tiểu thuyết Nghệ Nhân và Margarita, kịch bản Niềm khoái lạc và Tiểu thuyết sân khấu.
(8) Liubov Evghenievna Bulgakova: người vợ thứ hai của Bulgakov, năm 1930 ông sống với bà này, khi đó chưa gặp Elena Sergeievna là người vợ cuối cùng.
(9) Stanislavski (1863-1938), Nemirovich - Dantrenko (1858-1943): các đạo diễn cách tân vĩ đại Nga.
(10) Nguyên tác tiếng Nga Провительству, 28 марта 1930 года, Đoàn Tử Huyến dịch theo bản sao đã được tác giả sửa chữa, lưu giữ tại thư viện Lenin, in trong tập M. BULGAKOV, TUYỂN TẬP TÁC PHẨM NĂM TẬP, tập 5, M., 1990. Đến nay đã có gần 200 bức thư của M. Bulgakov được công bố, và đây là một trong những tài liệu quan trọng giúp hiểu thêm nhân cách, cá tính và quan điểm sáng tác của nhà văn.
M. BULGAKOV
ĐOÀN TỬ HUYẾN dịch từ nguyên tác tiếng Nga
5:39 chiều ngày 14/05/2011
Lời người dịch: Mikhail Bulgacov (15/5/1891 – 12/3/1940)
là một trong những nhà văn lớn nhất và kì bí nhất của nước Nga, sinh thời bị truy bức nặng nề nhưng vẫn giữ vững nhân cách và quan điểm nghệ thuật của mình. Sau nhiều năm sách bị cấm in, kịch bị cấm diễn, người quen xa lánh, hết tiền, thất nghiệp, ông gửi tới Stalin và Chính phủ Xô Viết hai lá thư, dưới đây là một trong hai lá thư đó, đề ngày 28/3/1930.
***
Moskva, 28 tháng 3 năm 1930.
Tôi là Mikhail Aphanasevich Bulgakov
(Moskva, phố Bolsaia Pirogorskaia, nhà 35a, phòng 6).
Tôi xin gửi lên Chính phủ Liên Xô bức thư sau:
1
Sau khi toàn bộ các tác phẩm của tôi bị cấm, nhiều công dân biết tôi là một nhà văn đã lên tiếng cho tôi cùng một lời khuyên như sau:
Viết một “vở kịch cộng sản” (tôi để những đoạn trích trong ngoặc kép), và ngoài ra, gửi lên Chính phủ Liên Xô một bức thư hối lỗi, trong đó bày tỏ việc từ bỏ những quan điểm trước đây của tôi được thể hiện trong các tác phẩm văn học của tôi, và hứa rằng từ nay sẽ làm việc như một nhà văn đồng hành(1) trung thành với lí tưởng cộng sản.
Mục đích: tự cứu mình thoát khỏi những vùi dập, đói khổ và cuối cùng là cái chết tất yếu.
Tôi đã không nghe theo lời khuyên đó. Chắc gì tôi đã cải thiện được vị thế của mình trong con mắt Chính phủ Liên Xô sau khi viết một bức thư dối trá và thể hiện cú nhào lộn chính trị dơ dáy và ngây thơ như vậy. Còn vở kịch cộng sản thì tôi cũng không thử viết, bởi vì tôi biết trước rằng sẽ không thành.
Cái khao khát đã đến độ trong tôi muốn chấm dứt những đau khổ của người viết văn buộc tôi gửi lên Chính phủ Liên Xô một lá thư trung thực.
2
Trong khi phân tích những bài báo được lưu trữ trong hồ sơ của tôi, tôi phát hiện ra qua mười năm hoạt động văn học của tôi trên báo chí Liên Xô đã có 301 bài viết về tôi, trong đó có ba bài khen, còn số bài thù địch chửi rủa là 298.
298 bài báo này là tấm gương phản chiếu cuộc đời viết văn của tôi.
Trong một bài thơ đăng báo người ta gọi Aleksei Turbin, nhân vật vở kịch Những ngày của anh em Turbin của tôi, là “ĐỒ CHÓ ĐẺ”(2), còn tác giả của vở kịch được giới thiệu như một kẻ bị ám ảnh bởi cái “THỜI MỤC NÁT CHÓ MÁ”. Người ta viết về tôi như một gã DỌN BÀN đi nhặt nhạnh những thứ cơm thừa canh cặn sau khi cả tá khách ăn đã NÔN MỬA ra đấy.
Người ta viết rằng:
“MISKA(3) Bulgakov ông bạn vàng của tôi, XIN LỖI VỀ CÁCH DIỄN ĐẠT, CŨNG LÀ NHÀ VĂN KIA ĐẤY, lục lọi TRONG ĐỐNG RÁC THỐI RỮA… Gì thế này, tôi hỏi, người anh em, CÁI MÕM của anh… Tôi là người tế nhị, cứ VÁC CHẬU MÀ KHỤC VÀO GÁY HẮN… Không có lũ Turbin bọn phàm tục đâu cần đến chúng ta cũng như CHÓ CÁI CẦN GÌ ĐẾN NỊT VÚ. Tòi đâu ra, ĐỒ CHÓ ĐẺ, TÒI ĐÂU RA MỘT GÃ TURBIN, cầu cho gã TRƠ KHẤC CẢ TIẾNG LẪN MIẾNG. (Sinh hoạt NGHỆ THUẬT, số 44 năm 1927).
Người ta viết: “Về Bulgakov, kẻ trước sau vẫn là một QUÁI THAI TƯ SẢN MỚI, phun nước bọt tẩm thuốc độc nhưng vô tác dụng lên giai cấp công nhân và lí tưởng cộng sản của họ (báo Sự thật Đoàn thanh niên cộng sản, ngày 14 tháng 10 năm 1920).
Người ta thông báo rằng tôi thích KHÔNG KHÍ ĐÁM CƯỚI CHÓ MÁ xung quanh bà vợ tóc hung nào đó của một người bạn (A. Lunatrarski(4), báo Tin tức, ngày 8 tháng 10 năm 1926), và rằng từ vở kịch của tôi Những ngày của anh em Turbin BỐC MÙI THỐI (Biên bản cuộc họp Ban tuyên huấn vào tháng Năm năm 1927), và vv…, và vv…
Xin thông báo ngay, tôi trích dẫn không phải để kêu ca các nhà phê bình hay để khơi ra một cuộc tranh luận nào đó. Mục đích của tôi nghiêm túc hơn nhiều.
Tôi xin chứng minh bằng các tư liệu có trong tay rằng toàn bộ báo chí Liên Xô, và cùng với báo chí là tất cả các cơ quan được giao trách nhiệm kiểm soát các chương trình biểu diễn, trong suốt những năm hoạt động văn học của tôi đều nhất trí với một sự HUNG HÃN KHÁC THƯỜNG chứng minh rằng các tác phẩm của Mikhail Bulgakov không thể tồn tại được ở Liên Xô.
Và tôi tuyên bố rằng báo chí Liên Xô HOÀN TOÀN ĐÚNG.
3
Điểm xuất phát của bức thư này đối với tôi là tác phẩm đả kích(5) của tôi, vở kịch Đảo thắm(6).
Toàn bộ giới phê bình Liên Xô, không trừ một ai, đều tuyên bố rằng nó “bất tài, bất lực, nghèo nàn” và rằng nó là một “tác phẩm bôi nhọ cách mạng”. Một sự nhất trí hoàn toàn, nhưng nó bị phá vỡ một cách bất ngờ và hết sức đáng ngạc nhiên.
Trong số 12 của Thông tin biểu diễn (năm 1928) xuất hiện một bài điểm tin của P. Noviski, trong đó thông báo rằng Đảo thắm là một “vở kịch trào phúng hay và sắc sảo”, trong đó hiện lên bóng dáng đáng sợ của một Đại pháp quan bóp nghẹt sự sáng tạo nghệ thuật và cổ xuý những KHUÔN MẪU KỊCH BẢN NÔ LỆ, PHI LÍ MỘT CÁCH XU NỊNH, xóa bỏ cá tính của người diễn viên và nhà văn, rằng Đảo thắm nói về một thế lực đen tối, đáng sợ nhào nặn nên những kẻ NÔ BỘC, XU NỊNH VÀ TÂNG BỐC…
Trong bài nói rằng “nếu thế lực đen tối đó đang tồn tại thì SỰ PHẪN NỘ VÀ CHÂM CHỌC ĐỘC ĐỊA CỦA NhÀ VIẾT KỊCH ĐƯỢC GIỚI TƯ SẢN CA NGỢI LÀ CÓ CƠ SỞ”
Xin dám hỏi: chân lí ở đâu?
Rốt cuộc thì Đảo thắm là cái gì? Là “vở kịch bất tài, nghèo nàn” hay một “tác phẩm đả kích sắc sảo”?
Chân lí ở trong bài báo của Noviski.
Tôi không tự đánh giá vở kịch của tôi sắc sảo đến đâu, nhưng tôi thừa nhận rằng trong vở kịch quả hiện lên một bóng dáng đáng sợ, và đó là bóng dáng của Ủy ban Biểu diễn. Chính Ủy ban này đã đào tạo nên những kẻ nô bộc, tâng bốc và những kẻ nịnh bợ nơm nớp lo sợ. Chính nó giết chết các tư tưởng sáng tạo. Nó đang giết và sẽ giết chết nền kịch Xô Viết.
Tôi không nói thầm trong các xó xỉnh những suy nghĩ trên. Tôi đưa chúng vào vở kịch châm biếm và dựng nó trên sân khấu. Báo chí Xô Viết bênh vực Ủy ban Biểu diễn, viết rằng Đảo thắm là một vở kịch vu khống(7) cách mạng. Đó là lời lẽ thiếu nghiêm túc của trẻ con. Trong vở kịch không có sự vu khống cách mạng vì nhiều nguyên nhân, do thiếu chỗ tôi chỉ xin nêu lên một trong số đó: KHÔNG THỂ vu khống được cách mạng vì cách mạng quá sức lớn lao. Tác phẩm đả kích không phải là sự vu khống, và Ủy ban Biểu diễn không phải là cách mạng.
Nhưng khi báo Đức viết rằng Đảo thắm là lời kêu gọi tự do báo chí đầu tiên ở Liên Xô (Cận vệ trẻ, số 1 năm 1929), thì họ viết đúng. Tôi thừa nhận điều đó. Đấu tranh với kiểm duyệt, dù nó là như thế nào và tồn tại dưới chính quyền nào, là nghĩa vụ nhà văn của tôi, cũng như kêu gọi tự do ngôn luận. Tôi là người ủng hộ nhiệt thành sự tự do đó và thiết nghĩ nếu có ai trong số các nhà văn định chứng minh rằng nó không cần cho anh ta, thì anh ta chẳng khác gì một con cá công khai tuyên bố rằng nó không cần nước vậy.
4
Đó là một trong những đặc điểm của sáng tác của tôi, và chỉ một mình nó cũng đã hoàn toàn đủ để các tác phẩm của tôi không tồn tại được ở Liên Xô. Nhưng gắn liền với đặc điểm thứ nhất này là tất cả những đặc điểm còn lại được thể hiện trong các tác phẩm trào phúng của tôi: những sắc thái đen tối và thần bí (tôi là MỘT NHÀ VĂN THẦN BÍ) mà tôi dùng để mô tả vô số những điều quái dị trong cuộc sống của chúng ta, cái chất độc địa trong ngôn ngữ của tôi, thái độ hoài nghi sâu sắc đối với quá trình cách mạng diễn ra trong đất nước lạc hậu của tôi và việc đem đối lập nó với sự Tiến Hóa Vĩ Đại mà tôi ngưỡng mộ, và cái quan trọng nhất là sự mô tả những đặc điểm đáng sợ của nhân dân tôi, những đặc điểm mà từ rất lâu trước cách mạng đã gây ra những đau khổ khôn tả cho người thày của tôi là M. E. Saltưkov – Sedrin(8).
Khỏi cần nói rằng báo chí Liên Xô không nghĩ đến việc chỉ ra một cách nghiêm túc tất cả những cái đó, mà chỉ lo đưa ra những thông báo thiếu sức thuyết phục rằng văn trào phúng của M. Bulgakov là “SỰ VU KHỐNG”.
Chỉ một lần, khi tôi mới bắt đầu nổi tiếng, có người đã nhận xét với vẻ ngạc nhiên trịch thượng:
“M. Bulgakov ĐANG MUỐN trở thành một nhà văn trào phúng của thời đại chúng ta” (Phát hành sách, số 6 năm 1925).
Than ôi, động từ “muốn” đặt ở thời hiện tại là vô ích. Phải đưa nó về thời quá khứ hoàn thành: M. Bulgakov ĐÃ TRỞ THÀNH NHÀ VĂN TRÀO PHÚNG, và đúng vào lúc mà không một thứ văn trào phúng thực sự nào (dám xâm nhập vào các vùng cấm) lại có thể được tồn tại ở Liên Xô.
Không phải tôi là người có vinh hạnh nói lên cái ý tưởng hình sự đó trên báo chí. Nó được thể hiện hết sức rõ ràng trong bài báo của V. Blium (số 6, Báo Văn học), và ý tưởng của bài báo đó được tóm lược một cách xuất sắc và chính xác vào một công thức sau:
BẤT KÌ NHÀ VĂN TRÀO PHÚNG NÀO Ở LIÊN XÔ ĐỀU MƯU HẠI CHẾ ĐỘ XÔ VIẾT.
Vậy tôi có thể tồn tại được ở Liên Xô hay không?
5
Và cuối cùng, những đặc điểm sau chót của tôi trong các vở kịch đã bị giết chết như Những ngày của anh em Turbin, Chạy trốn và Bạch vệ là: kiên trì mô tả giới trí thức Nga như tầng lớp ưu tú nhất ở đất nước chúng ta. Cụ thể, mô tả gia đình trí thức – quý tộc bị số phận lịch sử nghiệt ngã ném sang phe Bạch vệ trong những năm nội chiến, theo truyền thống của Chiến tranh và hòa bình. Sự mô tả như vậy là hoàn toàn tự nhiên đối với một nhà văn gắn bó máu thịt với giới trí thức.
Nhưng những sự mô tả như thế dẫn đến hậu quả là tác giả của chúng ở Liên Xô, cùng với các nhân vật của mình, bị gán cho – bất chấp những cố gắng to lớn ĐỨNG TRÊN CẢ PHE ĐỎ LẪN PHE TRẮNG MỘT CÁCH VÔ TƯ – cái danh hiệu bạch vệ thù địch, và với danh hiệu đó thì, như ai cũng hiểu, có thể coi mình là kẻ bỏ đi ở Liên Xô.
6
Chân dung văn học của tôi đã hoàn tất, và đó cũng là chân dung chính trị. Tôi không thể nói có thể tìm thấy ở đó một tội phạm nặng đến mức nào, nhưng tôi xin đề nghị một điều: không đi tìm một cái gì ở ngoài chân dung đó. Nó được dựng lên hoàn toàn trung thực.
7
Hiện nay tôi đã bị hủy diệt.
Sự hủy diệt đó được dư luận xã hội Xô Viết đón nhận hết sức vui mừng và được gọi là THÀNH TỰU.
R. Pikel, khi nói về sự hủy diệt đó (báo Tin tức, ngày 15 tháng 9 năm 1929), đã phát biểu một ý tưởng đầy bao dung như sau:
“Bằng điều đó chúng ta không muốn nói rằng tên của Bulgakov đã bị gạch khỏi danh sách các nhà viết kịch Xô Viết”.
Và an ủi nhà văn bị cắt cổ rằng đây là “chỉ nói về những tác phẩm kịch quá khứ của anh ta”.
Nhưng cuộc sống, mà đại diện là Ủy ban Biểu diễn, đã chứng minh rằng sự bao dung của R. Pikel là không có cơ sở nào cả.
Ngày 18 tháng 3 năm 1930, tôi nhận được công văn của Ủy ban Biểu diễn thông báo một cách ngắn gọn rằng kịch bản Sự nô dịch của những kẻ đạo đức giả (Molier), một vở kịch không phải quá khứ mà là mới viết của tôi, KHÔNG ĐƯỢC PHÉP TRÌNH DIỄN.
Nói tóm lại, bằng hai dòng chữ của tờ công văn đã chôn vùi công sức làm việc ở các kho sách, trí tưởng tượng của tôi, kịch bản được các chuyên gia sân khấu hàng đầu đánh giá là một tác phẩm xuất sắc.
R. Pikel đã lầm. Đã bị giết chết không chỉ các tác phẩm quá khứ, mà cả những vở kịch hiện tại và tất cả những vở kịch tương lai của tôi. Và tự tay tôi, tôi đã ném vào lò sưởi một tập bản thảo cuốn tiểu thuyết viết về quỷ sứ, một tập bản thảo hài kịch và phần đầu cuốn tiểu thuyết thứ hai của tôi – Tiểu thuyết sân khấu(9).
Tất cả các tác phẩm của tôi đều vô vọng.
8
Tôi đề nghị Chính phủ Xô Viết lưu ý rằng tôi không phải là một nhà hoạt động chính trị, mà là một nhà văn, toàn bộ sản phẩm của tôi, tôi đã trao cho sân khấu Xô Viết.
Tôi đề nghị lưu ý đến hai nhận xét sau đây về tôi trên báo chí Xô Viết.
Cả hai đều thuộc về những kẻ thù không khoan nhượng đối với các tác phẩm của tôi, và vì vậy, chúng rất có giá trị.
Năm 1925 có người viết:
“Xuất hiện một nhà văn thậm chí không khoác áo kẻ đồng hành” (L. Averbakh, báo Tin tức, ngày 20 tháng 9 năm 1925).
Và năm 1929:
“Tài năng của anh ta cũng hiển nhiên như tính phản động xã hội trong sáng tác của anh ta”. (R. Pikel, báo Tin tức, ngày 15 tháng 9 năm 1929).
Tôi xin lưu ý rằng, không được viết đối với tôi cũng có nghĩa là bị chôn sống.
9
TÔI ĐỀ NGHỊ CHÍNH PHỦ LIÊN XÔ RA LỆNH CHO TÔI KHẨN CẤP RỜI BỎ LÃNH THỔ LIÊN XÔ CÙNG VỚI VỢ TÔI LÀ LIUBOV EVGHENIEVNA BULGAKOVA(10).
10
Tôi kêu gọi lòng nhân đạo của chính quyền Xô Viết và đại lượng cho phép tôi, một nhà văn không thể có ích ở trong nước, được tự do.
11
Nếu như tất cả những gì tôi đã viết không đủ sức thuyết phục và tôi phải chung thân im lặng ở Liên Xô, tôi đề nghị Chính phủ Xô Viết cho tôi việc làm theo chuyên môn và giới thiệu tôi vào làm việc ở nhà hát với tư cách đạo diễn trong biên chế.
Tôi cố tình nhấn mạnh lời đề nghị về một MỆNH LỆNH DỨT KHOÁT, về SỰ GIỚI THIỆU, vì rằng tất cả những cố gắng của tôi tìm việc làm trong cái lĩnh vực duy nhất mà tôi có thể có ích cho Liên Xô như một chuyên gia đặc biệt lành nghề đều đã thất bại hoàn toàn. Tên tuổi của tôi đã bị làm cho vấy bẩn đến mức những lời đề nghị hợp tác từ phía tôi đều khiến mọi người hoảng sợ, mặc dù ở Moskva rất nhiều diễn viên và đạo diễn, và cùng với họ là các giám đốc nhà hát, đều biết rất rõ sự am hiểu sân khấu hoàn hảo của tôi.
Tôi đề nghị Liên Xô chấp nhận một chuyên gia đạo diễn và diễn viên hoàn toàn trung thực, không hề có một ý đồ phá hoại nào, sẵn sàng dựng một cách tử tế bất kì vở kịch nào, từ kịch của Shakespeare đến kịch của những tác giả hiện đại.
Tôi đề nghị bổ nhiệm tôi làm đạo diễn thử nghiệm ở Nhà hát Nghệ thuật số Một, trường học tốt nhất do các bậc thầy K. S. Stanislavski và V. I. Nemirovich-Dantrenko(11) lãnh đạo.
Nếu không được làm đạo diễn, tôi xin làm diễn viên đóng vai phụ. Nếu làm diễn viên phụ cũng không được, tôi xin làm công nhân sân khấu.
Nếu cả điều đó cũng không thể được, tôi xin Chính phủ Xô Viết xử trí tôi như Chính phủ thấy cần thiết, nhưng hãy xử trí như thế nào đó, bởi vì đối với tôi, một nhà viết kịch đã có năm vở kịch, nổi tiếng ở Liên Xô và nước ngoài, ngay trước mắt, VÀO THỜI ĐIỂM NÀY, là đói rách, bị vứt ra đường phố, và chết.
M. BULGAKOV
(ĐOÀN TỬ HUYẾN dịch từ nguyên tác tiếng Nga)
——————————-
(1) … Nhà văn đồng hành: chỉ những nhà văn không phải xuất thân giai cấp vô sản, nhưng sau cách mạng hoặc tự nguyện hoặc buộc phải đi cùng (đồng hành) với giai cấp vô sản..
(2) Viết hoa trong nguyên bản.
(3) Miska: Cách gọi thân mật hoặc suồng sã tên Mikhail của Bulgakov..
(4) A. Lunatrarski (187-1935): nhà văn, nhà lý luận, bộ trưởng Giáo dục từ năm 1917.
(5) Tác phẩm đả kích: nguyên tác là памфлет, các từ điển tiếng Việt dịch là Tác phẩm đả kích, có lẽ chưa thật chuẩn.
(6) Nguyên tác tiếng Nga: Багровый остров.
(7) Vu khống: tiếng Nga là пасквиль, từ điển dịch là văn nhục mạ, văn vu khống.
( Saltưkov – Sedrin (1826-1889): nhà văn trào phúng Nga, cùng với N. Gogol được Bulgakov coi là thầy của mình.
(9) Tức là tiểu thuyết Nghệ Nhân và Margarita, kịch bản Niềm khoái lạc và Tiểu thuyết sân khấu.
(10) Liubov Evghenievna Bulgakova: người vợ thứ hai của Bulgakov, năm 1930 ông sống với bà này, khi đó chưa gặp Elena Sergeievna là người vợ cuối cùng.
(11) Stanislavski (1863-1938), Nemirovich – Dantrenko (1858-1943): các đạo diễn cách tân vĩ đại Nga.
ĐOÀN TỬ HUYẾN dịch từ nguyên tác tiếng Nga
5:39 chiều ngày 14/05/2011
Lời người dịch: Mikhail Bulgacov (15/5/1891 – 12/3/1940)
là một trong những nhà văn lớn nhất và kì bí nhất của nước Nga, sinh thời bị truy bức nặng nề nhưng vẫn giữ vững nhân cách và quan điểm nghệ thuật của mình. Sau nhiều năm sách bị cấm in, kịch bị cấm diễn, người quen xa lánh, hết tiền, thất nghiệp, ông gửi tới Stalin và Chính phủ Xô Viết hai lá thư, dưới đây là một trong hai lá thư đó, đề ngày 28/3/1930.
***
Moskva, 28 tháng 3 năm 1930.
Tôi là Mikhail Aphanasevich Bulgakov
(Moskva, phố Bolsaia Pirogorskaia, nhà 35a, phòng 6).
Tôi xin gửi lên Chính phủ Liên Xô bức thư sau:
1
Sau khi toàn bộ các tác phẩm của tôi bị cấm, nhiều công dân biết tôi là một nhà văn đã lên tiếng cho tôi cùng một lời khuyên như sau:
Viết một “vở kịch cộng sản” (tôi để những đoạn trích trong ngoặc kép), và ngoài ra, gửi lên Chính phủ Liên Xô một bức thư hối lỗi, trong đó bày tỏ việc từ bỏ những quan điểm trước đây của tôi được thể hiện trong các tác phẩm văn học của tôi, và hứa rằng từ nay sẽ làm việc như một nhà văn đồng hành(1) trung thành với lí tưởng cộng sản.
Mục đích: tự cứu mình thoát khỏi những vùi dập, đói khổ và cuối cùng là cái chết tất yếu.
Tôi đã không nghe theo lời khuyên đó. Chắc gì tôi đã cải thiện được vị thế của mình trong con mắt Chính phủ Liên Xô sau khi viết một bức thư dối trá và thể hiện cú nhào lộn chính trị dơ dáy và ngây thơ như vậy. Còn vở kịch cộng sản thì tôi cũng không thử viết, bởi vì tôi biết trước rằng sẽ không thành.
Cái khao khát đã đến độ trong tôi muốn chấm dứt những đau khổ của người viết văn buộc tôi gửi lên Chính phủ Liên Xô một lá thư trung thực.
2
Trong khi phân tích những bài báo được lưu trữ trong hồ sơ của tôi, tôi phát hiện ra qua mười năm hoạt động văn học của tôi trên báo chí Liên Xô đã có 301 bài viết về tôi, trong đó có ba bài khen, còn số bài thù địch chửi rủa là 298.
298 bài báo này là tấm gương phản chiếu cuộc đời viết văn của tôi.
Trong một bài thơ đăng báo người ta gọi Aleksei Turbin, nhân vật vở kịch Những ngày của anh em Turbin của tôi, là “ĐỒ CHÓ ĐẺ”(2), còn tác giả của vở kịch được giới thiệu như một kẻ bị ám ảnh bởi cái “THỜI MỤC NÁT CHÓ MÁ”. Người ta viết về tôi như một gã DỌN BÀN đi nhặt nhạnh những thứ cơm thừa canh cặn sau khi cả tá khách ăn đã NÔN MỬA ra đấy.
Người ta viết rằng:
“MISKA(3) Bulgakov ông bạn vàng của tôi, XIN LỖI VỀ CÁCH DIỄN ĐẠT, CŨNG LÀ NHÀ VĂN KIA ĐẤY, lục lọi TRONG ĐỐNG RÁC THỐI RỮA… Gì thế này, tôi hỏi, người anh em, CÁI MÕM của anh… Tôi là người tế nhị, cứ VÁC CHẬU MÀ KHỤC VÀO GÁY HẮN… Không có lũ Turbin bọn phàm tục đâu cần đến chúng ta cũng như CHÓ CÁI CẦN GÌ ĐẾN NỊT VÚ. Tòi đâu ra, ĐỒ CHÓ ĐẺ, TÒI ĐÂU RA MỘT GÃ TURBIN, cầu cho gã TRƠ KHẤC CẢ TIẾNG LẪN MIẾNG. (Sinh hoạt NGHỆ THUẬT, số 44 năm 1927).
Người ta viết: “Về Bulgakov, kẻ trước sau vẫn là một QUÁI THAI TƯ SẢN MỚI, phun nước bọt tẩm thuốc độc nhưng vô tác dụng lên giai cấp công nhân và lí tưởng cộng sản của họ (báo Sự thật Đoàn thanh niên cộng sản, ngày 14 tháng 10 năm 1920).
Người ta thông báo rằng tôi thích KHÔNG KHÍ ĐÁM CƯỚI CHÓ MÁ xung quanh bà vợ tóc hung nào đó của một người bạn (A. Lunatrarski(4), báo Tin tức, ngày 8 tháng 10 năm 1926), và rằng từ vở kịch của tôi Những ngày của anh em Turbin BỐC MÙI THỐI (Biên bản cuộc họp Ban tuyên huấn vào tháng Năm năm 1927), và vv…, và vv…
Xin thông báo ngay, tôi trích dẫn không phải để kêu ca các nhà phê bình hay để khơi ra một cuộc tranh luận nào đó. Mục đích của tôi nghiêm túc hơn nhiều.
Tôi xin chứng minh bằng các tư liệu có trong tay rằng toàn bộ báo chí Liên Xô, và cùng với báo chí là tất cả các cơ quan được giao trách nhiệm kiểm soát các chương trình biểu diễn, trong suốt những năm hoạt động văn học của tôi đều nhất trí với một sự HUNG HÃN KHÁC THƯỜNG chứng minh rằng các tác phẩm của Mikhail Bulgakov không thể tồn tại được ở Liên Xô.
Và tôi tuyên bố rằng báo chí Liên Xô HOÀN TOÀN ĐÚNG.
3
Điểm xuất phát của bức thư này đối với tôi là tác phẩm đả kích(5) của tôi, vở kịch Đảo thắm(6).
Toàn bộ giới phê bình Liên Xô, không trừ một ai, đều tuyên bố rằng nó “bất tài, bất lực, nghèo nàn” và rằng nó là một “tác phẩm bôi nhọ cách mạng”. Một sự nhất trí hoàn toàn, nhưng nó bị phá vỡ một cách bất ngờ và hết sức đáng ngạc nhiên.
Trong số 12 của Thông tin biểu diễn (năm 1928) xuất hiện một bài điểm tin của P. Noviski, trong đó thông báo rằng Đảo thắm là một “vở kịch trào phúng hay và sắc sảo”, trong đó hiện lên bóng dáng đáng sợ của một Đại pháp quan bóp nghẹt sự sáng tạo nghệ thuật và cổ xuý những KHUÔN MẪU KỊCH BẢN NÔ LỆ, PHI LÍ MỘT CÁCH XU NỊNH, xóa bỏ cá tính của người diễn viên và nhà văn, rằng Đảo thắm nói về một thế lực đen tối, đáng sợ nhào nặn nên những kẻ NÔ BỘC, XU NỊNH VÀ TÂNG BỐC…
Trong bài nói rằng “nếu thế lực đen tối đó đang tồn tại thì SỰ PHẪN NỘ VÀ CHÂM CHỌC ĐỘC ĐỊA CỦA NhÀ VIẾT KỊCH ĐƯỢC GIỚI TƯ SẢN CA NGỢI LÀ CÓ CƠ SỞ”
Xin dám hỏi: chân lí ở đâu?
Rốt cuộc thì Đảo thắm là cái gì? Là “vở kịch bất tài, nghèo nàn” hay một “tác phẩm đả kích sắc sảo”?
Chân lí ở trong bài báo của Noviski.
Tôi không tự đánh giá vở kịch của tôi sắc sảo đến đâu, nhưng tôi thừa nhận rằng trong vở kịch quả hiện lên một bóng dáng đáng sợ, và đó là bóng dáng của Ủy ban Biểu diễn. Chính Ủy ban này đã đào tạo nên những kẻ nô bộc, tâng bốc và những kẻ nịnh bợ nơm nớp lo sợ. Chính nó giết chết các tư tưởng sáng tạo. Nó đang giết và sẽ giết chết nền kịch Xô Viết.
Tôi không nói thầm trong các xó xỉnh những suy nghĩ trên. Tôi đưa chúng vào vở kịch châm biếm và dựng nó trên sân khấu. Báo chí Xô Viết bênh vực Ủy ban Biểu diễn, viết rằng Đảo thắm là một vở kịch vu khống(7) cách mạng. Đó là lời lẽ thiếu nghiêm túc của trẻ con. Trong vở kịch không có sự vu khống cách mạng vì nhiều nguyên nhân, do thiếu chỗ tôi chỉ xin nêu lên một trong số đó: KHÔNG THỂ vu khống được cách mạng vì cách mạng quá sức lớn lao. Tác phẩm đả kích không phải là sự vu khống, và Ủy ban Biểu diễn không phải là cách mạng.
Nhưng khi báo Đức viết rằng Đảo thắm là lời kêu gọi tự do báo chí đầu tiên ở Liên Xô (Cận vệ trẻ, số 1 năm 1929), thì họ viết đúng. Tôi thừa nhận điều đó. Đấu tranh với kiểm duyệt, dù nó là như thế nào và tồn tại dưới chính quyền nào, là nghĩa vụ nhà văn của tôi, cũng như kêu gọi tự do ngôn luận. Tôi là người ủng hộ nhiệt thành sự tự do đó và thiết nghĩ nếu có ai trong số các nhà văn định chứng minh rằng nó không cần cho anh ta, thì anh ta chẳng khác gì một con cá công khai tuyên bố rằng nó không cần nước vậy.
4
Đó là một trong những đặc điểm của sáng tác của tôi, và chỉ một mình nó cũng đã hoàn toàn đủ để các tác phẩm của tôi không tồn tại được ở Liên Xô. Nhưng gắn liền với đặc điểm thứ nhất này là tất cả những đặc điểm còn lại được thể hiện trong các tác phẩm trào phúng của tôi: những sắc thái đen tối và thần bí (tôi là MỘT NHÀ VĂN THẦN BÍ) mà tôi dùng để mô tả vô số những điều quái dị trong cuộc sống của chúng ta, cái chất độc địa trong ngôn ngữ của tôi, thái độ hoài nghi sâu sắc đối với quá trình cách mạng diễn ra trong đất nước lạc hậu của tôi và việc đem đối lập nó với sự Tiến Hóa Vĩ Đại mà tôi ngưỡng mộ, và cái quan trọng nhất là sự mô tả những đặc điểm đáng sợ của nhân dân tôi, những đặc điểm mà từ rất lâu trước cách mạng đã gây ra những đau khổ khôn tả cho người thày của tôi là M. E. Saltưkov – Sedrin(8).
Khỏi cần nói rằng báo chí Liên Xô không nghĩ đến việc chỉ ra một cách nghiêm túc tất cả những cái đó, mà chỉ lo đưa ra những thông báo thiếu sức thuyết phục rằng văn trào phúng của M. Bulgakov là “SỰ VU KHỐNG”.
Chỉ một lần, khi tôi mới bắt đầu nổi tiếng, có người đã nhận xét với vẻ ngạc nhiên trịch thượng:
“M. Bulgakov ĐANG MUỐN trở thành một nhà văn trào phúng của thời đại chúng ta” (Phát hành sách, số 6 năm 1925).
Than ôi, động từ “muốn” đặt ở thời hiện tại là vô ích. Phải đưa nó về thời quá khứ hoàn thành: M. Bulgakov ĐÃ TRỞ THÀNH NHÀ VĂN TRÀO PHÚNG, và đúng vào lúc mà không một thứ văn trào phúng thực sự nào (dám xâm nhập vào các vùng cấm) lại có thể được tồn tại ở Liên Xô.
Không phải tôi là người có vinh hạnh nói lên cái ý tưởng hình sự đó trên báo chí. Nó được thể hiện hết sức rõ ràng trong bài báo của V. Blium (số 6, Báo Văn học), và ý tưởng của bài báo đó được tóm lược một cách xuất sắc và chính xác vào một công thức sau:
BẤT KÌ NHÀ VĂN TRÀO PHÚNG NÀO Ở LIÊN XÔ ĐỀU MƯU HẠI CHẾ ĐỘ XÔ VIẾT.
Vậy tôi có thể tồn tại được ở Liên Xô hay không?
5
Và cuối cùng, những đặc điểm sau chót của tôi trong các vở kịch đã bị giết chết như Những ngày của anh em Turbin, Chạy trốn và Bạch vệ là: kiên trì mô tả giới trí thức Nga như tầng lớp ưu tú nhất ở đất nước chúng ta. Cụ thể, mô tả gia đình trí thức – quý tộc bị số phận lịch sử nghiệt ngã ném sang phe Bạch vệ trong những năm nội chiến, theo truyền thống của Chiến tranh và hòa bình. Sự mô tả như vậy là hoàn toàn tự nhiên đối với một nhà văn gắn bó máu thịt với giới trí thức.
Nhưng những sự mô tả như thế dẫn đến hậu quả là tác giả của chúng ở Liên Xô, cùng với các nhân vật của mình, bị gán cho – bất chấp những cố gắng to lớn ĐỨNG TRÊN CẢ PHE ĐỎ LẪN PHE TRẮNG MỘT CÁCH VÔ TƯ – cái danh hiệu bạch vệ thù địch, và với danh hiệu đó thì, như ai cũng hiểu, có thể coi mình là kẻ bỏ đi ở Liên Xô.
6
Chân dung văn học của tôi đã hoàn tất, và đó cũng là chân dung chính trị. Tôi không thể nói có thể tìm thấy ở đó một tội phạm nặng đến mức nào, nhưng tôi xin đề nghị một điều: không đi tìm một cái gì ở ngoài chân dung đó. Nó được dựng lên hoàn toàn trung thực.
7
Hiện nay tôi đã bị hủy diệt.
Sự hủy diệt đó được dư luận xã hội Xô Viết đón nhận hết sức vui mừng và được gọi là THÀNH TỰU.
R. Pikel, khi nói về sự hủy diệt đó (báo Tin tức, ngày 15 tháng 9 năm 1929), đã phát biểu một ý tưởng đầy bao dung như sau:
“Bằng điều đó chúng ta không muốn nói rằng tên của Bulgakov đã bị gạch khỏi danh sách các nhà viết kịch Xô Viết”.
Và an ủi nhà văn bị cắt cổ rằng đây là “chỉ nói về những tác phẩm kịch quá khứ của anh ta”.
Nhưng cuộc sống, mà đại diện là Ủy ban Biểu diễn, đã chứng minh rằng sự bao dung của R. Pikel là không có cơ sở nào cả.
Ngày 18 tháng 3 năm 1930, tôi nhận được công văn của Ủy ban Biểu diễn thông báo một cách ngắn gọn rằng kịch bản Sự nô dịch của những kẻ đạo đức giả (Molier), một vở kịch không phải quá khứ mà là mới viết của tôi, KHÔNG ĐƯỢC PHÉP TRÌNH DIỄN.
Nói tóm lại, bằng hai dòng chữ của tờ công văn đã chôn vùi công sức làm việc ở các kho sách, trí tưởng tượng của tôi, kịch bản được các chuyên gia sân khấu hàng đầu đánh giá là một tác phẩm xuất sắc.
R. Pikel đã lầm. Đã bị giết chết không chỉ các tác phẩm quá khứ, mà cả những vở kịch hiện tại và tất cả những vở kịch tương lai của tôi. Và tự tay tôi, tôi đã ném vào lò sưởi một tập bản thảo cuốn tiểu thuyết viết về quỷ sứ, một tập bản thảo hài kịch và phần đầu cuốn tiểu thuyết thứ hai của tôi – Tiểu thuyết sân khấu(9).
Tất cả các tác phẩm của tôi đều vô vọng.
8
Tôi đề nghị Chính phủ Xô Viết lưu ý rằng tôi không phải là một nhà hoạt động chính trị, mà là một nhà văn, toàn bộ sản phẩm của tôi, tôi đã trao cho sân khấu Xô Viết.
Tôi đề nghị lưu ý đến hai nhận xét sau đây về tôi trên báo chí Xô Viết.
Cả hai đều thuộc về những kẻ thù không khoan nhượng đối với các tác phẩm của tôi, và vì vậy, chúng rất có giá trị.
Năm 1925 có người viết:
“Xuất hiện một nhà văn thậm chí không khoác áo kẻ đồng hành” (L. Averbakh, báo Tin tức, ngày 20 tháng 9 năm 1925).
Và năm 1929:
“Tài năng của anh ta cũng hiển nhiên như tính phản động xã hội trong sáng tác của anh ta”. (R. Pikel, báo Tin tức, ngày 15 tháng 9 năm 1929).
Tôi xin lưu ý rằng, không được viết đối với tôi cũng có nghĩa là bị chôn sống.
9
TÔI ĐỀ NGHỊ CHÍNH PHỦ LIÊN XÔ RA LỆNH CHO TÔI KHẨN CẤP RỜI BỎ LÃNH THỔ LIÊN XÔ CÙNG VỚI VỢ TÔI LÀ LIUBOV EVGHENIEVNA BULGAKOVA(10).
10
Tôi kêu gọi lòng nhân đạo của chính quyền Xô Viết và đại lượng cho phép tôi, một nhà văn không thể có ích ở trong nước, được tự do.
11
Nếu như tất cả những gì tôi đã viết không đủ sức thuyết phục và tôi phải chung thân im lặng ở Liên Xô, tôi đề nghị Chính phủ Xô Viết cho tôi việc làm theo chuyên môn và giới thiệu tôi vào làm việc ở nhà hát với tư cách đạo diễn trong biên chế.
Tôi cố tình nhấn mạnh lời đề nghị về một MỆNH LỆNH DỨT KHOÁT, về SỰ GIỚI THIỆU, vì rằng tất cả những cố gắng của tôi tìm việc làm trong cái lĩnh vực duy nhất mà tôi có thể có ích cho Liên Xô như một chuyên gia đặc biệt lành nghề đều đã thất bại hoàn toàn. Tên tuổi của tôi đã bị làm cho vấy bẩn đến mức những lời đề nghị hợp tác từ phía tôi đều khiến mọi người hoảng sợ, mặc dù ở Moskva rất nhiều diễn viên và đạo diễn, và cùng với họ là các giám đốc nhà hát, đều biết rất rõ sự am hiểu sân khấu hoàn hảo của tôi.
Tôi đề nghị Liên Xô chấp nhận một chuyên gia đạo diễn và diễn viên hoàn toàn trung thực, không hề có một ý đồ phá hoại nào, sẵn sàng dựng một cách tử tế bất kì vở kịch nào, từ kịch của Shakespeare đến kịch của những tác giả hiện đại.
Tôi đề nghị bổ nhiệm tôi làm đạo diễn thử nghiệm ở Nhà hát Nghệ thuật số Một, trường học tốt nhất do các bậc thầy K. S. Stanislavski và V. I. Nemirovich-Dantrenko(11) lãnh đạo.
Nếu không được làm đạo diễn, tôi xin làm diễn viên đóng vai phụ. Nếu làm diễn viên phụ cũng không được, tôi xin làm công nhân sân khấu.
Nếu cả điều đó cũng không thể được, tôi xin Chính phủ Xô Viết xử trí tôi như Chính phủ thấy cần thiết, nhưng hãy xử trí như thế nào đó, bởi vì đối với tôi, một nhà viết kịch đã có năm vở kịch, nổi tiếng ở Liên Xô và nước ngoài, ngay trước mắt, VÀO THỜI ĐIỂM NÀY, là đói rách, bị vứt ra đường phố, và chết.
M. BULGAKOV
(ĐOÀN TỬ HUYẾN dịch từ nguyên tác tiếng Nga)
——————————-
(1) … Nhà văn đồng hành: chỉ những nhà văn không phải xuất thân giai cấp vô sản, nhưng sau cách mạng hoặc tự nguyện hoặc buộc phải đi cùng (đồng hành) với giai cấp vô sản..
(2) Viết hoa trong nguyên bản.
(3) Miska: Cách gọi thân mật hoặc suồng sã tên Mikhail của Bulgakov..
(4) A. Lunatrarski (187-1935): nhà văn, nhà lý luận, bộ trưởng Giáo dục từ năm 1917.
(5) Tác phẩm đả kích: nguyên tác là памфлет, các từ điển tiếng Việt dịch là Tác phẩm đả kích, có lẽ chưa thật chuẩn.
(6) Nguyên tác tiếng Nga: Багровый остров.
(7) Vu khống: tiếng Nga là пасквиль, từ điển dịch là văn nhục mạ, văn vu khống.
( Saltưkov – Sedrin (1826-1889): nhà văn trào phúng Nga, cùng với N. Gogol được Bulgakov coi là thầy của mình.
(9) Tức là tiểu thuyết Nghệ Nhân và Margarita, kịch bản Niềm khoái lạc và Tiểu thuyết sân khấu.
(10) Liubov Evghenievna Bulgakova: người vợ thứ hai của Bulgakov, năm 1930 ông sống với bà này, khi đó chưa gặp Elena Sergeievna là người vợ cuối cùng.
(11) Stanislavski (1863-1938), Nemirovich – Dantrenko (1858-1943): các đạo diễn cách tân vĩ đại Nga.