Thứ Bảy, 16 tháng 7, 2011

Báo Le Monde Diplomatique bị kiểm duyệt (một cách vụng về!) ở Hà Nội


Bộ trưởng Quốc phòng Ấn Độ Shri AK Antony duyệt hàng quân danh dự tại Hội nghị ADMM+ tại Hà Nội ngày 12/10/2010. REUTERS/Kham
- "Tái ngộ Mỹ-Việt", bài báo bị kiểm duyệt (Le Monde Diplomatique, RFI 15-7-11) -- Bản dịch bài  Retrouvailles des Etats-Unis et du Vietnam (Le Monde Diplomatique Juin 2011) đã bị kiểm duyệt ở Việt Nam ◄◄ (Lời cảm tạ "cơ quan chức năng" ở Việt Nam: Nếu quý vị không kiểm duyệt thì chỉ vài người (đọc được tiếngTây) biết bài này, Le Monde Diplomatique đã không đưa lên mạng, viet-studies đã không "la làng", RFI đã không dịch ra tiếng Việt, viet-studies đã không có bản dịch mà đăng! Quý vị thật là sáng suốt! Những chiến sĩ thầm lặng nhưng kiên cường và tương đối nhiều mưu trí của tự do, dân chủ!

 
15/07/2011 - VIỆT NAM - HOA KỲ

Tuấn Thảo / Đức Tâm
Bài "Tái ngộ Mỹ-Việt" của Xavier Monthéard, được đăng trên nguyệt san Le Monde Diplomatique, tháng Sáu 2011, đã bị kiểm duyệt tại Việt Nam. RFI xin giới thiệu bản dịch.
36 năm sau chiến tranh: Tái ngộ Mỹ - Việt
Bản báo cáo bí mật mang tựa đề ‘‘Quan hệ Mỹ-Việt, 1945 – 1967’’, vốn tiết lộ những lời giả dối của chính quyền Mỹ trong việc đưa quân tham chiến Việt Nam, vừa được giải mật để cho công chúng được quyền tham khảo. Về phía mình, chính quyền Hà Nội đã lật qua trang sử. Hơn thế nữa, mùa hè vừa qua, các cuộc tập trận hỗn hợp Mỹ-Việt diễn ra ngay tại nơi mà những người lính GI đầu tiên đã đổ bộ cách đây hơn 40 năm…
* *
Bán đảo Cam Ranh, ở miền trung Việt Nam (*). Trời gió lộng làm nhấp nhô cụm sóng trên biển « Hoa Nam » mà người Việt gọi là « Biển Đông ». Bị thu hẹp bởi hàng rào kẽm gai, một con đường ngoằn ngoèo dẫn đến căn cứ hải không quân mà quân đội Hoa Kỳ đã dựng lên trong thời chiến tranh Việt Nam. Các đồn lính cũ kỹ, tựa như một lớp áo, được khoác lên mảnh đất khô cằn trơ trụi. Binh lính và nhân viên hải quan thơ thẩn qua lại. Bến cảng quân sự không tiếp đón khách thăm viếng, mà họ có đến thì để làm gì ? Từ nhiều năm qua, hoạt động ở vịnh Cam Ranh diễn ra chầm chậm.
Tháng 10 năm 2010, Cam Ranh như thể bừng tĩnh sau giấc ngủ uể oải : Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã tuyên bố mở cảng Cam Ranh để tiếp đón tàu thuyền của tất cả các nước. Hoa Kỳ là ứng viên. Kể từ năm 2003, khoảng một chục chiến hạm Mỹ đã ghé vào các cảng của quốc gia cựu thù. Lần này, những người lính của Chú Sam, không vũ khí cũng như không hành trang, đã thực sự trở lại xứ sở của Bác Hồ - với tư các là thượng khách. Mọi chuyện diễn ra như thể những năm tháng chiến tranh, do 5 vị chủ nhân Nhà Trắng (1) liên tục tiến hành không còn nằm trong ký ức Việt Nam. 20 năm xung đột khốc liệt, ghê rợn kết thúc vào tháng Tư năm 1975 với việc chiếm được Sài Gòn, như thể bị lãng quên, người ta dường như cũng quên cả thái độ sau đó của chàng khổng lồ bị làm nhục, quyết tâm phong toả viện trợ quốc tế đối với một chú lùn đã đánh bại mình và cấm vận thương mại đã được duy trì cho đến năm 1994.
Khu trục hạm « USS John S. McCain » ghé cảng Đà Nẵng
Vào tháng 8 năm 2010, cuộc đối thoại quốc phòng Mỹ-Việt đầu tiên diễn ra tại Hà Nội. Trong cùng tháng, ở ngoài khơi Đà Nẵng – ngay tại nơi mà những người lính Mỹ đầu tiên đổ bộ vào năm 1965 – các sĩ quan cao cấp của Việt Nam ra biển tham quan tàu Mỹ USS George Washington, biểu tượng hàng đầu của hạm đội Bẩy và là một trong 11 hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ. Trong khi đó, khu trục hạm USS John S. McCain thì thả neo ở Đà Nẵng. Tại Hà Nội, tên của ông John McCain, ứng viên đảng Cộng Hoà ra tranh cử tổng thống Mỹ năm 2008, không còn làm chói tai. Nguyên là phi công oanh tạc cơ, và như vậy bị xem như là ‘‘một tội phạm chiến tranh’’, theo như lời ông nói sau nay, ông John McCain đã bị cầm tù trong vòng 5 năm rưỡi tại Việt Nam. Được trao tặng huân chương chiến công vì những nỗi thống khổ phải chịu đựng trong lúc bị bắt, ông trở thành một vị anh hùng đối với một bộ phận công luận Mỹ.
Tính chính đáng này đã giúp cho ông John McCain thuyết phục được phe bảo thủ, giúp cho tổng thống đảng Dân Chủ Bill Clinton tuyên bố bình thường hoá quan hệ giữa hai nước. Không thù oán, phía Việt Nam quan tâm đến giai đoạn sự nghiệp sau này của ông McCain. Và các bức ảnh chụp tổng thống Bill Clinton nhân chuyến viếng thăm Việt Nam lần đầu tiên vẫn được treo tại cửa hàng bán thức ăn nhanh tại thành phố Hồ Chí Minh…Còn giờ đây, vợ của vị tổng thống này, bà Ngoại trưởng Hillary Clinton thì hoan nghênh về chặng đường mà hai nước đã trải qua: « Thay vì là cựu thù, chúng ta đã biết coi nhau như là những đối tác, đồng nghiệp và bạn hữu. Chính quyền Obama sẵn sàng nâng quan hệ Mỹ-Việt lên một tầm mức cao hơn (2) ».
Nhìn từ phía Hà Nội, việc xích lại gần Hoa Kỳ trước hết là theo logic kinh tế. Từ khi hiệp định thương mại song phương có hiệu lực vào năm 2001, trao đổi mậu dịch giữa hai nước gia tăng đều đặn. Vào năm 2000, trao đổi thương mại ở mức 1 tỷ đô la, đến năm 2010, thì đã lên đến 18,3 tỷ đô la. Chủ tịch Phòng Thương mại Mỹ tại Việt Nam, bà Jocelyn Trần, nhắm tới mục tiêu 35 tỷ đô la từ đây cho đến năm 2020 (3). Cán cân thương mại nghiêng hẳn về phía Hà Nội, các xuất khẩu sang Hoa Kỳ, - chủ yếu là hàng may mặc và giầy dép – mang về cho Việt Nam 14,8 tỷ đô la năm 2010, tương đương hơn một phần năm tổng thu nhập từ bên ngoài.
Mối quan hệ kinh tế chặt chẽ với Washington giúp cho Việt Nam hội nhập vào hệ thống thương mại quốc tế. Vào năm 2007, Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Từ đó trở đi, mức bình quân thu nhập hàng năm tính theo đầu người vượt qua ngưỡng một ngàn đô la. Theo cách tính của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam được xếp vào danh sách các quốc gia có mức thu nhập trung bình.
Cái giá phải trả của sự khởi đầu phồn thịnh này là cần phải lật qua trang sử với 3 triệu người chết trong chiến tranh, các khu vực đất đai bị tàn phá, các gia đình bị tan nát. Để làm việc này, cần phải suy nghĩ kỹ và viết lại ký ức. Theo nhà sử học Wynn W. Gadkar-Wilcox, « Sau năm 1990, các nhà nghiên cứu Việt Nam bắt đầu giảm nhẹ tầm quan trọng của thời kỳ 1954-1975, trong quan hệ với Mỹ, và ưu tiên đề cập đến giai đoạn 1941-1945. Trong giai đoạn này, Hoa Kỳ đã hợp tác với Việt Minh, và nhiều thành viên của cơ quan tình báo OSS (Office of Strategic Services, tiền thân của CIA) đã có quan hệ gắn bó cá nhân với ông Hồ Chí Minh. (…) Dựa vào các tập nghiên cứu của ông Robert Hopkins, mang tựa đề Hoa Kỳ và Việt Nam, 1787-1941, chuyên gia Phạm Xanh đã nhấn mạnh đến sự quan tâm của tổng thống Mỹ Thomas Jefferson (1801-1809) đối với các vụ lúa tại miền nam Việt Nam, cũng như nhiều cuộc thám hiểm mà Mỹ đã thực hiện tại Việt Nam vào đầu thế kỷ thứ XIX (4). »
Một nửa dân số Việt Nam dưới 26 tuổi. Quá khứ chiến tranh đối với họ rất xa vời và hình ảnh của Hoa Kỳ tạo trong tâm trí của họ niềm say mê. Sức quyến rũ đó không chỉ xuất phát từ đồng đô la xanh, mà còn nảy sinh từ « Giấc mơ kiểu Mỹ »: ai cũng có thể làm giàu nếu chịu khó và quyết tâm làm việc. 13 ngàn du học sinh - một kỷ lục đối với các nước Đông Nam Á - đã ghi tên vào một trường đại học ở phía bên kia bờ Thái Bình Dương.
Thỏa thuận đang thai nghén trong lĩnh vực hạt nhân dân sự
Miền nam Việt Nam, do lịch sử, rất sẵn sàng đón tiếp các đầu tư bằng đô la. Việc tập đoàn khổng lồ Intel chuyên sản xuất mạch vi xử lý đặt một nhà máy ở ngoại ô thành phố Hồ Chí Minh (trước kia là Sài Gòn) có giá trị biểu tượng : đó là cơ sở lắp ráp và kiểm tra lớn nhất của tập đoàn này trên thế giới, với tổng đầu tư ước tính 1 tỷ đô la. Trên một blog của website thuộc doanh nghiệp này, ngay từ tháng 9 năm 2009, người ta có thể đọc thấy hàng chữ « We are back in Saigon ! » (« Chúng tôi trở lại Sài Gòn »)…
Mối diễm tình này không có nghĩa là không còn một vài tỵ hiềm, bởi vì Hoa Kỳ ngay lập tức đã tự coi mình là những người bảo vệ nhân quyền. Trong năm 2010, 80 người đã bị bắt – trong số này 14 người bị kết án – vì đã bày tỏ quan điểm trái ngược với đường lối của đảng Cộng sản. Nhiều nhà báo và viết blog nằm trong số này. Trong một cuộc họp báo được tổ chức tại Hà Nội, ngày 10/12/2010, đại sứ Mỹ Michael W. Michalak đã nhẹ nhàng tuyên bố « rất tiếc, trong ba năm nhiệm kỳ của tôi, những tiến bộ trong lĩnh vực nhân quyền còn không đồng đều ».
Ở mặt đối lập, kỷ niệm sống động về sự dính líu của các tổ chức Mỹ trong các « cuộc cách mạng mầu » tại Đông Âu, nuôi dưỡng sự nghi kỵ. Phải chăng chính quyền Mỹ sẽ không khuyến khích một kịch bản « diễn biến hòa bình », mà đối với Hà Nội, đồng nghĩa với ý đồ gạt bỏ chế độ và bản sắc văn hóa Việt Nam ?
Thế nhưng, những đụng chạm này chỉ là một sự phản ánh nhạt nhòa những thù hận trong quá khứ. Thậm chí, năm 2011 có thể sẽ chứng kiến hai nước thiết lập quan hệ đối tác chiến lược. Một thỏa thuận hợp tác trong lĩnh vực hạt nhân dân sự đang được hoàn tất. Bản thỏa thuận liên quan đến việc chuyển giao công nghệ và phát triển các cơ sở hạ tầng, mở cửa cho các doanh nghiệp Mỹ tiếp cận với một thị trường hứa hẹn : Việt Nam mong muốn xây dựng 13 nhà máy điện hạt nhân, với tổng công suất là 16 000 MW, trong 20 năm tới. Các điều khoản của bản thỏa thuận không cấm việc làm giàu uranium – cho phép, về mặt lý thuyết, thực hiện một chương trình hạt nhân quân sự - trong khi Hoa Kỳ thường xuyên gây sức ép buộc các nước khác từ bỏ quyền được làm giàu uranium như vậy. Nhiều nhà bình luận đã so sánh các điều khoản này, có lợi cho Việt Nam, với các điều khoản của bản thỏa thuận Ấn Độ - Hoa Kỳ về hạt nhân năm 2007 (5).
Tuy nhiên, ông Brahma Chellaney (6), giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Chính trị New Delhi cũng giảm thiểu những điểm đồng nhau này : « Do Ấn Độ không phải là thành viên hiệp ước không phổ biến hạt nhân (TNP), nước này phải chịu nhiều hạn chế đặc biệt chiếu theo luật lệ của Mỹ. Do vậy, chính phủ Mỹ cần phải có được một sự miễn trừ đặc biệt từ phía Quốc hội. Trong trường hợp của Việt Nam, nước ký kết TNP, một sự đòi hỏi như vậy không cần thiết. Vả lại, vì Ấn Độ là một quốc gia có vũ khí nguyên tử, thỏa thuận song phương cần phải được xây dựng một cách chuyên biệt. »
Như vậy, hai thỏa thuận này gần giống nhau là do mục đích của chúng chứ không phải do bản chất. Ông Chellaney thẩm định : « Hoa Kỳ sử dụng các thỏa thuận hạt nhân ký với Ấn Độ và Việt Nam như một công cụ chiến lược để xây dựng một sự hợp tác thân thiết ». Do đó, Việt Nam chắc chắn sẽ có được một thỏa thuận tốt nhất trong nhóm « các quốc gia hạt nhân trỗi dậy », đó là những nước vừa mới bắt đầu thực hiện một chương trình hạt nhân dân sự. Ngược lại với trường hợp Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, ví dụ thỏa thuận giữa Hoa Kỳ và Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất năm 2009 ghi rõ Tiểu vương quốc này từ bỏ quyền làm giàu uranium trên lãnh thổ của mình. Phải chăng « nhất bên trọng, nhất bên khinh ? » Khi còn là phát ngôn viên bộ Ngoại giao, ông Philip J.Crowley đành phải nói rằng « Hoa Kỳ đàm phán những hiệp định như vậy theo từng trường hợp, đối với từng nước, từng vùng (7) ».
« Một hoàn cảnh mong manh như vỏ trứng »
Đối với Washington, việc củng cố các quan hệ quân sự và hợp tác hạt nhân có một mục tiêu : đó là duy trì sự ưu thế của Mỹ tại Thái Bình Dương. Do vậy, trong năm 2010, Hoa Kỳ đã bán 6 tỷ đô la thiết bị quân sự cho Đài Loan ; thông báo nối lại mối quan hệ với lực lượng đặc biệt Indonesia (Kopassus), cho dù lực lượng này có dính líu đến những vụ tàn sát ở Timor, Aceh và Papua ; bảo vệ quyền tự do lưu thông ở Biển Đông và coi đây là lợi ích quốc gia của Hoa Kỳ, theo lời bà Ngoại trưởng Clinton ; tiến hành các hoạt động quân sự chung với Hàn Quốc ở Hoàng Hải ; khi xẩy ra va chạm tại vùng quần đảo Điều Ngư/Senkaku mà Trung Quốc và Nhật Bản đều coi thuộc chủ quyền của mình, Hoa Kỳ đã nhắc lại rằng Nhật Bản sẽ được hậu thuẫn nếu cần thiết, theo tinh thần hiệp ước phòng thủ chung.
Đa số các biện pháp này, nếu không nói là tất cả, đều nhằm đối phó với sự lớn mạnh của Trung Quốc : sự bật dậy của đế chế Trung Hoa tất đương nhiên dẫn đến việc Hoa Kỳ nâng cao giá trị chiến lược của các quốc gia láng giềng với Trung Quốc. Tạp chí Mỹ về Quốc phòng 2010, bốn năm ra một lần (US Quadrennial Defense Review 2010) nói đến Indonesia, Malaysia và Việt Nam như là những đối tác tiềm tàng trong lĩnh vực an ninh. Ông Kurt Campbell, trợ lý Ngọai trưởng phụ trách Đông Á và Thái Bình Dương còn nói rõ hơn : « Khi nhìn vào tất cả những quốc gia bạn bè của chúng ta ở Đông Nam Á, tôi nghĩ rằng chính với Việt Nam mà chúng ta sẽ có những triển vọng tốt đẹp nhất » (8). Đối với cường quốc Hoa Kỳ, lại một lần nữa, đất nước này là một con tốt cần thiết, nhưng lần này, không phải để chống chủ nghĩa cộng sản, mà chống lại cái gọi là chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc.
Mối ám ảnh này có được sự đồng thanh. Từ nhiều thế kỷ qua, Việt Nam xoay trong quỹ đạo của đế chế Trung Hoa đồng thời tìm cách thoát ra khỏi sức hút của nó. Sự phụ thuộc về kinh tế của Việt Nam vẫn còn rất lớn – nhập khẩu từ láng giềng phương Bắc chiếm một tỷ lệ cực kỳ cao. Do vậy, ông Carlyle Thayer, giáo sư danh dự tại đại học Souh New Wales, Canberra, chuyên gia về Việt Nam, đánh giá rằng « không một nước nào có thể tự tin và có ảnh hưởng như Trung Quốc trong quan hệ với Hà Nội (9) ». Về cơ bản, ngoại giao Việt Nam tìm cách hòa thuận với càng nhiều nước càng tốt để thoát ra khỏi Bắc Kinh, nhưng đồng thời lại muốn duy trì quan hệ ưu tiên với nước láng giềng lớn – đây là mối bận tâm mà ngoại giao Việt Nam chia sẻ với nhiều nước Đông Nam Á. Cựu đại sứ Đinh Hoàng Thắng không coi nhẹ những khó khăn : « Nếu Việt Nam có thể thuyết phục được Trung Quốc rằng việc cải thiện quan hệ Mỹ-Việt sẽ không ảnh hưởng đến các quyền lợi của nựớc thứ ba, thì đó sẽ là một thành công lớn (10) ».
Công việc này cũng không phải là dễ dàng đối với Mỹ. Ông Brantly Womack, giáo sư Quan hệ Quốc tế tại đại học Virginia Hoa Kỳ (11) nhắc lại rằng « sự xa cách giữa Hoa Kỳ và châu Á và mối quan hệ song song của Mỹ vừa với Trung Quốc vừa với Việt Nam tiếp tục làm biến dạng sự hiểu biết về mối quan hệ song phương này ». Phía Trung Quốc cũng đưa ra những mệnh lệnh đôi khi mạnh mẽ : « Việt Nam phải hiểu rằng, bị kẹp giữa hai cường quốc, họ đang chơi một trò chơi nguy hiểm, với hoàn cảnh vừa bấp bênh vừa mong manh như vỏ trứng », người ta có thể đọc thấy những dòng này trên Nhân dân nhật báo, cơ quan ngôn luận của đảng Cộng sản Trung Quốc (…) « Nếu Trung Quốc và Việt Nam thực sự dẫn đến đối đầu quân sự với nhau, thì không có một tàu chở sân bay nào, của bất kỳ một nước nào, có thể bảo đảm an ninh cho Việt Nam ».(12)
Một cuộc tranh chấp lãnh thổ trên Biển Đông liên quan đến quần đảo Hoàng Sa – Paracels và Trường Sa – Spratleys đã tích tụ vào cuối thế kỷ XX (13). Cho dù vừa qua đã củng cố hạm đội của mình, Hà Nội không thể tranh đua với hải quân Trung Quốc. Do vậy, theo phân tích của ông Richard Bitzinger, chuyên gia về các vấn đề quốc phòng tại châu Á-Thái Bình Dương, « Việt Nam muốn thấy có nhiều quốc gia hơn nữa can thiệp vào Biển Đông. Đối với Việt Nam, đây sẽ là một sự bảo vệ. Việt Nam cũng muốn nhận được sự hỗ trợ để mở rộng và hiện đại hóa các cơ sở hạ tầng của cảng trong vịnh Cam Ranh. Tôi nghĩ rằng hải quân Mỹ sẽ tranh thủ vị trí chiến lược này, hải quân các nước khác cũng sẽ làm như vậy – đương nhiên, chỉ có hải quân Trung Quốc là sẽ vắng mặt !»
Cuộc xung đột 1979 với Bắc Kinh bị bỏ qua
Liệu một ngày nào đó, người ta sẽ thấy Hoa Kỳ ủng hộ Việt Nam chống lại đế chế Trung Hoa ? Quả sẽ là trớ trêu quá mức, nếu như người ta nhớ lại rằng sau khi tuyên bố độc lập ngày 2/09/1945, Trung Quốc của Mao Trạch Đông là nước đầu tiên công nhận nền dân chủ cộng hòa non trẻ này, vào tháng Giêng năm 1950, trước Liên Xô khoảng 12 ngày… Giữ cân bằng giữa hai nước bảo trợ cộng sản, mà 2 nước này sau đó lại trở thành đối thủ của nhau, là một phương trình mà Hồ Chí Minh và những người kế tục ông đã giải quyết thành công trong 25 năm. Viện trợ của Liên Xô đã biến mất khi chiến tranh lạnh kết thúc. Cuộc xung đột công khai giữa Việt Nam và Trung Quốc vào cuối những năm 1970, đã trở thành vấn đề húy kỵ nhất trong chính sách đối ngoại. Hơn 30 năm sau khi xẩy ra cuộc xung đột, vẫn không thể nào nói đến cuộc chiến tranh ngắn ngủi trong tháng Hai tháng Ba năm 1979 đã làm hàng chục ngàn người thiệt mạng. Báo chí cũng như sách giáo khoa không nói đến cuộc chiến tranh này. Về mặt chính thức, tất cả mọi việc đều tốt đẹp với Bắc Kinh.
Lịch sử đã cho thấy những nguy hiểm đối với Việt Nam khi nước này rơi vào những tính toán địa-chính trị của những siêu cường láng giềng. Ỏ Hà Nội, liệu có ai sẽ quên điều này ? Nhà ngoại giao Hoàng Anh Tuấn vừa nhắc lại rằng Việt Nam « là nước duy nhất trên thế giới đã tiến hành những cuộc đàm phán dồn dập và kéo dài với Hoa Kỳ (…) Cho dù lòng tin và sự hiểu biết lẫn nhau đã có những tiến triển đáng kể, nhưng không có gì bảo đảm là những hiểu nhầm chiến lược lại không xuất hiện (…) Do vậy, quan hệ song phương chỉ có thể được thiết lập một cách bền vững trên cơ sở bình đẳng nếu như mối bang giao này được xây dựng nhằm phục vụ các lợi ích quốc gia của Việt Nam cũng như của Hoa Kỳ, chứ không chỉ nhằm phục vụ các lợi ích địa – chính trị của một bên.(14) ». Hiện nay, có nhiều điềm tốt. Thế nhưng « sự hung dữ của vị trí địa lý (15) » có thể vẫn chưa thôi định hướng số phận quốc gia Việt Nam.
* *
Chú thích
(*) Trong bài, tác giả viết là Cam Ranh ở miền nam Việt Nam
(1) Dwight Eisenhower (giữa 1954 và 1961), John F. Kennedy (1961-1963), Lyndon B. Johnson (1963-1969), Richard Nixon (1969-1974) et Gerald Ford (giữa 08/1974 và 04/1975).
(2) Diễn văn đọc tại Hà Nội, ngày 21/07/2010 bên lề cuộc gặp lần thứ 43 cấp Ngoại trưởng Hiệp hội các nước Đông Nam Á – ASEAN.
(3) Báo Tuổi Trẻ, Hà Nội, 20/12/2010.
(4) Wynn W. Gadkar-Wilcox, « Mối quan hệ không rõ ràng : Những ấn tượng về Hoa Kỳ trong giảng dậy lịch sử tại Việt Nam 1989 – 2009 - An ambiguous relationship : Impressions of the United States in Vietnamese historical scholarship, 1986-2009 », World History Connected, tập 7, n° 3, Washington, DC, 10/2010.
(5) Đọc Siddharth Varadarajan, « Ấn Độ khao khát được thừa nhận », Le Monde diplomatique, 11/ 2008.
(6) Tác giả của cuốn « Sức mạnh châu Á: Sự vươn lên của Trung Quốc, Ấn Độ và Nhật Bản », HarperCollins, New York, 2006. Ngoại trừ có chỉ dẫn ngược lại, tất cả những trích dẫn của các nhà phân tích đều xuất phát từ các cuộc trao đổi.
(7) Được trích dẫn trong bài của Daniel Ten Kate và Nicole Gaouette, « Hoa Kỳ, Việt Nam tiến hành các cuộc đàm phán về công nghệ hạt nhân như là những đối tác tranh giành hợp đồng », Bloomberg, 06/08/2010.
(8) Agence France-Presse, 07/2010.
(9) Carlyle Thayer, « Quan hệ của Việt Nam với Trung Quốc và Hoa Kỳ », hội thảo được tổ chức tại Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội, 10/12/2010.
(10) Phỏng vấn dành cho VietNamNet (ấn bản điện tử), 17/02/2010.
(11) Brantly Womack, « Hoa Kỳ và mối quan hệ Trung-Việt », The Asia-Pacific Journal: Japan Focus (ấn bản điện tử), 2008.
(12) Lý Hồng Mai, “Khuyên Việt Nam không nên đùa với lửa », Nhân dân nhật báo, Bắc Kinh, 17/08/2010.
(13) Trung Quốc dùng quân đội chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa từ tháng Giêng 1974 nhưng Việt Nam và Đài Loan vẫn đòi hỏi chủ quyền của mình ở đây. Trung Quốc, Việt Nam, Malaysia, Philippines và Đài Loan chiếm đóng các đảo khác nhau trong quần đảo Trường Sa (Brunei có đòi hỏi chủ quyền nhưng không đưa quân đội đến đây). Phân tích về các vấn đề chính trị và tìm kiếm giải pháp, xem Stein Tønnesson, trong « Những thay đổi sắp tới của Trung Quốc tại biển Hoa Nam », Harvard Asia Quarterly, Cambridge (Massachusetts), 12/2010
(14) Hoàng Anh Tuấn, « Sự nhích lại gần nhau giữa Việt Nam và Hoa Kỳ : Một câu trả lời », Contemporary Southeast Asia, tập. 32, n° 3, Singapour, 2010.
(15) Carlyle Thayer, « Sự hung dữ của vị trí địa lý : Những chiến lược của Việt Nam nhằm kiềm chế Trung Quốc tại biển Hoa Nam», International Studies Association, Montréal, 03/2011.
 


 
-Báo Le Monde Diplomatique bị kiểm duyệt (một cách vụng về!) ở Hà Nội: Le "Diplo" caviardé au Vietnam (Le Monde Diplmatique 8-7-11) vì một bài (về quan hệ Việt Mỹ) trên báo giấy (mà tôi có nhưng chưa đăng!).  Nổi nóng, báo này đưa tòan văn bài này lên mạng: Retrouvailles des Etats-Unis et du Vietnam (Le Monde Diplomatique Juin 2011) -- Xin cám ơn GS Nguyễn Thế Anh ở Paris đã cho biết tin này. Xin nhắc lại: Bài này chính là bài mà RFI tóm tắt và viet-studies đã link: Việt Nam ở thế yếu trong quan hệ Washington-Hà Nội-Bắc Kinh (RFI 5-6-11) ◄◄
Trọng Thành
Tuần báo ngoại giao quốc tế Pháp, Le Monde diplomatique, đặc biệt chú ý đến thế đối đầu giữa Trung Quốc và các nước châu Á, đặc biệt là Việt Nam và Ấn Độ. Chuyên mục « các quan hệ liên minh dị thường » của tuần báo đăng tải hai bài viết liên quan đến Việt Nam.
Bài thứ nhất, với tựa đề « 36 năm sau chiến tranh, Hoa Kỳ và Việt Nam hội ngộ », nhận định rằng quan hệ giữa hai cựu thù nay đã đổi thay. Bản báo cáo mật mang tên « Các quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, 1945-1967 », vén bức màn bí mật che phủ những dối trá của chính phủ Hoa Kỳ về việc tham gia vào chiến tranh tại Việt Nam, đã được công bố.
Về phần mình, Hà Nội đã quyết định đưa quan hệ giữa hai bên sang một trang mới. Mùa hè năm ngoái, các cuộc tập trận đã diễn ra tại vùng biển miền Trung Việt Nam, ở chính nơi mà quân đội viễn chinh Hoa Kỳ đổ bộ lần đầu tiên cách đây nửa thế kỷ.
Bài báo mở đầu với việc mô tả sự hoang vu của quân cảng Cam Ranh, căn cứ hải quân do Hoa Kỳ xây dựng trong chiến tranh Việt Nam. Tình trạng này chấm dứt vào cuối năm 2010, sau khi thủ tướng Việt Nam tuyên bố sẽ mở cửa sẵn sàng đón tàu thuyền khắp nơi trên thế giới. Mỹ là một trong các ứng cử viên.
Trước đó, tháng 8/2010, một cuộc đối thoại quốc phòng Mỹ - Việt đã được tổ chức tại Hà Nội, cũng trong tháng này, ở ngoài khơi Đà Nẵng, các sĩ quan cao cấp của quân đội Việt Nam đã lên thăm hàng không mẫu hạm USS George Washington, biểu tượng của hạm đội 7 Hoa Kỳ.
Tại Hà Nội, tên tuổi của nguyên ứng cử viên tổng thống Mỹ, Thượng nghị sĩ John McCain, không gợi lại lên ác cảm. Phi công John McCain từng ngồi tù năm năm rưỡi ở Hà Nội, sau khi máy bay bị bắn rơi và đã từng bị coi là « tội phạm chiến tranh ». Tuy nhiên, người Việt Nam hiện nay đánh giá cao việc ông đã đóng góp cùng với tổng thống Bill Clinton vào việc bình thường hóa quan hệ giữa hai nước giữa thập niên 1990. Còn giờ đây ngoại trưởng Hillary Clinton, phu nhân của nguyên tổng thống Mỹ, tuyên bố sẵn sàng đưa quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam tiến lên một mức cao hơn.
Khi cải thiện quan hệ với Hoa Kỳ, điều Việt Nam nhắm tới đầu tiên là đạt được các lợi ích kinh tế. Trao đổi thương mại song phương đạt hơn 18 tỷ đô la vào năm 2010, và có khả năng đạt 35 tỷ đô la từ đây đến năm 2020. Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ gần 15 tỷ đô la năm 2010. Quan hệ tốt với Mỹ cũng giúp cho Việt Nam gia nhập được vào Tổ chức Thương mại Thế giới năm 2007.
Với mức thu nhập tính theo đầu người vượt 1.000 đôla/năm, Việt Nam được xếp vào nhóm trung bình trên thế giới. Cùng với việc đất nước bắt đầu trở nên thịnh vượng hơn, quan hệ Việt Nam với Mỹ trong quá khứ cũng được nhìn nhận lại tích cực hơn. Chiến tranh đã lùi xa. Tuổi trung bình của người Việt hiện nay là dưới 26. Với 13.000 sinh viên du học tại Mỹ, Việt Nam là một trong số các nước Đông Nam Á đứng đầu trong lĩnh vực này. Tháng 10/2010, tập đoàn Intel đã mở chi nhánh lớn nhất thế giới của hãng trong lĩnh vực lắp ráp và thử nghiệm mạch vi xử lý tại Sài Gòn. Một hợp đồng hợp tác hạt nhân dân sự Mỹ - Việt đang sắp hoàn tất. Việt Nam có khả năng nhận được một hợp đồng có lợi nhất so với « các quốc gia hạt nhân mới ».
Trên lĩnh vực dân chủ và nhân quyền, từ phía Hoa Kỳ, liên tục có sức ép yêu cầu Việt Nam phải tôn trọng các quyền con người cơ bản, và từ phía chính quyền Việt Nam, thường xuyên có những lời cảnh báo về nguy cơ bị « diễn biến hòa bình », tức thay đổi theo hướng dân chủ hóa từ bên trong, tuy nhiên những bất đồng giữa hai phía hiện nay là hết sức mờ nhạt so với các hận thù trong quá khứ.
Vị trí khó xử của một nước nằm giữa hai siêu cường
Theo Le Monde diplomatique, việc tăng cường hợp tác quân sự và hạt nhân dân sự của Mỹ tại Việt Nam có mục tiêu chủ yếu là duy trì ưu thế của Hoa Kỳ trong khu vực nhằm ngăn chặn sự bành trướng của Trung Quốc. Bản báo cáo bốn năm một lần của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ (US Quadrennial Defense Review 2010), đánh giá Việt Nam, Indonesia và Malaysia nằm trong số các nước có tiềm năng hợp tác về an ninh với Mỹ nhiều nhất tại khu vực Đông Nam Á.
Tuy nhiên, tuần báo ngoại giao quốc tế Pháp ghi nhận một điểm đặc thù của Việt Nam trong nhiều thế kỷ là một quốc gia vệ tinh trong quỹ đạo của đế chế Trung Hoa và quốc gia này luôn tìm cách khẳng định sự độc lập tương đối của mình.
Trong hiện tại, Việt Nam tìm cách đa phương hóa đến mức tối đa để thoát khỏi sự phụ thuộc vào Bắc Kinh, nhưng vẫn dành cho người láng giềng lớn phương Bắc một quan hệ ưu tiên đặc biệt, điều này không khác lắm với nhiều nước trong khu vực Đông Nam Á.
Tuy nhiên, sự xích gần lại giữa Việt Nam và Mỹ khiến Bắc Kinh khó chịu. Có thể đọc thấy ở những cảnh báo cứng rắn trên báo chí chính thức của Trung Quốc về vấn đề này, như nhận xét của tờ Nhân Dân Nhật Báo, ngày 17/10/2010 : « bị kẹp giữa hai cường quốc, Việt Nam ở trong tình trạng mỏng manh như quả trứng ».
Là một quốc gia giành cho Việt Nam sự ủng hộ sớm nhất ngay từ khi tuyên bố độc lập và mang lại nhiều trợ giúp trong chiến tranh, bất chấp các xung đột biên giới Việt – Trung, Trung Quốc vẫn được đối xử một cách đặc biệt. Báo chí và sách giáo khoa Việt Nam hoàn toàn im tiếng về cuộc chiến Trung – Việt 1979, với thiệt hại nhân mạng lên đến hàng chục nghìn người. Giữ được thế cân bằng trong quan hệ với các cường quốc là điều không dễ dàng với Việt Nam.
Le Monde diplomatique nhận xét, trong bối cảnh hiện tại dường như là thuận lợi, vận mệnh của Việt Nam có vẻ như vẫn tiếp tục bị khuôn theo những bó buộc mang tính địa lý (« The tyranny of geography »), đó là vị trí của quốc gia này nằm ở cửa ngõ của con đường bành trướng xuống phía nam của đế chế Trung Hoa (như nhận định của học giả Carlyle Thayer, « The tyranny of geography : Vietnamese strategies to constrain China in the South China sea », International Studies Association, Montréal, 3/2011).
Việt Nam - Ấn Độ hợp tác đối mặt với đe dọa quân sự từ Trung Quốc
Bài báo đáng chú ý thứ hai về Việt Nam trên Le Monde diplomatique mang tựa đề « Tình bạn Ấn Độ - Việt Nam dưới cái bóng của Trung Quốc ». Nhà báo Ấn Độ Saura Jha nhận xét, nỗi lo sợ trước sức mạnh Trung Quốc khiến Việt Nam và Ấn Độ xích lại với nhau, Ấn Độ tận dụng cơ hội này để đề nghị với Việt Nam nhiều dịch vụ quân sự và thương mại. Bài báo ghi nhận những lĩnh vực mà Ấn Độ có thể mang lại cho Việt Nam, về quân sự như sản xuất các tàu chiến hiện đại, vũ khí cao cấp như tên lửa siêu âm, … hay về hạt nhân dân sự, với các lò phản ứng cỡ nhỏ, rất phù hợp cho Việt Nam, vốn chỉ mới có một mạng lưới điện nhỏ bé.
Trong hiện tại, sự hợp tác của Ấn Độ với Việt Nam tùy thuộc theo mức độ đối đầu của New Delhi với Bắc Kinh. Nếu Trung Quốc gia tăng hợp tác quân sự với các nước láng giềng với Ấn Độ như Pakistan hay Srilanka, New Delhi không loại trừ khả năng sẽ duy trì quân đội tại khu vực Biển Đông, cụ thể là tại cảng Cam Ranh, vừa mới được Việt Nam mở cửa đón khách.
Tác giả bài báo cho rằng, Hoa Kỳ là siêu cường, nhưng ở xa, chỉ có sự hợp tác giữa các nước châu Á mới có khả năng mang lại một giải pháp bền vững cho các đe dọa từ phương Bắc. Sự hợp tác Ấn – Việt có thể trở thành một trong các trụ cột đối với sự ổn định tại châu Á.
Kỷ nguyên của các chính trị gia háo sắc sắp cáo chung
Giới chính trị và tình dục là chủ đề nổi bật được cả hai tuần báo lớn tại Pháp, Le Nouvel ObservateurL’Express cùng quan tâm. « Tại sao tình dục lại khiến cho các nhà chính trị trở nên điên rồ ? » là tựa đề trên trang nhất L’Express. Còn Le Nouvel Observateur chạy tựa : « Sau các vụ xì căng đan DSK và Tron, nước Pháp của những kẻ vũ phu ». Tiếp sau vụ nguyên tổng giám đốc Quỹ Tiền tệ Quốc tế Dominique Strauss-Kahn bị cáo buộc vì tội bạo hành tình dục, thái độ thái quá của các chính trị gia trong lĩnh vực tình dục được công luận Pháp rất quan tâm.
Trong chuyên mục dành cho chủ đề này trên tạp chí L’Express, có thể kể đến bài phỏng vấn của tuần báo với nhà sử học Dimitri Casali, tác giả cuốn « Tình dục và Quyền lực, hậu trường trong đời sống của các thủ lĩnh » (Nxb La Martinière 2008). Ông Casali là chuyên gia về cuộc đời hoàng đế Pháp Napoleon đệ nhất.
Nhìn ngược dòng lịch sử, tính háo sắc của các nhà cầm quyền được nhà sử học Pháp khẳng định như là một hiện tượng mang tính nhân loại. Riêng đối với nước Pháp, việc dân chúng chọn các thủ lĩnh đầy « dương tính », có quan hệ tình dục với rất nhiều phụ nữ là chuyện bình thường. Theo ông, đây là một truyền thống thực sự lâu đời, bắt nguồn từ quan niệm về tính cách phi thường của các thủ lĩnh chính trị, những người nắm quyền lực tuyệt đối như kiểu vua Louis XIV.
Tuy nhiên, làn sóng chỉ trích của truyền thông quốc tế xung quanh vụ án DSK cho thấy tâm thức này đang bắt đầu thay đổi. Uy quyền tuyệt đối của những ông vua háo sắc, nhà sử học nhận xét, có thể đang bước vào giai đoạn cáo chung.

Tổng số lượt xem trang