Chủ Nhật, 29 tháng 5, 2011

Trung quốc quở mắng Việt Nam?

- -Biển Đông: China reprimands Vietnam over offshore oil exploration(Reuters 28-5-11) -- "Reprimand" = Quở mắng!  Ối giời ơi!  Trong lịch sử nhân lọai, từ thời hồng thủy đến nay, chưa có nước nào dám nói với nước khác như vậy!  (Có thể chữ này là do Reuters đặt, không phải của Tàu, nhưng tại sao Reuters dám xài chữ này?) - - Bắc Kinh phản đối Việt Nam thăm dò dầu khí tại “vùng biển thuộc quyền pháp lý của Trung Quốc”  —  (RFI).  – Trung quốc quở mắng Việt Nam? (Gocomay).
chinaspokeswoman.jpg
Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Khương Du tuyên bố ‘Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi ở quần đảo Nam Sa và vùng biển lân cận' - Reuters




Trung quốc quở mắng Việt Nam trong thăm dò dầu khí ngoài khơi
BẮC KINH 28 tháng 5 (Reuters)
Trung Quốc chỉ trích Việt Nam vào thứ bảy trong việc thăm dò dầu và khí đốt ngoài khơi trong vùng biển đang có tranh chấp ở Biển Đông sau khi Hà Nội than phiền rằng ba tàu tuần tra Trung Quốc đã ngăn cản một tàu thăm dò của Việt Nam.
Ra đa tàu thăm dò dầu khí Bình Minh 02 của Việt Nam đã phát hiện các tàu tuần tra của Trung Quốc xuất hiện vào khoảng 5 giờ sáng ngày thứ năm (2200 GMT vào thứ tư). TTXVN cơ quan ngôn luận chính thức của truyền thông Việt Nam đưa tin.
Khoảng một giờ sau đó, ba tàu Trung Quốc cố tình chạy qua khu vực, nơi tàu thăm dò của Việt Nam đang hoạt động, cắt đứt cáp của tàu này, sau đó còn bao vây phong toả hiện trường suốt ba giờ, bản tin cho biết như thế.
Bộ Ngoại giao Trung Quốc cáo buộc nguyên do gây căng thẳng trên vùng biển tranh chấp nằm ở phía Việt Nam.
"Lập trường của Trung Quốc trên biển Nam Trung Hoa là rõ ràng và nhất quán. Chúng tôi phản đối tất cả các hoạt động thăm dò dầu khí do Việt Nam xúc tiến, đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền lợi của Trung Quốc và quyền tài phán trên Biển Đông, cũng như vi phạm sự đồng thuận cả hai nước đã đạt được về vấn đề này," Bộ Phát ngôn viên Khương Du nói.
"Những việc đã làm của Trung Quốc trên biển là hoàn toàn bình thường đúng pháp luật và hoạt động giám sát trong khu vực biển thuộc thẩm quyền tài phán của Trung Quốc" , nguyên văn lời bà Du nói trong một tuyên bố đăng trên trang web của Bộ (www.mfa.gov.cn).
"Trung Quốc đã cam kết bảo vệ hòa bình và ổn định ở Biển Đông. Chúng tôi sẵn sàng làm việc cùng với các bên liên quan để tìm kiếm một giải pháp cho tranh chấp liên quan", bà Jiang nói.
Bộ Ngoại giao Việt Nam phản đối sự việc bằng cách gửi một công hàm ngoại giao cho đại diện của đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội vào ngày thứ năm.
Biển Đông có diện tích hơn 648.000 dặm vuông (1,7 triệu km vuông), có hơn 200 hòn đảo nhỏ, đá và san hô.
Trung Quốc, Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei và Đài Loan tuyên bố tất cả các vùng lãnh thổ trên biển, trong đó bao gồm một tuyến đường vận chuyển quan trọng và được cho là có dầu và khí đốt chưa được khai thác.
Vụ việc tuần này đã diễn ra trong một khu vực gọi là lô 148 cách đường phân định (200 hải lý vùng đặc quyền kinh tế) khoảng 120 km (80 dặm) ngoài khơi bờ biển miền Trung của Việt Nam ngoài khơi bờ biển TP Nha Trang, các cơ quan thông tấn Việt Nam đưa tin. (Báo cáo của Ben Blanchard, chỉnh sửa bởi Myra MacDonald)
Chuyển ngữ: Maycogo
Phần kiểm chứng bản tin Anh ngữ của Reuters ở đây:
China reprimands Vietnam over offshore oil exploration
Sat May 28, 2011 4:38pm GMT
BEIJING May 28 (Reuters) - China criticised Vietnam on Saturday for its offshore exploration of oil and gas in the contested South China Sea after Hanoi complained that three Chinese patrol boats had challenged a Vietnamese ship.
The Vietnamese ship, the Binh Minh 02, detected the Chinese patrol boats approaching on radar at about 5 a.m. on Thursday (2200 GMT on Wednesday), the official Vietnam News Agency reported.
About an hour later, the three Chinese boats intentionally ran through the area where the Vietnamese ship was working, snapping cables the ship was using, then left the scene after about three hours, it said.
China's Foreign Ministry implied the fault for the incident lay with Vietnam.
"China's stance on the South China Sea is clear and consistent. We oppose oil and gas operations conducted by Vietnam, which have undermined China's interests and jurisdictional rights in the South China Sea and violated the consensus both countries have reached on the issue," ministry spokeswoman Jiang Yu said.
"What relevant Chinese departments did was completely normal marine law-enforcement and surveillance activities in China's jurisdictional sea area," she said in a statement posted on the ministry's website (www.mfa.gov.cn).
"China has been committed to safeguarding peace and stability in the South China Sea. We are willing to work together with relevant parties to seek a solution to related disputes," Jiang added.
Vietnam's Foreign Ministry protested against the incident by passing a diplomatic note to representatives of the Chinese embassy in Hanoi on Thursday.
The South China Sea covers an area of more than 648,000 sq miles (1.7 million sq km), containing more than 200 mostly uninhabitable small islands, rocks and reefs.
China, Vietnam, the Philippines, Malaysia, Brunei and Taiwan all claim territories in the sea, which covers an important shipping route and is thought to hold untapped oil and gas reserves.
The incident this week took place in an area called Block 148 about 120 km (80 miles) off the south-central coast of Vietnam from the beach town of Nha Trang, the Vietnamese news agency said. (Reporting by Ben Blanchard; editing by Myra MacDonald)
© Thomson Reuters 2011 All rights reserved
http://af.reuters.com/article/energyOilNews/idAFL3E7GS07E20110528
* * *


-Biển Đông: Vietnam, China in sea spat(AFP 28-5-11) -
- Nghiên cứu Biển Đông:  Tranh chấp Biển Đông: Liệu Trung Quốc có giải quyết bằng vũ lực? .

– Nguyễn Đăng Thắng: Vụ tàu Bình Minh 02 – một Vụ CGX trên Biển Đông? 
Vụ việc tàu hải giám của Trung Quốc ngang nhiên cắt cáp thăm dò của tàu địa chấn Bình Minh 02 thuộc Tổng công ty Dầu khí Việt Nam trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam đang được dư luận hết sức quan tâm.  NCBĐ giới thiệu bài bình luận nóng của tác giả Nguyễn Đăng Thắng, dựa trên Công ước luật  biển 1982 và các tiền lệ án quốc tế, phân tích tính phi lý trong hành động của phía Trung Quốc.

      
(Cáp thăm dò bị cắt của tàu Bình Minh 02, Nguồn TTXVN)

Vụ tàu Bình Minh 02
       Ngày 27/5, một loạt các phương tiện thông tin đại chúng của cả Việt Nam lẫn nước ngoài đã đưa tin về việc tàu hải giám của Trung Quốc cắt cáp thăm dò của tàu địa chấn Bình Minh 02 thuộc Tổng công ty Dầu khí Việt Nam (PVN) sáng sớm ngày 26 tháng 5 năm 2011 (sau đây gọi là Vụ tàu Bình Minh 02).[1] Những diễn biến chính của vụ việc này có thể tóm tắt như sau:
 Tàu địa chấn Bình Minh 02 của Tổng công ty cổ phần Dịch vụ kỹ thuật dầu khí thuộc PVN đang tiến hành thăm dò địa chấn trên thềm lục địa của Việt Nam thì phát hiện có ba tàu hải giám của Trung Quốc di chuyển rất nhanh về phía khu vực khảo sát mà không có cảnh báo. Khi tàu Bình Minh 02 tạm dừng hoạt động thì tàu hải giám của Trung Quốc đã chủ động chạy qua khu vực thả dây cáp và cắt cáp thăm dò địa chấn của tàu Bình Minh 02. Ba tàu hải giám Trung Quốc sau đó tiếp tục cản trở, thậm chí còn uy hiếp tàu Bình Minh 02 và cho rằng tàu Bình Minh đã vi phạm chủ quyền của Trung Quốc. Dù tàu Bình Minh của PVN không chấp nhận luận điệu của tàu hải giám Trung Quốc và khẳng định rằng mình đang nằm trong vùng biển của Việt Nam nhưng cũng không thể hoạt động được cho đến khi ba tàu hải giám Trung Quốc rời khỏi khu vực khảo sát sau đó gần 4 tiếng.
Những diễn biến của Vụ tàu Bình Minh 02 nói trên có thể làm người ta liên tưởng đến Vụ CGX năm 2000 tại Đại Tây Dương ngoài khơi Guyana và Suriname được đề cập dưới đây.
Vụ CGX năm 2000[2]
Guyana và Suriname là hai quốc gia nhỏ bé Nam Mỹ[3] bên bờ Đại Tây Dương. Do là hai quốc gia liền kề nên vùng biển, kể cả thềm lục địa, mà Guyana và Suriname được hưởng theo quy định của Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 (Công ước Luật biển) chồng lấn lên nhau và cần phải phân định. Trong khi giữa hai nước chưa có một đường ranh giới trên biển rõ ràng, vào những thập niên cuối của thế kỷ XX, cả Guyana và Suriname đều lần lượt cấp phép cho các công ty dầu khí nước ngoài tiến hành các hoạt động thăm dò tại vùng biển chồng lấn.
Trong số các nhà thầu của Guyana có Tập đoàn Tài nguyên CGX (CGX Resources Inc. - gọi tắt là CGX) của Canada từ năm 1999 bắt đầu tiến hành thăm dò địa chấn tại khu vực tranh chấp. Tháng 5 năm 2000, Suriname nhiều lần yêu cầu Guyana chấm dứt việc thăm dò tại khu vực chồng lấn. Đặc biệt, ngày 31/5/2000, Suriname yêu cầu riêng CGX chấm dứt toàn bộ hoạt động thăm dò địa chấn vượt quá một đường được gọi là đường 10o được Suriname sử dụng làm ranh giới cấp phép dầu khí của mình dù Guyana không công nhận đường này.4]
Đỉnh điểm của tranh cãi giữa hai bên là sự việc diễn ra ngày 03/6/2000 khi hai tàu hải giám của lực lượng hải quân Suriname tiến đến gần tàu C.E. Thornton của CGX (vụ việc này sau thường được biết đến là “Vụ CGX”), yêu cầu tàu này không được thăm dò địa chấn và áp giải tàu này rời khỏi khu vực mà CGX đã được Guyana cấp phép.
Năm 2004, Guyana đơn phương việc dẫn cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc theo quy định của Công ước Luật Biển để phân định vùng biển chồng lấn với Suriname. Một Tòa trọng tài gồm năm luật gia quốc tế nổi tiếng được thành lập để giải quyết tranh chấp phân định biển theo đề nghị của Guyana do cả Guyana và Suriname đều đã là thành viên của Công ước Luật biển và không quốc gia nào có bảo lưu việc sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc này. Tòa trọng tài đã ra phán quyết của mình tại La Hay ngày 17/9/2007 (án lệ Guyana - Suriname). 
Điểm đáng chú ý trong án lệ Guyana - Suriname là ngoài việc yêu cầu Tòa trọng tài tiến hành phân định biển, Guyana cũng cáo buộc Suriname trong Vụ CGX đã vi phạm một số nghĩa vụ quốc tế. Cụ thể đó là Suriname đã sử dụng vũ lực chống lại sự toàn vẹn lãnh thổ của Guyana và chống lại công dân cùng các pháp nhân đang hoạt động trên vùng biển thuộc chủ quyền và quyền tài phán của Guyana. Theo Guyana, sự vi phạm này cũng dẫn đến việc Suriname vi phạm thêm các quy định của Công ước Luật Biển, Hiến chương Liên hợp quốc cũng như luật pháp quốc tế nói chung về việc giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình. Guyana cũng yêu cầu Tòa trọng tài ra phán quyết về trách nhiệm quốc gia, yêu cầu Suriname bồi thường thiệt hại nảy sinh sau Vụ CGX. 
Tòa trọng tài bằng phán quyết ngày 17/9/2007 của mình cho rằng trong Vụ CGX, Suriname đã vi phạm nguyên tắc cấm đe dọa sử dụng vũ lực theo Công ước Luật biển, Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế nói chung. Hơn nữa, Tòa cũng  cho rằng việc vi phạm nguyên tắc cấm đe dọa sử dụng vũ lực cũng dẫn đến việc vi phạm nghĩa vụ không được cản trở việc tiến đến thỏa thuận phân định cuối cùng theo quy định Điều 74(3) và 83(3) của Công ước Luật biển - còn được gọi là nghĩa vụ “tự kiềm chế”. Tòa trọng tài cho rằng nghĩa vụ “tự kiềm chế” là một phần trong nghĩa vụ lớn hơn của các quốc gia thành viên Công ước Luật Biển theo Điều 74(3) và 83(3) về việc đạt được các thỏa thuận tạm thời có tính thực tiễn liên quan đến vùng biển tranh chấp trong khi hai bên chưa phân định. Cần nói thêm rằng thỏa thuận tạm thời có tính thực tiễn phổ biến nhất chính là thỏa thuận “khai thác chung”. 
Tuy nhiên, riêng đối với yêu cầu của Guyana về tránh nhiệm quốc gia liên quan đến Vụ CGX thì Tòa cho rằng vùng biển xảy ra Vụ CGX đã được phân xử là thuộc về Guyana nên đã bảo đảm rằng Suriname sau này sẽ không có các vi phạm nghĩa vụ quốc tế tương tự như Vụ CGX. Tòa sau đó thấy rằng yêu cầu về thiệt hại của Guyana liên quan đến Vụ CGX không được thành lập nên từ chối không ra phán quyết về việc việc bồi thường. Hơn nữa Tòa trọng tài cũng cho rằng bản thân Guyana cũng vi phạm nghĩa vụ về việc đạt thỏa thuận tạm thời có tính chất thực tiễn đối với khu vực tranh chấp, góp phần dẫn đến Vụ CGX.
Một điểm đáng chú ý khác trong án lệ Guyana - Suriname đó là Tòa đưa ra phân tích về tác hại của hoạt động thăm dò địa chấn đối với môi trường đáy biển và hệ quả của việc này đối với nghĩa vụ “tự kiềm chế” hay nghĩa vụ về việc đạt thỏa thuận tạm thời có tính chất thực tiễn. Tòa trọng tài nhắc lại án lệ trước đây của Tòa án công lý quốc tế cho rằng hoạt động thăm dò địa chấn sử dụng âm thanh nên không có tác động “cơ học” đối với đáy biển và do vậy không làm ảnh hưởng hay thiệt hại đối với quốc gia tranh chấp khác nếu như vùng biển được thăm dò sau đó có được phân định là thuộc về quốc gia tranh chấp khác đó. Nói cụ thể hơn, Tòa cho rằng việc thăm dò địa chấn là được phép tiến hành trong vùng biển thực sự có tranh chấp.
Nhìn vẻ bên ngoài, những diễn biến của Vụ CGX có nhiều điểm đồng với Vụ tàu Bình Minh 02 và như thế phán quyết của Tòa trọng tài trong Án lệ Guyana - Suriname có thể áp dụng trong quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc.
  

Nhưng ... 

            ... mọi sự so sánh đều là khập khiễng 
Trước hết để biết phán quyết của Tòa trọng tài trong Án lệ Guyana - Suriname có áp dụng được với Trung Quốc và Việt Nam không cần hiểu bối cảnh của Vụ CGX và Vụ Bình Minh 02. Như đã trình bày ở trên, Vụ CGX xảy ra tại vùng biển thực sự có tranh chấp giữa Guyana và Suriname. Như đã nói ở trên, với vị trí địa lý của mình, hai quốc gia Guyana và Suriname liền kề và do đó các vùng biển của họ theo Công ước Luật biển cũng liền kề và chồng lấn lên nhau. Điều này bắt nguồn từ nguyên tắc: "đất thống trị biển" - nguyên tắc cơ bản trong việc xác định vùng biển theo pháp luật quốc tế. Nội hàm của nguyên tắc này đó là quốc gia nào có bờ biển ở đâu thì sẽ có vùng biển ở đó. Có thể minh hoạt một cách sinh động nguyên tắc này bằng "hình" và "bóng": không có hình (bờ biển) thì làm sao bóng (vùng biển)?  
Chỉ khi đáp ứng được tiêu chí đầu tiêncơ bản nói trên, đó là có bờ biển, thì một quốc gia mới có thể nói đến chuyện có được các yêu sách vùng biển theo quy định của Công ước Luật biển - thông thường không quá 200 hải lý.[5] Với thực tế địa lý của mình (xem bản đồ bên dưới), Trung Quốc không thể có yêu sách về vùng biển theo quy định của Công ước Luật Biển tại khu vực xảy ra Vụ tàu Bình Minh 02, nơi cách đảo Hải Nam của Trung Quốc 340 hải lý.[6] Thậm chí nếu Trung Quốc có sáng kiến cho rằng vị trí hoạt động của tàu Bình Minh 02 sáng ngày 26/5/2011 nằm trên thềm lụa địa kéo dài vượt ra ngoài 200 hải lý thì cũng phải phù hợp nguyên tắc đó là yêu sách về thềm lục địa kéo dài ngoài 200 hải lý không được chồng lấn lên vùng biển nằm trong phạm vi 200 hải lý tính từ đường cơ sở của quốc gia khác. Nguyên tắc này là nguyên tắc tiến bộ của của luật biển quốc tế hiện đại hình thành sau khi thông qua Công ước Luật biển – Công ước mà Trung Quốc cũng là một thành viên. Tính bất hợp lý của một yêu sách về thềm lụa địa kéo dài (trên  cơ sở đặc thù địa chất) để tạo tranh chấp tại một khu vực hoàn toàn nằm trong phạm vi 200 hải lý của quốc gia ven biển khác từ lâu đã được công nhận bởi Tòa án công lý quốc tế - cơ quan tư pháp uy tín nhất trên thế giới về pháp luật quốc tế. Cụ thể năm 1985, trong án lệ phân định thềm lụa địa giữa Libya và Malta, Tòa đã bác bỏ lập luận của Libya cho rằng đường phân định cần tuân thủ tiêu chí về địa chất và cho rằng tiêu chí về khoảng cách, 200 hải lý, có giá trị cao hơn.[7]
Như vậy, điều quan trọng đó là cần xem xét thực sự vị trí hoạt động của tàu Bình Minh 02 khi bị cắt cáp sáng ngày 26/5/2011 là ở đâu? Theo các số liệu công bố trên phương tiện thông tin đại chúng thì nơi xảy ra Vụ tàu Bình Minh 02 nằm cách mũi Đại Lãnh không đến 120 hải lý.[8] Cần nhớ rằng mũi Đại Lãnh nằm trên bờ biển của Việt Nam và như vậy nếu có xác định các vùng biển của Việt Nam theo cách “khiêm tốn” đó là dùng đường cơ sở thông thường - tính theo ngấn nước triều thấp nhất dọc theo bờ biển[9] - thì vị trí mà tàu Bình Minh bị cắt cáp vẫn hoàn toàn nằm trên thềm lụa địa của Việt Nam theo giới hạn 200 hải lý - một thềm lụa địa mà Việt Nam đương nhiên có mà không cần phải tuyên bố với bên ngoài theo quy định của Công ước Luật biển.[10]
Tuy nhiên, khác với vùng biển Đại Tây Dương ngoài khơi Guyana và Suriname, khu vực Biển Đông cũng có một đặc thù riêng và cần phải tính đến, đó là sự tồn tại của những nhóm đảo nhỏ giữa biển khơi, cụ thể là hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Quần đảo Hoàng Sa đang là đối tượng tranh chấp giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc còn quần đảo Trường Sa thì là đối tượng tranh chấp của năm nước, gồm Bru-nây, Ma-lai-xi-a, Phi-líp-pin, Trung Quốc và Việt Nam. Tất nhiên, đối với Trung Quốc, họ sẽ nghĩ rằng họ có thể yêu sách các vùng biển tính từ các quần đảo này và thực tế họ cũng tuyên bố là các quần đảo này có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng.[11]

Nguồn: Tuôitrẻonline

Tuy nhiên, dù sự sáng tạo tiếp theo này có đúng đi nữa - một điều thật khó xảy ra,[12] thì cần nhớ rằng một nguyên tắc trong phân định biển đó là một hòn đảo ngoài khơi không thể có nhiều vùng biển hơn bờ biển lục địa được như đã được thấy trong các án lệ và thực tiễn phân định biển, trong đó có cả thỏa thuận phân định Vịnh Bắc Bộ giữa Trung Quốc và Việt Nam năm 2000. Vị trí xảy ra Vụ tàu Bình Minh 02 vẫn nằm hoàn toàn bên phần biển Việt Nam ngay cả khi Việt Nam “hào phóng” đồng ý chia đôi vùng biển nằm giữa bờ biển của mình và quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà Việt Nam cũng yêu sách - một khả năng không thể xảy ra và chẳng thể hiện sự nghiêm túc xét từ góc độ khoa học pháp lý. [13] 
Với những phân tích như trên, ngay cả những bộ óc sáng tạo nhất cũng khó có thể tưởng tượng được cơ sở nào trong pháp luật quốc tế hiện đại về biển có thể đem lại cho Trung Quốc một yêu sách đối với khu vực mà tàu Bình Minh 02 hoạt động sáng ngày 26/5/2011.


Thay lời kết – quay lại Vụ CKG  
Phân tích nêu trên đã cho thấy sự khác biệt về  bối cảnh của vụ CKG và Vụ tàu Bình Minh 02. Nói cụ thể hơn, khu vực xảy ra Vụ tàu Bình Minh hoàn toàn nằm trên thềm lục địa của Việt Nam và Trung Quốc không thể có các yêu sách với vùng biển này nếu theo đúng các tiêu chuẩn của Công ước Luật biển.
Mặt khác, ở góc độ quan hệ quốc tế và pháp luật quốc tế,[14] quan hệ giữa Suriname và Guyan là giống quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam. Điều này bắt nguồn từ nguyên tắc tối cao, có tác dụng bảo đảm sự ổn định của trật tự thế giới đó là nguyên tắc “bình đẳng”. Nguyên tắc “bình đẳng và cùng có lợi” là nguyên tắc cuối cùng trong năm nguyên tắc về cùng tồn tại hòa bình mà Trung Quốc là một trong những quốc gia khởi xướng đầu tiên.[15] Trong quan hệ với Việt Nam, năm nguyên tắc về cùng tồn tại hòa bình từ lâu cũng đã được được khẳng định trong quan hệ hai nước.[16]
Từ cơ sở trên, cả bốn nước Guyana, Suriname, Trung Quốc và Việt Nam đều là thành viên của Công ước Luật biển và đều được hưởng những quyền lợi cũng như cần thực hiện các nghĩa vụ thành viên của mình như nhau. Tất nhiên, vì Trung Quốc không công nhận cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc của Công ước Luật biển[17] nên sẽ không có việc Việt Nam đem Vụ tàu Bình Minh 02 ra trước một cơ quan tài phán quốc tế giống như Guyana đã làm với Suriname. Cơ chế giải quyết những tranh chấp liên quan đến biển của Việt Nam và Trung Quốc chủ yếu vẫn sẽ là đàm phán và có thể có sự hỗ trợ của ủy ban hòa giải theo quy định của Công ước Luật biển.[18] Tuy nhiên, việc thiếu một cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc không làm giảm giá trị của nghĩa vụ quốc tế của quốc gia khi mà nền tảng của luật pháp quốc tế là thiện  chí.
Cuối cùng cũng cần nhớ rằng, nếu Trung Quốc cho rằng mình “có quyền” đối với vùng biển mà tàu Bình Minh 02 hoạt động thì Trung Quốc cũng cần tuân thủ các nghĩa vụ của mình theo luật pháp quốc tế, kể cả Công ước Luật biển và Hiến chương Liên hợp quốc. Chỉ khi đó khái niệm thiện chí mới có ý nghĩa và phát huy để góp phần duy trì bình ổn trong quan hệ quốc tế cũng như thúc đẩy sự hợp tác giữa các quốc gia. Ở góc độ này, phán quyết của Tòa trọng tài quốc tế trong án lệ Guyana - Suriname sẽ là “chuẩn mực” để  Trung Quốc hành xử trong các vấn đề mà họ cho rằng đang có tranh chấp, kể cả nghĩa vụ giải quyết hòa bình tranh chấp quốc tế và không sử dụng vũ lực trên biển.[19] Đặc biệt, phán quyết đó nói rõ những gì mà quốc gia có thể làmkhông được làm để bảo đảm tuân thủ nghĩa vụ “tự kiềm chế” trong khi theo đuổi nghĩa vụ lớn hơn về việc đạt được thỏa thuận tạm thời có tính thực tiễn - nghĩa vụ mà Trung Quốc vẫn viện dẫn để thúc đẩy ý tưởng “gác tranh chấp, cùng khai thác” tại khu vực mà họ cho rằng có tranh chấp./.
Nguyễn Đăng Thắng
Nghiên cứu sinh luật tại Vương quốc Anh,
Thành viên không thường trú, Trung tâm Nghiên cứu Biển Đông, HVNG


Để thêm thông tin về lực lượng hải giám Trung Quốc, đọc thêm:  Năm con rồng khuấy động biển cả (phần về Tổng cục Hải quan và Cơ quan Hải dương)


[1] Xem "Tàu Trung Quốc cắt cáp thăm dò dầu khí của Việt Nam", trên báo điện tử Vietnamnet tại địa chỉ http://vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/22902/tau-trung-quoc-cat-cap-tham-do-dau-khi-cua-viet-nam.html; Duy Thanh,“Tàu Trung Quốc táo tợn xâm phạm lãnh hải Việt Nam” trên báo điện tử Tuổitrẻonline, tại địa chỉ http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/439975/Tau-Trung-Quoc-tao-ton-xam-pham-lanh-hai-Viet-Nam.htmlBen Bland & Kathrin Hille, “New clash in South China Sea”, báo Financial Times ngày 27/5/2011,  tại địa chỉ http://www.ft.com/cms/s/0/4d3badc0-8867-11e0-a1c3-00144feabdc0.html#ixzz1Na716utU (tất cả các trang đều được kiểm tra hôm nay).
[2] Thông tin cơ bản của Vụ CGX được trích từ án lệ: Arbitral Tribunal Constituted Pursuant to Article 287, and in Accordance with Annex VII, of the United Nations Convention on the Law of the Sea in the Matter of an Arbitration Between Guyana and Suriname, toàn bộ văn bản có tại địa chỉ http://www.pca-cpa.org/upload/files/Guyana-Suriname%20Award.pdf .
[3] Guyana và Suriname lần lượt là hai quốc gia nhỏ thứ ba và nhỏ nhất ở Nam Mỹ.
[4] Guyana cho rằng đường ranh giới biển phải là đường trung tuyến từ bờ biển hai nước.
[5] Đây là giới hạn bên ngoài của vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa mà các quốc gia đươgn nhiên có theo quy định của Công ước Luật biển.
[6]Số liệu lấy từ bài báo trên trang Tuoitreonline, nêu tại chú thích 1 bên trên.
[7] Xem án lệ Continental Shelf (Libya v Malta), Judgement [1985] ICJ Reports 13, các đoạn 33-34.
[8] Thông tin của bài trên báo Tuoitreonline nêu tại chú thích 1 đưa con số chính xác là 116 hải lý.
[9] Công ước Luật biển, Điều 5. Cách tính “khiêm tốn” được đưa ra ở đây xét trên thực tế là đường cơ sở thẳng của Việt Nam bị một số nước chỉ trích là không đáp ứng của Công ước Luật biển dù rằng cũng có ý kiến đoạn đường cơ sở thằng liên quan đến Mũi Đại Lãnh là hoàn toàn chấp nhận được và phù hợp Công ước. So sánh JA Roach and RW Smith, 'Excessive Maritime Claims' [1994] International Law Studies Series 66 (Naval War College, Newport, Rhode Island), các trang 58-60, với Johan Henrik Nossum, "What Vietnam could gain from redrawing its baselines", IBRU Boundary and Security Bulletin, Winter 2001-2002, 97, trang 101.
[10] Công ước Luật biển, Điều 77.
[11] Luật về Vùng đặc quyền kinh tế và thềm lụa địa năm 1998 của Trung Quốc quy định các lãnh thổ của Trung Quốc có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lụa địa; lãnh thổ của Trung Quốc theo quy định Luật Lãnh hải và Vùng tiếp giáp năm 1992 thì bao gồm cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đang có tranh chấp. Như vậy, có thể suy ra rằng Trung Quốc cho rằng quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lụa địa. Riêng đối với quần đảo Trường Sa, vấn đề này đã được khẳng định trong Công hàm gửi Tổng thư ký Liên hợp quốc ngày 14/4/2011. Xem Note Verbale No. CML/8/2011 của Phái đoàn Trung Quốc tại Liên hợp quốc, có tại địa chỉ: http://www.un.org/depts/los/clcs_new/submissions_files/vnm37_09/chn_2011_re_phl_e.pdf .
[12] Ngoài việc liệu Trung Quốc có chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa hay Hoàng Sa hay không thì việc cho rằng những đảo nhỏ “li ti” tại quần đảo Trường Sa có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lụa địa riêng cũng bị chỉ trích. Chẳng hạn, In-đô-nê-xi-a khách quan phản đối việc các đảo Trường Sa đáp ứng tiêu chí của Công ước Luật Biển để có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lụa địa riêng. Xem Note Verbale No. 480/POL-703/VII/10 ngày 08/7/2010  của Phái đoàn In-đô-nê-xi-a tại Liên hợp quốc, http://www.un.org/depts/los/clcs_new/submissions_files/mysvnm33_09/idn_2010re_mys_vnm_e.pdf . Để có đánh giá khách quan về cơ sở (yếu) của Trung Quốc trong yêu sách chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa có thể xem Daniel J. Dzurek. "The Spratlys Island Dispute: Who’s on first?" Maritime Briefings 2 (1996) 1; Mark J. Valencia, Jon M. Van Dyke, and Noel A. Ludwig, Sharing the resources of the South China Sea (The Hague: Martinus Nijhoff 1997), chương 3.
[13] Xem phân tích gần đây của Jon . Van Dyke, "Disputes Over Islands and Maritime Boundaries in East Asia" trong S.-Y. Hong & J. M. Van Dyke (eds.) Maritime Boundary Disputes, Settlement Processes, and the Law of the Sea (Leiden: Martinus Nijhoff Publishers 2009), 39-75, 73 và Clive Schofield & Ian Townsend-Gault, "Brokering Cooperation Amidst Competing Maritime Claims: Preventative Diplomacy in the Gulf of Thailand and South China Sea" in A. E. Chircop, T. L. McDorman & S. Rolston (eds.) The future of ocean regime-building: Essays in tribute to Douglas M Johnston (Leiden: Martinus Nijhoff Publishers 2009),, 659, 666.
[14] Tất nhiên, từ góc độ vật chất thì Guyana và Suriname khác Việt Nam và càng khác nhiều so với Trung Quốc. Theo thông tin trên CIA-World Factbook, diện tích và dân số (ước tính đến tháng 7/2011) của các nước lần lượt là: Guyana 214.969 sq km2 với 744,768 người; Suriname 163.820 km2 với 491,989 người; Trung Quốc 9.596.961 km2 với 1.336.718.015 người và Việt Nam 331.210 km2 với 90.549.390 người. Nguồn: https://www.cia.gov/library/publications/the-world-factbook/index.html.
[15] Năm nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình được đưa ra đầu tiên giữa Trung Quốc và Ấn Độ năm 1954. Xem http://news.xinhuanet.com/english/2005-04/08/content_2803638.htm .
[16] “Tuyên bố chung của Thủ tướng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng và Thủ tướng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Chu Ân Lai, Hà Nội, ngày 14/05/1960”, cũng được nhắc lại trong các tuyên bố sau này, như “Tuyên bố chung về hợp tác toàn diện trong thế kỷ mới giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Bắc Kinh, ngày 25/12/2000”.
[17] Ngày 25/08/2006,  Trung Quốc viện dẫn Điều 298 của Công ước Luật biển ra tuyên bố không công nhận thủ tục giải quyết tranh chấp bắt buộc của Công ước đối với một số vấn đề trong đó có vấn đề liên quan đến tranh chấp lãnh thổ. Văn bản Tuyên bố có tại, http://www.un.org/depts/los/convention_agreements/convention_declarations.htm#China%20after%20ratification .
[18] Công ước Luật biển, Điều 298(1).
[19] Việc Trung Quốc có bị coi là vi phạm nguyên tắc cấm đe doạ sử dụng vũ lực hay không trong Sự kiện Bình Minh 02 đòi hỏi phải có thêm các thông tin cụ thể.



Đằng sau những thay đổi trong cách tiếp cận của Trung Quốc đối với Biển Đông.

- Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế (PLTP).- Trung Quốc đe dọa tàu thăm dò của Việt Nam trong vùng biển Ðông  —  (VOA). - Tình hình Biển Đông có thể trở nên căng thẳng hơn  —  (RFA).  - Chính phủ Việt Nam cần dựa vào dân để đấu tranh với Trung Quốc về Biển Đông  —  (RFI).
- Người Trung Quốc nói về tàu sân bay Trung Quốc (VTC).
Biển Đông không phải “ao nhà” của Trung Quốc!    – Không còn là “tàu lạ” .  – Thực chất tàu hải giám Trung Quốc .  -Thơ của Nguyễn Việt Chiến: “Tổ quốc nhìn từ biển” .   – Ngư dân bị tàu cá Trung Quốc chiếm ngư trường .- - Biển Đông : Trung Quốc leo thang gây hấn với Việt Nam  —  (RFI).


- Ông Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ: ’Trung Quốc đang đe dọa an ninh của cả khu vực’. VNExpress - bài đã bị rút xuống ?
 
 'Việc Trung Quốc xâm phạm lãnh hải, gây thiệt hại lớn về kinh tế và cản trở hoạt động của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) là hành động trắng trợn. Những hành động như vậy đe dọa an ninh của cả khu vực", ông Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ nói.
- Ông đánh giá như thế nào về việc 3 tàu hải giám của Trung Quốc xâm phạm lãnh hải của Việt Nam và cản trở hoạt động của PVN ngày 26/5 vừa qua?
- Xét về khía cạnh luật pháp quốc tế, hành động này là sự vi phạm hết sức ngang ngược, trắng trợn Công ước về luật biển 1982 mà Trung Quốc và Việt Nam đều là thành viên. Vùng biển này hoàn toàn thuộc quyền chủ quyền ven biển của Việt Nam, không liên quan gì tới vùng chồng lấn hay tranh chấp.
Trước đây cũng đã có những lần tàu Trung Quốc vào sâu trong vùng đặc quyền kinh tế, áp sát, gây khó khăn thậm chí đe dọa cho các tàu thăm dò dầu khí, tàu nghiên cứu khoa học của Việt Nam.
Tàu hải giám Trung Quốc mang số hiệu 84 vi phạm lãnh hải của Việt Nam. Ảnh: TTXVN.
- Trong hoàn cảnh các nước ở khu vực tuyên bố không làm phức tạp tình hình biển Đông, hành động này từ phía Trung Quốc cho thấy điều gì?
- Thực ra, tôi không ngạc nhiên về việc này. Bởi các tàu của Trung Quốc đã tiến hành các hành động xâm phạm có hệ thống từ lâu. Tùy tình hình, năm nào họ cũng có những hoạt động đơn phương tại các vùng biển mà họ tự cho là "ao nhà" của mình.
Nhìn rộng hơn đây là cả chiến lược nhiều mặt của Trung Quốc. Về mặt văn bản pháp lý, Trung Quốc thể hiện dụng ý mở rộng phạm vi kiểm soát hầu hết diện tích biển Đông bằng các văn bản, sắc lệnh, tuyên bố. Như việc họ ra các luật lãnh hải 1958 có nói Tây Sa, Nam Sa (tức là cách gọi hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam) là của Trung Quốc. Sau này, những năm 1970, 1980 họ ra luật tuyên bố về đường cơ sở trong đó xây dựng đường cơ sở ở khu vực quần đảo Trường Sa; rồi đưa ra các quyết định hành chính như thành lập huyện Tam Sa, tung ra các luận điệu về chủ quyền trên biển như đường yêu sách 9 đoạn hay còn gọi là "đường lưỡi bò"...
Về mặt ngôn luận, họ lợi dụng mọi diễn đàn quốc tế để giành được sự công nhận của quốc tế về chủ quyền trên biển Đông. Về hành chính có các sắc lệnh như cấm đánh bắt hải sản hàng năm ở khu vực hoàn toàn thuộc chủ quyền của mình.
Năm 2009, khi Việt Nam gửi đăng ký về ranh giới rìa ngoài của thềm lục địa lên Liên Hợp quốc thì Trung Quốc mới chính thức ra một công hàm trong đó lần đầu tiên công bố có "bản đồ đường lưỡi bò".
Về các hoạt động quân sự trên thực địa, họ đều tính toán có thời điểm nhạy cảm chính trị hay căn cứ tình hình trong khu vực để từng bước chiếm đóng các nơi họ bước chân tới. Nghiêm trọng hơn nữa, gần đây họ có các hoạt động ngăn chặn, phá hoại việc nghiên cứu, thăm dò của các quốc gia trong khu vực này như Philippines ở Bãi Cỏ Rong, các vùng thềm lục địa của Việt Nam...
Với cách làm đó hoàn toàn dễ nhận thấy Trung Quốc đang tính toán những bước tiếp theo để hợp thức hóa, biến tham vọng chiếm 80% diện tích biển Đông thành vùng biển của họ, theo đúng cái mà họ đưa ra bằng "bản đồ đường lưỡi bò".
Cáp thăm dò của tàu địa chấn Bình Minh 02 bị tàu hải giám Trung Quốc trắng trợn xâm phạm chủ quyền Việt Nam phá hoại. Ảnh: TTXVN.
- Theo ông, khi đã tham gia Công ước, tàu Trung Quốc căn cứ vào đâu để cho mình quyền xâm phạm vào lãnh hải của Việt Nam?
- Trung Quốc tham gia Công ước và luôn nói rằng tôn trọng Công ước, đàm phán trên cơ sở Công ước. Tuyên bố như vậy nhưng trong thực tế họ hoàn toàn làm ngược lại. Họ lý luận rằng, họ căn cứ Công ước, vận dụng văn bản này với xuất phát điểm là Hoàng Sa, Trường Sa (mà họ gọi là Tây Sa, Nam Sa) thuộc quyền của họ. Vì thế họ có quyền mở rộng vùng biển quanh các quần đảo này.
Rõ ràng về mặt luật biển thì đây là sự vận dụng sai lầm, đầy tham vọng chủ quan với mong muốn độc chiếm biển Đông. Tôi từng tham gia nhiều hội thảo với các nhà khoa học thì họ đều nói đây là một yêu sách phi lý, không có căn cứ một tiêu chuẩn quốc tế nào để hình thành đường biên giới không rõ ràng. Các nước phản đối nhưng họ vẫn làm.
- Vậy với trường hợp cụ thể lần này, khi bị tàu hải giám Trung Quốc cản trở phá hoại, Việt Nam được phép làm gì để bảo vệ chủ quyền và lợi ích chính đáng của mình?
- Tôi nghĩ việc Việt Nam kịp thời lên tiếng về ngoại giao, đối nội, đối ngoại để thể hiện chủ quyền như vừa rồi là rất nên làm. Chúng ta cũng cần gửi lưu chiểu tại Liên Hợp quốc, công bố tất cả bằng chứng vi phạm này cho cả thế giới biết, đưa ra các cơ quan tài phán quốc tế, tòa án luật biển của Liên hợp quốc.
Còn cụ thể trước hành động xâm phạm chủ quyền, xâm phạm an ninh và phá hoại lợi ích kinh tế, quốc gia ven biển nào cũng đủ quyền để sử dụng sức mạnh tự vệ. Chúng ta có quyền bắt, xử phạt các tàu vi phạm, hành xử theo đúng quy định pháp luật. Ở mức cao nhất có thể dùng đến lực lượng quân sự để bắt giữ các tàu đó hoặc xua đuổi. Đây là các hành động tự vệ chính đáng chứ không phải chủ động gây xung đột. Như năm 1988 khi Trung Quốc dùng vũ lực để chiếm một số bãi cạn trên quần đảo Trường Sa thì hải quân chúng ta đã chiến đấu và hy sinh để bảo vệ chủ quyền biển đảo đất nước.
Tất nhiên chủ trương của Việt Nam là hòa bình, không bao giờ muốn dùng vũ lực nhưng nếu như buộc phải dùng thì ta cũng có thể cân nhắc. Điều này có thể tham khảo cách làm của Malaysia hay Philippines gần đây khi dùng máy bay hoặc các lực lượng vũ trang ra xua đuổi tàu Trung Quốc xâm phạm. Rõ ràng nói về quyền để tự vệ, để đảm bảo an toàn và lợi ích chính đáng của quốc gia thì không ai cấm mình sử dụng sức mạnh vũ lực được.
"Xét về khía cạnh luật pháp quốc tế, hành động của tàu hải giám Trung Quốc là sự vi phạm hết sức ngang ngược, trắng trợn Công ước về luật biển 1982 mà Trung Quốc và Việt Nam đều là thành viên". Ảnh: N.H.
- Theo ông, hành động của Trung Quốc ảnh hưởng như thế nào đến an ninh của các quốc gia trong khu vực, đặc biệt các nước chung biển Đông?
- Đây là câu hỏi mà nhiều nước suy nghĩ khi Trung Quốc liên tục có nhiều hành động để biến tham vọng của mình thành sự thực. Điều đó gây ảnh hưởng và đe dọa đến an ninh, quốc phòng chiến lược quân sự mà còn về mặt kinh tế, dân sự của các nước trong khu vực.
Đó là chưa kể nó sẽ ngày càng gây cản trở đối với một trong những tuyến hàng hải quan trọng nhất trên thế giới qua biển Đông. Rõ ràng nếu việc này tiếp diễn thường xuyên và không được xử lý khéo léo thì khó tránh khỏi xung đột. Tôi cho rằng, các nước trong khu vực cần có tiếng nói thống nhất trước những bước tiến hết sức trắng trợn lần này của Trung Quốc.
Lô 148 mà tàu Bình Minh 02 đang thăm dò hoàn toàn nằm trong phạm vi thềm lục địa 200 hải lý của Việt Nam. Vị trí cáp thăm dò bị phía Trung Quốc cắt chỉ cách mũi Đại Lãnh, tỉnh Phú Yên 116 hải lý, tức là còn 84 hải lý nữa mới đến ranh giới 200 hải lý.
Nguyễn Hưng thực hiện




Yêu cầu Trung Quốc không vi phạm đặc quyền kinh tế Việt Nam.- Cắt cáp dầu khí của Việt Nam, Trung Quốc vi phạm nghiêm trọng Công ước LHQ về Luật Biển (TVN) -Hồi 5g58 sáng ngày 26-5-2011, tàu Bình Minh 02 của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam trong khi đang thăm dò địa chấn tại lô 148 trong thềm lục địa 200 hải lý của Việt Nam bị 3 tàu hải giám của Trung Quốc lao vào cắt cáp (7km cáp bị cắt), làm hỏng một số thiết bị của tàu, gây thiệt hại lớn về kinh tế và ảnh hưởng xấu đến kế hoạch công tác của Tập Đoàn dầu khí Việt Nam tại khu vực này.
Lô 148 hoàn toàn nằm trong phạm vi thềm lục địa 200 hải lý của Việt Nam. Vị trí cáp thăm dò bị phía Trung Quốc cắt chỉ cách mũi Đại Lãnh, tỉnh Phú Yên khoảng 120 hải lý, tức là còn 80 hải lý nữa mới đến ranh giới 200 hải lý. Khác với tình hình trong Vịnh Bắc Bộ và Vịnh Thái Lan, ở khu vực miền Trung vào phía Nam, trong đó có lô 148, thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam hoàn toàn không chồng lấn với thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của bất cứ quốc gia nào, kể cả Trung Quốc. Xin lưu ý là địa điểm tàu Bình Minh 02 bị cắt cáp ngày 26-5-2011 cách bờ biển đảo Hải Nam của Trung Quốc khoảng 340 hải lý.
Do đó, việc Trung Quốc cắt cáp thăm dò của tàu Bình Minh 02 của Tập đoàn dầu khí Việt Nam vào sáng ngày 26-5-2011 đã xâm phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền của Việt Nam đối với thềm lục địa của mình. Là một thành viên của Công ước Luật Biển năm 1982 nhưng hành động này của Trung Quốc lại hoàn toàn trái với nghĩa vụ của mình theo Công ước này.
Vị trí tàu hải giám Trung Quốc cắt cáp tàu Bình Minh 02 của Việt Nam thể hiện rõ Trung Quốc đã xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền Việt Nam đối với thềm lục địa của mình.
Công ước Luật Biển năm 1982 của Liên hợp quốc đã quy định rõ phạm vi, quy chế pháp lý của các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của các quốc gia ven biển cũng như vùng biển quốc tế. Theo Điều 76 của Công ước, thềm lục địa của quốc gia ven biển có chiều rộng tối thiểu 200 hải lý (mỗi hải lý bằng 1852m). Chiều rộng này được bảo đảm tuyệt đối kể cả khi ở trên thực tế rìa ngoài của thềm lục địa của quốc gia ven biển hẹp hơn 200 hải lý. Còn nếu rìa ngoài của thềm lục địa thực tế của quốc gia ven biển rộng hơn 200 hải lý thì quốc gia đó có quyền mở rộng phạm vi thềm lục địa đến 350 hải lý theo đúng các quy định của Công ước (cụ thể là các quốc gia liên quan phải gửi Báo cáo quốc gia đến Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa của Liên hợp quốc để Ủy ban này xem xét và ra khuyến nghị).
Về quy chế pháp lý của thềm lục địa, Điều 77 của Công ước Luật Biển năm 1982 quy định quốc gia ven biển có quyền chủ quyền đối với thềm lục địa của mình. Họ có quyền thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên ở trong thềm lục địa của mình. Các tài nguyên thiên nhiên này bao gồm tài nguyên khoáng sản và tài nguyên phi sinh vật khác ở đáy biển và lòng đất dưới đáy biển. Các quốc gia ven biển cũng có quyền tiến hành xây dựng, cho phép và quy định việc xây dựng, khai thác và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình ở thềm lục địa của mình. Cách thức thực hiện quyền chủ quyền này hoàn toàn do các quốc gia ven biển quyết định. Có khi các quốc gia này tự mình tiến hành thăm dò và khai thác tài nguyên ở thềm lục địa. Có khi các quốc gia ven biển cấp phép cho các tổ chức, cá nhân nước ngoài thăm dò và khai thác.
Công ước Luật Biển năm 1982 của Liên hợp quốc là một điều ước quốc tế nên một khi đã tham gia Công ước này, các quốc gia ven biển phải chấp nhận sự ràng buộc của Công ước. Điều này có nghĩa là đồng thời với việc hưởng các quyền chủ quyền đối với thềm lục địa của mình, các quốc gia thành viên có nghĩa vụ tôn trọng các quyền chủ quyền của các quốc gia thành viên khác đối với thềm lục địa của họ. Quyền và nghĩa vụ phải song hành với nhau. Không thể chỉ hưởng thụ các quyền mà bỏ qua nghĩa vụ tương ứng. Đó cũng là lẽ thường tình trong cuộc sống.
Yêu cầu thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế không phải là ngoại lệ của Công ước Luật Biển năm 1982 mà chính là một trong các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế hiện đại. Đó là nguyên tắc "pacta sun servanda" đã được pháp điển hóa trong Công ước năm 1969 của Liên hợp quốc về Luật Điều ước quốc tế giữa các quốc gia. Yêu cầu này cũng chính là một nghĩa vụ của 192 thành viên Liên hợp quốc theo Hiến chương của tổ chức này.
Căn cứ vào các quy định của Công ước Luật Biển năm 1982, Việt Nam có quyền chủ quyền đối với thềm lục địa tối thiểu 200 hải lý của mình. Đoạn 4 trong Tuyên bố ngày 12-5-1977 của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam đã tái khẳng định điều này. Thực hiện quyền chủ quyền theo đúng Công ước Luật Biển năm 1982, từ những năm 80 của thế kỷ XX Nhà nước Việt Nam đã triển khai các hoạt động thăm dò, khai thác dầu khí trong phạm vi thềm lục địa 200 hải lý của mình. Hiện nay, hàng chục công ty dầu khí từ nhiều nước khác nhau trên thế giới (Nga, Mỹ, Pháp, Nhật Bản, Canada, Úc, Singapore v.v...) đang hợp tác với Tập đoàn dầu khí Việt Nam để thăm dò, khai thác tại các lô dầu khí trong thềm lục địa Việt Nam. Việc làm này của Việt Nam là hết sức bình thường. Các quốc gia khác ven Biển Đông như Trung Quốc, Phillippines, Indonesia, Brunei, Campuchia, Thái Lan, Malaysia cũng đang thăm dò, khai thác thềm lục địa của mình.
Năm 2002, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Trung Quốc đã long trọng ký Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (gọi tắt là DOC). Việc Trung Quốc cho tàu vũ trang cắt cáp thăm dò địa chấn của tàu Bình Minh 02, phá hoại hoạt động kinh tế bình thường của Việt Nam ngay trong thềm lục địa Việt Nam cũng đã vi phạm nghiêm trọng Tuyên bố này. Theo DOC, ASEAN và Trung Quốc đã cam kết không làm phức tạp thêm tình hình ở Biển Đông, không sử dụng vũ lực. Trong nhiều Tuyên bố chung giữa ASEAN và Trung Quốc, Lãnh đạo cao cấp của ASEAN và Trung Quốc đều tái khẳng định tuân thủ tăng cường nỗ lực để thực hiện toàn diện DOC, tiến tới xây dựng một văn kiện pháp lý cao hơn là Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (Code of Conduct, gọi tắt là COC).
Tóm lại, xét từ góc độ pháp lý quốc tế, đến góc độ chính trị cũng như góc độ quan hệ láng giềng thân thiện, việc tàu Trung Quốc cắt cáp thăm dò của tàu Bình Minh 02 ngày 26-5-2011 hoàn toàn không thể biện minh được. Điều rõ ràng là, dù vì bất kỳ lý do gì và với bất kỳ động cơ gì, thì việc làm nói trên của Trung Quốc cũng hoàn toàn không có lợi cho quan hệ hữu nghị và hợp tác đang phát triển tốt đẹp giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc, không đáp ứng nguyện vọng của nhân dân hai nước, không phù hợp với nỗ lực thúc đẩy thực hiện toàn bộ Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông năm 2002 giữa ASEAN và Trung Quốc, và cũng không có lợi cho việc duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông và khu vực.

Tổng số lượt xem trang