Thứ Tư, 10 tháng 8, 2011

Liên Xô – Nhà nước phong kiến trá hình

Tin liên quan: Anatoly Tille - Liên Xô - Nhà nước phong kiến trá hình-1
-Liên Xô – Nhà nước phong kiến trá hình-3

 -Anatoly Tille - Liên Xô - Nhà nước phong kiến trá hình (Kì 3)

Bản dịch được thực hiện nhân kỉ niệm 20 năm tan rã Liên Xô
Phần II

Cơ chế cai trị của chế độ phong kiến

Chương 3. Thể chế xã hội của “đất nước xã hội chủ nghĩa”
Chả lẽ Liên Xô không phải là một thế giới điên rồ tưởng tượng, nơi những người Xô viết bịa tạc, những người đang xây dựng chủ nghĩa cộng sản huyền hoặc, sinh sống hay sao?


V. Bukovski

Sở hữu là vấn đề quan trọng nhất trong lí thuyết của Marx. Trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, K. Marx và F. Engels tuyên bố: “Những người cộng sản có thể tuyên bố học thuyết của mình bằng một câu thôi: bãi bỏ tư hữu”.


Các luật gia Xô viết nhận thức vấn đề sở hữu như thế nào? Họ luôn bắt đầu bằng việc tẩy chay “các lí thuyết tư sản bịp bợm”: “Các quan điểm tư sản về sở hữu”, ông O. Ioffe, một luật gia Xô viết (hiện nay là luật gia Mĩ) nổi tiếng viết, “đã xuyên tạc thực tế và mâu thuẫn với các quan hệ thực tế trong xã hội tư bản… Chúng chỉ nhằm một mục đích duy nhất là “lừa mị” người lao động, làm cho họ không nhận thức được quyền lợi giai cấp và cuộc đấu tranh giai cấp, tuyên truyền “tư tưởng” hòa bình giữa các giai cấp” và “sự đồng thuận xã hội! [1] ” Cứ như là “người lao động” ở đó suốt ngày chỉ làm mỗi một việc là nghiên cứu các quan điểm tư sản về sở hữu vậy!

Vậy thì các luật gia Xô viết giảng giải cho người lao động các quan hệ sở hữu tồn tại trên thực tế như thế nào? Họ giảng như sau: “Mâu thuẫn căn bản với quyền sở hữu tư nhân … là quyền sở hữu được xác lập trong chế độ xã hội chủ nghĩa [2] ”. “Mâu thuẫn căn bản” thì tốt rồi, nhưng bản chất của nó là gì? Tài sản quốc gia “trong nhà nước Liên Xô là thuộc về tập thể quần chúng đông đảo nhất, thuộc về toàn thể nhân dân Xô viết [3] ”. Tài sản quốc gia “là biểu hiện sự thống nhất giữa sự lãnh đạo chính trị và lãnh đạo kinh tế đối với xã hội của nhà nước Liên Xô, nó vừa là tổ chức chính trị vừa thực hiện các chức năng kinh tế”. Ngoài những câu nói mang tính mị dân ra, bạn đọc có thấy tư liệu sản xuất thuộc về một người cụ thể nào không?

Xin chuyển sang một hình thức sở hữu “xã hội chủ nghĩa” khác, đấy là nông trang - hợp tác xã: “Đây là tài sản của một nhóm người: nó thuộc về nông trang hay tập thể lao động cụ thể nào đó… những người chủ sở hữu có toàn quyền định đoạt đối với tài sản thuộc sở hữu của nông trang hay các tổ chức tập thể và liên hiệp các tập thể đó [4] ”. Thật là một sự dối trá vô liêm sỉ! Dối trá một cách hiển nhiên vì không một ai trong đất nước chúng ta, kể cả các nhà khoa học và các luật sư, lại không biết rằng các nông trang viên chẳng có quyền định đoạt bất cứ việc gì, từ bầu chủ tịch nông trang, cho đến tài khoản trong ngân hàng cũng như máy móc và gia súc, gia cầm… Hãy xem ông chủ tịch nông trang tên là Vagin, ủy viên Ban chấp hành trung ương nói: “Suốt hàng chục năm trời, chúng ta đã làm mọi cách để người nông dân không còn là người chủ nông trang nữa… Và trong đa số trường hợp thì đã có kết quả… Tại sao sự quan tâm tới tài sản của nông trang lại giảm, chưa nói là đã mất hoàn toàn? Tài sản đó không phải là của họ, thực ra nó đã trở thành của nhà nước. Các hành động tự tiện đối với nông trang diễn ra ngay trước mắt người lao động. Thế mà chúng ta lại luôn luôn nói đến dân chủ ở cơ sở, dân chủ trong các nông trang”… Chuyện này được viết trên tờ Sự thật ngày 26 tháng 1 năm 1987.

Báo chí thường nói đến chuyện mùa màng bị bỏ không được thu hoạch, dưa hấu thì bị máy kéo nghiến nát, cà chua chín thì bị cày tung lên, như vậy là các nông trang viên cố tình phá hoại tài sản của chính mình! Thật là điên rồ!!! Nhưng ở nước ta người ta không nghĩ như thế, người ta đã quen với chuyện ấy rồi! Nhưng chả lẽ các nông trang viên không thể họp nhau lại và quyết định thu hoạch tất cả những thứ sắp thối rữa ấy và chia nhau, ép thành nước quả hay ngâm muối, hoặc đưa vào nhà trẻ được ư? Ai cho phép làm như thế? Chẳng cần phép tắc gì thì đã sao? Khi đó người ta sẽ khởi tố vụ án hình sự… đấy là một vụ ăn cắp tài sản xã hội chủ nghĩa! Tự mình ăn cắp tài sản của mình! Vagin nói đúng, nông trang viên không có một tài sản nào cả. Cần phải nói thêm rằng quân chiếm đóng Đức không giải tán các nông trang và nông trường, họ không đụng chạm đến các tổ chức này. Vì sao lại không? Vì họ cũng là những người xã hội chủ nghĩa, chỉ thêm mỗi chữ “dân tộc” mà thôi…

Sở hữu nhà nước là gì? “Không một kẻ hữu sinh hữu tử nào biết đấy là cái gì”, một người tham gia “bàn tròn” đã nói như thế (Báo Văn học, ngày 3 tháng 6 năm 1987). Các nhà khoa học dĩ nhiên là cũng không biết, nhưng họ không thèm tìm hiểu gì hết. Trong rất nhiều bài phát biểu, Gorbachev đã cố gắng thuyêt phục công nhân và nông dân rằng họ là chủ. Nhưng việc tự nhủ rằng “ta đẹp, ta dễ thương” như các nhà tâm lí học vẫn khuyên những người thiếu tự tin với việc đẩy các thợ mỏ vào hầm lò với những điều kiện lao động không thể tưởng tượng nổi là hai việc hoàn toàn khác nhau. Đấy là lí do vì sao tất cả các cố gắng nhằm nâng cao sự quan tâm của người lao động đối với kết qủa công việc, thí dụ như phong trào thi đua hay “khoán sản”... đều thất bại.

Chủ nghĩa Marx dạy rằng quyền lực chính trị nằm trong tay những người nắm giữ tư liệu sản xuất. Tư liệu sản xuất thuộc về nhà nước nghĩa là thế nào? Nhà nước bao gồm các cơ quan quyền lực, các tổng cục, tòa án, bộ quốc phòng… Phương tiện sản xuất có nằm trong tay quân đội hay KGB không? Rõ ràng là không. Hay nó nằm trong tay cơ quan quyền lực cao nhất tức là Đại hội đại biểu nhân dân? Nhưng đây chỉ là một nhóm người, tụ họp với nhau trong một thời gian, chỉ có tài sản riêng của từng người là thuộc về họ mà thôi. Hay nó là của Hội đồng bộ trưởng? Nhưng đây cũng là một cơ quan chỉ họp một năm bốn lần…

Dù có xem xét các cơ quan quyền lực như thế nào đi nữa, chúng ta cũng không thể nào tìm được người chủ thực sự của các nhà máy, các phương tiện vận tải, hầm mỏ, đất đai. Như vậy là tài sản nhà nước là tài sản vô chủ. Có thể rút ra kết luận như thế nếu ta phải chứng kiến cảnh lãng phí, thí dụ trong khi lương thực thực phẩm thường xuyên thiếu hụt thì một nửa rau quả, thịt và ngũ cốc bị để cho thối rữa ngoài đồng… Máy móc, thiết bị nhập khẩu bằng ngoại tệ đi vay của các nhà tư bản bị để cho han gỉ ngoài sân…

Nhưng vô chủ thì có thể lấy! Thí dụ trong các xí nghiệp giày của chúng ta, sản phẩm hỏng chiếm đến 90%. Đốt hết là xong. Nhưng nếu người công nhân (ông chủ) cầm về một đôi giày phải đem đi đốt đó thì anh ta sẽ bị kỉ luật (mức độ phụ thuộc vào giá trị đôi giày, từ kỉ luật hành chính cho đến khởi tố vụ án hình sự).
  
Không thể tìm được người chủ thực sự: không có một người như thế trên thực tế! Chỉ có thể tìm được câu trả lời nếu chúng ta từ bỏ lối ngụy biện của Marx và Engels: “Loại bỏ tư hữu tức là chủ nghĩa cộng sản” (hay chủ nghĩa xã hội thì cũng thế) và trở về với đế chế của người Inca, người Maia và châu Âu thời phong kiến.

Trong đế chế của người Inca, tài sản chủ yếu, tức là đất đai, nằm trong tay ai? Chúng ta không thể tìm được người chủ cụ thể. Về danh nghĩa đất đai thuộc về thủ lĩnh, trên thực tế nó là của mọi người hoặc chẳng của ai. Người nông dân giao nộp một phần sản phẩm cho trưởng xóm, người này giữ lại một phần, còn lại thì nộp lên xã v.v… Vì vậy mà ông J. Mariátegui, người sáng lập Đảng cộng sản Peru, mới gọi đế chế Inca là cộng sản chủ nghĩa.   

Đất đai thời trung cổ ở châu Âu nằm trong tay ai? Lúc đó chưa có khái niệm sở hữu nói chung, hay như đôi khi người ta vẫn nói, sở hữu “bị phân tán [5] ”: nhà vua là chủ nhân trên danh nghĩa tất cả đất đai, nhưng ông ta chỉ làm chủ thực sự thái ấp của mình, phần đất đai còn lại được giao cho các chư hầu với hai tên gọi là Feod và Benefisi. “Feod không nhất thiết phải là một khu đất mà nhà vua giao cho chư hầu để thưởng công, đấy có thể là động sản hay một khoản có mang lại thu nhập. Thí dụ, nhà vua có thể cho chư hầu quyền thu tô [6] ”. Feod cũng có thể là một chức vụ (thí dụ quan tòa), chức vụ này có thể đem bán hoặc được thừa kế. Những chư hầu kia lại đem phần đất của mình chia cho các chư hầu bên dưới và trở thành lãnh chúa của những người này. Và cứ thế xuống đến bên dưới, có khá nhiều tầng nấc.

Dưới chế độ “phân tán” về sở hữu như thế, mỗi một lãnh chúa được “giữ” phần lãnh thổ của mình với điều kiện là ông ta phải trung thành với nhà vua và nộp một phần thu nhập mà các nông dân và chư hầu bên dưới đã cống nạp cho ông ta.

Nông dân (hay công xã) không phải là người chủ ruộng đất, anh ta không được quyền bán hay cho phần đất đang canh tác, nhưng địa chủ cũng không có quyền trục xuất anh ta (mặc dù, thí dụ ở Anh đã xảy ra tình trạng này, khi “cừu ăn thịt người”), vì người nông dân cũng coi ruộng đất ấy là “của mình”.

Mặc dù cho đến năm 1861, ở Nga đã có một tầng lớp đông đảo những người người nông dân tự do có sở hữu ruộng đất, nhưng chế độ cầm quyền lúc đó, theo đúng học thuyết của Marx, phải được coi là chế độ chiếm nô [7] . Lực lượng sản xuất chủ yếu, tức là nông dân, là tài sản của địa chủ, nông dân bị đem ra bán buôn và bán lẻ, cùng với đất đai hoặc đem đi nơi khác, chẳng khác gì người ta mua bán gia súc.

Cùng với việc bãi bỏ chế độ nông nô vào năm 1861, tình hình ở Nga đã thay đổi một cách cơ bản. Thế nhưng các nhà xã hội học Liên Xô lại khẳng định: “Cuộc cải cách do chính phủ quí tộc-địa chủ và chủ nô tiến hành đã để lại tàn dư của chế độ phong kiến-chiếm nô trong một thời gian dài, đặc điểm chủ yếu của nó là giữ nguyên chế độ chiếm hữu ruộng đất của địa chủ [8]

Khoa học Xô viết hiện đại, dựa trên các tác phẩm của Lenin, định nghĩa chế độ phong kiến như thế nào? Trước hết, đấy là “Sở hữu phong kiến, là sự độc quyền về sở hữu của giai cấp thống trị (phong kiến) đối với tư liệu sản xuất chủ yếu là đất đai, nghĩa là sở hữu của các tầng lớp phong kiến nói chung hay quyền sở hữu tối thượng của nhà nước; trong đó quyền sở hữu đất đai liên quan mật thiết với sự thống trị đối với nông dân, lực lượng sản xuất trực tiếp. Thứ hai, “Người nông dân có thể tự do sản xuất trên mảnh ruộng mà ông chủ về danh nghĩa đã chia cho anh ta. Từ đó địa chủ có quyền chiếm đoạt giá trị thặng dư của nông dân, nghĩa là quyền thu tô [9] , dưới dạng lao dịch hoặc thu bằng hiện vật hay bằng tiền [10] ”.

Lenin chỉ rõ rằng cưỡng bức lao động phi kinh tế là đặc điểm quan trọng nhất của chế độ phong kiến. Sau khi bãi bỏ chế độ chiếm nô thì việc cưỡng bức được thực hiện như thế nào? Trước hết là bằng các biện pháp hành chính-cảnh sát: đấy là hệ thống căn cước, gắn chặt từng thành viên của giai tầng (nông dân, thị dân) vào một địa phương nhất định, họ không được tự ý đi khỏi địa phương, không được tự do đi lại, không được tự do lựa chọn chỗ ở. Trong làng thì có chế độ công xã bao cấp hoàn toàn, mỗi người phải chịu trách nhiệm cho tất cả và tất cả chịu trách nhiệm cho từng người. Địa chủ có quyền giữ gìn an ninh trật tự, tòa án khu vực có quyền trừng phạt về thể xác. Mặc dù trong các thành phố quan hệ tư bản đã hình thành nhưng hệ thống căn cước, đặc quyền đặc lợi và những hạn chế tức là các tàn dư của chế độ phong kiến vẫn hiện diện. Đấy là lí do đưa đến cuộc cách mạng năm 1905, một số hạn chế sau đó đã bị bãi bỏ, nhưng những đặc trưng cơ bản của các quan hệ kinh tế, như chúng ta sẽ thấy, vẫn còn cho đến tận ngày nay.

Cách mạng “xã hội chủ nghĩa” tháng Mười hứa hẹn ruộng đất cho nông dân, nhà máy cho công nhân, hòa bình cho nhân loại. Nhưng đất đai và nhà máy đã ngay lập tức trở thành tài sản độc quyền của nhà nước. Tất cả các tính chất cơ bản của chế độ phong kiến vẫn được giữ nguyên, không có một chút thay đổi nào. Chế độ lao dịch và nộp tô cố định được “chính sách cộng sản thời chiến” thay bằng trưng thu lương thực, một sự cướp bóc trắng trợn, người ta tịch thu không chỉ phần lương thực thừa mà lấy hết. Sản xuất trở thành vô nghĩa, thu hoạch giảm đi trông thấy. Đói. Những người Bolshevik đổ cho là tại phá hoại, hạn hán, chiến tranh và tăng cường đàn áp nông dân hơn nữa, thế là xảy ra các cuộc bạo loạn và những vụ đàn áp khốc liệt chưa từng có. Công nghiệp cũng suy sụp vì nó được những người không có chuyên môn và không quan tâm đến kết quả lãnh đạo. Đến lượt công nhân bãi công và nổi loạn.

Sau cuộc khởi nghĩa ở Kronstadt, một cuộc khởi nghĩa bị đàn áp bởi một lực lượng quân sự đông gấp mười lần, trong đó có cả các đại biểu đại hội X của Đảng “cộng sản”, Lenin, một nhà chính trị thông minh và khôn léo đã hiểu rõ sự cáo chung không thể nào tránh được của “chủ nghĩa cộng sản thời chiến” và tuyên bố chuyển sang “chính sách kinh tế mới” (NEP), có nghĩa là cho phép áp dụng chủ nghĩa tư bản ở thành phố (tư bản nhà nước) và đặc biệt là ở nông thôn và trong lĩnh vực thương mại. Ngay sau đó, trong khoảng ba bốn năm, tình hình đất nước đã thay đổi hẳn. Nhưng đồng thời cũng xuất hiện một tầng lớp dân cư độc lập, điều này không phù hợp với bản chất của chính quyền toàn trị và chế độ phong kiến.

Chính quyền lại thấy cần phải nô dịch người lao động, nhưng phải thực hiện việc đó dưới một hình thức mới, hình thức “xã hội chủ nghĩa”. Bây giờ người ta mới rõ rằng Stalin đã thực hiện nhiều tư tưởng của Trotsky, trong đó có tư tưởng lao động khổ sai dưới dạng các “quân đoàn sản xuất” (làm chúng ta nhớ đến “mặt trận lao động” ở Đức và nước Campuchia [11] ). Tại đại hội III Công đoàn toàn Nga, Trotsky nói: “Có đúng là lao động khổ sai luôn luôn có năng suất thấp hay không? Câu trả lời của tôi: đấy là thành kiến tầm thường và đáng thương hại của chủ nghĩa tự do”. Phát triển thêm ý này, tại Đại hội IX Đảng Cộng sản Liên Xô, ông ta nói rằng mỗi người phải tự coi mình là người lính của đội quân lao động, người trốn tránh lao động bị coi là đào ngũ với tất cả những hậu quả của nó.

Sau giai đoạn lùi tạm thời vì sợ bị mất quyền lực, Đảng bắt đầu đưa ra chính sách “Bước ngoặt vĩ đại”, tức là kế hoạch công nghiệp hóa đất nước trên cơ sở cướp bóc tầng lớp nông dân. Để làm việc đó cần phải thủ tiêu một tầng lớp đã trở nên tương đối độc lập, đấy là giai cấp nông dân. Việc này được thực hiện dưới khẩu hiệu “hợp tác hóa toàn diện và tiêu diệt giai cấp địa chủ”. Mặc dù trên lời nói thì đấy là tiêu diệt về mặt kinh tế tầng lớp địa chủ, nhưng trên thực tế lại là việc tiêu diệt một cách có kế hoạch (chính thế! người ta đưa ra cả chỉ tiêu cho từng địa phương) về mặt thể xác tầng lớp trung lưu (và không chỉ trung lưu), những người đã trót tin vào khẩu hiệu của Bukharin: “Hãy làm giầu đi!”. Không có sự phân chia rõ ràng giữa người giầu và người nghèo, các “lãnh tụ” địa phương thường lợi dụng việc này để báo ân trả oán bằng cách đưa những người họ ghét vào tầng lớp “địa chủ” hoặc “tay sai địa chủ” là xong. Tài sản của địa chủ bị tịch thu và đem chia cho người “nghèo”, cũng là một cách khuyến khích người ta tố cáo “địa chủ". Tất cả những chuyện đó được mô tả, được thu thập trong bộ hồ sơ lưu trữ của tỉnh ủy tỉnh Smolensk, được viết rất cụ thể trong cuốn sách với nhan đề: Mùa tang tóc của Robert Conquest.

Để tránh bị đàn áp và nạn đói, người ta phải chạy từ nông thôn ra thành thị. Nạn đói vì thế lại càng dữ dội hơn, hệ thống tem phiếu được đem ra áp dụng. Trong bốn năm công nghiệp hóa, dân số thành phố tăng từ 28 lên 40 triệu người. Để ngăn chặn việc chạy ra thành phố và buộc người nông dân vào ruộng đất, hệ thống căn cước được đem ra áp dụng. Nếu năm 1930 trong Bách khoa toàn thư nhỏ của Liên Xô còn viết rằng căn cước là “phương tiện chủ yếu của cảnh sát và chính sách áp bức trong chế độ gọi là nhà nước cảnh sát”, thì trong các năm 1931-1932 tất cả dân thành thị đều được cấp căn cước. Cũng giống như thời nô lệ và giai đoạn hậu cải cách, nông dân không được cấp căn cước, nhưng họ không thể sống trong thành phố nếu không có căn cước. Tình trạng bất bình đẳng công khai giữa các giai tầng như thế kéo dài cho đến khi Nikita Khrushchev lên ngôi, ông ta đã “làm phúc” cấp cho nông dân thẻ căn cước, nhưng điều đó cũng không thay đổi được vị thế của họ. Stalin đã bắt chước hệ thống căn cước thời Sa hoàng mà không biết rằng có căn cước hay không có căn cước không phải là vấn đề khi cần “đăng kí” tạm trú. Hệ thống căn cước đã biến người công nhân thành một loại “nông nô”, buộc anh ta vào một chỗ, không khác gì buộc người nông dân vào làng quê. Trong giấy căn cước có những khoản như đã đi tù bao nhiêu năm, xuất thân nông dân ..v.v.. Mặc dù có một người đã viết rằng “nông dân không có căn cước, trên thực tế họ bị buộc chặt vào đất đai, trở thành nô lệ của hợp tác xã hay nông trang” (Ngọn lửa nhỏ, năm 1989, số 17), nhưng khi có căn cước địa vị của họ cũng hoàn toàn không thay đổi. Còn công nhân và viên chức cũng chẳng khác gì những người nông nô: bị cột chặt vào chỗ làm, không có quyền tự do đi lại, họ buộc phải chấp nhận các điều kiện tại chỗ, dù nó có xấu thế nào cũng mặc. Để người lao động chấp nhận tất cả những chuyện đó cần phải có một vụ “Đàn áp lớn”. Bắn giết và trại cải tạo là thành phần thiết yếu của “trật tự mới” chứ không phải là ước muốn trái khóay của Stalin mà nhiều học giả mô tả như một kẻ bị bệnh tâm thần, trật tự mới về hình thức chính là sự biện hộ cho vụ đàn áp.

Bây giờ ta sẽ cùng xem xét những đặc trưng của chủ nghĩa phong kiến trong điều kiện của nhà nước Xô viết hiện đại. Đặc trưng thứ nhất: sở hữu độc quyền của nhà nước đối với các phương tiện sản xuất, kể cả đất đai. Đất đai và công xưởng không phải là sở hữu của những người làm việc tại đó. Đấy là điều không phải bàn cãi. Tất cả báo chí và các bài diễn văn của các lãnh tụ, kể cả Gorbachev, đều chứa đầy những lời kêu gọi đưa công nhân và nông dân thành người làm chủ, chỉ điều đó đã chứng tỏ việc công nhận sự ghẻ lạnh của người lao động đối với các phương tiện sản xuất rồi. Các nhà thông thái của Ban chấp hành trung ương đã nghĩ ra những hình thức pháp lí mới làm cho công nông có ảo tưởng rằng họ có quyền sở hữu như “thuê” và “khoán”. Thế là theo luật, nông trang viên có thể thuê đất không phải là sở hữu của nông trang, cũng như thuê tài sản như gia súc và máy móc là tài sản của nông trang cũng có nghĩa là tài sản của chính nông trang viên đó. Hóa ra anh ta thuê tài sản của chính mình. Trên thực tế anh ta là nông nô, nhưng lao dịch được thay bằng địa tô.

Đặc trưng thứ hai của chế độ phong kiến là việc chia cho người nông dân mảnh ruộng, mảnh vườn riêng (ở Việt Nam gọi là đất phần trăm – ND). Địa chủ cũng đã từng trả công cho người nông dân bằng những mảnh đất như thế và trong nhiều năm nó chính là phương tiện sống duy nhất của “chế độ hợp tác xã”. Sự khác nhau cơ bản với thời kì trước cách mạng là lao dịch và địa tô đã tăng lên khủng khiếp, còn mảnh ruộng riêng thì lại giảm đi đáng kể. Người nông nô hay sau này là người nông dân tự do có phần ruộng riêng đủ lớn để làm ra số lúa mì đủ làm thức ăn chủ yếu của người Nga. Mảnh ruộng riêng ngày nay chỉ đủ để trồng khoai tây và rau mà thôi. Chỉ một ít gia đình có khả năng nuôi bò (một con), mà đôi khi còn cần nông trang giúp đỡ nữa. Người nông dân Trung Á đã rơi vào hoàn cảnh gần với nô lệ: tất cả ruộng đất đều trồng bông hoặc thuốc lá, ruộng riêng bị thu hồi hết, đồn điền nằm sát nhà riêng của họ. Một cây ăn quả cũng không có đất để trồng. Nông dân bị cai đánh đập, bị nhốt vào nhà giam, không được trả công v.v… Kêu trời trời chẳng thấu.

Tuy về mặt pháp lí là người tự do, nhưng người nông dân hoàn toàn phụ thuộc vào chủ tịch nông trường hay nông trang (hiện nay nông trang và nông trường gần như là một). Chưa nói những thời kì mà chỉ vì không hoàn thành số ngày công tối thiểu, nông dân có thể bị bỏ tù, ban lãnh đạo có thể viện dẫn đủ mọi lí do để cắt bớt mảnh ruộng đã chia cho nông dân, nghĩa là tước của anh ta phương tiện kiếm sống; người nông dân không có phương tiện vận tải, không có rừng, không có nơi cắt cỏ và nhiều thứ khác cần thiết cho cuộc sống của anh ta và gia đình anh ta; tất cả đều nằm trong tay địa chủ, gọi là giám đốc hay chủ tịch thì cũng thế mà thôi [12] .

Ở thành thị tính chất phong kiến không thể hiện rõ như thế. Trong từng xí nghiệp quan hệ giữa giám đốc và công nhân, như Lenin đã chỉ rõ, mang đặc điểm tư bản nhà nước. Nhưng quan hệ trong công nghiệp không thể gọi là tư bản chủ nghĩa được vì không có thị trường sức lao động, không có thị trường nói chung và không có cạnh tranh.

Về mặt lí thuyết, người công nhân được tự do đi lại trong khu vực mà anh ta đã đăng kí hộ khẩu và thẻ căn cước và có thể chuyển từ xí nghiệp này sang xí nghiệp khác, nhưng trong điều kiện mà nhà nước độc quyền quyết định về tiền lương và điều kiện lao động thì việc di chuyển không phải lúc nào cũng có ý nghĩa. Nhưng trên thực tế lại tồn tại một loạt các biện pháp, chúng ta sẽ nói tới sau, nhằm cản trở sự di chuyển (thuật ngữ Xô viết gọi là “sự luân chuyển” cán bộ, một việc thường bị ngăn chặn).

Điều 16 hiến pháp Liên Xô viết: “Kinh tế Liên Xô là một tổ hợp kinh tế quốc dân thống nhất, bao gồm tất cả các khâu từ sản xuất, phân phối và trao đổi trên toàn lãnh thổ quốc gia”. Nhưng điều đó chẳng ăn nhập gì với thực tế cả. Sự tương đồng đến kinh ngạc giữa hệ thống kinh tế “xã hội chủ nghĩa” và thời trung cổ thể hiện ở chỗ cả hai đều không có thị trường thống nhất. Hàng năm, đặc biệt là giai đoạn thu hoạch, trên báo chí lại xuất hiện các tin tức về việc cảnh sát ngăn chặn việc vận chuyển ra ngoài khu vực số lương thực, thực phẩm được sản xuất hoặc mua bán hợp pháp ra khỏi khu vực [13] . Hơn nữa, người ta còn tịch thu toàn bộ số tiền mà tổ chức đã bán số hàng hóa được đưa từ nơi khác tới và chỉ cấp cho họ biên lai để số tiền này không được đưa ra khỏi khu vực. Giai đoạn “cải tổ” không tạo ra bất kì thay đổi nào trong lĩnh vực này, hơn thế nữa, nhiều nước cộng hòa, trong đó có Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga còn đòi phải có tiền tệ riêng. Mục đích là để ngăn chặn việc mua hàng của các nước cộng hòa khác.

Trong giai đoạn “mọi người đều muốn độc lập” và “chuyển sang kinh tế thị trường” trạm hải quan được thiết lập không chỉ giữa các nước cộng hòa mà ngay cả trên của ngõ của từng thành phố.

Trước khi kết thúc việc mô tả hệ thống kinh tế xã hội, chúng ta, theo đúng truyền thống mác-xít, phải xem xét vị trí của các giai cấp và các quan hệ của họ với nhau, xem xét quan hệ sản xuất vốn là hạ tầng cơ sở của xã hội, quyết định tất cả các hình thức của nhận thức xã hội, trong đó có luật pháp [14] .

Như vậy là phương tiện sản xuất trong xã hội “xã hội chủ nghĩa” mà thực chất là chế độ phong kiến nằm trong tay toàn bộ giai cấp với một hệ thống tầng nấc vô cùng phức tạp. Trong chế độ phong kiến, với hình thức sở hữu phân tán, mỗi lãnh chúa chỉ “nắm” phần thái ấp của mình, ông ta có toàn quyền đối với tài sản và dân chúng dưới quyền, nhưng lại phụ thuộc vào vương hầu bên dưới. Hệ thống phong kiến là một hệ thống tất cả phụ thuộc vào nhau, vì hoàng đế (Tổng bí thư) cũng lệ thuộc vào các chư hầu của mình. Họ thống nhất với nhau trong cố gắng bóc lột một cách tối đa người lao động, những người bị ép buộc, bằng những biện pháp cả kinh tế lẫn phi kinh tế, phải sản xuất vì với phương thức sản xuất như thế không ai còn quan tâm đến kết quả công việc nữa. Số lượng và chất lượng lao động thấp hơn so với phương thức tư bản chủ nghĩa. Đấy là lí do vì sao các chế độ bạo ngược (“cộng sản”, theo cách nói của Mariátegui) của người Inca, Maia, các nhà nước trung cổ, chiếm nô của Nga, Liên Xô – “nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới”, Trung Quốc, Campuchia, Rumania ..v.v.. lại giống nhau đến như thế. Không có nước “xã hội chủ nghĩa” nào có năng suất lao động và mức sống của người dân cao hơn các nước tư bản chủ nghĩa phát triển. Không thể giải thích được điều đó từ quan điểm mác-xít, nếu coi đấy là các nước xã hội chủ nghĩa, nhưng lại có thể giải thích một cách dễ dàng nếu cho rằng “những người cộng sản” đã quay ngược bánh xe lịch sử để trở về chế độ phong kiến.

Các lãnh chúa địa phương có ảnh hưởng lớn nhất, dĩ nhiên là một cách tương đối bởi vì các bá tước cấp bộ lại có cấp hàm cao hơn “anh hai” các địa phương. Mỗi vùng lãnh thổ Liên Xô đều nằm dưới quyền lãnh đạo của bí thư Đảng ủy khu vực (huyện, tỉnh, nước cộng hòa ..v.v..), những người từ lâu đã được gọi một cách bán chính thức là “anh hai” (trước đây, họ, kể cả Stalin, đều được gọi là một cách không chính thức là “ông chủ [15] ”). Về mặt hình thức thì “anh hai” khu vực là do các ủy viên ban chấp hành Đảng ủy khu vực đó bầu nhưng trên thực tế ông ta nhận được lãnh thổ từ tay quan trên (“anh hai” cấp trên) và có trách nhiệm “trung thành” phục vụ [16] . Mỗi “anh hai” lại đưa người của mình vào các vị trí then chốt y như hệ thống thời Sa hoàng [17] . Các “thái ấp” khác: bộ, tổng cục, xí nghiệp, vụ, viện, “công đoàn” và các “tổ chức xã hội” khác cũng hoạt động theo sơ đồ tương tự.

Lãnh chúa có trách nhiệm ủng hộ vương tôn của mình trong cuộc đấu tranh chống lại kẻ thù: giữa họ với nhau thường xuyên xảy những cuộc “chiến tranh” ầm ĩ, tuy bên ngoài ít người thấy, không chỉ để giành vị trí cao hơn mà còn để giữ các “thái ấp” đã chiếm được. Trong điều kiện chế độ “xã hội chủ nghĩa”, những âm mưu chống lại chính hoàng đế như vụ đảo chính bất thành của Molotov, Malenkov và Shepilov chống Khrushchev và vụ đảo chính thành công của Brezhnev, ít khi xảy ra vì rất nguy hiểm, chúng thường bắt đầu bằng các đòn tấn công mang tính thăm dò vào “tay chân thân tín” (như trong triều đại của các vương công, chúng ta thường nói “hắn là người của Rashidov”, “hắn là người của Grishin” ..v..v..)

Cuộc khủng hoảng kinh tế và chính trị dười thời Brezhnev đã bắt đầu đe dọa nghiêm trọng đến vị thế của giai cấp cầm quyền. KGB đã nhìn thấy rõ vấn đề này hơn ai hết [18] , người đứng đầu KGB bao giờ cũng là mối đe dọa lớn nhất đối với Tổng bí thư, đấy là lí do vì sao một kẻ gian hùng như Stalin lại thường xuyên thay người đứng đầu KGB đến như thế. KGB bắt đầu tấn công “người của Brezhnev” trước. Giám đốc rạp xiếc quốc gia là Kolevatov và một diễn viên xiếc, hỗn danh là “Tzigane” (tôi không nhớ tên người này, anh ta đã “chết” trong tù), đều là bạn thân của Galina Brezhneva, bị bắt. Vụ bắt giữ nhất định phải được Andropov, lúc đó là chủ tịch KGB cho phép. Thật không hiểu nổi vì sao ông ta lại có thể vô can, nhưng người phó của ông ta là Svigun đã phải “tự sát”.

Việc điều tra vụ tham nhũng ở Uzbekistan bắt đầu rất lâu trước khi có “cải tổ”, đây là đòn giáng vào Rashidov, một trong những đồ đệ trung thành của Brezhnev. Lúc đó “người của Rashidov” là Ađưlov, anh hùng lao động xã hội chủ nghĩa, đại biểu Đại hội XXVI, đứng đầu một tổ hợp nông nghiệp, một lãnh chúa có cả nhà tù ngầm để nhốt những kẻ cứng đầu, mặc dù cảnh sát quốc gia vẫn đứng gác trước tất cả các đường ra lối vào “thái ấp” của hắn. Đôi khi hắn còn dùng gậy đánh đập nô lệ. Những người phản đối đã phải hi sinh cả tự do và tính mạng: có người biến mất không để lại dấu vết gì, có cả những vụ án mạng bí ẩn… Khủng bố được thực hiện với sự “trợ giúp” của các cơ quan bảo vệ pháp luật: dựng lên các vụ án hình sự với những nhân chứng giả không phải là vấn đề khó đối với hắn… Hắn còn có cả những chỗ ăn chơi dành riêng cho mình và cho khách: nhà tắm hơi, nàng hầu, đủ cả. Sau khi hắn ta bị bắt, đài báo đã viết, đã nói rất nhiều về chuyện này, nhưng nay thì không thấy đả động đến nữa. Trong thời đại “khôi phục tính pháp chế”, hắn ta phải ngồi tù mấy năm mà vẫn chưa được đưa ra xét xử…

Bây giờ xin được đi ra ngoài đề một chút.

Như tôi đã nói từ đầu, tôi đang viết một công trình khoa học, dựa trên các sự kiện đã được công bố. Nhưng ở đây xin được chia sẻ với độc giả quan sát cá nhân mà tôi không có cách nào khẳng định rằng nó đúng hay sai. Trong ngày Brezhnev chết (trùng với “Ngày công an”, đó là ngày phát huân huy chương, rượu vang chảy thành sông) tôi vô tình có mặt ở Bộ nội vụ. Tôi thấy người ta kéo ngoài hành lang những thùng rượu Cô-nhắc và rượu vang, những thùng kẹo chocolate và hoa, trong các phòng làm việc không khí rất vui vẻ… Bất thình lình một lời đồn truyền đi khắp Bộ: cô điện báo viên nghe thấy thông tin là Brezhnev bị bắn chết trong khi đi săn! Nhưng một lúc sau thì lời đồn bị bác bỏ, người ta thông báo rằng Brezhnev đã chết. Không khí nhộn nhịp trước lễ liền biến thành sự buồn đau trước một đám tang…
  
Ai nghĩ thế nào thì tùy, nhưng cô điện báo viên của Bộ nội vụ không thể bịa ra và loan tin như thế được. Cô ta sẽ phải trả một cái giá cực đắt. Sau này những lời đồn đại như thế vẫn được người ta rỉ tai nhau. Sức khỏe của Brezhnev vốn không được tốt, ông ta có thể chết mà không cần ai “giúp đỡ”, nhưng không nghi ngờ gì rằng đã đến lúc phải loại bỏ ông ta và chỉ có “người của Andropov” làm được việc đó mà thôi. Điều đặc biệt là chính Andropov đã ngồi vào chiếc ngai trống. Còn về các kết luận y khoa thì chúng ta đã thấy nhiều và biết rằng các tài năng y học của chúng ta có thể kí bất cứ thứ gì.

Hết phần ngoài đề.

Trách nhiệm thứ hai của lãnh chúa là cung ứng về mặt vật chất cho vương tôn. Cái mà hiện nay người ta gọi là tham nhũng (trong tất cả các nước “xã hội chủ nghĩa” đều có các vụ tham nhũng ở cấp cao nhất bị phát hiện: Ceausescu, Zhivkov, Honecker..) thực ra chỉ là sự cống nạp bình thường dưới chế độ phong kiến mà trong điều kiện dối trá về tư tưởng người ta đã cố tình che dấu đi. Giáo sư M. Vaslensky đã nghiên cứu rất kĩ thu nhập ngầm của tầng lớp cán bộ (nomenclature), nhưng thực ra chẳng cần làm như thế, ai mà chả biết lương không phải là khoản thu nhập chủ yếu của họ, cống nạp của cấp dưới là chính.

Tài sản ăn cướp của nhân dân là nguồn lợi đầu tiên: cửa hàng, nhà ăn thì cân điêu, tính gian; xí nghiệp thì cho ra sản phẩm kém chất lượng và ăn cắp v.v… [19]

Có thể đặt câu hỏi: chuyện đó có thể xảy ra trong một lĩnh vực trong khi đạo đức cộng sản giữ thế thượng phong trong các lĩnh vực khác được không? Câu hỏi này dĩ nhiên là chỉ để nghe cho vui mà thôi.

Xin hỏi câu thứ hai: Trung ương có biết không? Không nói đến thư từ và khiếu kiện của người lao động: theo truyền thống, Ban chấp hành trung ương không trả lời các tố cáo loại đó, chúng được chuyển cho cấp dưới và trở lại chính người bị tố cáo. Nhưng KGB, lĩnh vực nào họ cũng có hàng ngàn người, cả chính thức lẫn không chính thức, họ có chỉ điểm trong từng hợp tác xã, từng cơ quan, xí nghiệp, từng khu nhà tập thể, chả lẽ cũng không biết? Nếu biết thì họ phải báo cáo cấp trên? Câu hỏi không cần trả lời.

Nếu Tregubov nhận “cống phẩm” của giám đốc các cửa hàng thì liệu Grishin, bí thư Moskva, ủy viên Bộ chính trị, có thể không hay biết gì được không? Tregubov có thể “ăn” một mình tất cả “cống phẩm” hay không?

Cả thế giới đều biết câu chuyện về viên kim cương do Aliev, Bí thư thứ nhất Azerbaizhan, tặng Brezhnev. Bộ sưu tập súng dĩ nhiên cũng không phải do ông ta bỏ tiền mua.

Tất cả các “thái ấp”, kể cả các trường đại học và Viện hàn lâm đều phải “cống nạp”. Không nước phương Tây nào có nhiều hiệu trưởng, trưởng khoa, giáo sư, phó giáo sư bị kết án vì tham nhũng và các tội lỗi khác như nước ta. Gersen đã từng gọi chế độ nhà nước ở Nga là sự tùy tiện bị nạn đút lót khống chế, nhưng ngày xưa các vị giáo sư không “ăn” của đút. Trong “chế độ xã hội chủ nghĩa” họ đã “ăn”. Thu nhập của hiệu trưởng không phải chỉ là tổng cộng những món đút lót khi tiếp nhận sinh viên và khi phát bằng tốt nghiệp; các mối “liên hệ” cũng có vai trò rất to lớn: hiệu trưởng tất nhiên là không lấy tiền đút lót của con “bí thư” khi nhập học, nhưng theo nguyên lí “anh giúp tôi thì tôi giúp anh”, ông ta sẽ được “bí thư ưu ái trong việc phân phối căn hộ, được đưa vào đoàn cán bộ đi công tác nước ngoài, được phong các danh hiệu cao quí ..v.v.. Không trước thì sau, đều là lợi ích vật chất cả. Nhưng đây là những hành động phi pháp. Hiệu trưởng không thể làm như thế nếu không có sự cộng tác của các nhân viên: ông ta không thể tự hỏi và cho con “bí thư” điểm cao được. Không phải vị giáo sư nào cũng đồng ý làm như thế. Cho nên mỗi người lãnh đạo đều có một nhóm những kẻ thân cận, đều có “người của mình” cả (bây giờ họ được gọi là “mafia”), ông ta sẽ thưởng cho họ bằng tiền mặt hoặc bằng chức danh, bằng cấp [20] . Dĩ nhiên là không thể che giấu hết được, những người còn tin theo lí tưởng hoặc đơn giản là ghen ăn ghét ở sẽ kiện cáo. Vì vậy tất cả các “mafia” đều phải có bộ máy an ninh, có cơ quan tình báo và phương tiện trấn áp. Trong các cơ quan nghiên cứu và các trường đại học, đuổi khỏi cơ quan được coi là vũ khí chủ yếu vì tìm được việc tương tự là rất khó (nhất là ở các tỉnh): những điều được ghi vào lí lịch sẽ theo đi khắp nơi và chẳng có ông hiệu trưởng nào lại thích có thêm “một chiến sĩ đấu tranh cho lẽ phải” ở cơ quan mình. “Các tổ chức khoa học thật không khác gì chỗ của bọn lục lâm thảo khấu: sau khi cướp bóc thì chúng cho đi” (Tin tức, ngày 24 tháng 3 năm 1990).

Chuyện đó xảy ra trong tất cả các cơ quan của Đảng và nhà nước, trong các lĩnh vực từ kinh tế đến khoa học và văn hóa [21] . Một bài báo trên tờ “Ngọn lửa nhỏ” mang tên: “Nhóm, BĂNG ĐẢNG, HỆ THỐNG”  

Chuyện đó xảy với tất cả những người nông nô được cho đi nước ngoài: những người làm việc trong các tổ chức quốc tế! Dù người Mĩ trả lương cho họ thì chính phủ Liên Xô cũng thu lại phần lớn số tiền họ đã nhận. Các vận động viên thể dục dụng cụ chỉ được nhận có 1% tiền thưởng mà thôi!

Như vậy là nạn tham nhũng xói mòn nước Nga, từ chính phủ cho đến ban quản lí khu nhà ở tập thể, người ta giả vờ đấu tranh với nó, nhưng nó là bản chất của chế độ và vì vậy mà không gì có thể tiêu diệt được. Thu nhập chính thức của các quan chức là rất thấp. Nó được bổ sung thêm bằng “lót tay”, từ cấp chính phủ cho đến viên cảnh sát giao thông. Trong lĩnh vực sản xuất thì đồng lương của người lao động không đủ nuôi sống gia đình. Người ta buộc phải ăn cắp để sống.

Bây giờ là lúc chúng ta tổng kết những điều đã trình bày bên trên. Trước hết xin bắt đầu từ hòn đá tảng của chủ nghĩa Marx, từ sở hữu tư liệu sản xuất: Hi vọng rằng tôi đã thuyết phục được độc giả về sự thiếu vắng một người chủ cụ thể, rằng tài sản không phải là của nhân dân, không phải là của công nhân và nông dân, công nhân vẫn là vô sản không có tư liệu sản xuất, còn nông dân, sau khi bị tịch thu ruộng đất, cũng đã trở thành vô sản. Tư liệu sản xuất bị phân tán và mang đặc trưng phong kiến. Có thể tưởng tượng tài sản như một cái bánh lớn bị các tầng nấc của bộ máy quan liêu xâu xé, cấp bậc càng cao thì miếng bánh càng lớn.

Nếu trong chế độ tư bản người chủ sở hữu thu lợi nhuận một cách công khai, thì ở đây, thu nhập của tầng lớp cán bộ dưới dạng “cống nạp”, “hụi chết”, “lót tay”, “phong bì” lại là khoản thu nhập ngầm, phi pháp và bị coi là tham nhũng. Đấy chính là lí do vì sao tham nhũng đã trở thành hiện tượng phổ biến trong tất cả các nước “xã hội chủ nghĩa”.

Việc cướp bóc nhân dân cũng mang tính nước đôi: lương trả cho công nhân và nông dân chỉ bằng một phần mười ở Mĩ. Mặt khác, người tiêu dùng còn bị cướp bóc ngay từ quầy hàng nhỏ nhất: cân điêu và tính gian, còn người công nhân thì phải “cắt” một phần tiền lương cho đội trưởng, vì trái ngược với lí thuyết, lương của anh ta không tỉ lệ thuận với công sức bỏ ra, cũng không phụ thuộc vào trình độ và tay nghề của anh ta mà phụ thuộc vào nhiệm vụ được giao, vào cách đánh giá và tiền thưởng, tất cả đều do đội trưởng quyết định. Nhân viên bán hàng phải nộp một phần cho giám đốc cửa hàng, đội trưởng thì nộp cho xưởng trưởng và cứ thế, những con suối nhỏ này sẽ hòa vào dòng sông lớn. Theo đánh giá của tôi, qua các vụ án hình sự, thì mỗi “thái ấp” phải đưa lên “trên” hai phần ba “doanh số” thu được.

Người ta có thể phản bác bằng cách nói rằng nhà nước luôn luôn đấu tranh chống lại tệ tham nhũng và dẫn ra những vụ án với các hình phạt nghiêm khắc. Nhưng đấy chỉ là những tình tiết gay cấn của “các cuộc chiến tranh giữa các thái ấp” với nhau mà thôi. Những vụ tố cáo ồn ào (sau đó thì bị cho “chìm xuồng”) ở Uzberkistan, Moldavia, Tadgikistan và các khu vực khác trong giai đoạn “cải tổ” của Gorbachev tạo cho người ta cảm tưởng đang diễn ra quá trình “thay máu”. Nhưng người ta cố tình che dấu sự kiện là việc điều tra các vụ tham nhũng ở Uzbekistan và ngay cả ở Moskva đã được bắt đầu từ thời còn Brezhnev. Ban chấp hành trung ương có biết trước khi có các vụ điều tra đó không? Gorbachev đã nói: “Các cán bộ liên bang, trong đó có cả cán bộ thuộc Ban chấp hành trung ương, đã đến Uzbekistan nhiều lần, họ không thể không biết những chuyện xảy ra ở đây. Quần chúng nhân dân nước cộng hòa đã viết đơn tố cáo đến tận các cơ quan trung ương. Nhưng tất cả những tín hiệu báo động đó đã không được xem xét một cách nghiêm túc [22] ”. Tại sao? Gorbachev không đặt câu hỏi như thế và hơn nữa, không định trả lời.

Ông ta không nói đến số phận của những người viết đơn tố cáo [23] . Ông ta không kể việc đón tiếp các phái viên của trung ương đã diễn ra như thế nào: khắp nơi (kể cả ở Sevastopol, nơi ông ta từng giữ chức bí thư) đều được trang hoàng lộng lẫy, bàn tiệc và bàn bi-gia, bể bơi và phòng tắm hơi với các em chân dài, váy ngắn, tất cả đều là tiền nhà nước [24] .
  
Báo chí thời “cải tổ” mô tả rất rõ các thủ đoạn của tướng Trurbanov [25] , con rể Brezhnev (dĩ nhiên là sau khi Brezhnev đã chết). Làn sóng tố cáo lan rộng khắp Uzbekistan, Tadgikistan và một số nước cộng hòa Trung Á khác trong những năm 1980 đã để lộ ra những tài sản khổng lồ của các “bí thư” tỉnh, huyện được các điều tra viên phát hiện: hàng triệu rub, hàng chục cân vàng và nhiều đồ vật giá trị khác v.v... Họ còn dấu được bao nhiêu? Nhưng Trurbanov không nộp vào công quĩ một xu nào [26] .

Việc tố cáo đã dẫn đến một loạt vụ tự sát. Có phải là những vụ tự sát thực sự không? Svigun và vợ chồng Shelokov và một số người khác đã biết quá nhiều. Ngay tòa án “công khai-đóng” của chúng ta cũng không thể xét xử được [27] .

Bộ trưởng bộ nội vụ Uzbekistan và một loạt cán bộ của Bộ này cũng đã tự sát.

Bốn ủy viên trung ương, chủ tịch Hội đồng bộ trưởng và một loạt bí thư tỉnh ủy, rất nhiều bí thư huyện ủy và cán bộ đã bị bắt.

Sau Stalin, chúa tể nào mới lên cũng chê bai giai đoạn trước đó (“sùng bái cá nhân”, sau đó là giai đoạn “duy ý chí”, rồi đến “giai đoạn trì trệ”) và tuyên bố “trở lại với các nguyên tắc của Lenin” và “trong sạch hóa”, mặc dù về thực chất thì chẳng có gì thay đổi cả, mà thay đổi làm sao được [28] . Stalin là người thông minh: căm thù Lenin nhưng lại luôn luôn tôn vinh ông ta, bằng cách đó tôn vinh chính mình, người kế tục sự nghiệp của Lenin.

Cơ cấu phong kiến của chế độ “xã hội chủ nghĩa” càng trở nên rõ ràng hơn khi trên báo chí của chúng ta càng ngày càng xuất hiện những thuật ngữ gợi cho người ta nhớ lại chế độ nông nô, lao dịch, địa tô… Cái mà hiện nay được gọi là “nomenclature” (tạm dịch: cán bộ), “giai cấp mới” chính là giai cấp quí tộc thời hiện đại [29] .
  
“Càng ngày càng có nhiều gia đình mà tất cả các thành viên của nó đều giữ các chức vụ cao đã không còn là bí mật nữa” (Nước Nga Xô viết, ngày 5 tháng 2 năm 1988).

Có thể dẫn ra nhiều thí dụ về việc hình thành các giai tầng cán bộ cha truyền con nối (trong ngành ngoại giao, trong lĩnh vực công tác Đảng và công tác đoàn, trong lĩnh vực báo chí v.v.)

“Cán bộ” (Nomenclature) là một giai tầng ổn định. Đấy không chỉ là các chức vụ mà là một giai cấp của các công chức, rất khó thâm nhập nhưng đã thâm nhập vào rồi thì sẽ được ở lại vĩnh viễn. Xin đọc dẫn chứng của tờ Sự thật, cơ quan ngôn luận của Đảng: “Chui vào tầng lớp nomenclature quả là công việc thiên nan vạn nan. Ít khi có chỗ trống. Chỉ khi xảy ra những sự kiện động trời thì thủ trưởng một đơn vị nào đó mới bị hạ tầng công tác để bồi dưỡng thêm”. Ngay từ xưa việc phong và tước danh hiệu “quí tộc [30] (“tước hết quyền sở hữu tài sản”) cũng đã từng xảy ra.

Tính chất chiếm nô của cơ cấu giai cấp trong chế độ “xã hội chủ nghĩa” và quan hệ giữa các ông chủ đối với con người cũng chẳng khác gì quan hệ đối với tài sản của họ, chẳng khác gì quan hệ với những người nông nô, thể hiện rõ nhất trong việc cho đi nước ngoài. Người ta đã dựng lên “bức tường ô nhục” ở Berlin, kéo hàng ngàn cây số dây thép gai, bắn thẳng vào những người bỏ chạy… Nhưng chỉ cần Hungary mở cửa biên giới cho người Đông Đức ra đi là một trong những chế độ vững chắc nhất (do sự chống đỡ từ cả hai phía), chế độ “xã hội chủ nghĩa” sụp đổ ngay lập tức.

Chủ nghĩa Marx, thiết lập cơ sở lí luận của mình trên cơ sở loại bỏ sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất, đã bỏ quên vấn đề phân phối. Chính từ đây hệ thống bóc lột thời trung cổ đã tái xuất hiện, đấy là hệ thống bóc lột của nhà nước, người chủ tập thể tài sản, người có quyền phân phối và giữ lại cho mình phần to nhất, đã tiến hành bóc lột nhân dân lao động. Nhưng nếu trong chế độ chiếm nô địa vị người nô lệ chỉ ngang hàng với súc vật thì chủ nô phải quan tâm đến sức khỏe của nô lệ như quan tâm đến sức khỏe bò ngựa vậy. Phần lớn địa chủ hiểu rằng không được thịt những con gà mái sai trứng và vì vậy họ cũng bóc lột nông dân một cách có giới hạn.

Trong nền kinh tế “xã hội chủ nghĩa”, phương tiện sản xuất cũng như con người là vô chủ. Hôm nay tôi là giám đốc xí nghiệp, nếu tôi có thể vắt kiệt được xí nghiệp, cả sức người và máy móc, thì tôi sẽ được lên bộ, còn sau đó thì “sống chết mặc bay”. Đấy chính là nguyên nhân của tình trạng phi nhân của quá trình sản xuất và toàn bộ chế độ, chẳng ai quan tâm đến kết quả công việc, năng suất lao động vì thế mà thấp và nền kinh tế nhất định sẽ đổ nát.

Việc không ai quan tâm đến kết quả công việc nhất định sẽ sinh ra năng suất thấp, chất lượng kém và kỉ luật lao động không cao. Đến lượt nó, lại cần áp dụng những biện pháp ép buộc phi kinh tế và đàn áp.

Đã có nhiều “mô hình” sản xuất “xã hội chủ nghĩa” được đem ra thử nghiệm: độc lập và tự chủ của các tập thể ở Nam Tư, các binh đoàn lao động ở Campuchia, chính sách tương tự như NEP ở Hungary (với vốn vay khá lớn của các nhà tư bản) và tất cả đều kết thúc bằng sự phá sản của chính nền kinh tế.

Vì vậy tất cả các cuộc “cải tổ” đều có một kết cục chung: thất bại. Đây là một hệ thống không thể cải tổ, sửa chữa hay cải tiến được. Năm năm “cải tổ” ở Liên Xô chỉ đưa nền kinh tế đến tình trạng tồi tệ hơn mà thôi. Điều đáng ngạc nhiên là có nhiều nhà kinh tế học nghiêm túc, chưa nói dân thường, tin vào “cải tổ”, “cải cách” của Gorbachev (bây giờ là Yeltsin).

Như vậy là chúng ta đã đi đến kết luận rằng quyền sở hữu phương tiện sản xuất và quan hệ sản xuất trong chế độ “xã hội chủ nghĩa” mang tính chất đặc thù của chế độ phong kiến. Nhưng khác với chế độ phong kiến cổ đại và trung cổ, chế độ phong kiến hiện nay có thượng tầng kiến trúc không phù hợp với hạ tầng cơ sở [31] . Lúc đó sự thống trị và bị trị theo đẳng cấp được biện hộ bởi tôn giáo và điều chỉnh bởi pháp luật. Trong thế giới hiện đại, sau các cuộc cách mạng tư sản và những lời tuyên bố về sự bình đẳng của tất cả mọi người trước Thượng đế và pháp luật việc biện hộ cho sự bất bình đẳng phong kiến đã trở thành bất khả thi. Người ta buộc phải dựng lên thượng tầng kiến trúc được tô điểm bằng khái niệm dân chủ và pháp luật xã hội chủ nghĩa. Nô lệ được tuyên bố là giai cấp thống trị! Còn các ông chủ thì thành “đầy tớ của nhân dân”! Đồ cống nạp của lãnh chúa và tay sai bị trừng trị theo luật hình sự cho nên đã trở thành bí mật. Tài sản phải che dấu, các lâu đài phải nấp sau những hàng rào rêu phong, có lính canh bên ngoài. Trước Raisa Maksimovna (phu nhân Gorbachev – ND) không bà vợ một ủy viên Bộ chính trị nào dám xuất hiện công khai với trang phục đắt tiền và kim cương. Sự giản dị bề ngoài của các lãnh tụ đã đạt đến giới hạn của sự phi lí: tất cả đều mặc một cách đơn điệu và xấu.

Chính sự không tương thích một cách toàn diện giữa hình thức và nội dung, giữa cuộc sống và hệ tư tưởng, giữa lời nói và việc làm là nguyên nhân của tình trạng lưỡng nan của chế độ xã hội “xã hội chủ nghĩa”.

Số phận đã an bài rằng đây là cuốn sách viết về quá khứ. Từ quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử ta có thể đánh giá các quá trình đang diễn ra trong nước như thế nào? Tôi cho rằng đấy là giai đoạn chuyển tiếp từ chế độ phong kiến sang chế độ tư bản. Nhưng đây là cuộc cách mạng từ trên xuống cho nên chứa đầy mâu thuẫn và không nhất quán. Một số vương tôn, chủ yếu là các cán bộ Đảng và lãnh tụ của họ là Gorbachev muốn giữ lại cái chế độ đã được mô tả bên trên dưới dạng “đổi mới”, nhưng chính sách của họ chỉ dẫn đến sự phá sản về kinh tế và chính trị mà thôi. Một số khác (các bộ trưởng, những người hoạt động trong lĩnh vực kinh tế, tổ hợp công nghiệp toàn liên bang) lại muốn lợi dụng vị thế của mình, tư bản hóa “vương quốc” của mình, biến chúng thành tài sản riêng, thành tài sản có thể thừa kế được. Họ thành lập trong các bộ và trên cơ sở các xí nghiệp những “tập đoàn”, những “công ty cổ phần”, thị trường chứng khoán, xí nghiệp liên doanh (liên doanh với tư bản nước ngoài để được ngoại tệ mạnh) và trở thành các tổng giám đốc, thành viên hội đồng quản trị, cổ đông. Nhóm thứ ba là những người ra khỏi bộ máy để tham gia vào lĩnh vực kinh tế tư nhân, họ lợi dụng những mối liên hệ sẵn có để rút tiền nhà nước. Một thí dụ điển hình: A. Leontiev, cựu bí thư tỉnh Truvashi, thành lập “Trung tâm sáng kiến kinh doanh và nghệ thuật”. Ngân hàng nhà nước cho ông ta vay ngay 9 triệu rub, còn Ủy ban hành chính thành phố thì cấp ông ta một số lượng lớn lương thực và thực phẩm dành bán cho dân chúng. “Trung tâm” đưa toàn bộ lương thực, thực phẩm vào kho đợi ngày “tự do hóa” (nghĩa là lên giá cả chục lần) giá cả. Kết quả là Leontiev thu lợi hành chục lần mà chẳng phải bỏ ra xu nào. (Tin tức, ngày 25 tháng 12 năm 1991).

Đã xuất hiện những nhà tư sản kiểu mới, nói chung còn rất trẻ (20-30 tuổi), thí dụ như Sterligov, chủ tịch “Câu lạc bộ triệu phú” do chính anh ta thành lập. Anh ta đã kể câu chuyện nguồn gốc tài sản của mình như sau: thất nghiệp, không một xu dính túi, đến con chó Alisa, do người khác tặng cho, cũng chẳng có gì mà nuôi. Làm gì? Thế rồi trong đầu bỗng lóe lên ý nghĩ: mở sở giao dịch! Nói là làm. Anh ta mở một sở giao dịch và gọi nó là Alisa, tức là tên con chó cưng của anh ta. Hiện nay đây đã là một hệ thống các sở giao dịch, có cả vốn của tư bản nước ngoài nữa. Như lời anh ta khẳng định thì Sterligov, viên tướng KGB, ông nội anh ta, chẳng có liên hệ gì với Alisa cả.

Không có nước nào mà số lượng các sở giao dịch buôn bán “không khí” lại nhiều như nước ta. Hàng hóa của các xí nghiệp quốc doanh trước đây được Bộ nội thương phân phối miễn phí thì nay được đẩy qua các sở giao dịch với giá trên trời. Các nhà buôn tất nhiên sẽ thu được hàng triệu rub, một phần lợi nhuận tất nhiên là được chia lại cho giám đốc các xí nghiệp quốc doanh mua bán các thứ hàng hóa này. Các sở giao dịch chỉ làm cho giá cả tăng cao và lạm phát chứ chẳng mang lại cho nhân dân và nền kinh tế một tí lợi ích nào. Sản xuất thành ra không có lợi vì không đem lại siêu lợi nhuận, sản phẩm sụt giảm đến 15-20% một năm.

Đa số các tổ chức như vậy là do mafia thành lập, họ đã lợi dụng cơ hội này để rửa tiền kiếm được bằng cách bảo kê, đầu cơ, buôn lậu ngoại tệ, buôn bán ma túy. Nhưng họ lại không thành lập các xí nghiệp sản xuất vì các xí nghiệp này không mang lại lợi nhuận nhanh chóng, cho nên toàn bộ các hoạt động sôi nổi được báo chí “độc lập” coi là quá trình “chuyển tiếp sang nền kinh tế thị trường” chỉ làm cho cuộc khủng hoảng kinh tế càng thêm sâu sắc và đất nước ngày càng lụn bại thêm.

Nhưng phần đông cán bộ (nomenclature) lại gắn bó cuộc sống của mình với nền kinh tế cũ cho nên họ đồng thanh phê phán “thị trường” và kiên quyết chống lại “tư nhân hóa”.

Giữa các nhóm nói trên đã xuất hiện những mâu thuẫn không thể dung hòa. Sản xuất càng đình đốn và sự phân hóa xã hội càng diễn ra nhanh chóng hơn. Tất cả mọi gánh nặng như tăng giá, lạm phát đều đổ dồn lên vai người lao động.

Sự phát triển sẽ diễn ra như thế nào? Thật khó trở thành nhà tiên tri. Nhưng theo tôi việc “phục hồi” có nhiều khả năng xảy ra hơn việc “xây dựng” chủ nghĩa tư bản trong cái đất nước (dù không phải là riêng biệt) phong kiến đã tan hoang này.

Chỉ còn hi vọng vào các nhà tư bản! Thật tội nghiệp cho ông Marx!

Còn 9 kì nữa



[1]О. Ioff. Luật dân sự Liên Xô. М., 1967, trang 371. Lúc đó “đấu tranh giai cấp” đã không còn hợp thời nữa. Hiện nay chính Gorbachev đang tuyên truyền cho các giá trị toàn nhân loại. Các nhà khoa học Liên Xô lập tức quay sang phía đó và họ sẽ còn quay như thế nhiều lần nữa.
[2]Xem bên trên.
[3]Tác phẩm đã dẫn, trang 394
[4]Tác phẩm đã dẫn, trang 420, 394. Các luật sư, các nhà kinh tế học, các triết gia và các “nhà xã hội học” khác gần như sao chép nguyên văn như thế.
[5] "Trong thời Trung cổ, ở châu Âu chưa có khái niệm sở hữu từ saisine hay gewere không phải là sở hữu theo đúng nghĩa mà chỉ là sử dụng trong một thời gian dài… Người sử dụng canh tác khoảng đất trong nhiều năm cũng như vương hầu mà người đó phải nộp tô đều có quyền ngang nhau khi nói: “ruộng của tôi”. М. Blok. Biện hộ lịch sử, М., 1986, trang 176-177
[6]Lịch sử thời Trung cổ, Tập 1, 1938, trang 163
[7]Lenin khẳng định rằng chế độ nông nô ở Nga “chẳng khác gì chế độ nô lệ” (toàn tập, tập 39, trang 70). Không thể hiểu vì sao các nhà khoa học Xô viết không chịu công nhận chế độ chiếm nô ở Nga. Theo tôi, năm 1861 ở Nga mới diễn ra việc xóa bỏ chế độ nô lệ và thành lập chế độ phong kiến.  
[8]Lịch sử nhà nước và luật pháp Liên Xô, phần I, M., 1972, trang 480. Tương tự như thế trong Lịch sử nhà nước và luật pháp Liên Xô, phần I, M., 1985, trang 210 và trong tất cả các cuốn sách giáo khoa khác..v.v..
[9]Chế độ lao dịch là nông dân phải làm ruộng cho chúa đất. Ghi chú của tác giả.  
[10]Bách khoa toàn thư Liên Xô, in lần thứ 3, tập 27, trang 283-284. Tất cả các vấn đề trong bách khoa toàn thư Liên Xô đều được xác định theo quan điểm chính thống của khoa học Xô viết. Mặc dù qua điểm này thường thay đổi một cách căn bản nhưng định nghĩa chế độ phong kiến thì chưa có thay đổi lớn nào.
[11]Đức Quốc xã và nước Campuchia Dân chủ của Khmer Đỏ. BT
[12]"Áp lực của chính quyền không nằm dưới bất kì sự kiểm soát nào đã bóp chết lòng tự trọng, lòng dũng cảm và niềm tin vào công lí của nông trang viên. Khai trừ ra khỏi nông trang, quịt tiền lương và tiền thưởng, cắt bớt đất phần trăm là những biện pháp “giáo dục” thường được áp dụng” (Tin tức, ngày 1 tháng 6 năm 1987). Đây là thí dụ điển hình về công tác phê bình hiện đại, dù ở nông thôn vẫn chẳng hề có thay đổi gì cả.  
[13]Xin dẫn một vài thí dụ: ủy ban nhân dân tỉnh Belgorod (quyết định số 403 ngày 27 tháng 8 năm 1981) đã cấm “đưa khoai tây, các loại cây có củ, hành… ra khỏi tỉnh”. Tula, Estonia, Moldavia cũng có những quyết định tương tự (Tin tức ngày 26 tháng 9 năm 1981). Một người tên là N. Kuzmin đi từ tỉnh Rostov sang tỉnh Voronezh mua khoa tây. Tại biên giới hai tỉnh, trên đường trở về anh ta bị giữ lại và buộc phải bán số khoa tây mua được với giá 65 rub, trong khi trước đó anh ta phải trả những 125 rub. Báo Sự thật ngày 14 tháng 7 năm 1986 đã đưa tin về một số trường hợp tương tự. Nhân dân các nước cộng hòa miền Nam phàn nàn: “chúng tôi bị cấm đưa ra khỏi khu vực sản phẩm dư thừa”. Cảnh sát khu Kurdai tỉnh Dzambul buộc dân chúng phải bỏ hành đang chuyên chở xuống..v.v… Năm 1990 các hợp tác xã tiêu thụ đã chịu nhiều thiệt hại: không được đưa hàng hóa đi, nhưng lại không tiêu thụ được tại địa phương.  
[14]Bên cạnh quan hệ kinh tế chủ đạo, chủ nghĩa Marx còn công nhận cái gọi là “thành phần kinh tế”, nghĩa là các quan hệ kinh tế tồn tại song song với quan hệ kinh tế chủ đạo. Không có điều kiện phân tích toàn bộ vấn đề này ở đây. Nhưng trong nền kinh tế “xã hội chủ nghĩa” Liên Xô thành phần kinh tế chiếm nô đóng vai trò quan trọng. Chúng ta đã thấy người ta sử dụng lao động nô lệ trước hết trong các trại giam và trong quân đội như đã chứng minh sau đây. Nhưng còn việc sử dụng lao động nô lệ trực tiếp và buôn bán nô lệ, báo chí Liên Xô ít nói đến hiện tượng này. Hiện tượng này diễn ra chủ yếu ở Trung Á và vùng Kavkaz, nơi người ta bắt "những kẻ lang thang, không nhà" và biến họ thành nô lệ. Người ta tra tấn, đánh đập, giết hại và buôn bán những kẻ bị bắt mà không hề bị trừng trị. Xin đọc bài báo “Săn bắt nô lệ” trên tờ Tin tức Moskva, số 42, năm 1991.
[15]Ngoài “ông chủ tối cao” ở Moskva còn có (đôi chỗ hiện nay vẫn còn) các chúa tể địa phương nữa. Đấy là các ông chủ ở địa phương hoặc nước cộng hòa. Ngay sau khi được bầu ông ta liền được coi là “thánh sống”, hiện thân của luật pháp, công bằng và dĩ nhiên cả thông thái nữa, mặc dù đôi khi tính háo danh và thói kiêu căng đã làm mờ lí trí của ông ta” (tờ Ngọn lửa nhỏ, năm 1988, số 40, trang 22). “Tôi là chủ ở đây! Bí thư thứ nhất thường nói như thế. Tôi nói thế nào thì làm thế!”. Và khi người của ông ta phạm tội thì ông ta “cấm các cơ quan bảo vệ pháp luật điều tra. Công an và cán bộ viện kiểm sát định phản đối, nhưng A. Ilenko không thèm nghe, ông ta không cho họ nói và đuổi ra khỏi phòng (Sự thật, ngày 2 tháng 2 năm 1987). Xin lưu ý đến ngày tháng (cải tổ) và thái độ của “anh hai” đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật.  
[16]Khi lưu trú trong khách sạn của tỉnh ủy tôi đã được chứng kiến cảnh thay “anh hai”: buổi chiều các phái viên trung ương tới; trong khi đó “anh hai” vẫn còn đang dự họp tại một thị xã trong tỉnh. Thứ bảy, mặc dù là ngày nghỉ, các tỉnh ủy viên được triệu tập gấp, tại cuộc họp người ta tuyên đọc đơn xin từ chức của “anh hai” để về hưu, “đề nghị” được thông qua và người ta “bầu ngay” bí thư mới do các phái viên đề nghị.  
[17]"Nuôi" là hệ thống đảm bảo đời sống cho các quan chức của nước Nga phong kiến, cho đến tận giữa thế kỉ XVI, trong đó các quan chức địa phương được nuôi bằng sưu thuế năng nề. Việc quản lí rất tùy tiện, quan chức thường cưỡng bức và ăn cướp. Hệ thống này tự đánh mất uy tín và bị bãi bỏ trong quá trình tập quyền hóa của nhà nước dưới thời Sa hoàng Ivan IV.  
[18]Báo chí đã nhiều lần nói rằng KGB đã lập kế hoạch “cải tổ” từ giữa những năm 1970.  
[19]R. Gaipov, "Anh hai” tỉnh Kashkadarin nước cộng hòa Uzbekistan “vặt” dân chúng như người ta vặt lá cây vậy… Có thể nói một cách không quá rằng tất cả các cơ quan, các tổ chức, các nông trang, nông trại, các cơ quan Đảng và chính quyền đều bị tê liệt vì tham nhũng. Gaipov trực tiếp chỉ đạo việc mua bán các chức vụ từ khu vực, thị xã cho đến tỉnh. Ông ta còn nhận hối lộ thường xuyên, gọi là “thuế”… Gaipov đã có một khối lượng tài sản vô cùng lớn… quyền lực của ông ta không chịu bất kì sự kiểm soát nào (Ngọn lửa nhỏ, năm 1989, số 2, trang 27). “Mạng lưới tham nhũng rộng khắp, sự bất lương của các cơ quan kiểm tra từ trên xuống dưới đã tạo ra tình hình, khi mà quyền lực kinh tế và ngay cả quyền lực chính trị của cả các khu vực, các tỉnh, các nước cộng hòa trở thành phương tiện của các tập đoàn tội phạm. Giới tinh hoa nắm quyền giầu lên mỗi ngày. Trong khi quần chúng nhân dân thì sống trong cảnh nghèo khổ, chịu đựng. Nói cũng chẳng ích gì (báo đã dẫn, trang 28).
[20]"Người lãnh đạo khôn khéo tạo ra xung quanh mình một nhóm những kẻ không ra gì. Mọi người còn nhớ thời khi người ta lựa các lãnh đạo cấp cao theo nguyên tắc trung thành với cá nhân, biết cách nịnh hót” (Sự thật, ngày 21 tháng 1 năm 1987. Trong làn sóng tố cáo hiện nay người ta thường sử dụng động từ ở thời quá khứ mặc dù chưa có gì thay đổi cả.
[21]N. Petrov, nghệ sĩ đàn Piano nổi tiếng viết về cảnh các nhạc sĩ được Công ty ca nhạc cho đi biểu diễn ở châu Âu và Mĩ như sau: “Đừng có quên những người đã giúp đỡ mình! Hệ thống đưa và nhận hối lộ trên cửa sau của Công ty lúc nào cũng hoạt động cả, một kẻ đi lên và một người đi xuống cầu thang, họ chuyển cho nhau túi đựng quà! Cổng sau, nơi làm nên tên tuổi, nơi quyết định số phận con người muôn năm!” N. Petrov còn mô tả chi tiết biện pháp cướp bóc các nghệ sĩ của Công ty ca nhạc. Theo đó, nếu một nghệ sĩ có tên tuổi nhận thù lao ở nước ngoài là 3.000USD thì Công ty chỉ để lại cho anh ta 800USD thôi, nhưng Sviatislav Rikhter được thù lao những 300.000USD thì ông cũng chỉ được giữ lại 800USD mà thôi. Nhưng đây là phần “cắt” chính thức, người nghệ sĩ còn phải “nuôi” bộ máy của Công ty nữa, lấy từ phần thù lao còn lại của nghệ sĩ (Ngọn lửa nhỏ, năm 1989, số 43).
[22]М. Gorbachev. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô tại đại hội XXVII. Nhà xuất bản chính trị, М., 1986, trang 103
[23]Một số trường hợp đã được báo chí nói tới ngay từ thời Brezhnev. Thí dụ ở Moldavia, cô giáo L, mẹ của 4 đứa trẻ, Đảng viên, ủy viên ban chấp hành Đảng bộ xã phê bình “anh hai” của huyện về việc bao che cho những tên ăn cắp. Cô ta lập tức bị kết tội… đốt nhà hàng xóm! Tại tòa, người ta đề nghị cô chứng minh rằng mình không đốt nhà! Năm 1968, tòa án tối cao Moldavia kết án cô giáo L. một năm rưỡi tù giam. Sau này, khi vụ giả mạo bị phát hiện (dĩ nhiên là cô giáo đã hết hạn tù rồi) thì viện trưởng viện kiểm sát huyện chỉ bị phê bình, điều tra viên thì bị cảnh cáo, nhưng ngay sau đó anh ta lại được giấy khen, có kèm theo cả tiền thưởng nữa (Sự thật, ngày 12 tháng 10 năm 1971). Sau khi bắt đầu “cải tổ” những câu chuyện như thế tràn ngập tất cả các mặt báo. Không thể nào liệt kê hết được, chỉ xin dẫn ra một vài thí dụ. Năm 1980, thày giáo tên là Dilmukhametov (Uzbekistan) viết đơn lên Viện kiểm sát Liên Xô, tố cáo những kẻ nhận hối lộ và bao che một số tội ác nghiêm trọng. Ông gửi đơn vào tháng 9 thì tháng 12 bị khởi tố hình sự (tội vu khống). Dilmukhametov đến Moskva, nhưng một nhóm cảnh sát đặc nhiệm đã bắt ông tại đây và áp giải ngay về quê. Tháng 8 năm 1981 ông bị kết án 5 năm tù giam. tòa án Tối cao Liên Xô không bác bỏ bản án! Năm 1983 Dimukhametov được ân xá nhưng mãi đến năm 1985 mới được minh oan. Thế mà công tố viên tỉnh Fergan chỉ bị cảnh cáo (Báo Văn học, ngày 18 tháng 9 năm 1985).
Thế mà đây lại là những vụ kết thúc có hậu đấy. Nhiều người đã phải trả giá bằng chính mạng sống của mình, thí dụ như chuyên viên của tỉnh Đảng bộ Trardgoy, ông này bị một viên đại tá công an tổ chức ám sát. Công an ở đó làm cả việc… ăn cướp. Một cán bộ của ban chấp hành trung ương Tadgikistan nói rằng “các đây chưa lâu người ta có thể bắt tù bất kì ai” (Sự thật, ngày 28 tháng 1 năm 1987)
[24]"Đằng sau những cánh cửa sổ đóng kín của những phòng ngủ rộng và tối, các cán bộ tha hồ say sưa, những vụ tự thiêu của những người phụ nữ bị làm nhục không phải là chuyện hiếm (chỉ trong nửa đầu năm 1988 tại tỉnh Surkhadarin đã có 16 cô gái tự thiêu (Lao động, ngày 12 tháng 1 năm 1989). Xin lưu ý! Đây đã là năm thứ 3 sau “cách mạng tháng tư” và “cải tổ rồi”!
[25]"Sau khi về nhà trên phố Shusev, ông ta (Trarbanov) khinh ngạc phát hiện ra trong túi áo, trong hộp đựng quả, trong cặp và trong va li những tờ tiền mới tinh, ông ta không thể nhớ đã nhận của những ai và khi nào nữa. Trong đầu Iuri Mikhailovik tất cả đều quay cuồng: những bộ tướng phục, rượu, tiếng nói cười, những khuôn mặt Á châu, tiền và tiếng chân duyệt binh. Ông xếp tiền vào ngăn bàn làm việc, chính ông cũng không biết sẽ làm gì với những nắm tiền vẫn còn kêu sột soạt đó” (Ngọn lửa nhỏ, 1989)  
[26]Vụ xử một số cán bộ Bộ nội vụ Uzbekistan và Trurbanov đã gây ra nhiều phản ứng vì một loạt điều bất bình thường, không thể kể hết ra đây được. Vai trò “anh cả” của Trurbanov không được làm rõ. .. Người ta đã nói rằng phiên tòa sẽ diễn ra công khai và sẽ được báo chí đưa tin rộng rãi, nhưng trên thực tế là phiên tòa kín, chỉ những người có thẻ đặc biệt mới được vào… Bản án được tuyên cũng tạo cảm giác ngạc nhiên không kém, và điều đặc biệt là những công bố đơn điệu được chuẩn bị kĩ trên tờ Sự thật (ngày 21 tháng 1 năm 1989) và những tờ báo trung ương khác về tính hợp pháp của phiên tòa.  
[27]Thứ trưởng Bộ nội vụ Uzbekistan bị bắn chết trong bệnh viện ngày 17 tháng 5 năm 1985 bởi 3 viên đạn vào đầu! Viên thứ nhất phá vỡ hàm, viên thứ hai vào gáy, thế mà sau đó ông “còn đủ sức” tự bắn một phát nữa vào thái dương! Đúng là kỉ lục Ginness! Liệu đây có thể gọi là một vụ tự sát được không? Thế mà các điều tra viên không thèm tìm hiểu xem, tại sao ông ta lại có súng lục trong khi nằm viện.
[28]V. Oleinik, điều tra viên về các vụ án đặc biệt nghiêm trọng của Viện kiểm sát Liên Xô đã phải xin thôi việc sau khi Xô viết Tối cao bổ nhiệm lãnh đạo mới của Viện kiểm sát vào năm 1989. Trong một bài trả lời phỏng vấn khá dài, ông ta nói rằng trong khi điều tra các vụ có liên quan đến cán bộ thương nghiệp ở Moskva “các mối liên hệ của các nghi can với các bộ Đảng, chính quyền đều bị khoanh lại” (nói một cách khác các điều tra viên không được lần theo dấu vết “quà cáp” được đưa lên các cấp lãnh đạo cao nhất). Theo lời ông ta thì hiện tượng Treguboie (trên kia đã nói rằng Treguboie từng là lãnh đạo ngành thương nghiệp Moskva) ”được củng cố và vẫn tồn tại cho đến nay, nhưng từ cuối năm 1987 trên thực tế các vụ điều tra về nạn trộm cắp và hối lộ trong ngành thương nghiệp đã chấm dứt”. Ông cũng nói rằng hiện nay giá cho một chiếc ghế, cho việc thăng quan tiến chức, cho việc cấp vốn… đã tăng lên. “Một số kẻ nhận hối lộ ở cấp cao tiếp tục thăng tiến”. V. Oleinik kể về những vụ điều tra việc ăn hối lộ, trộm cắp và báo cáo láo ở Uzbekistan như sau: “Hóa ra đấy là một cuộc tranh giành quyền lực. Một số người bị thóa mạ là những kẻ ăn hối lộ, nghiện hút, ăn cắp. Những người kiên định bị đưa vào xà lim chẳng khác gì thời trung cổ và bị hành hạ… Tôi tin rằng không ít người vô tội đã bị kết án oan. Hiếm có người nào được minh oan. Tình hình ở Krasnodar, ở Azerbaizhan, ở Kazakhsatn và ngay ở Moskva thì cũng tương tự” (Sự kiện và bình luận, năm 1989, số 50). Bài trả lời phỏng vấn của một người thạo tin cho ta biết: 1/ nhiều vụ án chỉ là những cuộc chiến tranh giữa các tập đoàn phong kiến để giành quyền lực và thái ấp; 2/ dấu vết dẫn đến các cấp lãnh đạo cao nhất thường bị “khoanh” lại; 3/ trong giai đoạn “cải tổ” tình hình cũng vẫn như cũ.  
[29]"Giai tầng mới sống tách biệt ra bằng những rào cản xã hội, ngày càng có nhiều đặc quyền đặc lợi, còn trong nhận thức xã hội thì thay vì bác bỏ và phản đối thì lại xuất hiện tâm lí theo đuôi, bắt chước và lợi dụng”/báo Nước Nga Xô Viết, ngày 15 tháng 11 năm 1987).
[30]Bãi bỏ Ban chấp hành trung ương cũng không thay đổi được gì. 70% đến 100% thái ấp vẫn nằm trong tay tầng lớp cán bộ cũ, từ Yeltsin cho đến các “anh hai” khu vực.
[31]Xin nhắc nhở những người mác-xít chính họ đã sùi bọt mép chứng minh rằng thượng tầng kiến trúc ở Nam Tư, Trung Quốc và Campuchia không phù hợp với hạ tầng cơ sở.
Nguồn: Nguyên bản tiếng Nga: http://lit.lib.ru/t/tille_a/text_0010.shtml
-Anatoly Tille - Liên Xô - Nhà nước phong kiến trá hình (Kì 4)
 
Chương 4. Chế độ nhà nước
Nước Nga vĩ đại kết đoàn liên bang bền vững của các nước cộng hòa tự do.
(Quốc ca Liên Xô)

Điều 70 hiến pháp Liên Xô tuyên bố rằng Liên Xô là “một nhà nước thống nhất được thành lập theo nguyên tắc liên bang xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở quyền tự quyết và tự nguyện liên kết của các nước Cộng hòa Xô viết Xã hội chủ nghĩa bình đẳng với nhau về quyền lợi và nghĩa vụ”.

Xin bắt đầu bằng nguyên tắc “tự quyết” và “tự nguyện”. Trước hết chúng ta cùng xem xét Sắc lệnh về hòa bình, một trong những sắc lệnh quan trọng nhất trong số các “sắc lệnh Tháng Mười”, niềm tự hào của ngành tuyên truyền và khoa học pháp lí Liên Xô (nhưng không được trích dẫn!). Sắc lệnh này do chính Lenin viết, rất đáng lưu ý và đáng được phổ biến. Sắc lệnh này đưa ra định nghĩa về sự chiếm đóng như sau: “… đấy là bất kì một sự liên kết nào của một sắc tộc nhỏ và yếu vào một nhà nước lớn và mạnh mà không có sự đồng ý và mong ước, được thể hiện một cách rõ ràng, chính xác và tự nguyện của sắc tộc ấy, dù sự liên kết đó được thực hiện khi nào, dù dân tộc liên kết hay bị kìm giữ bằng vũ lực có phát triển hay lạc hậu đến đâu”. Và đây là các điều kiện của sự tự quyết: “Nếu một dân tộc nào đó bị giữ trong biên giới của một nhà nước bằng vũ lực, nếu dân tộc đó, trái với ước nguyện của họ, dù ước nguyện này được thể hiện trên báo chí, trong các cuộc hội nghị, trong các nghị quyết của các đảng phái và các cuộc khởi nghĩa chống lại ách áp bức dân tộc, không được quyền biểu quyết một cách tự do, với điều kiện rút toàn bộ quân đội của nước sát nhập hay nói chung là nước lớn hơn, để giải quyết, mà không bị bất cứ áp lực nào, vấn đề hình thức nhà nước thì việc sát nhập được coi là chiếm đóng nghĩa là bằng xâm lược và đàn áp!”.

Tuyệt vời!

Nhưng nếu xem xét toàn bộ lịch sử xây dựng Liên bang các nước Cộng hòa Xô viết Xã hội chủ nghĩa từ quan điểm của tài liệu lịch sử này thì ta có thể nói một cách tự tin rằng đấy là lịch sử của các cuộc chiếm đóng, nghĩa là bằng xâm lược và bạo lực; quyền tự quyết của các dân tộc và liên kết tự nguyện của các nước cộng hòa chưa bao giờ xảy ra cả. Ngay từ năm 1919, tại đại hội VIII của Đảng, Piatakov đã yêu cầu từ bỏ khẩu hiệu quyền tự quyết của các dân tộc: “Liệu chúng ta có cho phép quần chúng lao động Ukraine toàn quyền quyết định hình thức nhà nước của giai cấp vô sản và nông dân Ukraine không? Tất nhiên là không!”. Và trong cương lĩnh của Đảng do đại hội thông qua đã không còn từ “tự quyết” nữa.

Trên thực tế “quyền tự quyết dân tộc” và “liên kết tự nguyện” được thực hiện như thế nào? Có rất nhiều sách báo và tài liệu về vấn đề này. Ở đây không có điều kiện mô tả những bước thăng trầm, những âm mưu của các giai cấp và chủng tộc, những bi hài kịch và những trò hề, những vụ đàn áp khi các dân tộc muốn thể hiện ý chí của mình, và đấy cũng không phải nhiệm vụ của cuốn sách này. Chỉ xin xem xét khía cạnh pháp lí của vấn đề.

Xin bắt đầu từ tên gọi: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga (RSFSR), cái tên dùng để chỉ liên bang Nga, nhà nước lớn nhất trên lãnh thổ Liên Xô nghĩa là đế chế Nga mà Lenin đã có lần gọi là “nhà tù của các dân tộc”. Cách mạng khơi lại ước vọng tự nhiên của các dân tộc: trốn khỏi nhà tù. Và chính ở đây người ta thấy sự mềm dẻo thiên tài của Lenin. Trong khi “Bạch vệ” bám chặt khái niệm “thống nhất, không thể nào chia cắt” làm cho nhân dân oán hận thì Lenin lại theo đuổi mục đích ấy với những khẩu hiệu về quyền tự quyết. Đầu tiên ông lựa chọn hình thức tự trị, nhưng sau này, khi thấy các lực li tâm quá lớn, ông chuyển sang thành lập các nước cộng hòa liên bang “độc lập”.

Từ năm 1918 đến năm 1922 trong nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga có hơn 20 nước và tỉnh tự trị được thành lập [1] . Tiêu chí dân tộc trong các khu vực tự trị này được xác định một cách rất tương đối. Ngày 30 tháng 4 năm 1918 đại hội Xô viết Turkestan (dĩ nhiên là do những người Bolshevik tổ chức và lãnh đạo), một đơn vị hành chính của nước Nga Sa hoàng có nhiều sắc dân sinh sống, tuyên bố thành lập nước cộng hòa tự trị Turkestan. Hiện nay trên vùng lãnh thổ này có đến bốn nước cộng hòa liên bang. Chẳng bao lâu sau chính quyền Xô viết đã bị lật đổ, chính quyền này chỉ được tái lập sau một cuộc chiến tranh đẫm máu.

Sau Turkestan, đến lượt các nước cộng hòa tự trị khác (Bashkirskaia, Tartarskaia, Công xã lao động Karelskaia, Công xã lao động Đức vùng Volga…) được thành lập theo các nghị định của Ban chấp hành trung ương Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga, nghĩa là theo các quyết định của cơ quan hành pháp Nga. Không ai hỏi ý kiến của nhân dân hết.

Cuối năm 1918, đầu năm 1919 đại hội các Xô viết ở Litva, Latvi, Estonia và Bạch Nga tuyên bố thành lập các nước cộng hòa và thông qua hiến pháp tương tự như hiến pháp Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga. Ngày 25 tháng 12 năm 1918, Ban chấp hành trung ương Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga thông qua các nghị định của Hội đồng dân ủy Cộng hòa liên bang Nga về việc công nhận nền độc lập của các nước cộng hòa vùng Baltic, nhưng bản chất pháp lí của mối quan hệ của các nước này với Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga thì lại không được xác định. Chính quyền Xô viết ở Baltic không tồn tại được lâu. Những người Bolshevik bị đánh bật khỏi khu vực và mặc dù không muốn nhưng họ buộc phải công nhận nền độc lập của các nước đó, lần này thì công nhận thật sự. Tình hình Phần Lan cũng tương tự như thế, các đội quân của Toibo Antikainen đã cố gắng thiết lập chính quyền Xô viết tại đây bằng một cuộc chiến đẫm máu nhưng đã chịu thất bại, cuối cùng Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga phải công nhận nền độc lập của Phần Lan.

Các nước cộng hòa “độc lập” kí với nhau các “hiệp định” xác định sự thống nhất về hải quan, thuế vụ, giao thông và bưu chính v.v… Nhưng năm 1921, khi Stalin chuẩn bị dự thảo nghị định về việc liên kết các nước cộng hòa trên cơ sở tự trị thì bị Lenin kịch liệt phê phán và đề nghị thành lập liên bang. Ngày 30 tháng 12 năm 1922, đại hội lần thứ nhất Xô viết Liên Xô tuyên bố thành lập Liên bang các nước cộng hòa xô viết xã hội chủ nghĩa gồm bốn nước: Nga, Ukraine, Bạch Nga và Ngoại Kavkaz. Tại vùng Ngoại Kavkaz có rất nhiều dân tộc và sắc dân sinh sống cho nên không thể coi Cộng hòa Ngoại Kavkaz là được thành lập trên cơ sở dân tộc được. Ý kiến của nhân dân không những không được ai hỏi tới mà sau đó họ còn chiến đấu một cách tuyệt vọng cho nền độc lập của mình. Các cuộc khởi nghĩa đã bị lực lượng vũ trang, có sự trợ giúp của các đảng viên Bolshevik địa phương, đàn áp một cách khốc liệt.

“Thể hiện ý chí của nhân dân”, Ban chấp hành trung ương (cơ quan hành pháp) Turkestan và đại hội các xô viết của Bukhara và Khorezma (1924) đã quyết định thành lập hai nước cộng hòa liên bang là Uzbekistan và Turkmenistan và hai nước cộng hòa tự trị là Tadgikistan và Kirgidia.

Hiến pháp Liên Xô năm 1936 ghi nhận sự tồn tại của 10 nước cộng hòa trong liên bang.

Năm 1939, Hitler và Stalin, hiện Xô viết tối cao Liên Xô đã công nhận như thế, quyết định chia nhau châu Âu. Trên bản đồ phân chia vào ngày 28 tháng 9 năm 1939 Stalin đã đặt bút kí bên trên Hitler, chữ kí này dài đến 58 centimet. Sau khi phái đoàn của Ribentrov trở về từ Moskva, Hitler đã reo lên: “Toàn thế giới đã nằm trong túi ta”. Nếu Stalin không reo lên như thế thì cũng không nghi ngờ gì rằng ông ta lập tức bắt tay vào hành động.

Sau khi chia Ba Lan, Stalin nhắm ngay tới Phần Lan. Ngày 21 tháng 3 năm 1940 Xô viết Tối cao Liên Xô ra nghị định chuyển nước cộng hòa tự trị Karel thành nước cộng hòa liên bang Karel - Phần Lan. Nhưng ngày 16 tháng 7 năm 1956, Xô viết Tối cao Liên Xô “sau khi xem xét nguyện vọng của người lao động (?), sau khi xem xét thành phần dân tộc, sự thống nhất về kinh tế và các mối liên kết chặt chẽ với Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga” (những chuyện này không có hồi năm 1940?) đã quyết định chuyển nước cộng hòa này thành nước cộng hòa tự trị nằm trong thành phần Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga.

Lịch sử nhập rồi tách các nước cộng hòa vùng Baltic và nước cộng hòa Moldavia thì ai cũng biết, chẳng cần nói thêm ở đây.

Tuy vậy, không thể không nói đến số phận của một vài dân tộc: Chủ tịch đoàn Xô viết Tối cao Liên Xô ngày 7 tháng 9 năm 1941 đã ra nghị quyết chia “nước cộng hòa của người Đức vùng Volga” cho hai tỉnh Saratov và Stalingrad, còn chính người Đức sống ở đấy thì bị trừng phạt như các tội phạm hình sự, không thông qua tòa án, bằng cách lưu đày đến các trại cải tạo và lao động khổ sai ở Sibiri và Kazakhstan. Một phần ba đã chết trên đường lưu đầy. Người Đức là dân tộc đầu tiên, trong đó có cả người già, phụ nữ và trẻ con còn ẳm ngửa, bị tuyên bố là tội phạm. Hiến pháp và các văn bản pháp qui khác đã bị vi phạm một cách trắng trợn nhất. Thí dụ, hiến pháp ghi nhận rằng lãnh thổ của các nước cộng hòa liên bang không thể bị thay đổi khi chưa có sự thỏa thuận của các nước này, trong khi đó Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga không đưa ra bất kì văn bản nào về việc chia cắt đã nói ở trên. Cần nói thêm rằng năm mươi năm sau, mặc dù về danh nghĩa, người Đức đã được phục hồi, nhưng các văn bản cũ thì vẫn chưa bị hủy bỏ và nước cộng hòa của người Đức thì chưa được tái lập.

Hiện nay người ta đã chính thức công nhận rằng nhiều dân tộc, trong đó có người Đức, người Tatar ở Krưm, người Triều Tiên, người Thổ Nhĩ Kì, người Meskhetin, người Tretren, người Ingush… đã bị đối xử một cách vô cùng bất công. Chưa một người nào trong số họ được đền bù cho số tài sản bị cướp giật và những đau khổ mà họ phải chịu đựng. Hơn thế nữa, nhiều người còn bị ngăn cản, không được trở về quê hương bản quán. Lí do được đưa ra: “hoàn cảnh thực tế”, sự phản đối của dân chúng địa phương v.v.. Thế mà sau khi người Mekhetin ở Pergan bị giết hại, buộc phải đưa họ đi nơi khác thì lại tìm được đất và nhà cho họ ở các tỉnh miền Bắc nước Nga, có ai hỏi ý kiến dân địa phương không? Tại sao không đưa họ trở về quê hương bản quán?

Các nhà bình luận hiện nay thích nói rằng biên giới giữa các nước cộng hòa được hoạch định một cách tùy tiện, không tính đến quyền lợi của các dân tộc, theo kiểu “lấy tẩu thuốc vẽ lên bản đồ”. Đúng như thế. “Chính sách dân tộc của Đảng cộng sản theo đường lối của Lenin và Stalin” luôn luôn là chính sách đế quốc chủ nghĩa, dựa trên nguyên tắc “chia để trị”. Lenin, Stalin và những người kế tục họ, kể cả Gorbachev va Yeltsin, đều không tôn trọng ý chí của nhân dân. Các đường biên giới được tính toán kĩ để sao cho các dân tộc luôn luôn mâu thuẫn, không thể liên kết với nhau được, sao cho chính quyền trung ương luôn luôn có thể đóng vai người phán xử cuối cùng. Chính vì thế mà tỉnh Nogornưi Karabakh với tuyệt đại đa số dân chúng là người Armenia lại bị tách khỏi Armenia và đưa vào lãnh thổ Azebaigian, còn tỉnh Nakhitrevan thì lại bị tách khỏi Azerbaigian. Cuộc xung đột ở Karabach có thể đã được giải quyết dưới thời Gorbachev, nhưng ông ta không muốn như thế.

Các nước cộng hòa liên bang chưa bao giờ được độc lập. Các viên toàn quyền đều được bổ nhiệm từ Moskva. Như sẽ được chứng minh sau đây, bộ máy trung ương tập quyền của Đảng đã đóng vai trò của chính phủ. Tại tất cả các nước cộng hòa đều diễn ra quá trình Nga hóa, người Nga tràn ngập khắp nơi, sự đồng hóa diễn ra cả bằng vũ lực nữa. Thí dụ tại các nước vùng Baltic việc đồng hóa được thực hiện bằng cách đưa vào đấy các đơn vị quân đội và xây dựng những xí nghiệp to lớn một cách không cần thiết rồi sau đó phải “mời” các chuyên gia từ Nga sang. Tôi còn nhớ rất rõ những người lãnh đạo gốc Latvi-Litva “dân tộc chủ nghĩa”, phản đối cách làm đó, đã bị đàn áp như thế nào.

Những điều đã trình bày cũng đủ để độc giả hiểu rằng không làm gì có chuyện liên bang, liên hiệp gì hết. Liên Xô là một nhà nước trung ương tập quyền, một đế chế phong kiến cuối cùng trên hành tinh chúng ta.

Gorbachev, bằng việc giảm bớt quyền lực và đàn áp, đã khơi mào cho quá trình tan rã Liên Xô. Nhưng ông ta vẫn có ý định đè bẹp tinh thần dân tộc bằng các biện pháp cũ. Cách làm thật đơn giản: khi một nước cộng hòa nào đó có ý định đòi được tự chủ thì ngay lập tức sẽ xuất hiện xung đột sắc tộc (tại Moldavia xung đột xảy ra ở các tỉnh Tiraspol và Gagauzia, tại Armenia thì xảy ra ở Karabach, tại Grudia thì xảy ra ở Abkhazia và Nam Osetia v.v…) hoặc là những vụ thanh toán lẫn nhau giữa các dân tộc đã từng sống đoàn kết bên nhau hàng chục năm trời. Ta sẽ xem xét một cách kĩ hơn các sự kiện ở Azerbaigian, nơi xảy ra các vụ giết hại người Armenia một cách “bất ngờ”. Rất nhiều người già, phụ nữ và trẻ em bị giết hại môt cách cực kì dã man ở Sumgaite. Không phải vô tình mà tôi đưa chữ bất ngờ vào ngoặc kép: trước đó người ta đã biết rằng sẽ xảy ra những vụ giết người, chính quyền đã được thông báo và đã bảo đảm sẽ bảo vệ người Armenia… Sau vụ chém giết báo chí chính thức đã viết về “những tên tổ chức” và sự trừng phạt không thể tránh khỏi. Nhưng sau đó thì “không tìm thấy” bọn chúng. Một vài kẻ a dua bị trừng phạt rất nhẹ (so với tội lỗi của chúng). Trong khi đó lại có thông tin rằng đấy là do lực lượng Alfa, một lực lượng chuyên về phá hoại và giết người, của KGB thực hiện. Sau đó là vụ tương tự về tính chất nhưng lớn hơn rất nhiều về số nạn nhân đã xảy ra ở Baku. Lần này không những người ta đã biết trước các vụ cướp bóc và giết người mà còn kịp đưa cả quân đội tới, nhưng hóa ra cũng giống như ở Varsava ngày nào, quân đội đã án binh bất động cho đến khi vụ chém giết chấm dứt. Gorbachev tuyên bố tình trạng khẩn cấp và đưa bộ đội vào Baku khi trong thành phố đã không còn một người Armenia nào nữa. Binh lính nổ súng vào bất kì người nào họ gặp, hàng trăm dân thường thiệt mạng trong khi binh lính không hề hấn gì cả. Chỉ cần đọc các nghị định thời đó là thấy ngay ý nghĩa của các sự kiện: cấm bãi công, giải tán các tổ chức xã hội, cấm mít tinh v.v… Báo chí lại viết về “những kẻ tổ chức” các vụ bạo loạn, nhưng rồi vẫn không tìm ra. Vấn đề là ai sẽ tìm, họ tự đi tìm mình à [2] ?

Thế mà việc ban bố tình trạng khẩn cấp và vụ đàn áp phong trào dân tộc như thế lại được các nước phương Tây tỏ ra “thông cảm” đấy.

Cho đến nay người ta vẫn chưa tìm được những kẻ tổ chức các vụ giết người hàng loạt ở Tbilisi, các vụ bắn vào thường dân ở Vinhius và Riga… Cũng như mọi khi, Gorbachev không “biết gì hết”. Những người trao cho ông ta huân chương hòa bình Nobel cũng không biết gì hết.

Gorbachev còn định sử dụng cả các biện pháp chính trị nhằm ngăn chặn các xu hướng li tâm của các nước cộng hòa. Theo “con đường của Lenin”, ông ta có ý định trói tay các nước cộng hòa và buộc họ phải kí một hiệp định liên bang mới.

Nhưng ngay lúc đó đã xảy ra cuộc đảo chính tháng 8 năm 1991 do những người thân cận nhất, những chiến hữu của ông ta thực hiện. Không ai biết cuộc đảo chính diễn ra như thế nào, Gorbachev đóng vai trò gì? Tất cả đều mờ mịt, phiên tòa đã bị hoãn đi hoãn lại nhiều lần và bây giờ thì không ai biết nó có diễn ra hay không.

Trong khi đó tổng thống B. Yetsin của nước Nga vì muốn tước quyền lực của Gorbachev đã giải tán luôn Liên Xô.

Ba người: Yeltsin, Kravtruk và Shushkevik, không cho quốc hội biết, cũng chẳng cần các nước cộng hòa khác, đã tự tuyên bố giải thể Liên Xô và thành lập Cộng đồng các quốc gia độc lập. Theo quan điểm pháp lí thì đây rõ ràng là một cuộc đảo chính và theo đúng tinh thần của điều 1 bộ luật hình sự thì họ đã mắc tội “Phản bội tổ quốc”… vì đã làm phương hại đến sự toàn vẹn lãnh thổ của Liên Xô.

Anatoly Sharansky bị xử 15 năm tù theo điều khoản này, hình như ông bị giam mười năm rồi được thả dưới áp lực dư luận quốc tế. Tất cả các báo đều đưa tin về phiên tòa này, thế mà cá nhân tôi không thấy ông ta có những hành động cụ thể nào. Theo những gì tôi biết thì ông ta chuyển ra nước ngoài tin tức về những người Do Thái muốn đi ra nước ngoài. Không hiểu Sharansky hay những người cản trở người Do Thái đi ra nước ngoài, mặc dù nước ta đã kí Tuyên ngôn nhân quyền, làm phương hại đất nước nhiều hơn. Dù sao mặc lòng, hoạt động của ông ta không thể nào so sánh được với “âm mưu của bè lũ tam nhân”, những kẻ đã xóa sổ Liên Xô và tước quyền của Tổng thống được bầu một cách hợp pháp. Xin nhắc lại rằng lúc đó nhân dân lao động đã thể hiện “ý chí” của mình bằng cách nói “có” với Liên Xô, dù rằng cách hỏi có hơi đáng ngờ.

Tiếp theo sẽ là gì? Thật khó dự đoán, trước hết là vì chính sách đối nội và đối ngoại của người đứng đầu nhà nước và chính phủ Yeltsin là không thể dự đoán được (“quốc hội” và chủ tịch của nó thì chẳng cần nói làm gì). Nói chung, ông ta sẽ tiếp tục đường lối của Gorbachev, một đường lối đã làm Liên Xô tan rã. Khi nói với các nước cộng hòa: “Có khả năng đến đâu thì độc lập đến đấy”, ông ta đã kích động “phong trào” đòi độc lập của các khu tự trị, thậm chí một số vùng cũng đòi được độc lập. Các cuộc xung đột sắc tộc tiếp tục được kích hoạt, đấy chính là cách làm cho nhân dân xao lãng khỏi những khó khăn kinh tế. Trong khi ông bộ trưởng ngoại giao đi vãn hồi hòa bình ở Nam Tư thì bộ trưởng bộ quốc phòng lại phát cho các bên tham chiến ở Kavkaz xe tăng, máy bay lên thẳng và bệ phóng hỏa tiễn Grad có kèm cả tên lửa. Nắm trong tay một đội quân đông nhất thế giới và quân đội đang còn phục tùng “trung ương”, hoàn toàn đủ sức quét sạch các bên tham chiến thì họ lại lậy van người ta đưa đội quân “mũ nồi xanh” của Liên Hiệp Quốc vào…

Tóm lại, có thể nói rằng Liên bang các nước cộng hòa xô viết xã hội chủ nghĩa không phải là một liên bang mà là một nhà nước tập quyền, không phải là nhà nước Xô viết vì các Xô viết chẳng có quyền hành gì, cũng không phải là xã hội chủ nghĩa mà là một nhà nước phong kiến, không phải là những nước cộng hòa mà là những nước quân chủ chuyên chế tuyệt đối (các công quốc chư hầu).


Chương 5. Đảng Cộng sản

Từ lâu người ta đã biết rằng cái gọi là “Đảng cộng sản” thực chất là một tổ chức nhà nước, được quốc tế công nhận: Tổng bí thư Đảng, dù không nắm giữ chức vụ nhà nước nào, vẫn cứ thay mặt nhà nước kí các hiệp định, ông ta cũng được đón tiếp như nguyên thủ quốc gia [3] .

Hiến pháp Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga năm 1918 (hiến pháp “Lenin”) và tương tự như thế, hiến pháp năm 1924 không nói đến Đảng và không xác định vị trí của Đảng trong hệ thống nhà nước, mặc dù ngay lập tức Đảng đã nhảy vào vị trí lãnh đạo chính phủ. Hiến pháp Liên Xô năm 1936 (hiến pháp “Stalin” đúng hơn phải gọi là hiến pháp “Bukharin”) hay “Hiến pháp của chủ nghĩa xã hội” coi Đảng là “hạt nhân lãnh đạo tất cả các tổ chức của nhân dân lao động, cũng như các tổ chức xã hội và nhà nước”, nhưng đặc điểm này được ghi ở điều 126 chương 6, sau khi đã liệt kê một loạt tổ chức xã hội khác. Hiến pháp “Brezhnev” năm 1977 [4] đã đưa ngay đặc điểm này vào điều 6, các tổ chức xã hội khác được liệt kê trong điều 7, như vậy là vai trò của Đảng trong hệ thống chính quyền đã được nhấn mạnh thêm.

Nghịch lí là ở chỗ Đảng cộng sản đã thôi tồn tại ở Liên Xô từ rất lâu rồi. Lenin, người thành lập ra nó đã tiêu diệt nó ngay sau khi Cách mạng Tháng Mười thành công. Đảng cộng sản, “một Đảng kiểu mới” ngay từ khi mới thành lập đã đặt ra cho mình mục đích giành chính quyền và toàn bộ tổ chức “của những người cách mạng chuyên nghiệp” được xây dựng để phục vụ mục đích này. Đảng là liên minh chính trị của những người đồng quan điểm. Nhưng sự thống nhất quan điểm của số đông chỉ có thể xác định khi từng người có điều kiện thể hiện quan điểm của mình. Không bao giờ có sự thống nhất tuyệt đối, nhưng nhờ thảo luận mà có thể xác định được một quan điểm chung. Trước cách mạng, đôi khi Lenin đã phải chiến đấu chống lại đa số trong Đảng, có lúc ông phải một mình chống chọi lại tất cả, ông từng chia tách Đảng, nhưng quan điểm của mình thì kiên quyết bảo vệ đến cùng. Nhưng tại đại hội X (1921) Lenin cho thông qua nghị quyết “Về sự thống nhất của Đảng” và sau đó mọi hoạt động bè phái đều bị coi là bất hợp pháp. Từ đó trở đi sự thống nhất về tư tưởng được quyết định từ bên trên, toàn Đảng phục tùng trung ương, tuân theo một cây gậy chỉ huy của trung ương. Trước khi chiếm được chính quyền, Plekhanov đã nói rằng những người Bolshevik lèo lái ban chấp hành trung ương, buộc toàn Đảng phải lệ thuộc vào ban chấp hành. Sau khi giành được chính quyền thì điều đó càng trở nên ràng hơn. Mặc dù đến tận năm 1927, trong giai đoạn diễn ra các cuộc đấu tranh giành quyền lực sau khi Lenin qua đời, sự bất đồng về tư tưởng và hoạt động bè phái vẫn thường xảy ra, nhưng những người có tư tưởng như thế luôn luôn bị đàn áp bằng những biện pháp khủng bố khốc liệt nhất. Sau giai đoạn này thì các Đảng viên buộc phải tuân thủ một cách vô điều kiện “đường lối chung của Đảng” dù đường lối ấy có vặn vẹo thế nào cũng mặc. Dù có xảy ra những bước ngoặt đột ngột đến mức nào, Đảng viên cũng phải ủng hộ và vận động quần chúng ủng hộ đường lối của Đảng và thực hiện các mệnh lệnh của trung ương như những người lính thực thụ. Chính vì lí do đó mà nhiều nhà lãnh đạo thường tự nhận: “Tôi là người chiến sĩ của Đảng”.

“Đảng cộng sản” chưa ở đâu và chưa bao giờ là “Đảng của giai cấp công nhân” như nó thường tự tuyên bố. Quyền lãnh đạo Đảng luôn luôn nằm trong tay tầng lớp trí thức phi giai cấp và những kẻ phiêu lưu [5] .

Sau khi giành được chính quyền thì số lượng những kẻ phiêu lưu và háo danh chui vào Đảng lại càng nhiều hơn. Trong khi đó “Đảng” vẫn cố gắng giữ nguyên cái hình thức bên ngoài “là đội tiên phong của giai cấp công nhân” bằng cách xuyên tạc các số liệu (cán bộ Đảng và các bộ trưởng cũng được coi là công nhân nếu họ đã từng làm lao động chân tay một thời gian) và cố ý kết nạp các Đảng viên là công nhân. Công nhân nói chung chẳng thích thú gì với chuyện vào Đảng thì được kết nạp một cách dễ dàng, trong khi trí thức thì bị hạn chế [6] .

Đa số Đảng viên công nhân chỉ có tính chất trang trí cho các báo cáo, họ không có bất cứ vai trò gì. Dưới thời Gorbachev, khi tư tưởng đã tương đối cởi mở hơn thì chính công nhân lại là những người ra khỏi Đảng trước, vận động họ vào Đảng là việc cực kì khó khăn [7] .

Vì không có chuyện thống nhất về tư tưởng cho nên trở thành Đảng viên cũng có nghĩa là phải tuân thủ kỉ luật Đảng như một người lính. Nếu Đảng quyết rằng phải trồng ngô ở Estonia hay ở tỉnh Vologod, nơi, ngay một người không hiểu gì về nông nghiệp cũng biết rằng ngô không thể nào sinh sôi nảy nở được thì Đảng viên vẫn phải bảo đảm kế hoạch gieo trồng, dù biết rằng làm như thế là có tội với dân, với nước. Nếu “Đảng” đem quân vào Hungaria, Tiệp Khắc hay Afghanistan thì tất cả Đảng viên đều phải ủng hộ. Nếu hôm qua chủ nghĩa Hitler còn là “kẻ thù không đội trời chung” mà hôm nay Đảng ra lệnh không coi nó là kẻ thù thì tất cả Đảng viên phải không coi nó là kẻ thù. Ngày mai nó lại có thể trở thành kẻ thù nhưng nếu anh gọi nó là kẻ thù trong ngày hôm nay thì có nghĩa là anh “chống lại quan điểm của Đảng” đấy.

Đối với một số người thì vào Đảng là bắt buộc. Không cứ phải là công chức, thí dụ, nếu bạn muốn làm việc trong lĩnh vực lô gích học, tâm lí học, triết học và những ngành “khoa học xã hội” khác thì vào Đảng là yêu cầu bắt buộc.

Không phải Đảng viên cũng có thể leo lên các chức vụ cao (thí dụ như Lysenko, chủ tịch Viện hàn lâm khoa học nông nghiệp), nhưng bị khai trừ khỏi Đảng không chỉ đồng nghĩa với việc xóa tên khỏi tầng lớp “cán bộ (nomenclature) hay mất công ăn việc làm mà cuộc sống còn bị nhiều sất bất sang bang nữa. Vì vậy việc bảo vệ sự thống nhất quan điểm của Đảng, bảo vệ kỉ luật Đảng là một vũ khí cực kì lợi hại.

Đa số quần chúng đảng viên chẳng có ảnh hưởng gì đến “đường lối, chính sách của Đảng”. Về thực chất Đảng chỉ là bộ máy của Đảng, là tầng lớp “nomenclature”. Đấy cũng là bộ máy nhà nước. Điều đáng lưu ý là bộ máy của Đảng không bao giờ được nhắc tới trong điều lệ Đảng. Lần đầu tiên nó được nhắc tới trong điều lệ được thông qua năm 1986: “Trong ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, ban chấp hành trung ương Đảng các nước cộng hòa, trong ban chấp hành Đảng bộ các khu, các tỉnh, thành phố, huyện sẽ thành lập bộ máy của Đảng để tổ chức và kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết của Đảng và giúp đỡ các tổ chức cấp dưới”. Công thức được dẫn ra bên trên không thể hiện được vai trò thực sự của bộ máy Đảng. Xin lưu ý sự kiện sau đây: Ban chấp hành trung ương, theo điều lệ, là một cơ quan lãnh đạo tập thể gồm hàng trăm ủy viên chính thức và ủy viên dự khuyết. Nghĩa là tất cả các nghị quyết phải được thông qua tại các phiên họp toàn thể. Nhưng đa số các nghị quyết của Ban chấp hành trung ương, nghị quyết liên tịch giữa Ban chấp hành trung ương và Hội đồng bộ trưởng và các cơ quan khác (nhất là trong “giai đoạn cải tổ”) được thông qua bên ngoài hội nghị. Ban chấp hành trung ương nào ra nghị quyết? Tất nhiên là bộ máy của Ban chấp hành chuẩn bị dự thảo, còn Tổng bí thư, đấy là nói khi ông này có quyền lực tuyệt đối, sẽ quyết định hoặc tiến hành thảo luận trong Bộ chính trị hay Ban bí thư. Người ta chỉ lấy danh nghĩa Ban chấp hành để công bố nghị quyết mà thôi.

“Tập trung dân chủ” được coi là nguyên tắc xây dựng Đảng, tất cả các chức vụ, từ dưới lên trên, đều được bầu và chịu trách nhiệm trước tổ chức Đảng bầu ra mình. Trên thực tế tất cả cán bộ Đảng đều do cấp trên cử và chỉ chịu trách nhiệm trước cấp trên mà thôi.

Không phải đại hội Đảng bầu ra Ban chấp hành trung ương mà là Ban chấp hành trung ương lựa chọn đại biểu dự đại hội. Bộ máy Ban chấp hành trung ương (đa số cán bộ của bộ máy không phải là ủy viên trung ương) “lựa chọn” các ủy viên trung ương, các ủy viên Ban bí thư, các ủy viên trung ương các nước cộng hòa, ủy viên Đảng ủy các khu vực và các tỉnh Đảng bộ. Vì phụ thuộc vào bộ máy của Ban chấp hành trung ương, cơ quan quản lí tất cả các cán bộ lãnh đạo, nên “nomenclature” phải tìm mọi cách chiều chuộng các cán bộ từ cấp trưởng phòng hay thậm chí các chuyên viên của trung ương trở đi, cũng từ đó nảy sinh hiện tượng các “viên chức của trung ương có thể hành hạ ủy viên ban chấp hành khu vực, ủy viên thị ủy hay tỉnh ủy. Cần phải nhắc lại rằng bộ máy là để phục vụ các cơ quan dân cử và thực hiện các nghị quyết của các cơ quan này chứ không phải ngược lại”, đấy là lời của M. Gorbachev, một người hiểu rõ hơn ai hết công việc của bộ máy (báo cáo về chuyến đi của M. Gorbachev đến Tashken. Báo Tin tức, ngày 10 tháng 4 năm 1988). Nhưng nếu phải “nhắc lại” thì cũng có nghĩa là người ta đã quên. Họ đã quên là vì thực tế công tác của bộ máy trái ngược hoàn toàn với lí thuyết. Mặc dù đại hội XXVIII của Đảng Cộng sản Liên Xô (liệu nó có phải là đại hội cuối cùng không?) có vẻ dân chủ hơn các đại hội trước, nhưng nó vẫn là đại hội của bộ máy chứ không phải của các Đảng viên.

Ông A. Iakovlev, ủy viên Bộ chính trị, đã nêu lên đặc trưng của hệ thống hiện nay là: “một nền kinh tế trì trệ, phản dân chủ một cách trắng trợn, quan liêu và tham nhũng. Các cơ quan của Đảng trên thực tế đã thay thế tất cả các tổ chức khác, nhưng lại không chịu bất kì trách nhiệm về kinh tế hay pháp lí nào về các chỉ thị và nghị quyết của mình” (Sự thật, ngày 23 tháng 6 năm 1990).

Đã hình thành một hệ thống cấp bậc nghiêm ngặt với những đặc quyền đặc lợi được xác định một cách cũng rất nghiêm ngặt, mỗi người trong số họ bám lấy đặc quyền đặc lợi này còn chặt hơn những ông nghị viên Nga ngày xưa bám vào chiếc ghế trong nghị viện. Tất cả, không trừ một ai, từ anh chuyên viên khu ủy cho đến anh cán bộ trung ương.

Tuy vậy cũng không được coi thường vai trò của các ủy viên trung ương. Tuy không thật chính xác về mặt lịch sử, nhưng ta có thể so sánh Ban chấp hành trung ương với nghị viện của nước Nga xưa. Các ủy viên ban chấp hành (không kể những cô thợ vắt sữa hay những anh thợ tiện chỉ làm nhiệm vụ trang trí) đều nắm giữ các chức vụ quan trọng trong hệ thống quản lí nhà nước: Bí thư Ban chấp hành của các nước cộng hòa liên bang, bí thư tỉnh ủy, bộ trưởng, lãnh đạo KGB, lãnh đạo Bộ quốc phòng… Mỗi một Tổng bí thư mới đều tiến hành thay đổi thành phần Ban chấp hành, đều đưa “người của mình” vào để có thể tạo ra một đa số ngoan ngoãn ủng hộ mình. Ban chấp hành chưa bao giờ đóng vai trò quan trọng trong các cuộc “đảo chính cung đình”, các cuộc đảo chính bao giờ cũng được thực hiện trong Bộ chính trị, nhưng kết quả lại cần phải được hội nghị Ban chấp hành ủng hộ.

Tổng bí thư của tất cả các “nước xã hội chủ nghĩa”, không phụ thuộc vào chức vụ trong bộ máy nhà nước, là người có quyền lực cao nhất. Trên thực tế quyền lực này còn độc đoán và rộng hơn quyền lực của Sa hoàng. Vì vậy, nên coi chính quyền ở Liên Xô và các nước “xã hội chủ nghĩa” khác là nhà nước quân chủ chuyên chế, độc tài, chứ không phải là nước cộng hòa hay liên bang các nước cộng hòa gì cả. Hình thức chính quyền như thế cũng phù hợp với, theo đúng lí thuyết mác-xít về nhà nước và pháp luật, quan hệ sản xuất phong kiến và các quan hệ đặc thù khác của xã hội phong kiến.

Nguyên tắc “tôn sùng lãnh tụ” một cách công khai của Đảng phát xít của Hitler được che đậy bằng nguyên tắc “tập trung dân chủ” trong các nước “xã hội chủ nghĩa”, song sự tương đồng của các Đảng ấy rõ ràng đến nỗi chẳng cần mất thì giờ xem xét làm gì [8] .

Mặc dù về danh nghĩa thì tất các các cơ quan của Đảng, kể cả tổng bí thư đều do Đảng viên bầu, nhưng trong hệ thống bầu cử nhiều tầng nấc như thế, các ứng cử viên do cấp trên lựa chọn bao giờ cũng trúng cử, ngay cả khi tổ chức bỏ phiếu kín. Stalin chỉ có mấy “phiếu chống” mà số “chống” lại nhiều hơn Kirov, là Kirov và hai phần ba đại biểu đại hội XVII, đại hội được gọi là “Đại hội của những người chiến thắng”, đã mất mạng rồi! Stalin quả là một người đùa ác!

Trong các nhà nước phong kiến quyền lực của nhà vua được hỗ trợ bởi tôn giáo: hoàng đế là thiên tử, là con trời. Trong các “nước xã hội chủ nghĩa” lãnh tụ cũng được thần thánh hóa, ông ta được coi là người có trí tuệ siêu việt, thông thái không ai bằng, không có lĩnh vực hoạt động nào mà ông ta không thông hiểu, không có lĩnh vực nào mà những lời giáo huấn của ông ta không được đem ra áp dụng như những chân lí cuối cùng. Việc thần thánh hóa Lenin bắt đầu ngay từ khi ông ta còn sống. Một người mới thoát nạn mù chữ là Khrushchev cũng sẵn lòng đưa ra các giáo huấn cho các nhà văn và các nghệ sĩ, đa số những người này (ít nhất là về mặt công khai) đã ngoan ngoãn chấp nhận những lời giáo huấn đó. Nếu cả Stalin, cả Khrushchev lẫn Brezhnev (chưa nói đến Trernenko), trước khi giữ chức tổng bí thư đều chưa có gì chứng tỏ là những nhà thông thái siêu quần (Trotsky còn coi Stalin là “một sự tầm thường vĩ đại”) thì ngay sau khi lên chức, từng lời họ nói, thực chất là do các chuyên viên như Burlatsky viết, đều được nghiên cứu trong “hệ thống các trường Đảng”, được thảo luận trong các hội nghị và hội thảo khoa học, được hàng triệu các tuyên truyền viên, cổ động viên đem ra truyền bá chẳng khác gì các lời phán truyền của thượng đế.

Chưa nói đến con người “bất tử” là Lenin, một người được đặt trong Lăng giữa Hồng trường cho toàn dân chiêm ngưỡng, không ai đủ sức tính hết được các chức tước và danh vị của Stalin: Lãnh tụ của toàn thể loài người tiến bộ, Người cha, người thày và người bạn, Nhà bác học vĩ đại nhất của mọi dân tộc và mọi thời đại, Người cầm quân vĩ đại nhất của mọi dân tộc và mọi thời đại vân vân và vân vân… Ngay cả Brezhnev, một người chỉ mới đeo lon đại tá phụ trách chính trị và chưa từng chỉ huy ngay cả một đại đội cũng thành… “người cầm quân vĩ đại” như thường. Tôi không hiểu đối với đất nước thì giữa việc tặng cho Brezhnev huân chương “Chiến công” (trái với tiêu chí của Huân chương này) và tước danh hiệu này sau khi ông ta chết, điều nào nhục nhã hơn. Cả hai việc đều có đóng góp của Gorbachev.

Ở phương Tây, khi thấy các nước “xã hội chủ nghĩa” coi các lãnh tụ quá cố chẳng khác gì những người còn sống, lúc thì đưa lên tận mây xanh, lúc thì chửi rủa hết lời, người ta nói rằng các nước này có quá nhiều “tử khí”. Kể cũng có cơ sở.

Thái độ đó không hoàn toàn là đặc điểm dân tộc của người Nga. “Những người cầm lái vĩ đại” như Mao Trạch Đông, Kim Nhật Thành, Fidel Castro, Hồ Chí Minh, Enver Hoxha, Tito và nhiều người khác đã và đang được được đối xử hệt như thế [9] .

Thần thánh hóa lãnh tụ là hiện tượng gắn bó hữu cơ với hệ thống nơi một cá nhân độc chiếm quyền lực suốt đời. Nếu không thế thì trong điều kiện hiện nay không thể nào lí giải nổi cái sự tham quyền cố vị đến chết như thế. Chủ nghĩa vô thần cộng sản và thần thánh hóa là hai xu hướng loại trừ nhau. Quan điểm của “chủ nghĩa duy vật lịch sử”, bản chất của chế độ kinh tế hay quyền lực nhà nước không thể giải thích được hiện tượng này vì “nhân dân là người làm ra lịch sử”, họ cũng là người lựa chọn ra lãnh tụ. Dĩ nhiên lãnh tụ phải là người thể hiện được trí tuệ của nhân dân. Ngay Trernenko thì cũng vậy thôi [10] .

Tất nhiên điều đó cũng không loại trừ được các cuộc đảo chính cung đình, và cũng giống như thời các Pharaoh, lãnh tụ bị lật đổ (hay quá cố) sẽ bị đem ra “đấu tố”, sẽ bị ấn xuống tận bùn đen, tượng của ông ta sẽ bị đập phá, tên tuổi sẽ bị xóa khỏi bảng vàng bia đá.

Nhưng khi còn tại vị thì ông ta là thượng đế, là vua!

Sự thần thánh hóa còn lan sang cả các thành viên gia đình nữa. Trên tờ tạp chí Triều Tiên từng có bài viết về con trai Kim Nhật Thành với nhan đề: “Một trí tuệ bí ẩn”, trong đó có những câu như: “Nhà lãnh đạo thiên tài Kim Jong Il, người đại diện cho trí tuệ của dân tộc và sự thông thái của nhân loại…” v.v… Ceauşescu được gắn các danh hiệu: “Thiên tài vùng Karpat”, “Ánh thái dương”…, còn vợ ông ta thì được gọi là: “Người mẹ của nước Rumania”, “Nhà bác học vĩ đại”..v.v..

Một số người có thể phản bác bằng cách nói rằng thời quân chủ ngai vàng được thừa kế, nhưng lời phản bác như thế không có mấy giá trị: trong thời kì đầu của chế độ phong kiến việc bầu vua chúa không phải là chuyện hiếm. Ngoài ra việc thừa kế cũng đã được rục rịch chuẩn bị rồi: Ceauşescu đang chuẩn bị cho con trai tên là Nika tiếp thu ngai vàng, ở Bắc Triều Tiên công việc chuẩn bị như thế cũng đang được tiến hành.

Tất nhiên là cần phải nói đến các sự kiện năm 1989, khi các chế độ ở Đông Âu bắt đầu sụp đổ, còn Liên Xô thì lung lay.

Gốc rễ của nó là sự sụp đổ, sự phá sản của hệ thống kinh tế phong kiến trong điều kiện của nền kinh tế phát triển trên toàn thế giới. Chỉ nhờ sự giàu có đặc biệt và sức mạnh quân sự của Liên Xô, các chế độ thối nát đó mới tồn tại được, nhưng bây giờ thì chính nền kinh tế tập trung quan liêu của Liên Xô cũng cáo chung rồi.

Giai cấp cầm quyền buộc phải cải tổ. Nhưng họ cũng không thể nào khắc phục được những mâu thuẫn không thể dung hòa: Liên Xô, Hungary, Ba Lan muốn dùng tư bản nước ngoài để khôi phục lại nền kinh tề đã tan hoang, như vậy họ buộc phải chấp nhận ở một mức độ nào đó tư bản tư nhân, tư nhân hóa và thị trường. Gorbachev định làm như Lenin đã làm năm 1922: tạm thời lùi một bước để bảo toàn giai cấp cầm quyền, nhưng hiện nay thì không thể làm thế được nữa. Có thể vá một miếng vải còn tốt, nhưng khi miếng vải đã nát thì chỉ không còn chỗ nào mà bám nữa.

Thị trường “xã hội chủ nghĩa” là không khả thi. Giai cấp cầm quyền và chế độ của nó sống dựa vào “sở hữu xã hội chủ nghĩa”, hình thức sở hữu này chỉ dẫn đến đói nghèo, suy kiệt, năm năm “cải tổ” và tình trạng kinh tế ngày càng xấu đi của Liên Xô đã cho ta thấy rõ điều đó; thủ tiêu hình thức sở hữu này cũng có nghĩa là giai cấp cầm quyền và chế độ của nó sẽ tiêu vong. Gorbachev cố gắng thực hiện một chính sách “có căn nhắc và hài hòa” (ông ta rất thích nói như thế), để làm sao chó sói thì no mà cừu thì còn nguyên, nhưng hóa ra chỉ làm cho cả hai phía cùng tức giận mà thôi.

Các cuộc cải cách của ông ta là nhằm củng cố chế độ chứ không phải là tháo dỡ nó. Ngay cả chính sách đối ngoại hòa bình của ông ta cũng là do sự phá sản về kinh tế mà ra, khủng hoảng kinh tế không cho phép giữ nguyên bộ máy quân sự khổng lồ như cũ. Sự bất mãn và nguy cơ từ phía bộ máy của Đảng được Gorbachev dung hòa bằng cách làm cho nó ít phụ thuộc vào Bộ chính trị và Ban chấp hành trung ương, đồng thời lại cố gắng giữ quyền lãnh đạo cho nó cả trong Đảng lẫn trong các cơ quan chính quyền.

Cơ cấu các tổ chức Đảng ở địa phương là bản sao cơ cấu ở trung ương: Khi còn được cấp trên ủng hộ thì bí thư khu vực cũng có quyền lực không hạn chế đối với địa hạt của mình.

Cải cách của Gorbachev có mang lại thay đổi hay không? Đầu tiên, với khẩu hiệu “Tất cả chính quyền về tay Xô viết!”, Gorbachev kiên quyết chuyển các chức năng quản lí nhà nước từ các cơ quan Đảng sang các cơ quan chính quyền, các cơ quan Đảng chỉ làm nhiệm vụ chính trị, chỉ thực hiện chức năng định hướng, không còn chịu trách nhiệm về kinh tế và quản lí kinh tế nữa. Các cán bộ Đảng không còn phải kiêm nhiệm chức vụ trong các cơ quan nhà nước nữa. Nhưng sau đó, dưới áp lực của bộ máy của Đảng, Gorbachev đã thay đổi đường lối và chuyển sang hình thức kết hợp các chức vụ Đảng với chức vụ quản lí nhà nước, thí dụ bí thư huyện ủy kiêm luôn chức vụ chủ tịch huyện, bí thư tỉnh ủy thì kiêm chủ tịch tỉnh v.v… [11] Vì vậy khi Đảng cộng sản bị giải tán thì tầng lớp “nomenclature” vẫn giữ nguyên được chức vụ.

“Tất cả vẫn y nguyên, lời của ông bí thư vẫn là luật, vẫn không được bàn cãi mà phải thực hiện bằng mọi giá, nếu anh không thực hiện thì sẽ có nhiều chuyện lôi thôi. Như người ta nói, những kẻ “lên bằng đầu gối” đã mất giá khá nhiều, nhưng đây là nói trong các cơ quan dân cử và ở những thành phố lớn. Còn ở ngoại vi (chỉ cần cách thủ đô chừng hai trăm cây số thôi) thì thời gian như đã ngừng trôi. Mọi sự không vâng lời, mọi sự phản đối đều bị đàn áp một cách khốc liệt, bộ máy quyền lực vẫn hoạt động trong chế độ đàn áp, chưa có gì thay đổi cả… Nếu một người trước đây từng là bí thư, thì nay ông ta còn là chủ tịch Hội đồng nữa. Pháo đài quyền lực không hạn chế chỉ thêm mạnh hơn mà thôi! Điều 6 đã bị loại bỏ, thế cũng là đáng mừng rồi, nhưng nếu chú ý một chút thì ta sẽ thấy: hầu như tất cả các bí thư đều tự động trở thành chủ tịch Xô viết khu vực” (Tin tức, ngày 8 tháng 6 năm 1990).


Còn 8 kì nữa



[1]Sau cách mạng đã diễn ra quá trình hình thành “các nước cộng hòa độc lập” đầy hỗn loạn tại các tỉnh, các huyện, các thành phố. Không nói đến nước Cộng hòa viễn đông nổi danh, ngay tại thị trấn Kirsanov thuộc tỉnh Tambov cũng thành lập nước cộng hòa với chính phủ riêng. Thậm chí một số tập thể cũng tự tuyên bố là nước cộng hòa. Những “nước” này chẳng có liên quan gì với quyền dân tộc tự quyết hết.
[2]Hiện nay người ta biết rằng vụ này được thực hiện theo lệnh của Gorbachev, viện sĩ Primakov chỉ đạo, còn bộ trưởng quốc phòng Iazov thì trực tiếp chỉ huy.
[3]Có thể thấy bức tranh tượng trưng này trong những buổi quốc tang ở Moskva: Dẫn đầu đoàn đại biểu đón các vị khách nước ngoài là Andropov (sau này là Trernenko, sau đó nữa là Gorbachev), phía sau là Kosưgin, người đứng đầu chính phủ, cuối cùng mới đến ông Kuznetsov, người đứng đầu cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Bức tranh này thể hiện chính xác quan hệ giữa các cơ quan quyền lực nhà nước Liên Xô.
[4]Hóa ra tổng bí thư nào cũng muốn giữ ghế đến cuối đời, mà điều đó phải được ghi trong hiến pháp thì mới thực sự an tâm. Khrushchev đã thành lập ủy ban soạn thảo, nhưng chưa kịp công bố hiến pháp thì đã bị lật. Công việc được Brezhnev hoàn thành. Andropov và Trenenko thì không có thời gian. Gorbachev cũng định làm hiến pháp, công việc vừa bắt đầu thì ông ta bị lật.
[5]Lòng căm thù của lãnh đạo Đảng đối với tầng lớp trí thức chân chính là đặc trưng xuyên suốt trong toàn bộ lịch sử Đảng. Lenin, Trotsky, Stalin, Khrushchev đều săn đuổi tầng lớp trí thức. Chuyện đó đã xảy ra trong giai đoạn cách mạng, trong cuộc nội chiến và trong những năm 1930-1940. Kedrov, nhân viên an ninh được ca ngợi hiện nay đã tiêu diệt toàn bộ giới trí thức tỉnh Vologda, sau khi chiếm các nước vùng Baltic, Tây Ucraine, Bạch Nga và Moldavia, nhiều giáo sư, bác sĩ, luật sư v.v… bị đầy và bị giết hại ở Siberia. Khi bà M. Andreeva (vợ Gorky) phàn nàn về những vụ bắt giữ giới trí thức thì Lenin (ngày 18 tháng 9 năm 1919) đã trả lời: “Không bắt thì thật có tội…” và nhân vụ bắt giữ nhà văn Korolenko, Lenin viết: “Những “tài năng” kiểu đó có ngồi tù vài tuần cũng không sao… Lực lượng trí thức của công nhân và nông dân sẽ phát triển và lớn mạnh trong cuộc đấu tranh lật đổ giai cấp tư sản và bè lũ tay sai, những tên trí thức, đấy tớ tư bản nhưng lại cho rằng mình là trí tuệ của dân tộc, trên thực tế đây không phải là đầu óc mà là bã đậu”. Hiện nay thì “trí thức” được lãnh đạo Đảng coi là một từ đáng khinh.
[6]"Chúng tôi được giao “kế hoạch” kết nạp 3 người vào dự bị… “Tiêu chuẩn” kết nạp cán bộ khoa học kĩ thuật là: cứ 4 công nhân thì một cán bộ khoa học kĩ thật” (Sự thật, ngày 15 tháng 1 năm 1988). “Cải tổ” đã được 3 năm.
[7]Trong khu vực mang tên Dzerjinsky ở Moskva 47% số người ra khỏi Đảng vào năm 1989 là công nhân, trong khi tỉ lệ công nhân vào Đảng là 17% (Báo Moskva buổi chiều ngày 19 tháng 12 năm 1989)
[8]Xem: A. Unger. Tо Totalitarian Party. Party and People In Nazi Germany and Soviet Russia, L, 1974.
[9]"Bài hát về đại tá Kim Nhật Thành", "Đồng chí Kim Nhật Thành là mặt trời của nhân loại” (có những câu như sau: “Lãnh tụ vĩ đại Kim Nhật Thành, người là mặt trời của đất nước Triều Tiên, ngọn hải đăng của loài người, nhà tư tưởng lớn thời nay, anh hùng huyền thoại muôn đời, nhà chiến lược thiên tài của cách mạng…”. Đấy là nội dung tờ tạp chí Triều Tiên in bằng tiếng Nga (số 4 năm 1984). Trong đó còn có: “Trường ca về chiến công cách mạng vĩ đại của lãnh tụ kính yêu”v.v…
[10]Không thể không ghi nhận qui luật này, nhưng ở nước ta thì không được nói. Cách đây mấy năm, giáo sư Makhnenko thuộc trường đại học hàm thụ luật ở Moskva bắt đầu công khai phát triển ý tưởng rằng “sùng bái cá nhân” là qui luật của tất cả các nước “xã hội chủ nghĩa”. Dĩ nhiên là ông bị phản đối kịch liệt, không luật sư-đồng nghiệp nào ủng hộ ông. Giáo sư Makhnenko tự sát, ông chỉ để lại mảnh giấy với dòng chữ: “Chán nói dối quá rồi!”
[11]"Trong các tỉnh và các khu, bí thư thứ nhất vẫn là vua, là trời. Ông ta quyết định chính sách kinh tế, mức độ công khai và dân chủ và điều đáng ngại nhất là chính ông ta quyết định tốc độ thay đổi” (Tin tức, ngày 21 tháng 3 năm 1990)
Nguồn: Nguyên bản tiếng Nga:

Tổng số lượt xem trang