Thứ Sáu, 24 tháng 6, 2011

Phát biểu của ông John McCain tại hội thảo về an ninh hàng hải trên Biển Đông ở Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (CSIS)

-
--Bác bỏ lập trường của Trung Quốc về Biển Đông
 Nhiều học giả quốc tế đã ngay lập tức lên tiếng phản bác các lập luận của học giả Trung Quốc, đặc biệt là "cơ sở lịch sử" của tuyên bố chủ quyền đường chữ U tại Hội thảo quốc tế về an ninh Biển Đông .

Hội thảo quốc tế về an ninh Biển Đông do Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế của Mỹ tổ chức đã diễn ra từ sáng 20/6 (giờ địa phương) tại thủ đô Washington, Mỹ với sự tham dự của khoảng 150 học giả, nhà nghiên cứu, quan chức ngoại giao và phóng viên báo chí đến từ nhiều nước trên thế giới.


Sau phát biểu của ông Su Hao, Phó Giám đốc Trung tâm nghiên cứu quốc tế của Đại học Ngoại giao Bắc Kinh, trong phiên thảo luận đầu tiên về tuyên bố chủ quyền cũng như chính sách của Trung Quốc tại Biển Đông, nhiều học giả quốc tế đã ngay lập tức lên tiếng phản bác các lập luận của học giả Trung Quốc, đặc biệt là "cơ sở lịch sử" của tuyên bố chủ quyền đường chữ U.

Trong bài phát biểu ngay sau đó, ông Termsak Chalermpalanupap, Giám đốc phụ trách chính trị và an ninh của Ban Thư ký ASEAN, nói: "Tôi không cho rằng Công ước của Liên hợp quốc về luật biển (UNCLOS) công nhận lịch sử là cơ sở để tuyên bố chủ quyền."

Giáo sư Peter Dutton thuộc Đại học Hải quân Mỹ, không đồng tình với cách giải thích của Trung Quốc về ý nghĩa của đường chữ U liên quan tới lịch sử. Ông nói: "Về quyền tài phán đối với các vùng biển, lịch sử không liên quan gì cả, mà phải tuân theo UNCLOS."

Tiến sỹ Dutton cũng nói rằng việc dùng lịch sử để giải thích chủ quyền làm xói mòn các quy tắc của UNCLOS.

Nhà nghiên cứu nổi tiếng, giáo sư Carlyle Thayer từ Học viện Quốc phòng Australia nói rằng việc học giả Trung Quốc sử dụng "di sản lịch sử" để giải thích về tuyên bố chủ quyền một lần nữa bộc lộ việc thiếu cơ sở pháp lý theo luật quốc tế trong tuyên bố chủ quyền này.

Cũng liên quan đến khía cạnh luật quốc tế, bà Caitlyn Antrim, Giám đốc Ủy ban Pháp quyền Đại dương của Mỹ, khẳng định tuyên bố đường 9 đoạn (đường chữ U) không có cơ sở theo luật quốc tế bởi cơ sở lịch sử là rất yếu và rất khó bảo vệ.

Bà Antrim nói: "Tôi không hiểu Trung Quốc tuyên bố cái gì trong đường chữ U đó. Nếu họ tuyên bố chủ quyền với các đảo do đường ấy bao quanh, thì câu hỏi đặt ra là họ có chứng minh được chủ quyền với các đảo đó hay không. Nếu Trung Quốc có tuyên bố chủ quyền với các đảo từ 500 năm trước, nhưng sau đó lại bỏ trống thì tuyên bố chủ quyền trở nên rất yếu. Đối với các đảo không có cư dân sinh sống thì họ chỉ có thể tuyên bố lãnh hải, chứ không thể tính vùng đặc quyền kinh tế từ các đảo đó."

Trong phiên thảo luận buổi chiều, các học giả Bonnie Glaser của Mỹ, Trần Trường Thủy của Việt Nam, Carl Thayer của Australia và Ian Storey của Singapore đã trình bày về các diễn biến gần đây trên Biển Đông, đưa ra cách giải thích cho các sự kiện này.

Trước câu hỏi của học giả Trung Quốc về việc tại sao các sự kiện giữa tàu Trung Quốc và tàu thăm dò của Việt Nam lại xảy ra vào thời điểm này, tiến sĩ Trần Trường Thủy nói: "Đây cũng là câu hỏi của chúng tôi. Tại sao tàu Trung Quốc lại cắt cáp tàu thăm dò của Việt Nam vào thời điểm ngay trước khi diễn ra nhiều sự kiện quan trọng như Hội nghị Shangri-la".

Tại hội thảo, ngoài các học giả còn có bài phát biểu của Thượng nghị sỹ John McCain, cựu Giám đốc Tình báo Quốc gia John Negroponte và một số quan chức của Mỹ.

Về tình hình tại Biển Đông, Thượng nghị sỹ McCain nói: "Một trong nhưng nguyên nhân chính làm xấu thêm những căng thẳng tại Biển Đông và khiến cho việc giải quyết hòa bình các tranh chấp tại đây trở nên khó khăn hơn là thái độ hiếu chiến của Trung Quốc và tuyên bố chủ quyền mà Trung Quốc muốn thúc đẩy."

Hội thảo sẽ tiếp tục trong buổi sáng ngày 21/6 với các phiên thảo luận về tính hiệu quả của các khuôn khổ và cơ chế an ninh trên biển hiện nay cho Biển Đông và các đề xuất chính sách nhằm thúc đẩy an ninh trong khu vực.
Theo TTXVN

- Tạp chí quốc tế sẽ cải chính về bản đồ “đường lưỡi bò” (VNN).   – Bá quyền Trung Quốc trong giới khoa học (Nguyễn Đăng Hưng).


-Hội thảo an ninh Biển Đông  - RFA 2011-06-20
Một cuộc hội thảo về biển Đông quy tụ những học giả của nhiều nước như Việt Nam, Trung Quốc, Úc, Hoa Kỳ đượctổ chức tại Trung tâm nghiên cứu chiến lược quốc tế ở Washington từ ngày 20 đến 21 tháng 6.
RFA PHOTO
Hội thảo an ninh biển Đông ở Washington ngày 20 tháng 6 năm 2011.

Có mặt tại buổi hội thảo, Việt Hà của đài chúng tôi gửi về bài tường trình.

Bày tỏ quyền lợi của mình

Hội thảo an ninh tại khu vực biển Đông do Trung tâm nghiên cứu chiến lược quốc tế tổ chức ở Washington trong hai ngày 20 và 21 tháng 6 hứa hẹn là một diễn đàn với nhiều trao đổi sôi nổi giữa các học giả và những người quan tâm đến khu vực Đông Nam Á, nhất là vào giữa lúc những căng thẳng tại khu vực này đang gia tăng trong những tháng gần đây.
Ngay trong bài phát biểu mở đầu buổi hội thảo, cựu thứ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ, John Negroponte nhìn nhận những xung đột về lợi ích trên biển Đông giữa các nước trong khu vực:
Rõ ràng là có sự xung đột về lợi ích giữa các nước và các nước có sự diễn giải khác nhau đối với phạm vi về nguồn lợi hợp pháp trên biển.
Ô. John Negroponte
“Rõ ràng là có sự xung đột về lợi ích giữa các nước và các nước có sự diễn giải khác nhau đối với phạm vi về nguồn lợi hợp pháp trên biển, và đây cũng là trường hợp xảy ra tại biển Đông khi nhiều nước đã bày tỏ cho các nước khác biết về quyền lợi của mình theo nhiều cách khác nhau qua ngoại giao và trong một số trường hợp là sử dụng sức mạnh quân sự để xác định và bảo vệ quyền lợi của mình.”
Bài thuyết trình được nhiều người chú ý nhất và nhận được nhiều câu hỏi nhất trong chương trình buổi sáng đầu tiên là của giáo sư Su Hao, Phó giám đốc trung tâm nghiên cứu quốc tế thuộc trường đại học ngoại giao Trung Quốc.
Giáo sư Su Hao mở đầu bài thuyết trình của mình bằng cách chứng minh về chủ quyền của Trung Quốc đối với biển Đông qua các dẫn chứng lịch sử. Ông nói Trung Quốc đã có chủ quyền về lịch sử không chối cãi đối với biển đông từ 2000 năm. Từ đời nhà Tống cách đây vài trăm năm, Trung Quốc đã có một cơ quan phụ trách hành chính về khu vực này và đã có đội tàu đi tuần trên biển.
Giáo sư Su Hao cũng nói đến những luận điểm dựa trên quy tắc quốc tế mà ông cho là ủng hộ quan điểm về chủ quyền trên biển đông của Trung Quốc:

DSC00006-250.jpg
Giáo sư Su Hao, Phó giám đốc trung tâm nghiên cứu quốc tế thuộc trường đại học ngoại giao Trung Quốc tại Hội thảo an ninh biển Đông ở Washington ngày 20 tháng 6. RFA PHOTO.
“UNCLOS là một cơ sở pháp lý quan trọng và Trung Quốc đã tham gia hiêp ước này. Cho nên chủ quyền của Trung quốc trên biển Đông cũng được luật quốc tế đảm bảo. Ngoài ra còn các cơ sở pháp lý quốc tế khác mà chúng tôi có thể dùng để bảo vệ quan điểm của mình. Cộng đồng quốc tế thời hiện đại đã chấp nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với biển Đông. Cuối cùng là trong hệ thống luật quốc tế có một nguyên tắc là nếu một nước đã có tuyên bố về chủ quyền và một số nước đã chấp nhận tuyên bố này. Tuy nhiên rất tiếc là hiện có một số nước đã thay đổi quan điểm của mình.” Theo ông thì Trung Quốc coi biển Đông là một mối quan tâm nhưng không phải là một mối quan tâm sống còn như đối với Tây Tạng và Đài loan. Điều này khác hẳn với những lời nói trước đây của Trung Quốc coi biển Đông là lợi ích cốt lõi của Trung Quốc
Ông cũng miêu tả mối lợi của Trung Quốc trên biển Đông đã tràn sang các nước khác ở khu vực và vì vậy cần phải có sự hợp tác chia sẻ quyền lợi cùng các nước.

Giải quyết tranh chấp qua đa phương

Theo giáo sư Su Hao, chính phủ Trung Quốc vẫn luôn duy trì một chính sách hòa hợp, giải quyết vấn đề qua hòa bình và tránh sử dụng vũ lực. Và vì vậy cho đến giờ Trung Quốc là một cường quốc không có kẻ thù.
Đại diện học giả Trung Quốc nói Trung Quốc kêu gọi việc giải quyết tranh chấp trên biển Đông theo đàm phán song phương nhưng cách tiếp cận đa phương cũng có thể coi là một giải pháp.
Theo tôi thì việc giải quyết tranh chấp qua đa phương cũng là một cách. Bản thân Trung Quốc đã là thành viên của nhiều cơ chế an ninh đa phương.
GS Su Hao
“Theo tôi thì việc giải quyết tranh chấp qua đa phương cũng là một cách. Bản thân Trung Quốc đã là thành viên của nhiều cơ chế an ninh đa phương để thảo luận các vấn đề về an ninh khu vực biển Đông.”
Giáo sư Su Hao cũng cho rằng việc Hoa Kỳ tham gia một cách tích cực để giải quyết vấn đề tranh chấp biển Đông cũng được Trung Quốc chào đón.
Tuy nhiên trong phần nói về những thách thức tại khu vực này, giáo sư Su Hao lại cho rằng những can thiệp của Mỹ có nhiều khi không tích cực và đó là lý do vì sao Trung Quốc không chào đón những can thiệp này.
Liên quan đến những diễn biến gần đây trên biển Đông, giáo sư Su Hao cho rằng hành động của các nước trong khu vực đã làm cho Trung Quốc lo lắng và những hành động của Trung Quốc không phải là hiếu chiến như những học giả nước ngoài nhìn nhận. Ông nói:
“Một vài nước nói rằng Trung Quốc những năm gần đây có thái độ quá mạnh đối với vấn đề biển Đông, nhưng tôi tin là lý do Trung Quốc có thái độ như vậy bởi một vài nước đã có những phản ứng quá mạnh đối với những gì đang xảy ra chống lại Trung Quốc. Đó là lý do làm cho Trung Quốc lo lắng và làm cho chúng tôi phải nói gì đó để bảo vệ chủ quyền đối với biển Đông.”
Đại diện của ASEAN tại hội thảo lần này là ông Termsak Chalermpalanupap,  Giám đốc Ban an ninh chính trị thuộc ban thư ký ASEAN. Ông Chalermpalanupap khẳng định quan điểm của ASEAN đối với vấn đề giải quyết tranh chấp trên biển Đông qua hợp tác và theo luật quốc tế.
DSC00008-250.jpg
Ông Termsak Chalermpalanupap, Giám đốc Ban an ninh chính trị thuộc ban thư ký ASEAN tại Hội thảo an ninh biển Đông ở Washington ngày 20 tháng 6. RFA PHOTO.
Ông cũng nói đến những nỗ lực mà ASEAN đã làm nhằm đưa tuyên bố về ứng xử của các bên trên biển Đông thành một bản quy tắc có tính ràng buộc nhưng cả 20 lần đề nghị đều bị Trung Quốc từ chối. Hiện ASEAN đang đưa ra đề nghị thứ 21 liên quan đến vấn đề này.
Ông Chalermpalanupap nêu quan điểm khác với đại diện từ phía Trung Quốc đối với những hành động của Trung Quốc trên biển Đông trong thời gian qua, mà ông gọi là hiếu chiến.
Theo thông tin mới nhất từ ASEAN thì hiện khối này đã có kế hoạch tiếp tục bàn thảo về vấn đề này để có thể đưa COC lên một mức cao hơn.
Người đại diện của ASEAN cũng cho rằng có lẽ dể có thể giải quyết vấn đề biển Đông, việc đổi tên biển từ biển Nam Trung Hoa thành biển Đông Nam Á hay biển hữu nghị có thể sẽ hợp lý hơn.
Các học giả đến từ Nhật bản và Ấn độ có mặt trong buổi hội thảo sáng 20 tháng 6 cũng bày tỏ sự quan ngại trước những hành động của Trung Quốc trên biển Đông vì cả hai nước này cũng có những tranh chấp về chủ quyền với Trung Quốc trên biển. Học giả đến từ Ấn Độ, ông Amer Latif, thuộc Trung Tâm Nghiên cứu chiến lược quốc tế cho rằng những tranh chấp tại biển Đông cũng làm Ấn độ quan tâm vì thái độ hành xử của Trung Quốc ở đây cũng giúp Ấn độ hiểu được thái độ và hành xử mà Trung Quốc có thể áp dụng với nước láng giềng Ấn độ và với biển Ấn độ dương.
Buổi chiều 20 tháng 6, các học giả tiếp tục cuộc thảo luận về những diễn biễn gần đây trên biển Đông. Chúng tôi sẽ có bài phỏng vấn tiến sĩ Trần Trường Thủy, thuộc học viện quan hệ quốc tế Việt Nam, người có bài thuyết trình về các diễn biến trên biển Đông trong hội thảo này.

-Quan điểm của Việt Nam về vấn đề Biển Đông 2011-06-20 - Tiến sĩ Trần Trường Thủy, thuộc Học viện Quan hệ Quốc tế Việt Nam, trả lời phỏng vấn RFA nhân Hội thảo Quốc tế về Biển Đông.

-Phát biểu của ông John McCain tại hội thảo về an ninh hàng hải trên Biển Đông ở Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (CSIS)

20-06-2011 Cảm ơn John [Hamre] về lời giới thiệu hào phóng đó và cảm ơn tình bạn của anh trong nhiều năm qua. Luôn là điều tuyệt vời [để tôi] trở lại CSIS, nơi đã làm nhiều điều với mục đích thông báo suy nghĩ của Mỹ đến với thế giới và sự lãnh đạo của chúng tôi trong đó.
Như quý vị biết, tôi vừa từ Đông Nam Á trở về, và trước khi tôi chuyển qua chủ đề của hội nghị này, tôi muốn cung cấp một số cảm tưởng ngắn gọn về chuyến đi của tôi đến Miến Điện. Đây là lần đầu tiên tôi được phép trở lại đất nước này trong 15 năm, điều đó cho thấy một dấu hiệu về chính phủ dân sự mới này có thể đại diện cho một sự thay đổi so với quá khứ. Một thay đổi đáng chú ý khác là thủ đô mới của Nay Pyi Taw. Các tòa nhà chính phủ lớn, các cung điện chạm đá cẩm thạch, các khách sạn mới toanh, đường cao tốc với 18 làn đường – và điều kỳ lạ là: không có ai ở đó. Chỉ có chúng tôi là những chiếc xe duy nhất trên đường. Các tòa nhà gần như trống rỗng.
Đó là một điều kỳ quặc mà tôi đã trải qua. Và chắc chắn đó là một sự tương phản đáng buồn với sự nghèo đói khốn cùng ở Rangoon. Tôi đến thăm một phòng khám tư nhân [của những người bị bệnh] AIDS, mọi người đông nghẹt, nhiều trẻ em mồ côi, những người cần sự chăm sóc nhiều hơn những người có sẵn để chăm sóc cho họ. Tôi đã đi đến một dịch vụ cung cấp tang lễ miễn phí cho các linh hồn quá cố của những gia đình quá nghèo, để cho những người thân yêu của họ được chôn cất đàng hoàng. Đau lòng lắm, và điều này làm cho các bạn ước muốn, phải chi chính phủ [Miến Điện] cũng dành [sự đầu tư] về sự nhiệt tình và tài nguyên với mức độ tương tự để phát triển đất nước của họ như là việc xây dựng thủ đô.
Tuy nhiên, trong các cuộc họp của tôi với Phó Chủ tịch Thứ nhất, hai người đứng đầu Quốc hội, và những người khác, rõ ràng rằng chính phủ này muốn có quan hệ tốt hơn với Hoa Kỳ. Tôi nhấn mạnh rằng chính phủ của tôi và tôi chia sẻ khát vọng này, và như vậy là điều đó không phải là không thể. Sau cùng, nếu Hoa Kỳ và Việt Nam có thể cải thiện quan hệ, mà tôi biết một hoặc hai điều về vấn đề này, bất cứ điều gì cũng có thể xảy ra.
Tuy nhiên, điểm chính tôi đã nhấn mạnh rằng bất kỳ sự cải thiện quan hệ nào cần được xây dựng, không những trên các cuộc nói chuyện vui vẻ, mà còn cần có hành động từ cả hai phía. Hoa Kỳ cần sẵn sàng đặt mọi phương diện chính sách của chúng ta lên trên bàn, và để làm thay đổi những điều cụ thể mà chính phủ Nay Pyi Taw đã hỏi chúng tôi. Nhưng điều này chỉ có thể được thực hiện cùng với các hành động cụ thể về phía họ, đặc biệt là những lời kêu gọi của Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc: phóng thích tất cả các tù nhân lương tâm, cho phép Hội Chữ thập đỏ được tự do vào thăm tất cả các nhà tù, bắt đầu một quá trình hòa giải quốc gia thực sự có liên quan đến các đảng đối lập chính trị và dân tộc, gồm Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ, và bảo đảm sự an toàn và tự do đi lại của bà Aung San Suu Kyi.
Tôi đã có cơ hội gặp Bà [Aung San Suu Kyi] trong chuyến thăm của tôi, và lý do tôi vẫn còn hy vọng cho người dân Miến Điện đó là vì bà. Hôm qua là sinh nhật của bà Aung San Suu Kyi, và bà bày tỏ niềm hy vọng này: ‘Nếu tôi được hỏi điều gì tôi mong muốn trong ngày sinh nhật của tôi, tôi muốn hòa bình, ổn định và thịnh vượng cho đất nước tôi’. Người phụ nữ tuyệt vời này vẫn còn là nguồn cảm hứng cho những người dân của bà và cho tôi. Và tôi đồng ý với bà rằng, đây không phải là lúc Hoa Kỳ dỡ bỏ lệnh trừng phạt. Chúng ta cũng nên làm việc để thiết lập một Ủy ban Điều tra Liên hợp quốc, mà điều này không liên quan gì đến sự trừng phạt và tất cả mọi thứ liên quan đến sự thật và công lý cho người dân Miến Điện.
Từ Miến Điện, tôi đã đi đến Singapore tham dự Đối thoại Shangri La, nơi mà một trong những chủ đề chính của cuộc thảo luận là chủ đề của hội nghị này: an ninh hàng hải ở biển Đông. Vấn đề này gây xúc động mãnh liệt giữa các nước tuyên bố chủ quyền trên vùng biển và vùng lãnh thổ. Và các chuyên gia thực sự hiểu những vấn đề phức tạp về lịch sử và pháp lý của những tuyên bố chủ quyền này thì khá nhỏ. Tôi đến từ Arizona, nơi mà chúng ta biết việc tranh đấu sử dụng đất và nước phức tạp như thế nào. Tôi cũng là một cựu lính Hải quân đã dành phần lớn cuộc đời của mình đi đây đó và làm việc về các vấn đề an ninh trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Và tôi ngày càng lo ngại, rằng biển Đông đang trở thành một điểm nóng xung đột.
Những năm vừa qua cho thấy sự leo thang nhanh chóng về tình trạng căng thẳng giữa các quốc gia trong khu vực hàng hải đang tranh chấp và hay thay đổi này. Tôi không cần phải nói lại cho các cử tọa ở đây nghe tất cả các sự cố. Dĩ nhiên, điều quan trọng là tất cả các bên thực hiện sự kiềm chế. Và để chắc chắn rằng, các đối tác ASEAN của chúng ta sẽ cần phải thỏa hiệp, đặc biệt là các nước thoả hiệp với nhau, để đạt được một kết quả hòa bình và cùng có lợi, như nhiều nước  trong số các nước này thừa nhận. Điều đó có nghĩa là, tình hình này cần phải nói thẳng một chút: Một trong những lực lượng chính làm cho các căng thẳng trên biển Đông trầm trọng hơn, và làm cho giải pháp hòa bình của các tranh chấp này khó khăn hơn để đạt được, đó là hành vi hung hăng của Trung Quốc và việc đòi chủ quyền lãnh thổ vô căn cứ mà họ tìm cách theo đuổi.
Tôi chẳng vui vẻ gì để nói điều này.Tôi tin rằng một trong những lợi ích quốc gia hàng đầu của Hoa Kỳ là việc duy trì và tăng cường quan hệ nhiều mặt với Trung Quốc. Tôi muốn Trung Quốc thành công và phát triển một cách hòa bình. Và tôi tin rằng không có lực lượng lịch sử nào lên án đất nước chúng ta về xung đột. Thật vậy, phạm vi hợp tác toàn cầu của chúng ta là rộng hơn bao giờ hết, kể cả các vấn đề an ninh hàng hải, rõ ràng để cho mọi người thấy các hoạt động chung của chúng ta ra ngoài khơi Sừng châu Phi (Horn fo Africa).
Điều gây khó khăn cho tôi, và tôi cũng nghĩ rằng nó cũng gây khó khăn cho nhiều quý vị ở đây, đó là các tuyên bố mở rộng mà Trung Quốc tuyên bố trên biển Đông; các lý do căn bản cung cấp cho các tuyên bố này, không có cơ sở luật pháp quốc tế; và những hành động ngày càng quyết đoán mà Trung Quốc đang thực hiện để thực thi các quyền tự nhận của họ, gồm cả ở vùng biển trong vòng 200 hải lý ngoài khơi bờ biển của các nước ASEAN, như là trường hợp gần đây trong các sự cố riêng biệt liên quan đến Việt Nam và Philippines. Bản đồ về cái gọi là chín vạch của Trung Quốc tuyên bố tất cả các đảo trên biển Đông là chủ quyền lãnh thổ Trung Quốc và tất cả các vùng lãnh hải của nó là vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc. Hơn nữa, những giải thích cụ thể về luật pháp quốc tế của Trung Quốc sẽ làm xói mòn các nguyên tắc lâu dài về tự do hàng hải – bóp méo khái niệm gồm, mở rộng cho mọi người đi vào, khái niệm loại trừ, sẽ hạn chế đi vào [vùng biển]. Một số người ở Trung Quốc thậm chí còn đề cập đến học thuyết này, như trích dẫn, ‘chiến tranh pháp lý’.
Tại sao điều này quan trọng đối với Hoa Kỳ? Đây là câu hỏi mà nhiều người Mỹ sẽ hỏi, đặc biệt là khi chúng tôi liên quan đến ba cuộc xung đột đã xãy ra, và khi nợ quốc gia của chúng tôi thực sự trở nên không bền vững. Tại sao Mỹ nên quan tâm đến tranh chấp lãnh hải của các nước bên cách xa nửa vòng trái đất?   
Chắc chắn có lý do kinh tế để tham gia. Khu vực biển Đông là nguồn quan trọng về công việc làm và tài nguyên thiên nhiên có lợi cho nhiều người Mỹ. Tuy nhiên, có lẽ xét rộng hơn là yếu tố chiến lược. Trung tâm địa chính trị thế giới hấp dẫn đang chuyển sang khu vực châu Á-Thái Bình Dương – một khu vực, trong đó nhiều nước đang trỗi dậy cùng một lúc về sự giàu có và sức mạnh. Điều này tạo ra sự va chạm giữa các quốc gia, nơi các tranh chấp cũ vẫn chưa được giải quyết. Hoa Kỳ có một lợi ích an ninh quốc gia trong việc duy trì một sự cân bằng chiến lược thuận lợi trong khu vực quan trọng này. Và trọng tâm đó là để bảo vệ sự tự do phổ quát trong việc đi lại và đi vào các vùng biển như một nguyên tắc căn bản của trật tự quốc tế.
Những nỗ lực phủ nhận tự do hàng hải trên biển Đông đặt ra một thách thức nghiêm trọng đến trật tự quốc tế, dựa trên luật lệ, rằng Hoa Kỳ và đồng minh của chúng tôi đã duy trì trong nhiều thập kỷ. Nếu những nỗ lực này thành công – sẽ liên tục bắt nạt, cho phép một nước áp đặt tuyên bố chủ quyền lãnh thổ của mình bằng vũ lực và biến biển Đông thành một khu vực không cho các tàu thương mại và quân sự của các quốc gia khác, kể cả Hoa Kỳ, đi vào – hậu quả sẽ là thảm khốc. Điều đó có thể thiết lập một tiền lệ nguy hiểm để làm suy yếu luật pháp quốc tế, theo cách mà những người có ý định bệnh hoạn, không còn nghi ngờ gì nữa, sẽ áp dụng ở nơi khác. Điều đó có thể tạo ra sự khuyến khích gia tăng quyền lực gây phiền hà khắp mọi nơi để sử dụng vũ lực, điều mà các phương tiện pháp lý và hoà bình không thể bảo đảm cho họ. Và nó sẽ đưa chúng ta đến gần hơn vào một ngày, khi hải quân Mỹ thấy rằng không thể đi vào và hoạt động một cách an toàn ở Tây Thái Bình Dương.      
“Vậy thì Hoa Kỳ nên làm những gì? Để tôi cung cấp một vài đề nghị để kết thúc.
“Thứ  nhất, về lập trường của Mỹ trên biển Đông, chúng ta nhận thấy rằng, nếu có thể, một chính sách rõ ràng có thể ổn định hơn so với một chính sách không rõ ràng. Tôi hoan nghênh Ngoại trưởng Clinton khi tuyên bố rằng các bên tranh chấp trên biển Đông phải được giải quyết thông qua đàm phán đa phương, và chúng ta sẽ tìm cách tạo điều kiện cho các cuộc đàm phán. Đa số các nước châu Á hoan nghênh tuyên bố đó. Trên hết, đây là mối quan hệ của Trung Quốc với các nước láng giềng, không phải giữa Trung Quốc với Hoa Kỳ. Tuy nhiên, rất hữu ích cho chúng ta tiếp tục nói rõ quan điểm của Mỹ, để các nước khác có thể biết, Hoa Kỳ chấp nhận những yêu sách nào, yêu sách nào chúng ta không chấp nhận, và những hành động nào chúng ta chuẩn bị để hỗ trợ các chính sách và các đối tác của chúng ta, đặc biệt là Philippines, một nước đồng minh có ký hiệp ước.
“Thứ hai, Hoa Kỳ nên hỗ trợ các đối tác ASEAN của chúng ta trong việc giải quyết tranh chấp của họ trên biển Đông, như một phương tiện cổ vũ ASEAN đoàn kết hơn để đối mặt với Trung Quốc. Trung Quốc tìm cách khai thác sự chia rẽ giữa các thành viên ASEAN – làm cho họ chống đối nhau, để phục vụ cho kế hoạch riêng của Trung Quốc. Giải quyết các tranh chấp trên biển giữa các nước ASEAN, như Malaysia và Brunei gần đây đã thực hiện, sẽ cho phép các đối tác của chúng ta thiết lập một mặt trận thống nhất hơn.
Thứ ba, Hoa Kỳ cần giúp đỡ các đối tác ASEAN của chúng ta tăng cường sự phòng thủ trên biển và khả năng phát hiện – để phát triển và triển khai các hệ thống cơ bản như radar cảnh báo sớm và các tàu an ninh ven biển. Bù đắp sự thiếu thốn này, và tăng cường tập trận chung với chúng ta, sẽ cung cấp một hình ảnh hoạt động phổ biến hơn ở biển Đông và khả năng đối phó tốt hơn với các mối đe dọa.
Thứ tư, Thượng viện Mỹ cần quan tâm hơn đến Công ước LHQ về Luật Biển. Tôi biết điều này không phổ biến ở một số người bảo thủ. Tôi có nghi ngờ về chính bản thân mình. Nhưng thực tế là, chính phủ các nhiệm kỳ kế tiếp của cả hai đảng đã tôn trọng những nhận xét cơ bản của Công ước, mặc dù không cần phải ký. Trong khi đó, các nước như Trung Quốc đã ký công ước mà không thực hiện đúng, nhắm tới việc từ chối [không cho các nước] đi vào vùng biển quốc tế. Điều này làm cho Hoa Kỳ dựa vào ân huệ của các nước ngoài cũng như dựa vào sức mạnh lớn hơn của chính mình để bảo đảm quyền đi lại của Mỹ. Nhưng những điều này là đặc ân, không thể được xem như lúc nào cũng có sẵn, đó là lý do Hải quân Mỹ hỗ trợ mạnh mẽ Công ước [LHQ về Luật Biển] và tính pháp lý của nó, để bảo đảm nó phục vụ cho các hoạt động hải quân của chúng ta. Do đó, vì lý do an ninh quốc gia, Thượng viện cần phải quyết định, đã đến lúc phê chuẩn Hiệp ước Luật Biển.   
Thứ năm, chúng ta cần phải chuyển sức mạnh của lực lượng Mỹ, chú trọng nhiều hơn vào những khu vực cạnh tranh mới trỗi dậy, đặc biệt là Ấn Độ Dương và Biển Đông. Tôi đã tham gia với các đồng nghiệp của tôi ở Hội đồng Quân sự Thượng viện, Thượng nghị sĩ Carl Levin và Jim Webb, để kêu gọi cho thêm thời gian đánh giá lại kế hoạch về các căn cứ của chúng ta ở Nhật Bản và Guam. Và tôi đã làm như thế để Mỹ không phải rút khỏi châu Á, mà là tăng cường cam kết của chúng ta đối với an ninh trong khu vực.
Không phải là Quốc hội có ý kiến về các thỏa thuận căn cứ trong khu vực, mà thực tế tình hình mới và chi phí vượt quá mức, đã đặt vấn đề về các kế hoạch hiện tại của chúng ta, Quốc hội phải đặt những câu hỏi khó. Mục tiêu của chúng ta nên chuyển tới nơi có vị thế địa lý hơn, đưa quân đội rải rác ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, như Bộ trưởng Quốc phòng Gates đã mô tả, và trung tâm của nỗ lực đó sẽ luôn luôn là những cam kết căn cứ của chúng ta với các đồng minh lịch sử như Nhật Bản và Nam Hàn.
Cuối cùng, Hoa Kỳ phải tiếp tục các khoản đầu tư cần thiết vào khả năng phòng thủ của chúng ta, đặc biệt là lực lượng hải quân, để duy trì sức mạnh quân sự hàng đầu thế giới. Chúng ta đang phải đối mặt với áp lực rất lớn trong nước để cắt giảm chi tiêu, gồm cả chi tiêu quốc phòng, và một số cắt giảm chắc chắn cần thiết. Những người có lý có thể không đồng ý về việc cắt giảm này, nên cắt thêm bao nhiêu. Nhưng gần đây, khi Tổng thống cam kết cắt giảm 400 tỷ đô la về chi tiêu quốc phòng trong thời gian 12 năm – không có cơ sở chiến lược hợp lý về lý do tại sao con số này đã được lựa chọn hoặc những gì rủi ro gì nó sẽ gây ra, và Bộ trưởng Quốc phòng chỉ được nói về điều đó một ngày trước khi sự việc xảy ra – tôi nghĩ rằng những người có lý lẽ cũng có thể đồng ý rằng, điều này không có cách nào để lên kế hoạch quốc phòng của chúng ta. Chúng ta phải [lên kế hoạch] dựa vào chiến lược hướng dẫn, không thể [dựa vào] những con số tùy tiện.
Những sự kiện hiện đang xảy ra trên biển Đông sẽ đóng một vai trò quyết định trong việc định hình sự phát triển khu vực châu Á-Thái Bình Dương trong thế kỷ này. Và Hoa Kỳ phải tiếp tục tham gia tích cực vào quá trình đó. Về vấn đề này, tôi gặp rắc rối do các báo cáo gần đây của một số đồng nghiệp của tôi trong Quốc hội và một số ứng cử viên tổng thống thuộc đảng Cộng hòa, cho thấy mong muốn rút khỏi thế giới và giảm các cam kết của chúng tôi ở nước ngoài. Hoa Kỳ đã mắc phải sai lầm đó trước đây, và chúng ta nên học bài học lịch sử này, không để nó lặp lại. Cuối cùng, lịch sử cho chúng ta thấy rằng, chính Mỹ được hưởng lợi lớn nhất nhờ trật tự quốc tế dựa trên luật lệ, đó là duy trì bởi quyền lực và sự lãnh đạo của Mỹ. Chúng ta từ bỏ vai trò đó là nguy hiểm cho thế giới và cho chính chúng ta.
Nếu các bạn đến từ khu vực châu Á-Thái Bình Dương, chỉ để mang một thông điệp về nhà với các bạn, thông điệp đó sẽ là: Luôn có xu hướng cô lập ở Mỹ, nhưng người Mỹ đã bác bỏ nó trước đây, và tôi tin rằng bây giờ người Mỹ sẽ bác bỏ nó một lần nữa. Sẽ luôn có một cơ sở vững chắc của Mỹ hỗ trợ cho một chính sách quốc tế mạnh mẽ ở nước ngoài. Chính sách đó sẽ không thay đổi, kể cả ở Mỹ. Chúng tôi sẽ không rút khỏi hoặc bị đẩy ra khỏi khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Chúng tôi sẽ ở lại đó, [thực hiện] cam kết với bạn bè và đồng minh của chúng tôi, và chúng ta sẽ cùng nhau thành công.


Ngọc Thu lược dịch từ: http://www.ustream.tv/recorded/15514848

Tổng số lượt xem trang