Người viết không nêu tên (danlambao) - "...tôi không nói chuyện nữa mà là túm lấy cổ áo ông chánh tòa. Tôi hô thật to : quan tòa bảo kê cho quân lừa đảo..."
Tôi sống ở Gia Lai hay đi về quê Bình Định trên con đường quốc lộ 19. Một hôm nọ cũng chuyến đi bình thường nhưng lúc xuống khỏi đèo An Khê tôi nhìn ra xa thấy một ngọn đồi có màu trắng. Thấy lạ tôi đi xe đến tận nơi và trèo lên núi xem thì ra đó là những tảng đá granite màu trắng to cỡ mái nhà. Xưa kia nó bị phủ kín bỡi những táng cây nhưng giờ đây dân đốt rẫy làm nương nên nó đã lộ ra ngoài . Lúc đó lòng tôi mừng rỡ vì đã có một phát hiện dẫn đến làm giàu. Tôi chưa rành về đá granite lắm nên về hợp tác với người anh, rể của bác tôi, lúc đó ông đang là giám đốc công ty đá ốp lát và xây dựng Cosevco ( trực thuộc tổng công ty xây dựng miền trung, tổng công ty Nhà nước một thời tai tiếng mà dân chúng quen gọi là tổng công ty một sếp hai cô ) để khai thác .
Công ty TNHH Songkon granite do tôi và chị tôi thành lập để khai thác mỏ đá trắng mà tôi vừa phát hiện ra , chị tôi là vợ giám đốc công ty khai thác đá của nhà nước mà tôi vừa kể trên , chị làm chủ tịch hội đồng thành viên kiêm giám đốc và kiêm luôn thủ quỹ công ty. Tôi là phó giám đốc công ty trực tiếp lên núi quản lý việc khoan đá bắn mìn . Đá blog khai thác ra được chị tôi chở về Qui Nhơn bán cho các nhà máy cưa xẻ đá
Vì lợi nhuận của hoạt động khai thác đá granite cao mà chị tôi nảy lòng tham lam , chị muốn hất cẳng tôi ra khỏi thành viên góp vốn để mình chị độc quyền chiếm lợi . Chị đã ôm luôn cả tiền bán đá lẫn sổ sách kế toán của công ty mà không chịu quyết toán tài chính sau một năm hoạt động, đã thế chị còn nói là công ty bị lỗ , chị bảo tôi rút vốn ra không thì bị lỗ mất hết vốn ráng mà chịu . Tôi không đồng ý với cách hành xử của chị , tôi yêu cầu chị với tư cách là giám đốc công ty chị phải lập báo cáo tài chính công ty gởi cho tôi , vì tôi là thành viên góp vốn . Tôi yêu cầu chị phải làm đúng theo nội dung của luật doanh nghiệp và luật kế toán thống kê , nếu không thì tôi đi kiện. Và rồi tôi đi kiện thật, tôi gởi đơn lên tòa kinh tế tòa án nhân dân tỉnh Bình Định , tôi gởi kèm theo đơn giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của công ty để chứng minh tôi là thành viên góp vốn . Tôi kiện bà giám đốc công ty , yêu cầu tòa buộc bà phải công khai sổ sách kế toán và báo cáo tài chính hàng năm cho thành viên góp vốn là tôi . Tòa án nhân dân tỉnh Bình định nhận đơn kiện của tôi nhưng rồi quá thời hạn luật định mà không đem ra xét xử. Tôi đã tự tìm vào phòng làm việc của ông chánh tòa kinh tế tỉnh để trình bày vấn đề mấy lần , lần đầu tiên tôi thấy ông có làm việc, có ghi nhận những trình bày của tôi , nhưng những lần sau đó ông cứ bảo tôi về mà không nói năng hay hứa hẹn thêm gì cả
Nói về chị tôi , Chị chơi tiểu nhân , chị nắm tiền quỹ công ty trong tay mà không chịu trả lương cho tôi , đã thế chị còn đi đêm mua chuộc hết thảy bà con dòng họ để không ai cho tôi vay mượn tiền . Không có tiền , tôi đi kiện chay thì làm sao thắng được chị với núi tiền vừa bán đá . Khi biết tòa không xử vụ kiện của tôi thì phần thắng đã thuộc về chị và chị ra tuyên bố : tôi mà không xin lỗi chị , không lụy chị thì tôi trắng tay , phần tiền tôi góp vốn vào lúc ban đầu thành lập công ty chị cũng không trả lại cho tôi nốt chứ đừng nói chi lời lãi của công ty . Chị muốn cho tôi một bài học về sức mạnh của tiền và quyền . Sức mạnh đó nó buộc những người chân chính như tôi phải cui đầu mà quỵ lụy .
Và tôi không làm theo như những gì chị tôi muốn , hôm đó tôi đến tòa án như mọi hôm , cũng vào phòng ông chánh tòa kinh tế. Nhưng lần này thì khác , tôi không nói chuyện nữa mà là túm lấy cổ áo ông chánh tòa . Tôi hô thật to : quan tòa bảo kê cho quân lừa đảo , không công khai tài chính doanh nghiệp thì trả lại tiền góp vốn cho tôi, tòa án và doanh nghiệp cùng nhau lừa tôi , chiếm đoạt lấy tiền vốn của tôi . Hôm đó tòa án tỉnh Bình Định chuẩn bị để xét xử vụ án hình sự nào đó chắc là lớn nên dân chúng có mặt cũng đông , tôi được dịp mà la thật khá . Rồi tôi bị bảo vệ tòa án túm lấy cổ , cũng giống cái kiểu mà tôi vừa túm lấy cổ ông chánh tòa và tống tôi ra ngoài . Rồi tôi lại lẻn ông bảo vệ mà vô quậy ông chánh tòa lần hai nữa , lần này ông chánh tòa cảnh giác nên tôi không túm cổ ông được , rồi tôi lại bị ông bảo vệ túm cổ mà tống ra ngoài lần nữa . Sau hai lần quậy tôi đã bị bảo vệ toà án cảnh giác , không cho tôi vào tòa mà quậy nữa . Tôi ra về . Tôi về đến nhà thì được biết chị đã điện cho ba tôi , chấp nhận trả lại tiền vốn ban đầu tôi góp vào để thành lập công ty cho tôi mà không kèm theo điều kiện là tôi phải xin lỗi hay quỵ lụy bà nữa.
Chính cái hành xử liều lĩnh của kẻ cùng đường là túm lấy cổ áo chánh tòa mà la lớn của tôi đã làm cho vị chánh tòa quan ngại , chánh tòa đã gây sức ép lên chị tôi để trả lại tiền cho tôi
Và lời cuối cùng tôi nói : từ lâu đất nước này đã không còn công lý . Sức mạnh của tiền và quyền luôn luôn ngự trị trên những người dân chân chính . Kẻ mạnh luôn thắng thế . Luật doanh nghiệp có đó mà cũng như không , gốp vốn làm ăn không khéo chỉ là gốp công làm giàu cho những người có quyền có thế hơn mình . Từ đó mà suy ra , tôi chẳng bao giờ mua lấy một cổ phiếu nào cả .
Người viết không nêu tên
-– Cơ quan CSĐT,Bộ Công an “ép chết” doanh nghiệp? (Pháp luậtVN)
-– Cơ quan CSĐT,Bộ Công an “ép chết” doanh nghiệp? (Pháp luậtVN)
Từ những lá đơn tố cáo, các cơ quan chức năng vào cuộc và có kết luận xác minh làm rõ. Tuy nhiên, Cục CSĐT Tội phạm về kinh tế (C46 ) - Bộ Công an vẫn tiến hành các hoạt động tố tụng mà phớt lờ chỉ đạo của lãnh đạo Bộ Công an.
Hình minh họa |
Tai họa vì những lá đơn tố cáo
Cty TNHH Hữu Sinh có trụ sở tại Khu đô thị Đồng Sơn, phường Phúc Thắng, Thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc gồm với 4 thành viên là bà Đinh Mỹ Hạnh (Chủ tịch HĐQT), ông Quản Trọng Nghĩa (Giám đốc), ông Phạm Văn Đạo (thành viên) và ông Đỗ Khắc Hưng (thành viên).
Ngày 11/8/2004, UBND tỉnh Vĩnh Phúc có Quyết định số 2771/QĐ-UB giao cho Cty Hữu Sinh làm chủ đầu tư xây dựng Dự án khu đô thị mới Đồng Sơn, phường Phúc Thắng. Sau hơn 1 năm hoạt động không có hiệu quả nên tháng 10/2005, Hội đồng Thành viên đã họp bất thường và ban hành Nghị quyết bãi nhiệm chức danh Giám đốc Cty đối với ông Nghĩa và cử ông Đạo giữ chức Giám đốc điều hành, bà Hạnh vẫn là Chủ tịch Hội đồng thành viên.
Thực hiện Nghị quyết trên, Cty Hữu Sinh làm thủ tục và được Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Vĩnh Phúc cấp Giấy Chứng nhận thay đổi nội dung Giấy chứng nhận Đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp. Tuy nhiên từ đây, nội bộ cty có sự mâu thuẫn, đặc biệt là giữa các thành viên và ông Nghĩa, ông Hưng đã không tham gia vào bất cứ hoạt động nào của Cty.
Dưới sự điều hành của Ban lãnh đạo mới, đến năm 2007, Cty Hữu Sinh đã giải phóng xong mặt bằng, triển khai xây dựng xong hạ tầng kỹ thuật dự án và bắt đầu đưa dự án vào kinh doanh mà không hề sử dụng bất cứ đồng vốn nào có nguồn gốc từ ngân sách hoặc vay ngân hàng. Cuối năm 2007, khi dự án đã có những khởi động thuận lợi, hình thành một khu đô thị đẹp và hiện đại; người dân và các nhà đầu tư bắt đầu quan tâm và tin tưởng đầu tư vào dự án thì ông Nghĩa và ông Hưng yêu cầu các thành viên còn lại phải mua phần góp vốn của mình với giá không hợp lý.
Không được đáp ứng, họ viết đơn khiếu kiện gửi đi nhiều nơi như UBND tỉnh và các sở ban ngành của tỉnh Vĩnh Phúc; Công an tỉnh Vĩnh Phúc; Công an TP Hà Nội; Cục CSĐT Tội phạm về kinh tế - Bộ Công an; Văn phòng Chính phủ; Tòa Kinh tế-TAND tỉnh Vĩnh Phúc …
Kết quả của những đơn tố cáo và khiếu kiện trên là trong suốt cả năm 2008, Cty Hữu Sinh hầu như không hoạt động đầu tư cho dự án mà dành thời gian để tiếp Thanh tra; các cơ quan Báo chí; cung cấp hồ sơ, làm việc và giải trình với cơ quan Công an từ Trung ương đến địa phương. Điều này đã gây thiệt hại nghiêm trọng về mặt kinh tế và tinh thần đối với Cty Hữu Sinh.
Đến kết luận của các cơ quan có thẩm quyền
Kết quả điều tra, xác minh đơn, các cơ quan có thẩm quyền đã khẳng định tố cáo của ông Nghĩa và ông Hưng là không có căn cứ, sai sự thật. Cụ thể: Ngày 17/1/2008, UBND thị xã Phúc Yên có Công văn số 30 kết luận việc tự ý niêm phong con dấu của cty là hành vi trái pháp luật; yêu cầu cty làm các thủ tục tháo dỡ niêm phong, tiếp tục sử dụng con dấu vào hoạt động bình thường.
Ngày 26/6/2008, Phòng CSĐT tội phạm về trật tự xã hội - Công an Hà Nội và Công an phường Hùng Vương, TX Phúc Yên đã làm việc với Cty Hữu Sinh và kết luận: Căn cứ Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự thì việc xác minh đơn tố cáo của ông Nghĩa và ông Hưng thuộc thẩm quyền của Công an tỉnh Vĩnh Phúc. Do vậy Công an Hà Nội đã lập biên bản xác định sự việc để Công an tỉnh Vĩnh Phúc tiếp tục điều tra theo thẩm quyền.
Ngày 1/8/2008, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Vĩnh Phúc có Công văn số 89 thông báo cho Cty Hữu Sinh biết cơ quan này đã dừng việc xác minh vì người tố cáo có đơn tự nguyện rút lại đơn tố cáo. Ngày 10/10/2008, đoàn kiểm tra liên ngành do UBND tỉnh Vĩnh Phúc thành lập có biên bản kiểm tra việc chấp hành pháp luật của dự án và kết luận “việc sử dụng đất đai dự án khu đô thị Đồng Sơn do Cty TNHH Hữu Sinh làm chủ đầu tư đã thực hiện đúng Luật Đất đai; Về các trình tự thủ tục xây dựng cơ bản: chủ đầu tư đã (xây dựng) hình thành khu đô thị mới và thực hiện đầu tư (cả việc huy động vốn đầu tư) đúng với quy định của pháp luật”.
Ngày 20/1/2009, Sở Tài nguyên & Môi trường tỉnh Vĩnh Phúc có Văn bản số 20 báo cáo UBND tỉnh Vĩnh Phúc kết quả xác minh đơn tố cáo của công dân về một số nội dung dự án khu đô thị Đồng Sơn, với nội dung: Cty Hữu Sinh đã thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai, về thực hiện và huy động vốn thực hiện dự án đồng thời kiến nghị UBND tỉnh có văn bản trả lời công dân có đơn tố cáo, báo cáo Bộ TNMT …
Ngày 19/12/2008, UBND tỉnh Vĩnh Phúc có Công văn số 5630 gửi Cục CSĐT tội phạm về kinh tế - Bộ Công an khẳng định Cty Hữu Sinh chấp hành đúng đắn, đầy đủ quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai, thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về XDCB và quản lý dự án. Ngày 24/2/2011, TAND tỉnh Vĩnh Phúc cũng có Quyết định số 02 về việc tạm đình chỉ vụ án kinh doanh thương mại đã thụ lý theo yêu cầu của ông Hưng và ông Nghĩa.
Đáng nói là chỉ riêng Cục CSĐT Tội phạm về kinh tế (C46 )- Bộ Công an chính thức vào cuộc điều tra, xác minh từ đầu tháng 6/2008, nhưng đến hết năm 2010 (tức là sau 3 năm) và qua 5 lãnh đạo Cục này chỉ đạo nhưng đến nay vẫn chưa có bất kỳ một kết luận nào.
Không kết luận được thì … khởi tố
Sau hơn 3 năm điều tra, xác minh nhưng không kết luận, ngày 6/1/2011, Cơ quan CSĐT - Bộ Công an có Quyết định số 05/C46 (P10) khởi tố vụ án “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra tại Cty Hữu Sinh”. Ngay sau khi ra quyết định nói trên, CQĐT đã nhiều lần triệu tập lãnh đạo, kế toán trưởng, thủ quỹ Cty Hữu Sinh đến để làm rõ khoản tiền 6,8 tỷ đồng chi khống theo Phiếu chi số 19/7 ngày 26/7/2007.
Liên quan đến số tiền 6,8 tỷ đồng, ngay từ năm 2009 Cty Hữu Sinh đã giải trình với CQĐT tra tại Công văn số 50, ngày 28/10/2009. Theo đó, nhằm thực hiện Nghị quyết ngày 13/2/2007 của HĐTV Cty Hữu Sinh, nhóm thành viên sở hữu 70% vốn điều lệ của cty gồm các ông Phạm Văn Đạo, Quản Trọng Nghĩa, Đỗ Khắc Hưng được cty giải quyết mua 11.635m2 đất của dự án với giá 1 triệu đồng/1m2 (thành tiền là 11 tỷ 635 triệu đồng).
Trong đợt huy động vốn bắt buộc, những thành viên này đã nộp được 4,9 tỷ đồng, còn thiếu khoảng 6,8 tỷ. Theo quy định, các thành viên trên phải nhận nợ với cty ngay sau khi được giao đất, khi chuyển nhượng được cho nhà đầu tư thứ cấp thì phải thanh toán trả cty.
Nhóm 3 thành viên trên cử ông Đỗ Khắc Hưng đứng ra ký nhận nợ vay 6,8 tỷ đồng của cty tương ứng với số tiền phải huy động nói trên để được nhận 11.635m2 đất của cty. Sau đó, HĐTV đã họp và thống nhất giao cho bộ phận kế toán, thủ quỹ xử lý và lập Phiếu chi số 19/7 ngày 26/7/2007 với số tiền là 6,8 tỷ đồng. Đây chỉ là thủ tục về hình thức nhằm đảm bảo số tiền còn thiếu khi nhóm này đã nhận 11.635m2 đất để giao dịch với các nhà đầu tư thứ cấp. Tuy nhiên, sau đó ông Hưng không đồng ý đứng ra nhận nợ thay cho cả nhóm và đã hủy phiếu chi cùng hồ sơ nhận nợ 6,8 tỷ và 11.635m2 đất đã phải trả lại cho cty.
Như vậy, trên thực tế Cty Hữu Sinh chưa chi ra một đồng nào nên không có bất cứ một đồng nào là tài sản của cty bị mất đi và nhóm 3 thành viên gồm các ông Đạo, Nghĩa, Hưng cũng chưa ai bị mất một đồng nào trong số 6,8 tỷ đồng. Đối với diện tích 11.635m2 đất cty đã thu hồi và đã đưa vào kinh doanh theo quy định của pháp luật.
Sau khi Cơ quan CSĐT (C46) - Bộ Công an ra Quyết định khởi tố vụ án số 05/C46 (P10) ngày 6/1/2011, ngày 6/1/2011 Cty Hữu Sinh đã mời đơn vị kiểm toán độc lập để kiểm toán quỹ về khoản tiền 6,8 tỷ đồng của cty với kết quả không có khoản tiền 6,8 tỷ đồng nào bị mất hay thất thoát. Kết quả kiểm toán này cũng đã được gửi kèm theo hồ sơ giải trình đến CQĐT.
Trên bảo dưới không nghe
Kể từ ngày 6/1/2011, Cơ quan CSĐT - Bộ Công an ban hành Quyết định số 05/C46 (P10) khởi tố vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra tại Cty Hữu Sinh, thời gian đã gần 6 tháng mà C46 (P10) - Bộ Công an vẫn không có kết luận gì. Mới đây, ngày 23/5/2011, C46 (P10) tiếp tục có Công văn số 182/ C46 (P10) yêu cầu Cục Thuế tỉnh Vĩnh Phúc tiếp tục cung cấp hồ sơ về hoạt động của cty kể từ khi thành lập đến hết 30/4/2011 và Công văn số 204/C46 (P10) ngày 10/6/2011 gửi Cty Hữu Sinh đề nghị tiếp tục cung cấp hồ sơ kể từ khi thành lập đến hết năm 2010 để phục vụ công tác điều tra.
Quá bức xúc, Cty Hữu Sinh có nhiều đơn kêu cứu gửi các cấp có thẩm quyền về việc CQĐT - Bộ Công an C56 (P10) vi phạm tố tụng gây thiệt hại lớn cho doanh nghiệp. Nhận được đơn của Cty Hữu Sinh, Trung tướng Phạm Quý Ngọ - Thứ trưởng Bộ Công an đã không dưới 2 lần yêu cầu Cục trưởng C46 chấm dứt việc điều tra, xác minh tại Cty Hữu Sinh, chuyển vụ việc sang Tòa án giải quyết dân sự. Nhưng không hiểu vì lý do gì C46 - Bộ Công an vẫn phớt lờ chỉ đạo của lãnh đạo Bộ Công an?.
Như vậy có chăng việc CQĐT cố tình "ép chết" doanh nghiệp chỉ vì lý do cá nhân của người tố cáo?. Các cơ quan chức năng ở Trung ương nên có ý kiến chỉ đạo dừng ngay việc điều tra tại Cty Hữu Sinh để tránh làm oan sai và gây thiệt hại cho doanh nghiệp.
PV