Thứ Sáu, 19 tháng 8, 2011

Liên Xô - Nhà nước phong kiến trá hình

-Liên Xô - Nhà nước phong kiến trá hình (Kì 9)

Phạm Nguyên Trường dịch

4. Kỉ luật lao động
  
Vấn đề kỉ luật lao động là vấn đề nan giải ngay từ những ngày đầu đối với chính quyền “Xô viết”. Biết bao khẩu hiệu đã bị vứt bỏ, biết bao khẩu hiệu mới theo kiểu “thi đua xã hội chủ nghĩa” đã được dựng lên, biết bao con bài đã được ném lên đầu nông dân và công nhân, những “chủ nhân ông” của xã hội, nhưng kỉ luật thì cứ ngày một xấu thêm. Chính sách “cây gậy và LỜI HỨA về của cà rốt” đã mất tác dụng vì cà rốt thì không có, còn cây gậy, đặc biệt là dưới trào Stalin, thì khủng khiếp hơn cả thời nô lệ và trung cổ, vượt mọi giới hạn có thể tưởng tượng được. Sau giai đoạn kinh hoàng đó, Khrushchev có vẻ như là một người tự do, nhưng bản chất của hệ thống thì vẫn như thế. Andropov, người đứng đầu ngành an ninh, vừa trở thành Tổng bí thư là lập tức bắt tay vào việc lập lại kỉ cương (nhiều người hiện còn tiếc rẻ: “Đáng tiếc là ông mất sớm quá, chưa lập lại được kỉ cương”). Nhân viên của ông ta kiểm tra người đi trên phố, người đang xếp hàng, người đang cắt tóc, người đang xem phim, thậm chí cả người đang tắm để hỏi xem vì sao người ta không làm việc! Đúng là trình độ tư duy của một cảnh sát, mà là người thông minh nhất, một thi sĩ nữa cơ đấy! Ông ta không thể nào nghĩ được rằng cần phải tạo điều kiện để làm sao người ta không bỏ việc trong giờ lao động! Bắt vào đồn những người đang xếp hàng mà không có giấy tờ tùy thân là sáng kiến tối thượng của người đứng đầu một cái Đảng đang xây dựng chủ nghĩa xã hội đấy!



Sự phi lí của hệ thống kinh tế và pháp luật thể hiện rõ nhất trong lĩnh vực sau đây: máy móc đứng không và “giả vờ làm việc” trong công nghiệp chiếm tới gần một phần năm thời gian, các phân xưởng, các nhà máy đứng không hàng ngày, hàng tuần, còn ban giám đốc và các “đoàn viên xung kích” lại đi ghi tên những người đến muộn 10 phút để sau đó cắt lương, cắt thưởng. Bức tranh thường gặp: gạch không, vữa không nhưng không được đi về, kỉ luật lao động không cho phép. Lạnh và buồn, công nhân đành giết thì giờ bằng sát phạt, đỏ đen, lấy tiền uống rượu. Ngày làm việc thường diễn ra như thế. Và cuộc đấu tranh với tệ uống rượu tại nơi làm việc đã thành công toi.

Thật khó đếm hết được số lượng các văn bản pháp qui đã được công bố. Khen thưởng chủ yếu là về mặt tinh thần: huy hiệu, cờ, giấy khen, “bảng vàng danh dự”, huân, huy chương v.v.. (mặc dù nhiều loại phần thưởng, kể cả danh hiệu”Anh hùng lao động” có kèm theo tiền)…

Hệ thống khen thưởng luôn được coi là phương tiện nâng cao năng suất lao động nhưng trên thực tế lại dẫn đến các biện pháp trừng phạt vì người ta thường mất thưởng vì không đi họp công đoàn, vì không chịu tham gia thu hoạch nông nghiệp, vì không tham gia ngày “lao động cộng sản” hoặc đơn giản là vì đã cãi nhau với thủ trưởng. Vì vậy trên thực tế tiền thưởng không có ảnh hưởng gì đối với kỉ cương và năng suất lao động, người ta được thưởng là do lòng tốt của thủ trưởng hoặc có thể giành được bằng những cách khác (thí dụ trích một phần tiền thưởng “biếu” cấp trên chẳng hạn)

Dưới thời Brezhnev, ngày 13 tháng 12 năm 1979, Ban chấp hành trung ương Đảng, Hội đồng bộ trưởng Liên Xô và dĩ nhiên là cả Tổng liên đoàn lao động nữa đã thông qua nghị định “Về việc củng cố (!) kỉ luật lao động và giảm luân chuyển cán bộ trong nền kinh tế quốc dân” (nghĩa là tăng cường sự nô dịch). Sau này Andropov cũng để lại dấu ấn: ngày 28 tháng 7 năm 1983 các cơ quan nói trên lại ban hành nghị định: “Về việc tăng cường (!) công tác nhằm củng cố kỉ luật lao động xã hội chủ nghĩa”. Hai nghị định này đưa ra thêm nhiều biện pháp trừng phạt: chuyển thời gian nghỉ phép từ mùa hè sang mùa đông và mùa xuân, kéo dài thời gian chờ đợi phân nhà “được hiến pháp bảo đảm”, đưa thêm nhiều lí do cắt thưởng hơn… Không có mặt 3 giờ đồng hồ bị coi là nghỉ việc (không còn là 20 phút như trước đây nữa!)…

Gorbachev tiếp tục “sự nghiệp” của Andropov bằng cách “xiết chặt thêm” bộ luật lao động. Từ đây, thí dụ khi vi phạm một số kỉ luật, người lao động có thể bị phân công làm tạm thời bất cứ việc gì (kĩ sư có thể đi quét rác chẳng hạn)…

Nếu kể hết các biện pháp đó thì dài và chán lắm, hơn nữa kết quả của chúng chỉ là con số không: kỉ luật lao động ngày một kém đi, năng suất lao động ngày một giảm, phế phẩm và trộm cắp thì ngày càng gia tăng…


5. An toàn lao động. An toàn lao động của phụ nữ và trẻ em

Ước gì tôi có đủ tài năng văn học để mô tả một cách sống động điều kiện lao động khủng khiếp của người công nhân tại “đất xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới” của chúng ta và có thể làm mủi lòng… không, không phải là “những Đảng viên cộng sản” của chúng ta (chẳng có gì có thể làm họ mủi lòng! Sinh mạng con người đối với họ chẳng có ý nghĩa gì!), mà là những người theo phái tự do, những người xã hội chủ nghĩa, các nhà hoạt động công đoàn và ILO kia! Trong nhiều xí nghiệp của chúng ta, kể cả các xí nghiệp nổi tiếng nhất, “tiên tiến nhất” như nhà máy ô tô ở thành phố Volga và thành phố Gorki, đều có các phân xưởng mà chỉ có các tù khổ sai làm việc, đấy là tù nhân của những trại giam có lính canh, sau giờ làm việc họ được đưa trở lại nhà tù; các bộ trưởng “cộng sản” yêu cầu Bộ nội vụ lập nhà tù gần các địa điểm sẽ xây dựng các nhà máy mới… Người ta còn đưa những người trong tuổi nghĩa vụ quân sự đến làm những công việc nặng nhọc và nguy hiểm, thí dụ gần nhà máy Trernobưl và các khu vực phóng xạ khác, dưới danh nghĩa luyện tập quân sự (tạp chí Ngọn lửa nhỏ, số 20 năm 1990). Đứng trước lệnh động viên, người ta chỉ còn cách hoặc là từ chối và sẽ bị đưa ra tòa theo điều 198 bộ luật hình sự của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga (điều này được qui định dưới thời của người “theo trường phái tự do” Nikita Khrushchev) và sẽ bị đưa vào trại cải tạo với những công việc cũng không kém phần nặng nề và nguy hiểm, lại mất tự do, cùng với những kẻ tội phạm khác hoặc là tuân thủ lệnh động viên phi pháp của ban chỉ huy quân sự. Đây là sự vi phạm trắng trợn công ước của ILO! Nếu kể hết ra thì nhiều vi phạm như thế lắm! Liên Xô đã vi phạm tất cả các công ước đã kí với ILO! Nhưng các quan chức của ILO chỉ nhìn thấy các vi phạm của các nước “tư bản chủ nghĩa” mà thôi: vừa có tiếng, vừa có miếng, lại an toàn hơn. Tất cả những đơn khiếu nại gửi đến ILO có xuất xứ từ Liên Xô đều được chuyển thẳng cho các viên chức Liên Xô làm việc trong ILO (họ được coi là các viên chức “quốc tế” và “độc lập”), những người này liền cho vào ngăn kéo khóa kĩ.
Người ta phải chấp nhận những điều kiện lao động khổ sai như thế còn vì “luật pháp thời nông nô” nữa: không có nhà ở, không có hộ khẩu, buộc phải sống ở một khu vực nhất định và nhiều xiềng xích pháp lí khác.

Không phải vô tình mà trong các bộ luật hồi những năm 20 quyền từ chối làm việc trong những điều kiện nguy hiểm bị bãi bỏ, mặc dù trước đó quyền này đã từng tồn tại (trên giấy, dĩ nhiên). Chỉ riêng ở các mỏ than mỗi năm đã có một ngàn rưởi người thiệt mạng (gần bằng số binh sĩ hi sinh trong cuộc chiến ở Afghanistan, đấy là theo các số liệu chính thức). Chỉ trong năm 1988 con số người thiệt mạng vì tai nạn, chưa kể tai nạn giao thông, đã là 200 ngàn. “Đấy là chỉ nói số người thiệt mạng vì vi phạm an toàn lao động”, chính báo Sự thật ngày 19 tháng 6 năm 1989 viết như thế đấy. Không ai chịu trách nhiệm cả. Trong một số vụ việc đặc biệt (thí dụ như vụ tai nạn ở nhà máy điện Chenobyl) các quan chức có thể bị đưa ra tòa, nhưng thường thì đấy lại không phải là những người thực sự có tội [1] , họ bị kết án nhẹ và thường thì không tìm được tội phạm. Vụ nổ nhà máy xử lí dầu ở Tartaria năm 1989 làm mấy người thiệt mạng, nhưng ai là người có tội nếu thiết bị có niên hạn sử dụng là 10 năm nhưng đã làm việc liên tục suốt 25 năm rồi? Tôi tin rằng những người lãnh đạo trực tiếp đã báo cáo lên trên, nhưng rồi bị bỏ qua. Xử ai? Ở nước ta người ta không xử lãnh đạo cấp cao, còn cấp thấp thì xử vì tội gì? Họ có thể làm được gì?

Các cuộc điều tra bao giờ cũng do chính các cơ quan có tai nạn thực hiện, với sự tham gia của “công đoàn”, mà “công đoàn” thì bao giờ cũng bảo vệ lãnh đạo, bao giờ cũng đổ lỗi cho công nhân. Thí dụ, tại một mỏ than ở Lvov, để chữa một giếng sâu 7 mét người ta đưa bốn công nhân đứng lên một cái bệ và hạ xuống, cái bệ nghiênh, cả bốn người đều bị ngã, một người chết. Lãnh đạo đã buộc ba công nhân còn sống tuyên bố rằng họ không có mặt ở đó, còn người chết thì say rượu. Vợ người xấu số kiện cáo khắp nơi nhưng không có kết quả. Các ủy ban của “công đoàn” luôn luôn khẳng định giả thuyết của lãnh đạo (báo Lao động, ngày 17 tháng 7 năm 1986 [2] ). Còn các bác sĩ thì bao giờ cũng cung cấp những chứng cứ mà lãnh đạo cần.

Thống kê các vụ tai nạn luôn bị sửa đổi. Thí dụ việc kiểm tra có lựa chọn của viện kiểm sát tại các mỏ than ở tỉnh Karagandin đã phát hiện 12 biên bản loại N-1 (biên bản tai nạn lao động) “chụp mũ các nạn nhân một cách vô căn cứ và coi họ là người có lỗi”. Đồng thời cũng phát hiện ra 72 trường hợp tai nạn đã không được thống kê. Nồng độ bụi cao hơn tiêu chuẩn cho phép đến 23 lần, nhưng “các phương tiện bảo hộ và phương tiện hút bụi không hoạt động. Hướng dẫn của các cơ quan kiểm tra an toàn, vệ sinh không được tuân thủ đã nhiều năm” (Tập hợp luật pháp, năm 1985, số 12). Có thể thấy trên báo chí hàng trăm bài nói về việc người ta đã đuổi các bác sĩ khi những người này kiên quyết yêu cầu khắc phụ tình trạng lộn xộn và các điều kiện lao động phi nhân.

Sự kiện Kairish (ngoại ô Leningrad) đã trở nên nổi tiếng và sau khi bị dư luận kiên quyết phản đối, người ta đã phải đóng cửa một nhà máy gây ô nhiễm cao đến mức không chỉ nhân viên của nó mà bệnh hen suyễn của người dân xung quanh đã tăng lên 35 lần kể từ khi nhà máy hoạt động vào năm 1974; ngoài bệnh này thì các công nhân viên của nhà máy còn mắc thêm nhiều bệnh khác như nấm, dị ứng, rối loạn hệ miễn nhiễm v.v… Tỉ lệ tử vong trong thành phố, nhất là trẻ em, tăng lên một cách đột ngột. Nhưng Bộ y tế đã hướng dẫn cho các bác sĩ rằng phải giải thích theo hướng đây là những bệnh có nguồn gốc “di truyền” (sau vụ Chenobyl người ta cũng giải thích như thế). Cần phải nói thêm rằng người ta đóng cửa nhà máy không phải vì thương công nhân và nhân dân khu vực mà vì nó đã làm ô nhiễm nước hồ Ladoga, đe dọa việc cấp nước cho thành phố Leningrad.

Xin kể một trường hợp cười ra nước mắt: theo kịch bản, cần phải quay những điều kiện lao động kinh khủng dưới thời Sa hoàng; các nhà làm phim đến nhà máy mang tên “Chiến sĩ” ở Moskva và vô cùng kinh ngạc khi thấy điều kiện lao động ở đây, họ bảo nhau: “Chẳng cần hóa trang, cứ cầm máy mà quay tất là xong: các phân xưởng tối tăm, máy móc cũ kĩ từ đời nảo đời nào, bẩn không thể nào chịu nổi” (báo Người đối thoại, số 12 năm 1988).

Không thể nào dẫn ra đây tất cả các sự kiện đã được công bố, chứng tỏ điều kiện lao động thật là khủng khiếp [3] . Nhưng trước hết xin lưu ý độc giả trường hợp sau đây: Tại một nhà máy luyện kim ở Trerepovets đã xảy ra hiện tượng dò khí Argon làm 5 người chết. Trước đó, do vi phạm qui định an toàn mà một thợ tiện thiệt mạng. Viên chánh kĩ sư của xí nghiệp chỉ bị cảnh cáo rồi được chuyển… về bộ! Sau khi đã dẫn ra các sự kiện như thế, cơ quan ngôn luận của “Đảng cộng sản” phán: “Cho đến nay, về mặt luật pháp, CHƯA XÁC ĐỊNH ĐƯỢC TRÁCH NHIỆM CỦA CÔNG NHÂN TRONG VIỆC VI PHẠM QUI ĐỊNH VỀ AN TOÀN LAO ĐỘNG” (báo Sự thật, ngày 18 tháng 2 năm 1988)! Mấu chốt vấn đề là ở đây! Cần phải trừng phạt công nhân, nhưng may quá, chưa có luật! Đúng là tâm lí của bọn chủ nô!

Có biện pháp bảo vệ người lao động và bảo đảm điều kiện làm việc bình thường cho họ hay không? Thực tế là không, mặc dù các luật sư chuyên sống bằng nghề nịnh hót chế độ có thể đưa ra rất nhiều qui định về quyền của người lao động và trách nhiệm của ban giám đốc. Qui định thì có, nhưng cơ chế bảo vệ nạn nhân thì không, kể từ việc lập biên bản của các cán bộ “công đoàn” và cán bộ quản lí cho đến các tòa án của nhà nước. Thí dụ, để có thể thắng một vụ kiện về việc đền bù cho người công nhân bị tai nạn lao động thì phải chứng minh được rằng ban giám đốc có lỗi. Trái với tiêu chuẩn pháp lí được xác định ngay từ thời chế độ chiếm nô ở La Mã, nemo debet esse judex in propria causa (không ai được làm quan tòa trong vụ án của mình), đơn kiện được gửi cho chính ban giám đốc giải quyết [4] , mà điều kiện tiên quyết để có thể đền bù là phải chứng minh rằng họ có lỗi, nếu ban giám đốc chấp nhận đền bù nghĩa là chấp nhận có lỗi [5] thì sẽ gặp nhiều phiến toái. Vậy ban giám đốc có chịu đền bù hay không?

Sau khi bị từ chối như thế, người lao động có thể đưa vụ việc lên cấp xét xử thứ hai: ban chấp hành “công đoàn” của chính xí nghiệp đó. “Công đoàn” ăn lương của ban giám đốc và đại diện cho quyền lợi của nó. Về nguyên tắc, đơn kiện như vậy thật khó mà được đáp ứng.

Cuối cùng là nấc thứ ba: tòa án nhân dân. Lúc này tòa đã có quyết định, tài liệu và lí lẽ của hai cấp bên dưới rồi, còn nguyên đơn thì đã mệt mỏi và đã không hoàn toàn tin rằng mình đúng nữa, anh ta đã bị đè bẹp về mặt tinh thần. Vì vậy chỉ cần tòa án đáp ứng một phần yêu cầu thì anh ta đã coi là thắng lợi.

Phương pháp tính toán số tiền đền bù như sau: phần đền bù vượt ngưỡng lương hưu do nhà nước qui định phải đem trừ đi khả năng lao động còn lại (tính theo phần trăm) và phần lỗi của người lao động (nhất định họ sẽ tìm được) và kết quả số tiền đền bù sẽ chẳng đáng là bao. Đây chỉ là một thí dụ chứng tỏ trên thực tế những đảm bảo về mặt pháp lí và trách nhiệm của ban giám đốc về điều kiện an toàn lao động mù mờ đến mức nào (Điều 139 bộ luật lao động).

Điều kiện lao động của phụ nữ còn nặng nề hơn. Họ phải làm những công việc nặng nề nhất với đồng lương thấp nhất.

Đã từng xuất hiện trên báo chí các châm biếm, tranh vui với người đàn ông tay cầm bút và sổ tay thống kê công việc của những người phụ nữ với xẻng và xà beng, có khi cả búa đào đường trên tay [6] .

Luật về bảo vệ lao động của phụ nữ và trẻ em phát triển như thế nào? Làm ngoài giờ đã nói đến bên trên; ở đây xin nói về nghỉ thai sản và nghỉ đẻ. Cương lĩnh đầu tiên của “Đảng cộng sản” hứa cho 28 ngày nghỉ trước và 42 ngày nghỉ có trả lương sau khi sinh.

Cương lĩnh thứ hai còn đi xa hơn: 8 tuần trước và 8 tuần sau khi sinh. Đấy là luật lao động năm 1922. Nhưng từ năm 1938 (tất nhiên là được “công đoàn” đồng ý) thời gian nghỉ chỉ còn 35 ngày trước và 28 ngày sau khi sinh.

Năm 1944 thời gian nghỉ lại tăng thành 77 và 42 ngày.

Và hiện nay, theo điều 165 bộ luật lao động thời gian nghỉ là 56 ngày trước và 56 ngày sau khi sinh ít hơn năm 1944 (tổng số) là 5 ngày. Sau khi trải qua một đoạn đường dài “xây dựng chủ nghĩa cộng sản”, vượt qua “chủ nghĩa xã hội phát triển” chúng ta đã quay lại với tiêu chuẩn của 70 năm trước.

Cương lĩnh thứ hai của Đảng (1919) hứa: “Cấm sử dụng lao động trẻ em dưới 16 tuổi, cấm làm việc ban đêm trong những lĩnh vực đặc biệt độc hại cũng như cấm phụ nữ và người chưa đủ 18 tuổi làm việc ngoài giờ…”. Điều 130 bộ Luật lao động năm 1922 viết: “Phụ nữ và người chưa đến 18 tuổi không được làm việc vào ban đêm”. Nhưng điều này lại kèm thêm ghi chú như sau: “Dân ủy lao động, khi có sự đồng ý của Tổng liên đoàn lao động (dĩ nhiên rồi!), được quyền cho phép sử dụng lao động phụ nữ trưởng thành vào ban đêm trong những lĩnh vực đặc biệt cần thiết”.

Và thế là ngay từ năm 1925 Dân ủy lao động đã cho phép sử dụng lao động nữ vào ban đêm. Sau này luật pháp chỉ cấm hoặc hạn chế sử dụng những người đang mang thai hoặc cho con bú vào ban đêm mà thôi. Nghị định của Hội đồng dân ủy Liên Xô ngày 12 tháng 7 năm 1940 cho phép công nhân viên chức trên 16 tuổi làm ca đêm theo qui định chung.

Liệu có thể biện hộ cho sự vi phạm những lời hứa như thế, nhất là sau khi đã xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội vào năm 1936? Đối các nhà luật học đã có nghề thì đấy không phải là vấn đề: “Việc cải thiện không ngừng điều kiện lao động trong các xí nghiệp của Liên Xô đã dẫn đến sự giảm thiểu đáng kể những độc hại đặc thù của ca đêm. Mặt khác, đã tổ chức các nhà trẻ cho các cháu có mẹ làm ca đêm, trong một số (!) nhà trẻ còn có các nhóm làm việc suốt ngày đêm. Như vậy là đã tạo được những điều kiện thuận lợi cho phụ nữ làm việc vào ban đêm và loại bỏ được những ảnh hưởng tiêu cực (!) đối với người phụ nữ trong vai trò người mẹ và người giáo dục con cái [7] ”. Thật là một sự dối trá vô lương vì ngay cả bây giờ, sau 40 năm kể từ ngày “tác phẩm khoa học” ấy ra đời, cũng không làm gì có những điều kiện như thế.

Xin chuyển sang trẻ em và vị thành niên: Luật năm 1922 cấm nhận lao động dưới 16 tuổi, nhưng thanh tra lao động, trong những trường hợp đặc biệt, có thể cho phép nhận trẻ từ 14 tuổi trở lên. Điều 173 bộ luật hiện hành cũng chỉ cho phép nhận người đủ 16 tuổi, nhưng nếu được công đoàn đồng ý thì có thể nhận trẻ đủ 15 tuổi.

Nhưng luật qui định “nhận người vào làm việc” chứ không qui định việc sử dụng lao động trẻ em! Đã hàng chục năm nay trẻ em (7 – 8 tuổi), người ta còn nói với tôi rằng cả tuổi mẫu giáo nữa, phải làm việc trên những cánh đồng trồng bông và thuốc lá, dưới cái nắng cháy da ở Trung Á, khi nhiệt độ trong bóng râm là 45, khi ngay cả chó cũng phải lè lưỡi và bò vào bóng cây. Những cánh đồng đầy phân hóa học và thuốc trừ sâu, nhiều loại đã bị cấm sử dụng.

Ngay những chủ nô ở châu Mĩ, những người coi nô lệ không khác gì súc vật cũng không làm như thế vì đấy là súc vật của mình, có giá và phải giữ gìn khả năng lao động cho chúng. Không phải vô tình mà nhân dân đã nói lái “thu hoạch bông” thành “nô lệ bông” [8] đã làm cho các chủ nô của Đảng Cộng sản Liên Xô vô cùng tức tối. Mặc dù về mặt chính thức thì sử dụng lao động trẻ em bị cấm gắt gao nhưng việc đó vẫn tiếp diễn ngay cả bây giờ, ngay cả trong giai đoạn “cải tổ”, “dân chủ hóa” và “công khai hạn chế” hiện nay.

Phụ nữ và trẻ em phải làm việc trên các cánh đồng trồng thuốc lá, từ sáng sớm đến tối mịt, trong những điều kiện tương tự như thế. Ở nhà họ còn phải sử lí, nghĩa là phơi, trộn lá thuốc và tất nhiên là phải chịu mọi hậu quả. 70% phụ nữ bị bệnh thiếu máu, trẻ em thì 100% (Báo Văn học, ngày 23 tháng 3 năm 1987). Tỉ lệ tử vong ở trẻ em rất cao.

“Đảng” đã có phản ứng như thế nào đối vơi những vi phạm “chỉ thị” như thế? Năm 1990 Ban chấp hành trung ương đã “xem xét” vấn đề này. Dĩ nhiên đấy là vào mùa đông, vụ thu hoạch đã kết thúc rồi. Sau khi xác nhận “có hiện tượng sử dụng bất hợp pháp lao động trẻ em (xin lưu ý không phải việc sử dụng nói chung mà là sử dụng trái pháp luật, điều này sẽ được giải thích bên dưới), nghĩa là “làm việc mà không có giải lao theo qui định, với định mức quá cao, điều kiện sinh hoạt không đảm bảo…” (người ta đã dùng những câu tròn trĩnh để mô tả những sự kiện kinh khủng như thế đấy), Ban chấp hành trung ương ghi nhận rằng những người có lỗi đã bị trừng phạt. Bạn nghĩ rằng đã bị trừng phạt đến mức sau này người ta không còn dám hành hạ trẻ em nữa ư? Trừng phạt như thế này: ở Moldavia 19 lãnh đạo “bị kỉ luật hành chính” (không phải kỉ luật Đảng, càng không phải ra tòa mà chỉ là cảnh cáo, có thể xóa một cách dễ dàng), còn ở tỉnh Trimkent của Uzbekistan (các nơi khác chẳng có gì để nói) thì có 143 cán bộ bị thanh tra kĩ thuật của công đoàn bị phạt tiền (trong nghị quyết Ban chấp hành trung ương không thấy nói phạt bao nhiêu, nhưng các thanh tra viên chỉ có quyền phạt không quá 10 rub). Đấy là tất cả mức độ kỉ luật mà nghị quyết Ban chấp hành trung ương ghi nhận. (Tin tức của Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, số 2, trang 23-24, năm 1990). Cái nghị quyết như thế có thể ngăn chặn được “nạn diệt chủng âm thầm” này hay không [9] ?

Thường thì những đứa trẻ mà theo luật pháp chỉ phải làm việc bán thời gian sẽ chỉ được nhận vào làm nếu chúng tự nguyện làm việc toàn thời gian (lúc còn nhỏ tôi đã từng chấp nhận như thế, thậm chí đồng ý làm việc cả ca đêm; biết làm sao, nếu không thì đừng hòng được nhận). Tờ Tin tức ngày 21 tháng 10 năm 1985 viết rằng những đứa trẻ chăn cừu 15 tuổi phải làm việc không có ngày nghỉ từ 6 giờ sáng đến 7 giờ chiều. Cậu bé Seriogia mới 13 tuổi còn phải đóng thuế… không con! Năm 14 tuổi cậu đã phải đứng máy gặt đập liên hợp “từ sáng sớm đến tối mịt”.

Hình thức “trại hè lao động - bồi dưỡng sức khỏe cho trẻ em” (chính là trại đấy!) cũng rất thịnh hành và được khuyến khích, ở đây các em được nghỉ ngơi kết hợp với lao động sản xuất. Nhưng thường thì điều kiện lao động, sinh hoạt và nghỉ ngơi không đáp ứng được yêu cầu tối thiểu. Thí dụ tại tỉnh Omsk người ta đã phun thuốc trừ sâu vào các cháu bé đang làm việc trên cánh đồng làm nhiều cháu bị ốm (báo Sự thật thanh niên ngày 15 tháng 7 năm 1983).

Tôi mới chỉ đưa ra ở đây một phần rất nhỏ các sự kiện đã được công bố. Một phương pháp mị dân cũ kĩ, đã được sử dụng từ thời Stalin, đấy là báo chí của Đảng tự phát hiện và phê phán một số hiện tượng tiêu cực để khắc phục. Nhưng, thứ nhất, báo chí chỉ công bố một phần rất nhỏ (các tờ báo trung ương nhận mỗi ngày từ 1 đến 2 ngàn bức thư, đa số là đơn tố cáo); thứ hai, cách phản ứng của họ thể hiện rõ qua nghị quyết của Ban chấp hành trung ương về sử dụng “bất hợp pháp lao động trẻ em” trên các cánh đồng trồng bông và thuốc lá đã nói bên trên; thứ ba, tình hình nói chung không thay đổi. Tháng 2 năm 1991 tại nhà máy Liublinski đã xảy ra một cuộc đình công phản đối điều kiện lao động tại đây (công nhân đã thắp lửa để sưởi).


6. Tranh chấp lao động
  
Những vụ tranh chấp về lao động được giải quyết như thế nào (tranh chấp có thể xảy ra, thí dụ, về vấn đề phân phối nhà ở, phân phối đất vườn, vé đi nghỉ, cũng như thái độ bất nhã của lãnh đạo đối với công nhân v.v…)? Không có một khung pháp lí nào để giải quyết những vụ tranh chấp như thế. Cho đến mãi giai đoạn gần đây, pháp luật chỉ điều chỉnh những vụ tranh chấp giữa các cá nhân người lao động với ban lãnh đạo mà thôi. Điều 70 bộ luật lao động Liên Xô viết như sau: “Ủy ban hòa giải là cơ quan đầu tiên có trách nhiệm xem xét các tranh chấp về lao động”. Nhưng điều này sai bởi vì thủ tục giải quyết nhiều trường hợp tranh chấp lao động được qui định khác [10] .

Ủy ban hòa giải được lập trên cơ sở đại biểu bằng nhau, đại diện cho ban lãnh đạo xí nghiệp và “tổ chức công đoàn”. Sau những điều đã trình bày về “công đoàn” thì rõ ràng là người lao động phải trình bày tố cáo ban lãnh đạo xí nghiệp với chính những người đại diện và bảo vệ cho nó.

Ủy ban hòa giải phải xem xét yêu cầu của người lao động trong thời hạn 5 ngày, nhưng pháp luật lại không đưa ra bất kì bảo đảm nào về việc tuân thủ thời hạn, thành ra người lao động phải chờ đợi hàng tháng trời. Quyết định của ủy ban chỉ có hiệu lực nếu nó được nhất trí thông qua. Nếu ủy ban không đưa ra được quyết định hay người lao động không chấp nhận quyết định đó thì trong thời hạn 10 ngày anh ta phải đưa lên ban chấp hành “công đoàn”. Ban chấp hành công đoàn phải xem xét trong thời hạn 7 ngày, nhưng ở đây cũng không có qui định nào về việc tuân thủ thời hạn cả (mặc dù người lao động có quyền đưa lên cấp cao hơn sau thời hạn này).

Chỉ sau khi có quyết định của công đoàn người lao động mới có quyền, trong thời hạn 10 ngày, đưa vụ việc ra tòa. Tòa sẽ xử theo trình tự tố tụng dân sự.

Không cần phải là luật sư, từ những điều đã trình bày ngắn gọn bên trên, cũng có thể rút ra kết luận rằng mục đích của những thủ tục đó là: tạo ra thật nhiều trở ngại và chứng tỏ sức sống của câu ngạn ngữ: “Tránh voi chả xấu mặt nào” [11] .

Người lao động bị ban lãnh đạo cho thôi việc có thể đưa vụ việc ra tòa án nhân dân trong vòng một tháng. Nếu người lao động bị cho nghỉ việc mà chưa có sự đồng ý của ban chấp hành công đoàn thì theo bộ luật “cải tổ” năm 1988 của Gorbachev, tòa án sẽ chỉ cứu xét vụ án sau khi ban chấp hành công đoàn đã xem xét (điều 213, bộ luật lao động Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga). Nếu ta biết rằng không có gì bảo đảm là ban chấp hành công đoàn sẽ xem xét đơn của đương sự đúng kì hạn và sau khi nghỉ việc người lao động không còn được lĩnh lương nữa, sau khi nghỉ việc một tháng “thời gian công tác liên tục” cũng bị cắt và phải làm thêm 6 năm nữa thì khi nghỉ ốm mới được lĩnh phụ cấp ốm đau là 100% lương, chỉ những người cực kì nguyên tắc và tin tưởng tuyệt đối vào sự đúng đắn của mình mới dám theo đuổi việc kiện cáo ban lãnh đạo. Cần phải nói rằng có những vụ kiện kéo dài hàng năm trời, nhưng năm 1988 Gorbachev đã chấm dứt chuyện này bằng cách sau: sau một năm kể từ ngày tòa án hoặc cơ quan cấp trên ra phán quyết về việc từ chối khôi phục, đơn từ của người lao động sẽ không còn được xem xét nữa.

Trong trường hợp được phục hồi, theo Luật lao động năm 1922, người lao động sẽ được nhận toàn bộ tiền lương do bị buộc phải nghỉ việc, điều này có thể coi là công bằng (nhưng phải nhận rằng luật của Cộng hòa liên bang Đức còn công bằng hơn, theo luật nước này thì người lao động được trả toàn bộ tiền lương cho đến khi được phục hồi hoặc từ chối phục hồi). Nhưng nghị định liên tịch ngày 28 tháng 12 năm 1938 của Hội đồng dân ủy Liên Xô, Ban chấp hành trung ương Đảng (b), và dĩ nhiên của Tổng liên đoàn lao động nữa, qui định chỉ trả cho người được phục hồi không quá 20 ngày! Chuyện đó xảy ra là vì sau khi đã phê phán một cách giả vờ “chủ nghĩa Ezhov” (vụ khủng bố hàng loạt năm 1937) tại hội nghị trung ương năm 1938, rất nhiều tù nhân được tha và vì trước đây, khi những người đó bị bắt thì tất cả bạn bè, người thân của họ đều bị đuổi việc, nhiều người được phục hồi, nhà nước phải hoàn trả một số tiền rất lớn. Thế là nhà nước quyết định tiết kiệm. Năm 1972 (gần 20 năm sau khi Stalin chết) thời hạn được nới thành 3 tháng. Rõ ràng là 3 tháng thì hơn 20 ngày, nhưng có thể coi đấy là công bằng không khi người lao động phải theo đuổi một thời gian dài hơn nhiều mới được phục hồi [12] .

Bây giờ xin nói đến những người gọi là “trong danh sách”: đây là tiếng lóng mà các luật sư dùng để chỉ những chức danh nằm trong danh sách số 1 và số 2, Phụ lục số 1 của Qui định về thủ tục xem xét các tranh chấp về lao động. Đây là danh sách rất dài các chức vụ lãnh đạo kể cả các đốc công và những công nhân viên bình thường: bình luận viên vô tuyến truyền hình và đài phát thanh, hướng dân viên và phiên dịch viên của Hãng lữ hành quốc tế, nghệ sĩ, ca sĩ .v.v.. Nếu bị cho nghỉ việc hoặc bị thi hành kỉ luật thì những người này không được quyền đưa vụ việc ra tòa. Họ chỉ có thể tố cáo hành động của lãnh đạo lên cơ quan cấp trên, trên thực tế những người này không được pháp luật bảo vệ. Những người lao động trong một số ngành tuân theo cái gọi là qui tắc kỉ luật như: vận tải, thông tin, năng lượng, thợ mỏ… cũng ở trong hoàn cảnh tương tự. Vì vậy một trong những yêu cầu của thợ mỏ đình công năm 1989 là bãi bỏ qui tắc kỉ luật (được họ gọi là “luật thời chiếm nô”).

Tình trạng một số rất đông người lao động không được pháp luật bảo vệ rõ ràng là không phù hợp với nguyên tắc bình đẳng giữa các công dân mà “hiến pháp Stalin” tuyên cáo. Vì vậy mà điều 58 “hiến pháp Brezhnev” năm 1977 đã qui định quyền kiện ra tòa hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền lợi công dân của tất cả các quan chức. Nhưng điều khoản này cũng như tất cả các điều khoản của hiến pháp Liên Xô đều có kèm thêm: “theo qui định của pháp luật”. Vì vậy mà điều này đã trở thành vô nghĩa trong một chục năm trời và mãi đến năm 1987 người ta mới ban hành bộ luật được chờ đợi từ lâu. Nhưng hóa ra sự chờ đợi lại bị phản bội: luật này vẫn giữ nguyên các trình tự khiếu kiện trước đó và thật không hiểu người ta ban hành cái luật ấy để làm gì.

Vì luật này bị phê phán mạnh mẽ nên ngày 2 tháng 11 năm 1989 Xô viết Tối cao Liên Xô “thời cải tổ” đã thông qua luật mới: “Về trình tự khiếu nại ra tòa các hành vi vi phạm pháp luật của các cơ quan quản lí nhà nước và các quan chức xâm phạm quyền lợi của công dân”. Nhưng nó cũng chẳng khác luật năm 1987 là mấy. Ngay trong Lời nói đầu nó đã tuyên bố rằng vì luật pháp Liên Xô đã qui định các công dân được bảo vệ tại tòa án nếu xảy ra những xâm phạm quyền lợi của mình, trong đó có quyền lao động nên công dân không được quyền đưa ra tòa “…nếu pháp luật Liên Xô và pháp luật các nước cộng hòa có qui định khác về thủ tục khiếu nại”. Nói các khác sự bất bình đẳng vẫn được giữ nguyên.

Cuối cùng Ủy ban giám sát hiến pháp đã công nhận rằng điều này là vi hiến. Nhưng pháp luật lại không qui định hiệu lực trực tiếp của phán quyết này nếu không thay đổi ngay chính điều luật. Vì vậy thật khó dự đoán tương lai sẽ như thế nào.


7. Bảo hiểm xã hội của nhà nước
 
Xin trình bày một cách khái quát tình trạng bảo hiểm xã hội của các tầng lớp dân cư tại “đất nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới”. Nông trang viên hoàn toàn không được bảo hiểm, còn lương hưu, đấy là nói từ khi được áp dụng, chỉ là 20 – 30 rub một tháng. Mặc dù luật hưu trí năm 1964 qui định các điều kiện như nhau về hưu bổng đối với nông trang viên, công nhân và viên chức, nhưng theo “nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội” là “hưởng theo lao động” nên lương hưu phụ thuộc vào tiền lương mà lương của nông trang viên, đặc biệt là của nữ nông trang thì bao giờ cũng thấp nhất. Chỉ từ ngày 1 tháng 11 năm 1985 lương hưu tối thiểu của nông trang viên mới được nâng lên mức 40 rub một tháng.

Nhưng khái niệm “tối thiểu” cũng chưa phải là “thấp nhất” vì “mức lương thấp nhất” vì nhiều lí do có thể còn thấp hơn tối thiểu (“thấp hơn tối thiểu” – có phải là một sự phi lí không?). Báo Tuần lễ (số 2 năm 1988) đưa tin một bà mẹ có 7 người con nhận 13 rub lương hưu! Mẹ của viên thuyền trưởng tàu ngầm tên là A. Marinesko, người bị Hitler coi là “kẻ thù trực tiếp”, còn nhà nước Liên Xô thì tặng cho nhiều năm tù đầy (năm 1990, sau khi chết, ông được phong anh hùng Liên Xô) được mức lương hưu là 27 rub một tháng. Chỉ riêng ở Nga (các nước cộng hòa khác không có số liệu) đã có 4,5 triệu người nhận lương hưu với thời gian làm việc chưa đủ niên hạn (không có qui định mức tối thiểu). Hiện nay mức lương tối thiểu được qui định là 70 rub. “Người ta cảm thấy kinh hoàng vì những con số như thế”, tờ “Tin tức” (ngày 18 tháng 2 năm 1991) viết, “khi biết rằng mức sống tối thiểu theo tính toán hiện nay là 110 rub. Một số nhà khoa học cho rằng tối thiểu phải là 220-250 rub một tháng thì mới sống nổi. Trong trường hợp đó gần một nửa dân số nằm dưới mức nghèo khổ. Xin nói thêm rằng nếu so với mức sống tối thiểu của người công nhân phương Tây thì đa số nhân dân sẽ phải được coi là thuộc loại nghèo đói.

Lương hưu tối đa theo luật hiện hành (chưa kể phụ cấp một số nghề nghiệp) là 120 rub. Trong những năm 80, những gia đình có thu nhập bình quân đầu người là 50 rub (ở Viễn Đông và Siberia là 75 rub) được coi là khá giả (Bản tin của tòa án Tối cao, 1983, số 51). Người tàn tật và người già cả không nơi nương tựa, theo luật, được nhà nước nuôi, người tàn tật bẩm sinh được trợ cấp 30 rub một tháng (nghĩa là 1 rub một ngày cho tất cả các nhu cầu từ ăn, mặc, ở, đi lại, chăm sóc…!). Từ ngày 1 tháng 1 năm 1987 trợ cấp cho người tàn tật bẩm sinh đã được nâng lên: loại 1 (hoàn toàn mất khả năng lao động và cần người chăm sóc) được 50 rub một tháng, loại 2 được 40 rub, nhưng qua 16 tuổi thì tất cả đều chỉ được 30 rub!

Trợ cấp cho các bà mẹ đông con còn đáng ngạc nhiên hơn (và kinh tởm hơn!). Trợ cấp bắt đầu khi đứa trẻ đủ một năm tuổi và chỉ có trong vòng BA NĂM (!!! tại sao?) với số tiền như sau: gia đình 4 con được 4 rub một tháng (không phải đánh máy nhầm đâu, đúng là 4 rub một tháng! Dưới đây cũng không đánh máy nhầm!), nghĩa là mỗi đứa trẻ được 1 rub một tháng, nhưng nếu có 11 con thì được hơn: 15 rub một tháng! Xin hãy so với giá lương thực, thực phẩm, hoa quả: 3 rub mua được 10 quả trứng gà, 3 rub một cân táo (đấy là nói trong cửa hàng mậu dịch, ngoài chợ thì 8-10 rub, có khi đắt hơn), 50 xu một cân khoai tây (ngoài chợ 3-4 rub), cân thịt giá 25 – 30 rub (cửa hàng không bán)… Xin không liệt kê thêm nữa vì giá cả tăng một cách đột biến từng ngày và khi tôi viết những dòng này thì số liệu đã trở thành cũ, nhưng trợ cấp và lương hưu thì không tăng nhanh như thế. Cần phải nói thêm rằng trợ cấp không được phát cho các bà mẹ tại nhà. Để được nhận họ còn phải xin hàng chục chữ kí, xếp biết bao nhiêu hàng nữa kia… Tên khốn kiếp nào có thể nghĩ ra biện pháp hạ nhục con người đến như thế? Làm sao những “đại biểu của dân” có thể thông qua mức trợ cấp như thế [13] ?

Các nhà “xã hội chủ nghĩa” phương Tây nhất định sẽ hỏi: làm sao lại như thế, trợ cấp thế thì làm sao sống? Số trẻ em tử vong, dù đã được “sửa chữa”, sẽ giải đáp những câu hỏi ấy của họ.

Dối trá! Tartuf [14] còn lâu mới vươn tới được mức độ đạo đức giả của radio, TV, báo chí trong việc nịnh hót nhà nước “cộng sản”!

Ở Liên Xô chính phủ cũng như “công đoàn” không tiến hành tính toán mức sống tối thiểu. Đôi khi các trường đại học có làm việc này. Theo số liệu của một trong những trường như thế thì chi phí cho riêng nhu cầu mặc của một bé gái 7 tuổi “ít nhất cũng là 420 rub một năm” (Tin tức, ngày 22 tháng 9 năm 1987). Tôi đã thử tính lại, với chất lượng quần áo thấp như hiện nay thì chi phí phải lớn hơn nhiều.

Người ta đặt ra mức trợ cấp thấp, không khác gì một vụ lăng nhục như thế để làm gì? Để cho các bà trong “quĩ nhi đồng” và các nhà hoạt động “công đoàn” có thể tuyên bố ở nước ngoài rằng: “Các bà mẹ đông con được nhận trợ cấp của chính phủ”. Họ sẽ không nói cụ thể là bao nhiêu. Ai ở phương Tây quan tâm đến chuyện đó?

Điều 100 Cơ sở của luật lao động Liên Xô viết: “Bảo hiểm xã hội của công nhân viên chức do nhà nước thanh toán” (!). Quĩ bảo hiểm xã hội do các xí nghiệp, công sở, cơ quan đóng góp mà không có bất kì khoản khấu trừ nào từ tiền lương của công nhân viên chức…”

Ôi, đất nước “xã hội chủ nghĩa”, đất nước của “toàn thể nhân dân” của chúng ta! Người cho chúng tôi tất cả, người cho chúng tôi cơm ăn, áo mặc, nhà ở, không khí để thở và nước để uống! Cám ơn người mãi mãi! Cám ơn người đã bảo hiểm “miễn phí” cho chúng tôi! Cám ơn người đã chữa bệnh “miễn phí”, nhưng chúng tôi lại phải trả cao hơn bất kì nước nào khác! Cám ơn người đã dạy chúng tôi học “miễn phí” trong những ngôi trường sắp sập, ca ba và đôi khi cả ca bốn nữa! Xin cám ơn người [15] !

Nhưng vẫn còn đó một câu hỏi nhỏ: nhà nước ta lấy đâu ra tiền để làm tất cả những chuyện đó?

Xin hãy suy nghĩ một chút, biết bao khoản chi tiêu: cho quân đội, đông hơn cả quân đội Mĩ và Trung Quốc cộng lại, cho hàng ngàn xe tăng, rồi còn tầu vũ trụ, tên lửa, bom nguyên tử và nhà máy điện nguyên tử Chenobyl nữa! Lại còn những khu nhà nghỉ của nhà nước, những khu nhà dành riêng cho những chuyến đi săn, những người cần vụ và biết bao thứ khác nữa! Thế mà nhà nước vẫn còn dành cho chúng ta một khoản gọi là bảo hiểm nữa! Các bà mẹ đông con còn được lĩnh mỗi tháng 1 rub cho mỗi đứa con!..

Năm 1989, ngay trước mắt bàn dân thiên hạ, những người “đại biểu của nhân dân” đã yêu cầu tăng mức trợ cấp cho những người nghèo nhất mà không đợi luật hưu trí mới có hiệu lực. Chính phủ trả lời: không có tiền! Thế là các “đại biểu” đành im. Nhưng ngay sau đó người ta đã nâng lương cho cán bộ Đảng và nhà nước lên gấp đôi (các đại biểu dĩ nhiên là cũng được). Việc này thì có tiền!

Sự lạc hậu của chế độ bảo hiểm được công nhận một cách chính thức vì luật bảo hiểm đã được soạn lại. Nhưng khác với các văn bản về quyền hạn của lực lượng vũ trang thuộc bộ Nội vụ hay các “đơn vị đặc nhiệm”, về tình trạng khẩn cấp, về ngăn chặn các cuộc đình công, về việc tuần tra hỗn hợp giữa quân đội và công an v.v… là những văn bản có hiệu lực ngay lập tức, luật hưu trí thì còn lâu mới được đem ra áp dụng. Vì vậy mà trên thực tế chứ không phải trên giấy nó sẽ như thế nào thì chỉ lúc đó mới rõ mà thôi. Nhưng có một điều đã rõ: nó sẽ chẳng tạo ra một tí thay đổi nào đối với cuộc sống của chúng ta.


Còn 3 kì nữa



[1]Tầu mang tên Nguyên soái Nakhimov, được đóng từ năm 1924, đã bị thủy lôi bắn trong chiến tranh, dĩ nhiên là mức độ an an toàn đã giảm, sau khi đụng độ với một tàu khác đã bị chìm trong vòng 8 phút làm thiệt mạng hơn 400 người. Cả hai thuyền trưởng đều phải ra tòa. Nhưng ai là người có lỗi, nếu người ta vẫn cho dùng những chiếc tàu có thời hạn sử dụng, theo luật, chỉ là 20 năm (hiện nay có hơn 100 tàu thủy như vậy, có những chiếc được đóng từ năm 1917)? Thực ra sau khi Nakhimov bị chìm, Bộ trưởng bộ hàng hải và một số quan chức khác đã bị cách chức, nhưng hình phạt như vậy có tương xứng không? Ngành công nghiệp đường sắt cũng ở trong hoàn cảnh tệ hại, một phần ba số toa tầu đã hết hạn sử dụng, cháy, lật khỏi đường ray, chết người… Có gì thay đổi đâu? Chỉ có một điều là trong giai đoạn “công khai” thì các vụ tai nạn được thông báo, các lái tầu và nhân viên bẻ ghi thường là những người có lỗi.  
[2]Phù hợp với qui chế điều tra và thống kê các trường hợp tai nạn lao động, được chủ tịch đoàn Tổng liên đoàn lao động thông qua ngày 13 tháng 8 năm 1982, các trường hợp say rượu có thể không được công nhận là tai nạn lao động. Điều đó tước đoạt người lao động hay vợ con người đó (trong trường tử vong) quyền được bồi thường. Nhưng để người lao động làm việc ở trong tình trạng say rượu mà ban lãnh đạo lại không có lỗi ư?  
[3]Xin dẫn một vài thí dụ: Moskva, nhà máy Stankolit - nồng độ bụi cao hơn giới hạn cho phép từ 5 đến 10 lần (Sự thật Moskva, ngày 12 tháng 9 năm 1986). Ulianovsk, nhà máy Kontaktor - nồng độ chì trong không khí vượt mức cho phép 16 lần, nồng độ khí HF cao hơn 20 lần. Công nhân phàn nàn với giám đốc là thiết bị vận chuyển không hoạt động thì được trả lời: “Các anh sẽ khiêng, vác thế nào thì tùy, nhưng kế hoạch vẫn phải hoàn thành” (Tin tức, ngày 26 tháng 12 năm 1987).
Ủy ban của Xô viết Tối cao Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga thảo luận về tình hình tại liên hợp Krasnoiarsklesprom: bụi xi măng cao hơn giới hạn cho phép 10 lần, mùa đông nhiệt độ trong các phân xưởng thấp hơn – 50oC, bệnh tật và tai nạn năm sau cao hơn năm trước, ngoài cảm cúm còn có thêm các bệnh như phụ khoa, xương-cơ, bệnh đường tiêu hóa. Bệnh viện, phòng khám đa khoa, nhà ăn, quần áo bảo hộ đều thiếu nghiêm trọng. Công nhân phải làm ngoài giờ rất nhiều. Tổng giám đốc liên hiệp phải công nhận: “Đôi khi công nhân phải sống trong các thùng đựng hàng!” Mà đây là Sibiria, nhiệt độ có khi xuống đến – 50oC! “Cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất” kết luận như thế nào? Không có kết luận gì hết. Họ “sẽ quay lại vấn đề này vào tháng 3 năm sau” (Nước Nga Xô viết, ngày 24 tháng 7 năm 1987).  
[4]Những vụ kiện như thế “chỉ được tòa án xem xét nếu lãnh đạo xí nghiệp và công đoàn đã có quyết định về tranh chấp” (mục 7 nghị quyết của đoàn chủ tịch tòa án Tối cao Liên Xô ngày 23 tháng 10 năm 1963).  
[5]Xem mục б nghị quyết trên.  
[6]"4,2 triệu phụ nữa lao động chân tay, không hề có máy móc gì hết… Trên các công trường xây dựng có 2500 phụ nữ làm công việc đào đất mà không có bất kì dụng cụ cơ khí nào, 3,5 triệu phụ nữ làm việc trong môi trường độc hại…”. Báo Tin tức, ngày 28 tháng 6 năm 1989 đã viết như thế.  
[7]N. G. Aleksandrov và những người khác. Pháp luật về lao động. Hướng dẫn. М, 1947, trang 201
[8]chơi chữ “khlopkorob” và “khlopkorab”, rab nghĩa là nô lệ -ND
[9]Tôi đã viết mấy bức thư gửi một số tờ báo trung ương, trong đó có tờ Tin tức, về nghị quyết này của Ban chấp hành trung ương Đảng, nhưng không nhận được trả lời. Xin nói thêm rằng tôi còn viết cho cả tờ Tư duy Nga ở Paris và đài Tự do nữa. Cũng không có hồi âm. Có vẻ như chẳng ai thèm quan tâm đến đề tài này. Ngoài các cháu nhỏ và cha mẹ chúng. Nhưng họ thì làm được gì?  
[10]Như trên đã nói, khiếu nại về đền bù thiệt hại cho nhân viên trước hết được ban lãnh đạo xí nghiệp, sau đó là công đoàn xem xét. Khiếu nại về phục hồi công tác được chuyển thẳng cho tòa án nhân dân. Khiếu nại về bảo hiểm xã hội do КТС xem xét, tòa án không giải quyết. Các vấn đề này được “các ban chấp hành công đoàn” và các cơ quan bảo hiểm xã hội xử lí.
Khiếu nại của một số thành phần về nhiều lĩnh vực tranh chấp, như đã nói bên trên, chỉ được giải quyết bởi các cơ quan quản lí cấp trên.
[11]dịch thoát ý, nguyên nghĩa là: Đừng đánh nhau với người khỏe, đừng kiện cáo người giầu - ND
[12]Tôi từng có mặt, hồi những năm 1960, trong một buổi tọa đàm của các luật sư, nơi người ta thảo luận dự thảo bộ luật lao động, trong đó có vấn đề trả tiền cho người nhân viên nếu người đó bị buộc thôi việc một cách trái pháp luật. N. Aleksandrov, cây đa cây đề, của nền luật học Liên Xô đã giải thích tại sao lại không trả toàn bộ thời gian nghỉ việc: “để nhà nước không phải tốn quá nhiều tiền, tòa án sẽ không phục hồi công tác cho những người bị buộc thôi việc một cách phi pháp”. Đúng là logic của luật sư Liên Xô!
[13]Tất cả các số liệu có thể được kiểm tra trong cuốn: Bảo đảm xã hội ở Liên Xô. Tập hợp các văn bản pháp qui. М, 1986, trang 417,458 ..v.v..
[14]Nhân vật của Molie, Kịch tác gia Pháp. BT
[15]Tiếu lâm hiện đại: “Mất mùa là tại thiên tai, Được mùa là tại thiên tài Đảng ta” (dịch thoát ý – ND).
Nguồn: Nguyên bản tiếng Nga: http://lit.lib.ru/t/tille_a/text_0010.shtml



Anatoly Tille - Liên Xô - Nhà nước phong kiến trá hình (Kì 10)


Phạm Nguyên Trường dịch

 
Chương 10. Luật hình sự

Chính sách về hình pháp
  
Lịch sử của “chính quyền Xô viết” là một chuỗi dài, không thể nào kể hết, những tội ác chống lại nhân dân, là một vụ diệt chủng thật sự mà Hitler không thể nào so sánh được. Thực chất nó là một chính quyền tội phạm. Danh sách những tội ác mà nó đã phạm ở nước ngoài cũng dài vô tận (Hungary, Tiệp Khắc, Ba Lan, Afghanistan, các nước vùng Baltic…)

Thu nạp cống vật là bản chất của hệ thống phong kiến được che đậy bởi mẽ ngoài “xã hội chủ nghĩa” này.
Vì vậy, từ quan điểm pháp lí, tất cả những “nhà hoạt động Đảng và nhà nước” được đưa vào hệ thống đều là những kẻ ăn hối lộ, những tên tội phạm. Không phải vô tình mà sau những cuộc cách mạng dân chủ ở Đông Âu vào mùa thu năm 1989, người ta được biết rõ những vụ ăn cắp và hối lộ ở ngay những cấp lãnh đạo cao nhất. Gần như ở đâu cũng đòi đưa các nhà lãnh đạo cũ ra tòa.
Việc giới tội phạm và bộ máy Đảng-nhà nước thâm nhập vào nhau là điều đương nhiên. Ngay chính Shelokov khi vừa nắm được bộ Nội vụ đã ban hành nhật lệnh nội bộ (dĩ nhiên là không được công bố) trong đó có nói đến một sự kiện mà nay ai cũng biết, đấy là sự liên kết giữa bộ máy cảnh sát với giới tội phạm [1] .

Các nhà khoa học Xô viết xuất phát từ luận điểm cho rằng pháp luật là công cụ của giai cấp cai trị nhằm nô dịch nhân dân lao động. Chính sách hình pháp của Liên Xô khẳng định luận điểm này ngay từ khi nó mới được thành lập. Mặc dù người ta luôn tuyên bố ngược lại rằng hình luật là phương tiện bảo vệ nhân dân, chống lại một nhúm những kẻ bóc lột.

Không thể kìm được bất bình khi nói đến “tội lỗi” của nhân dân. Ngay cả bây giờ, trong “giai đoạn cải tổ” mà hàng ngàn người vẫn bị kết án theo điều 198 bộ Luật hình sự: “vi phạm chế độ hộ khẩu”, nghĩa là sống không hộ khẩu, trái hẳn với điều 13 Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền mà Liên Xô đã hứa tôn trọng (mãi cuối năm 1991 điều 198 mới bị bãi bỏ).

Hàng chục ngàn người đã bỏ xác trong các trại cải tạo vì “tội” đó, cũng như vì không có mặt tại vị trí công tác 21 phút, hàng chục ngàn người đã bị bắn vì đi mót những bông lúa rơi trên đồng sau vụ thu hoạch [2] !

Sau chiến tranh “luật bảy phần tám” [3] đã mất hiệu lực và nghị định của Chủ tịch đoàn Xô viết Tối cao Liên Xô ngày 4 tháng 6 năm 1947 (dân chúng gọi đơn giản là nghị định) “với mục đích tăng cường cuộc đấu tranh chống ăn cắp tài sản xã hội chủ nghĩa” đã qui định mức án tù đến 25 năm. Hàng đoàn người nối đuôi nhau vào trại giam không hẹn ngày về. Như một bài hát trong trại giam ngày đó:

Đi về Bắc cực… Thời hạn cao su…

Phải luôn nhớ rằng nhà tù là một loại xí nghiệp xã hội chủ nghĩa làm theo kế hoạch, các xí nghiệp này cần thường xuyên bổ sung nhân lực. Để làm được như thế, nhà nước phải giữ cho tình trạng tội phạm luôn ở một mức nhất định. Vì vậy khi kế hoạch của các xí nghiệp bị đe dọa, thí dụ, sau vụ ân xá nhân dịp 70 năm Cách mạng Tháng Mười (tạp chí Ngọn lửa nhỏ, số 32, năm 1988), người ta phải bắt đầu chiến dịch “đấu tranh với tội phạm”, cảnh sát bắt người với đủ lí do, tòa án đưa ra “thời hạn” và kế hoạch đã được hoàn thành.

Nhưng trong “giai đoạn cải tổ” thì tội phạm hoành hành khắp nơi. Không chỉ dân chúng mà nhà nước cũng phát hoảng. Các nhà “tội phạm học” Xô viết cho rằng dưới chế độ xã hội chủ nghĩa chủ nghĩa Marx đã không còn giá trị nữa. Chủ nghĩa Marx khẳng định rằng điều kiện xã hội là nguyên nhân của tội phạm. Các nhà khoa học thường nói rằng ở nước ta điều kiện phát sinh tội ác đã không còn, tội ác chỉ là “tàn dư của quá khứ”. Nhưng là một người duy vật, tôi cho rằng tội phạm gia tăng một cách khủng khiếp như hiện nay là do:
  1. sự tan rã một cách toàn diện hệ thống kinh tế xã hội của đất nước và sự phân hóa xã hội mà ai cũng biết (trừ các nhà khoa học): sự bần cùng hóa của công nhân và nông dân cùng với sự giầu lên đột ngột của tầng lớp cán bộ và giới mafia trong lĩnh vực công-thương nghiệp;
  2. sự phá sản của hệ tư tưởng cộng sản, một chân không đạo đức là kết quả của cuộc đấu tranh chống lại tôn giáo;
  3. sự hợp nhất của bộ máy nhà nước với giới tội phạm, sự phát triển của tội phạm có tổ chức và mafia;
  4. hệ thống nhà tù và “hộ khẩu” đảm bảo tạo ra những kẻ tái phạm và bổ sung cho thế giới tội phạm có tổ chức những tên tội phạm ngày càng chuyên nghiệp hơn [4] .
      
Những người mác-xít hoàn toàn có lí khi cho rằng luật hình sự mang tính giai cấp. Tính giai cấp thể hiện trong toàn bộ hình pháp, trong quan điểm xét xử, trong việc thi hành án v.v… Hình pháp và luật hình sự có mục đích bảo vệ giai cấp cầm quyền, đe dọa và đàn áp các tầng lớp cần lao. Tôi hi vọng rằng điều này đã được chứng minh trong các chương trên, nhưng nó còn rõ ràng hơn khi ta xem xét luật hình sự và đặc biệt là sự tùy tiện và phi pháp diễn ra trên thực tế hàng ngày.

Ở Ashkhabad (Turkmenia) đã tổ chức một phiên tòa điển hình [5] , xét xử một nhân viên bán hàng tên là Mamedorazova. Chị ta được xác định có tội là đem giấu dưới gầm bàn (không phải là ăn cắp mà chỉ là cất đi cho khách quen) mấy chiếc tất liền quần của trẻ con (báo Sự thật thanh niên, ngày 31 tháng 10 năm 1982)! Trong khi đó tầng lớp cán bộ, các nhà lãnh đạo nước cộng hòa và những công hầu khanh tướng của họ chia nhau hàng triệu rub công quĩ mà không việc gì.

Việc đưa ra tòa những tên ắn cắp và những kẻ nhận hối lộ giữ chức vụ cao là chuyện hi hữu và thường thì đấy là kết quả của những cuộc tranh chấp giữa các vương tôn. Chúng ít khi bị đem ra tòa, tòa mẫu thì lại càng hiếm vì những kẻ chiến thắng cũng chẳng muốn “vạch áo cho người xem lưng”. Dưới thời Brezhnev người ta đã phát hiện ra những vụ “chạy” đặc xá của Nasriddinova, “tổng thống” Uzbekistan, nhưng bà ta chỉ bị giáng chức xuống làm .. bộ trưởng! Báo chí đã viết công khai và khá rõ về việc nhận hối lộ của các ủy viên Bộ chính trị như Grishin (Moskva), Romanov (Leningrad), Aliev (Azerbaizhan), Demirtran (Armenia), Kunaev (Kazakhstan) và những người khác, nhưng cũng chẳng ai dám động đến họ và họ vẫn sống vui vẻ trong các biệt thự của mình (biệt thự của Kunaev ở gần ngay bức tượng được dựng khi ông ta còn sống) và còn được nhận lương hưu đặc biệt nữa. Medunov, đầu Đảng của những kẻ ăn hối lộ miền Nam nước Nga còn được nhận một căn hộ ở Moskva (dĩ nhiên là không phải xếp hàng) và an hưởng tuổi già thật xa những nơi ông ta từng hoạt động trước đây.

Ngay cả tội lỗi của các viên chức cấp thấp hơn cũng thường được bao che, kéo dài và được cho “chìm xuồng”. Chỉ những trường hợp chẳng đặng đừng, thí dụ, có người chết, thì họ mới bị đem ra xét xử và án phạt cũng thường rất nhẹ [6] .

“Người thường” thì lại khác. Vụ án “những người tạo mẫu” được báo chí nói đến rất nhiều có thể được coi là vụ điển hình. Nội dung vụ này như sau: tại một nhà máy ở Moskva có mấy người thợ tạo mẫu tay nghề rất cao (phải có các mẫu bằng gỗ với độ chính xác rất cao thì mới có thể đúc được các linh kiện kim loại). Các nhà máy khác cũng đặt mẫu ở đây và thường thì các đơn hàng này đều thuộc loại khẩn cả (thí dụ khi một linh kiện bị hỏng mà không thể mua được, phải tự làm), đơn giá là của nhà nước, nhưng đây là những đơn giá đặc biệt. Chắc là những người thợ này có thu nhập khá, có kẻ nào đó ghen ăn tức ở đã báo cáo lên trên. Viện kiểm sát khởi tố vụ án và xác định là các bị can đã ăn cắp tổng cộng 260.738,99 rub! Chính xác đến thế là cùng! Với số tiền “ăn cắp” lớn như thế, họ bị xử theo điều 93 bộ luật hình sự với mức hình phạt là 8 đến 15 năm tù và có thể tử hình (mức nào thì cũng kèm theo tịch thu tài sản). Giám đốc các xí nghiệp đặt hàng đã làm chứng tại tòa và khẳng định rằng những người thợ này đã cứu xí nghiệp của họ, rằng nếu không có những người thợ khéo tay như thế thì nhà nước đã bị thiệt hại rất lớn, số tiền họ trả là rất nhỏ, không thể nào so sánh được với thiệt hại có thể xảy ra nếu không có những người thợ ấy… Vô ích! Các quan tòa kiên quyết đứng về phía quyền lợi của nhà nước và mặc dù một bị can có nhiều huân huy chương trong cuộc chiến tranh vệ quốc, ba người công nhân vẫn bị xử với những mức án 8, 12 và 14 năm tù giam (tôi không biết họ bị bắt khi nào, nhưng tòa án thành phố Moskva phán quyết vào ngày 4 tháng 8 năm 1981).

Cần phải xem xét trường hợp này một cách thật cẩn thận vì nó như một giọt nước phản ánh toàn bộ sự phi lí và tính giai cấp của nền tư pháp Liên Xô: bên đặt hàng kí hợp đồng chính thức với nhà máy, chính giám đốc xí nghiệp kí hợp đồng, dự toán và đơn giá do phòng tài chính kế toán lập. Mấy người công nhân này lĩnh tiền từ thủ quĩ theo bảng lương, mà họ chỉ được một phần, phần lớn hơn (75%) thuộc về nhà máy và được đưa vào công quĩ. Không một cán bộ lãnh đạo nào của nhà máy bị đưa ra tòa cả.

Tại sao lại là ăn cắp? Phi lí chứ còn gì nữa! Đúng, phi lí đối với những đất nước bình thường, với những con người bình thường, với nhận thức pháp lí bình thường, với nền luật pháp bình thường!

Nhà văn Burkovski đã nói rất đúng: “Chả lẽ đời sống ở Liên Xô lại là thực ư, chả lẽ Liên Xô không phải là một thế giới điên rồ tưởng tượng, nơi có những người Xô viết bịa tạc đang xây dựng chủ nghĩa cộng sản huyền hoặc, sinh sống ư?”

Mãi đến ngày 4 tháng 12 năm 1986 tòa án Tối cao Liên Xô mới hủy bỏ bản án “những người tạo mẫu” (Bản tin của tòa án tối cao, năm 1987, số 2). Như vậy là mấy người thợ này đã bị “ngồi” (thực ra là họ không ngồi mà phải làm) tù 6 năm! Chẳng vì lí do gì!

Những người quen bảo vệ và biện hộ cho “chủ nghĩa xã hội” sẽ nói rằng đây là một trường hợp đặc biệt. Vâng, đây là một trường hợp đặc biệt, nhưng nó đặc biệt chỉ vì hoàn toàn vô tình mà hội thẩm nhân dân trong vụ này là một nhà báo, một người có tư duy bình thường chứ không phải là một luật sư. Vì anh nhà báo này kịch liệt phản đối bản án nên bị cho ra rìa và được thay bằng một hội thẩm nhân dân “gật” khác (giới tội phạm gọi hội thẩm nhân dân là “bọn gật”). Nó đặc biệt vì tờ Báo Văn học đã tham gia vào cuộc đấu tranh gian khổ và kéo dài, từ lúc kết án cho đến khi bản án bị hủy bỏ. Điều đó càng chứng tỏ rằng đây là một vụ án rất bình thường vì việc hủy bỏ bản án đã phá hỏng thực tiễn pháp lí do tòa án Tối cao đặt ra! Tòa án tối cao hủy bỏ bản án, nhưng như thường thấy ở nước ta, để không phải trả tiền đền bù cho những năm tháng tù đày vô cớ, tòa lại gán cho những người công nhân tội theo điều 153 bộ luật hình sự (hoạt động kinh doanh tư nhân). Không thể nào giải thích cho người ngoại quốc hiểu được tội này là gì; đây chính là “cải cách kinh tế” đang được người ta cổ động hiện nay và cho ra tù vì “đã chấp hành đủ thời hạn của bản án” theo điều luật này. Có thể gọi là “hoạt động kinh doanh tư nhân” trong khi người ta làm việc tại nhà máy và lĩnh lương từ thủ quĩ được ư? Phi lí đối với một luật sư bình thường! Nhưng đối luật sư Liên Xô thì không.

Không phải hàng trăm mà là hàng ngàn vụ như thế (theo tuyên bố của Borovski, Chủ tịch Đảng tự do kinh tế, thì hiện có 127 ngàn người bị kết án những tội tương tự như thế, những tội mà hiện nay được coi là hoạt động kinh tế thị trường bình thường). Một nhà báo kể lại rằng tài liệu về hàng trăm vụ án kiểu đó chất đầy bàn viết của anh ta. Một trong những vụ nổi tiếng và có tiếng vang là vụ án giám đốc một nông trường ở Kazakhstan tên là Khudenko. Nhận làm giám đốc một nông trường đang thua lỗ, Khudenko đã biến nó thành ra có lãi, thu nhập của người lao động tăng lên rõ rệt. Tờ “Báo Văn học”, ngày 21 tháng 5 năm 1962 đã có bài ca ngợi ông ta (đấy là thời “tự do” dưới trào Khrushchev). Khudenko bị khởi tố ngay khi báo phát hành, người ta định khởi tố cả tác giả bài báo nữa. Nhưng sau khi được tha, Khudenko đã đòi đền bù. Viện kiểm sát lại khởi tố và Khudenko đã chết trong tù (Báo Văn học, ngày 21 tháng 1 năm 1987)!

Goriatrkin, làm chủ tịch nông trang (tỉnh Moskva) năm 1962 khi nông trang này nợ nhà nước 300 ngàn rub. Trong các năm 1964-1966 nông trang này có tổng số lãi là 1.381 ngàn rub. Goriatrkin và ba người nữa bị bắt, họ bị giam 10 tháng trước khi ra tòa và bị kết án “ăn cắp tài sản xã hội chủ nghĩa”. Thế đấy, trước khi bị ăn cắp nông trang nợ đìa, sau khi bị ăn cắp nông trang thành ra có lãi! Ngay người lính áp giải cũng phải thốt lên: “Họ là những tên ăn cắp thì rõ rồi, nhưng tôi cũng không hiểu họ ăn cắp cái gì nữa? (Tin tức, ngày 3 tháng 6 năm 1967). Thực ra là Goriatrkin đã tổ chức một xưởng sản xuất phụ, đơn giá tiền lương ở đây cao hơn đơn giá của nhà nước. Thu nhập của công nhân cao… đến… 300 rub! Trong 3 năm chênh lệch so với đơn giá của nhà nước là 36 ngàn rub. Và đây chính là “vụ ăn cắp”! Xin nói thêm rằng nông trang là tập thể, là người chủ, vì sao ông chủ lại phải trả lương cho công nhân theo đơn giá nhà nước?

Giukov, chủ nhiệm một hợp tác xã đánh cá (tỉnh Novorossisk) đã làm cho hợp tác xã thành ra có lãi cũng bị kết án “ăn cắp” mặc dù tất cả nhân chứng đều khẳng định rằng ông ta không bỏ túi một xu nào (nghĩa là ông đã không cống nạp lên trên). Tòa án Tối cao đã xử trắng án, nhưng ông ta cũng đã ngồi tù khá lâu (Báo Văn học, 14 tháng 1 năm 1987).

Bản án của một vụ tương tự đã ghi rằng: “Kẻ biển lận không hề thu được một chút lợi ích kinh tế nào” (Báo Văn học, ngày 14 tháng 1 năm 1987).

Những vụ án như thế xảy ra vào giai đoạn “cải tổ” của Khrushchev, khi một số người tin rằng hệ thống đã thay đổi, sáng kiến có thể phát huy và biến chuyển có thể xảy ra.

Những vụ án như thế diễn ra suốt những năm đó, khi mà lãnh đạo Đảng và nhà nước trên thực tế đã cướp bóc đất nước một cách trắng trợn mà không hề chịu bất kì sự trừng phạt nào.

Tuy vậy, những vụ án phi lí như thế cho ta thấy rõ một qui luật chính trị, một sự liên quan của chúng với hệ thống những quan hệ lao động cưỡng bức, với sự độc quyền của nhà nước trong việc áp đặt đơn giá tiền lương thấp. Bất cứ người lãnh đạo nào có ý định thiết lập một hệ thống khác, bất cứ người nào có ý định nâng lương cho người lao động đều bị coi là kẻ phá hoại hệ thống lao động cưỡng bức và đe dọa sự tồn vong của chế độ. Đấy là lí do vì sao có hàng ngàn vụ án và tại sao một tờ báo ở trung ương phải đấu tranh với tòa án Tối cao suốt 6 năm trời mà vẫn không chứng minh được cho các luật sư rằng “những người tạo mẫu” không hề ăn cắp gì cả.

Tất cả các vụ án đều được nặn ra theo sơ đồ sau: “Người ta áp ‘tiêu chuẩn và đơn giá thống nhất’ lên công việc thực tế đã hoàn thành. Ở đâu mà chả có chênh lệch và đấy chính là ăn cắp… Từ cách tính như thế, điều tra viên rút ra kết luận: ‘công việc thực tế đã hoàn thành là 10.628 rub, nhưng lại nhận những 13.626 rub, như vậy số tiền bị ăn cắp là 12.628 rub’. Xin độc giả hãy giải bài toán mẹo này. Xin hãy xem xét thật kĩ sự phi lí này. Nhưng đấy chính là bản luận tội (Tin tức, ngày 25 tháng 9 năm 1987). Mức độ chính xác của bản luận tội không phải là điều mà các điều tra viên, công tố viên và tòa án quan tâm. Họ chỉ cần biết rằng can phạm đã trả hoặc đã nhận nhiều hơn “đáng lẽ phải thế” là đủ. Điều này quả thật rất tai hại cho nền kinh tế “xã hội chủ nghĩa”, nhưng chính sách như thế bảo đảm cho sự an toàn của chế độ, bảo đảm sự an toàn cả quyền lẫn tiền cho bộ mày Đảng. Và tất cả đều biết: cần phải trừng phạt, còn nó có phù hợp với luật pháp hay không không phải là điều quan trọng. Trong các văn phòng của bộ máy từng có câu nói vui: “Hãy đưa cho chúng tôi một người, chúng tôi sẽ tìm cho anh ta điều khoản áp dụng [7] ”.

Thật khó xác định “chỉ thị” không được có các vụ xử trắng án được đưa ra từ bao giờ, vì cũng như đã nói bên trên về nguồn gốc này của pháp luật Liên Xô, “chỉ thị” thường là miệng, không được thể hiện trong bất cứ tài liệu nào và còn bị phủ nhận một cách công khai nữa. Tôi cho rằng “chỉ thị” được đưa ra vào khoảng những năm 60 của thế kỉ trước, đấy là sau chiến dịch ngưng hàng loạt các vụ án hình sự và giao những tên tội phạm cho các đơn vị “bảo trợ”, tội phạm thì gia tăng mà số nhân công trong các trại giam lại giảm mạnh.

Lí do của “chỉ thị” là như sau: pháp luật Liên Xô là hiện thân của công lí và công bằng. Tuyên một người vô tội thì chẳng hóa ra đã khởi tố người ta một cách “oan uổng” ư. Không thể có chuyện đó [8] ! Nhưng chỉ thị như thế là hoàn toàn trái pháp luật cho nên khó mà tìm được chúng trong sách báo công khai hồi đó, chúng chỉ có thể vô tình lọt lưới kiểm duyệt và biên tập viên mà thôi. Sau năm 1985 có thể tìm được khá nhiều các “chỉ thị” như thế, nhưng tất cả đều ở thời quá khứ.

Vì vậy việc khởi tố một người cũng đồng nghĩa với việc kết tội người đó. Các “ma cũ” trong các trại tạm giam thường khuyên “ma mới” nhận ngay: “nhận ngay thì nhẹ”. Các điều tra viên cũng nói ngay từ đầu như thế. Cũng vì lí do đó mà người ta còn khuyên không nên kháng cáo.

Đây là một vụ điển hình: một phụ nữ bán căng tin tên là Zina Teliakova mất tích (kèm theo 600 rub của căng tin). Sách hình sự dạy rằng các vụ giết người mất xác thường là do những người thân cận thực hiện, mùa xuân năm đó người ta phát hiện được xác một phụ nữ đang thối rữa trên con sông gần đấy. Thế là rõ! Mẹ chồng và chồng của bà Zina tên là Alekseiev bị kết án 5 năm tù. Từ trong tù Alekseiev gửi ra 800 là đơn kêu cứu với tiếng thét: “Zina còn sống! Hiện ở tỉnh Stalingrad!”, nhưng như tờ báo đã viết: “chỉ một lá đơn có kết quả”, đấy là theo kháng nghị của công tố viên, Tòa án Tối cao Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga đã tái thẩm bản án và… TUYÊN ALEKSEIEV 10 NĂM TÙ GIAM! Những người khác trông gương đó mà đừng kháng án nữa! Sau khi mãn hạn [9] , Alekseiev tìm được địa chỉ vợ cũ và lại viết đơn, lần này thì ông được minh oan!

“Những người bảo vệ” pháp luật có chịu trách nhiệm gì không? Viện trưởng viện kiểm sát tỉnh Tambov bị cách chức… và (xin đừng lo!) chuyển sang làm viện trưởng tỉnh Voronezh. Chánh án tòa án tỉnh bị cảnh cáo nhưng chức vụ thì vẫn giữ nguyên. Một số người khác cũng bị cảnh cáo.

Trừng phạt thực sự có thể làm tan vỡ cái hệ thống vừa được mô tả. Chúng ta sẽ còn có dịp nói đến qui luật của của những hành động như thế.

Có những vụ mà ngay chính các quan tòa “chuyên ăn theo nói leo” như thế cũng không thể kết tội. Khi đó họ sẽ chuyển về viện kiểm sát để điều tra thêm và viện này sẽ ra lệnh chấm dứt vụ án [10] . Nhưng chấm dứt điều tra cũng có nghĩa là bên kiểm sát có lỗi cho nên họ sẽ giữ lại một thời gian (trong khi nghi can vẫn ngồi trong trại) và chuyển lại cho tòa án. Việc “đá bóng” như thế cứ tiếp tục mấy lần, và kết quả phụ thuộc vào việc phía nào, viện kiểm sát hay quan tòa có thần kinh và “chân gỗ” vững hơn. Chứ không phải là bản chất vụ án.

Ông A. M. Iakovlev, một trong những cây đại thụ của khoa pháp luật, “đại biểu” Xô viết Tối cao Liên Xô, nhân thảo luận về việc các tòa án thường không tuyên bố trắng án đã nói đến tính dã man của các bản án (tất nhiên không phải là những bản án dành cho tầng lớp “cán bộ”): “Xu hướng đưa ra các bản án nặng có thể giải thích được (?): chẳng ai muốn bị phê bình là theo phái tự do (bạn có thấy không? Thẩm phán sợ bị phê bình là theo phái tự do! Mà là các thẩm phán độc lập đấy! – tác giả) hay là khuyến khích bọn tội phạm. Các thẩm phán dù không muốn (?!) cũng thường đưa ra các bản án theo khung hình phạt cao nhất”. Iakovlev còn nói rằng các bản kiểm điểm của thẩm phán có mục đặc biệt gọi là … số vụ có thời hạn tù ngắn. “Số vụ như thế càng nhiều thì thẩm phán càng bị đánh giá thấp” (Báo Văn học, ngày 24 tháng 9 năm 1986). Ai có thể đánh giá được công việc của các thẩm phán độc lập? Iakovlev không nói rằng sự nghiêm khắc của hình phạt chỉ áp dụng cho “dân thường”, nhưng số vụ xử “cán bộ” nói chung là hãn hữu. Nhận thức pháp lí của vị luật sư đầu ngành này cũng đáng quan tâm: ông ta nói về các “tòa án cấp trên”, tức là những tòa án có nhiệm vụ “theo dõi” tòa cấp dưới (đã được nói đến bên trên); ông ta cũng nói rằng vì không nghe lời “anh hai” mà chánh tòa bị đưa hạ bậc thành thẩm phán thường, nhưng ông ta chỉ phê bình những sự kiện đơn lẻ chứ không phê phán hệ thống phụ thuộc của các thẩm phán nói chung.

Đã thảo luận về chính sách hình sự thì không thể không nói đến công tác điều tra, một trong những mắt xích quan trọng của hệ thống khủng bố. Xin bắt đầu bằng tình hình của các điều tra viên. Công việc của họ phải nói là vô cùng nặng nề nhưng lương lại rất thấp. Cùng một lúc một người phải xử lí hàng chục vụ, trong đó có các vụ án kinh tế (chiếm đoạt, ăn cắp .v.v..), cần thẩm vấn hàng trăm nhân chứng, phải nghiên cứu hàng đống tài liệu, phải giám định và kiểm kê tài sản. Điều tra tất cả các vụ một cách nghiêm túc nắm ngoài khả năng, ngay cả về mặt sức khỏe. Thế mà thời hạn điều tra vụ án và chuyển sang tòa là tiêu chí quan trọng để đánh giá một điều tra viên. Lối thoát duy nhất của điều tra viên là kết thúc thật nhanh các vụ án và leo lên các cấp cao hơn. Anh ta lại còn biết rằng cấp trên cũng muốn như thế, nếu có gì thì sẽ được cấp trên bao che. Và mọi phương tiện, kể cả đánh đập, tra tấn, đều tốt, miễn là được việc.

Hai trẻ vị thành niên, dưới áp lực của điều tra viên, đã khai nhận những vụ ăn cắp mà chúng không hề thực hiện. Như báo chí đã viết: “Có những lời khai như thế là do cơ quan điều tra sử dụng những biện pháp đáng bị điều tra”. Khi thấy vụ án bị “vỡ” (thuật ngữ chuyên môn), chủ tọa phiên tòa đã tuyên bố nghỉ giải lao… 44 ngày! Bản án tuyên: một đứa 7 năm tù, đứa kia 4 năm. Thực ra chúng đã ăn cắp nhưng phần lớn là do người ta “đeo” (cũng là thuật ngữ chuyên môn) cho chúng. Chủ tọa phiên tòa cũng nhận ra điều đó, thế nhưng ông ta lại giải thích với phóng viên: “Không được để tồn đọng nhiều vụ ăn cắp như thế” (Báo Văn học, ngày 11 tháng 6 nắm 1986). Đấy chính là sự “hợp tác” giữa cảnh sát, viện kiểm sát và tòa án nhằm “cải thiện” số liệu thống kê về tội phạm: số vụ “được khám phá” tăng lên. Nhưng xin hãy tưởng tượng số phận những đứa trẻ vị thành niên mà tuổi trẻ sẽ trôi qua trong trại cải tạo chỉ vì những vụ ăn cắp mà người ta cố tình vu cho chúng. Chúng có mang ơn xã hội không?

Đấy là thực tế quen thuộc đối với người dân Liên Xô, điều đó thể hiện rất rõ qua lời “bà hội thẩm nhân dân” của tòa án Tối cao Latvia. Lời bà này đã lan truyền đến tận hang cùng ngõ hẻm Liên Xô, nhưng trước khi trích dẫn xin được kể về hoàn cảnh phát sinh lời phát biểu nổi tiếng ấy.

Ba chàng trai bị bắt vì một vụ hiếp dâm mà chính họ không thực hiện. Một người chứng minh được tình trạng ngoại phạm. Vì bị tra tấn hai anh chàng kia “nhận”, người ta còn “tìm” được nhân vật thứ ba: sau vài tháng anh này cũng “nhận”. Nhân vụ này chính quyền muốn chứng tỏ cho dân chúng thấy khả năng làm việc tuyệt vời của mình nên đã cho quảng bá rộng rãi trên báo chí, TV, đài phát thanh. Nhân Ngày cảnh sát, một số cảnh sát “có công” còn được gắn huân, huy chương, cả người làm chứng (dĩ nhiên là chứng dối) cũng được… khen thưởng nữa.

Các chàng trai hi vọng người ta sẽ xử công khai và họ sẽ phủ nhận “lời khai”, sẽ kể về việc bị tra tấn. Độc giả có thể tưởng tượng được những ngón đòn tra tấn vì mức án có thể là tử hình! Chưa nói đến sự kinh tởm của chính tội lỗi! Một người đã cố chứng minh rằng anh ta chưa hề bao giờ có mặt tại nơi xảy ra vụ án, nhưng vô ích. .. Không ai thèm nghe! Dư luận xã hội đã được chuẩn bị kĩ lưỡng và đang khao khát báo thù. Các luật sư “đã giúp đỡ việc luận tội (có câu ngạn ngữ: “Luật sư là công tố viên thứ hai”). Một người bị kết tội tử hình, hai người bị án tù dài hạn. Công chúng hoan hô khi nghe xong bản án.

Rất may là án tử hình chưa kịp thi hành: kẻ thủ ác thực sự đã thú nhận. Không ai tin! Người ta không muốn tin! Mất nửa năm kiểm tra, trong khi mấy anh chàng kia vẫn nằm trong trại. Nhưng rồi người ta cũng buộc phải minh oan cho họ.

Chỉ vì vụ án đã được quảng bá quá rộng rãi, sự thất bại cũng có tiếng vang không kém cho nên những kẻ có tội trong vụ việc này đã bị khởi tố. Trong quá trình điều tra, người ta đã hỏi “bà hội thẩm nhân dân nọ: “Bà có nghe thấy can phạm nói bị tra tấn không?”. Và bà ta trả lời: “Không đánh thì ai người ta nhận”. Thế mà bà ta vẫn làm hội thẩm ở tòa án Tối cao đấy (Báo Văn học, ngày 17 tháng 12 năm 1986).

Grant, chủ tọa phiên tòa đó bị bãi chức và đưa…, bạn cho là đưa đi đâu? Đưa về hội luật gia! Và hội luật gia “độc lập” đã kết nạp ông ta vào đại gia đình luật sư! Nhưng sự thật là sau này ông ta đã bị khai trừ khỏi hội.

Nhưng dù sao thì kết quả của vụ án này cũng là không bình thường. Bình thường thì những người gây ra những vụ án oan không bị trừng phạt. Bạn không tin tôi ư? Vậy xin hãy tin ông Terebilov, chánh án tòa án Tối cao Liên Xô (ông này đã bị cho về vườn vì đã cố ý tiết lộ những hành vi không lương thiện); khi được hỏi đã khởi tố bao nhiêu vụ án hình sự chống lại những người “bảo vệ pháp luật” khi họ cố tình tạo ra những vụ án oan như thế thì ông ta đã trả lời một cách ngắn gọn: “Không có vụ nào!” (Báo Văn học, ngày 17 tháng 12 năm 1986)

Câu hỏi này được đặt ra nhân một vụ án ồn ào khác (được gọi là vụ Viteb). Tại tỉnh Viteb có 36 phụ nữ bị hiếp rồi bị giết. 14 người bị kết án cả thảy! Một người bị bắn! Một người được tha trước thời hạn, ông ta bị mù khi ngồi tù. Một người chấp hành án tù đủ 10 năm. Những người khác thì được tha sau khi kẻ thủ ác thực sự bị bắt. Nhưng tất cả 14 người kia đều “nhận tội [11] ”!. Sau này báo chí đã viết về những vụ tra tấn: những người vô tội bị đập đầu vào tủ sắt, bị đá giầy dinh vào mặt, một người còn bị nện bằng… tập Bộ luật hình sự Bạch Nga vào đầu [12] ! Đúng như người ta nói, đưa luật pháp vào cuộc sống! Ngay các “nhân chứng” cũng bị tra tấn: một trẻ vị thành niên bị người ta nắm lấy chân và dốc ngược đầu xuống đất (Báo Văn học, ngày 3 tháng 3 năm 1983). Dĩ nhiên là những người bị tình nghi này đã hi vọng vào một phiên tòa trung thực và nhân ái… Vô ích…

Rất nhiều vụ án như thế [13] . Đa số bị lật tẩy một cách tình cờ. Tại sao lại có thể khẳng định như thế? Thứ nhất, nhiều trường hợp được minh oan (có người được minh oan sau khi đã chết) không diễn ra như trong vụ Viteb (nhờ vào kết quả làm việc thận trọng của điều tra viên); thứ hai, tôi hiểu rõ cách thức tiến hành công việc.

May mắn ở đây là tôi không phải trình bày việc đó bằng ngôn ngữ của mình mà xin được ghi lại lời của cây bút chuyên về luật pháp trên tờ Tin tức (những chỗ chấm chấm không phải của tôi): “Có một vụ án nghiêm trọng. Người ta cho gọi viện trưởng viện kiểm sát và giám đốc công an (xin lưu ý: không nói ai gọi, ai có quyền gọi những người ấy – tác giả) và ra lệnh: “Phải tìm bằng được, phải vô hiệu hóa… Nếu không…”. Những người này lại hạ lệnh như thế cho cấp dưới, đến lượt mình cấp dưới lại… Và thế là họ đã tìm được. Nhưng không phải lúc nào cũng là kẻ cần tìm” (Tin tức, ngày 20 tháng 2 năm 1987). Tác giả bài báo đã cố tình “thả khói”: dường như người ta “đòi hỏi” phải tìm được tội phạm thật. Rõ ràng là “anh hai” (chính tác giả bài báo có ý nói thế) không mạo hiểm, ông ta không hạ lệnh tìm “bất cứ người nào”. Nhưng “anh hai” biết thực tế không kém gì tôi. Ông ta cần “khép vụ án” lại. Bằng bất cứ giá nào. Tất cả “những người bảo vệ pháp luật” đều biết như thế. Vì vậy khi vụ án bị “vỡ” thì “anh hai” sẽ bảo vệ các công hầu của mình đến cùng, trong trường hợp không được thì đổ tất cả tội lỗi cho họ.

Những vụ có án tử hình bao giờ cũng được xử ở tòa án Tối cao nước cộng hòa hay tòa án Tối cao Liên Xô. Bạn nghĩ rằng những quan tòa kinh nghiệm như thế không nhìn thấy sự giả mạo ư? Họ nhìn thấy hết. Xin dẫn ra ở đây bằng chứng do O. Temushkin cung cấp: ông ta kể lại rằng phó chánh án tòa án Tối cao Liên Xô tên là V. Smolensev đã kháng nghị bản án tử hình Babaev và Kuliev vì cho rằng bản án này trái luật, nhưng kháng nghị không được xem xét. “Tôi xin mở bức màn bí mật”, Temushkin nói, “Aliev, lúc đó là bí thư thứ nhất ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Azerbaizhan, đã sử dụng tất cả ảnh hưởng của mình, ông ta gọi điện thoại nhiều lần cho L. Smirnov, chánh án tòa án Tối cao Liên Xô (hiện đã ra người thiên cổ) và các nhà lãnh đạo các cơ quan bảo vệ pháp luật khác. Tôi đã vô tình chứng kiến một cuộc nói chuyện như thế: ông ta trắng trợn yêu cầu không can thiệp vào vụ Babaev. “Chỉ thị qua điện thoại” đã phát huy tác dụng. Hai người đã bị bắn” (Tin tức, ngày 5 tháng 1 năm 1989).

Như vậy là bộ máy Đảng, với đúng nghĩa của từ này, đã tổ chức những vụ thủ tiêu những người mà họ không ưa, còn các điều tra viên, thẩm phán, luật sư, các cơ quan “bảo vệ pháp luật” thì đóng vai những tên đâm thuê chém mướn. Tất cả những người ấy đều là Đảng viên cộng sản hết.

O. Temushkin còn thuyết phục độc giả: “Tôi không bao giờ quyết án mà chỉ căn cứ vào lời thú nhận của bị cáo”. Nói dối! Ông ta sẽ quyết nếu người ta ra lệnh như thế, bản án của Siniavski và Daniel đã chứng tỏ điều đó. Nhưng các điều tra viên và thẩm phán thì không đơn giản như thế. Temushkin biết rõ “lời khai đã được củng cố” như thế nào. Đấy là chưa nói đến các “nhân chứng” (bên trên đã kể họ được “chuẩn bị” như thế nào), các bị cáo, sau khi đã bị đánh đập, được đưa tới hiện trường vụ án và các điều tra viên sẽ chỉ cho họ cách họ “phạm tội”. Sau đó (các) bị cáo sẽ tự làm lại ngay trước mặt những người làm chứng. Tất cả đều được chụp ảnh hoặc quay phim, những người làm chứng sẽ phát biểu tại tòa và tất cả các “bằng chứng” này sẽ được đưa vào hồ sơ để gửi lên tòa phúc thẩm. Vì vậy trong hồ sơ vụ án bao giờ cũng có đủ thứ “bằng chứng” được thu thập “đúng qui định”, nhất là những vụ có án tử hình, chứ không bao giờ lại chỉ gồm mỗi “lời thú nhận” của bị cáo như Temushkin nói. Nhưng các thẩm phán có kinh nghiệm sẽ nhìn thấy ngay sự giả mạo, cũng như khán giả nhìn thấy cách trang trí và đóng kịch trên sân khấu, họ biết rằng Otello không giết Desdemona và cả hai sẽ ra chào khán giả ngay khi vở diễn kết thúc. Nhưng trong phiên tòa phong kiến lời khai của bị cáo được coi là bằng chứng không thể chối cãi, phiên tòa dưới chế độ Xô viết thì cũng thế [14] .

Xin xem xét cách người ta buộc nghi can “thú nhận”.

Nhà báo Iu. Feofanov, tác giả bài báo trên tờ Tin tức đã dẫn, hỏi các bị cáo rằng họ có bị đánh không? Không. Thế tại sao các anh lại nhận? Thế ông có biết TTG là gì không?, một bị cáo hỏi lại. Feofanov phải tự đi tìm hiểu: “Trại tạm giam là một phòng chật chội, chỉ có giường không, sát bên là các thứ “tiện nghi”, không chăn chiếu gì hết, sáng và chiều được phát một mẩu bánh mì, trưa thì được ăn nóng. Mỗi ngày là 30 xu. Lúc thì nóng như thiêu như đốt, lúc thì lạnh cắt da, đấy là nói nếu cửa sổ bị vỡ vào tháng Chạp. Mà khi bị bắt thì có được thay quần áo đâu, có thế nào mặc vậy (một người tên là Khatrmanukiana chỉ có một chiếc áo sơ mi…). Có thể chịu đựng được trong mươi hôm. Đấy là cách tác động rất có hiệu quả, tác giả viết: “Không cần đánh đập … người ta sẽ nhận hết, miễn là được đưa đi”.. Và tác giả nhấn mạnh: “Đây là phương pháp được luật pháp công nhận, bằng cách làm như thế người ta có thể buộc một công dân bất kì thú nhận những gì điều tra viên cần, theo những căn cứ đã nói bên trên có thể bắt giam bất cứ người nào. Và làm với họ bất cứ chuyện gì vì theo điều 120 bộ luật hình sự thì luật sư không được tham gia vào quá trình điều tra". Feofanov kể tiếp rằng có ba người “ngoan cố” vượt qua được giai đoạn đầu tiên, điều tra viên đưa họ vào nhà giam thêm một năm rưỡi nữa, “không phải là không thể làm khác, mà vì có thể làm như thế. Vì pháp luật cho phép làm như thế”. Feofanov bảo: “Không có logic nào, không có pháp luật nào có thể biện hộ cho cách lấy cung như thế trong giai đoạn điều tra ban đầu”.

Đấy là bước đầu của việc lấy cung. Những điều kiện phi nhân trong giai đoạn tạm giam là những ngón đòn tra tấn thật sự không chỉ đối với nghi can mà còn đối với cả những “nhân chứng” không muốn cung cấp, nói như Feofanov, bằng chứng “cần thiết”. Một người bình thường, đặc biệt là người già, người bệnh (thí dụ, bệnh tiểu đường mà lại không có thuốc) bị ném vào trại tạm giam với những tên tội phạm thực sự, phải nằm trên những chiếc giường trống như thế sẽ không có cách nào khác hơn là nhận hết, miễn là được đưa ra tòa với hi vọng là có thể chứng minh mình vô tội.

Bước thứ hai: tra tấn về tâm lí, dọa nạt, bắt bớ bạn bè và người thân. Các kiểm sát viên to tiếng kết tội các điều tra viên là Gdlian và Ivanov (không biết rằng như vậy là gián tiếp kết án chính mình vì điều tra được tiến hành dưới sự giám sát của viện kiểm sát). Tôi tin những lời kết án như thế vì họ được dạy tiến hành điều tra theo cách đó, họ không biết cách nào khác, đấy là một cách làm bình thường. Và sự kiện là nhiều vụ án bị “vỡ” thì lỗi không chỉ là do những người bảo trợ cho những kẻ ăn hối lộ mà còn là do thói quen của các điều tra viên muốn tòa án chấp nhận “những bằng chứng nhận tội”.

Bước thứ ba: tra tấn. Từ khi bắt đầu “công khai” nhiều sự kiện như thế đã được viết trên báo. Những vụ tra tấn dã man, đánh đến dập thận, đánh đến vỡ gan, đánh đến chết… Chuyện đó thường hay xảy ra trong quá trình điều tra tại trụ sở cảnh sát. Những điều tra viên ở viện kiểm sát thận trọng hơn, họ luôn giữ được “bàn tay sạch” bằng cách sử dụng những tên tội phạm cùng phòng giam, những kẻ được hứa hẹn đủ điều.

Đại tá Shvelev, trưởng phòng điều tra hình sự tỉnh Irkusk kể lại mối nguy hiểm mà nghi can phải chịu như sau. Khi điều tra một vụ án, ông đã thâm nhập vào một băng mafia gồm các quan chức của bộ máy Đảng và giới tội phạm chuyên nghiệp nhưng nhận ra rằng người ta cũng đang thu thập tài liệu chống lại ông. Shevelev liền bỏ chạy và trốn trong rừng taiga ba năm liền. Ông nói: “ủy ban cần phải bỏ tù tôi, trong tù họ có thể sử dụng bọn tội phạm và muốn làm gì tôi thì làm, kể cả giết” (Tin tức, ngày 5 tháng 12 năm 1988).

Viện kiểm sát Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga khi điều tra vụ Mamedov (1987) người bị giam ở phòng giam đặc biệt số 90 tỉnh Astrakhan đã phát hiện ra rằng anh ta bị đánh gãy cẳng chân và một xương sườn. Kẻ đánh Mamedov và các tù nhân khác lại chính là V. Bogdanov, “một kẻ có nhiều tiền án, vì lí do nghiệp vụ (!) đã được giam cùng phòng với các phạm nhân bị giam lần đầu, điều này được pháp luật hiện hành về công tác nghiệp vụ của Bộ nội vụ cho phép. Nhưng hắn được giam ở đây quá 6 tháng kể từ ngày bản án có hiệu lực” (tác giả gạch dưới). Nói cách khác, đáng lẽ phải đi đày thì Bogdanov được giữ lại để “giúp đỡ’ điều tra viên, nghĩa là đóng vai một tên đao phủ [15] .

Cần phải nói thêm rằng việc bắt và giam trong các phòng đặc biệt có thể kéo dài hàng năm, mặc dù lúc đó thời gian giam theo luật là rất ngắn [16] .

Việc sử dụng những tên tội phạm trong giai đoạn “HỎI CUNG BƯỚC BA” không phải là điều xa lạ đối với tòa án Tối cao Liên Xô, nhưng tôi chỉ tìm được một tài liệu chứng minh: ngày 22 tháng 9 năm 1987 tòa án Tối cao Liên Xô đã hủy bản án của tòa án tỉnh Irkusk ngày 25 tháng 4 năm 1985 (xin tính xem người ta phải tù bao lâu trong khi ngành tư pháp bò!) về vụ án 3 người phạm tội hiếp dâm và giết người vì “đã sử dụng những các biện pháp trái pháp luật trong quá trình điều tra”. Các bị cáo đã phản cung vì họ đã khai như thế “dưới tác động của những kẻ bị giam cùng phòng là T., Tr., và Kh.”. Các thẩm phán cao cấp không viết rõ “tác động” này là gì, có thể họ cho rằng chúng ta sẽ tự đoán được vì nếu công nhận thì ba người kia có thể bị kết án tử hình. Kh. còn viết rằng anh ta “theo sự phân công của cơ quan điều tra, quả thật đã tác động lên B. và anh ta được nghe điều tra viên của viện kiểm sát và nhân viên phòng hình sự kể cho nghe về vụ án”. Đấy chính là bí ẩn của cơ quan điều tra Liên Xô, bí mật đối với báo chí, nhưng lại có thể chia xẻ cho những người “gần gũi về mặt giai cấp”! Trong bản nghị quyết này không có một lời lên án nào đối với những người cố tình gây ra vụ án oan.

Và vụ án vẫn chưa chấm dứt, hồ sơ được trả về để điều tra lại từ đầu (Bản tin của tòa án Tối cao Liên Xô, năm 1988, số 1, trang 25). Còn ba nghi phạm thì tiếp tục ngồi tù [17] .

Đấy là một thí dụ giấy trắng mực đen chứng minh về quan hệ giữa pháp luật và thực tế, về chính sách về hình luật đã nói đến bên trên, một chính sách tạo ra chế độ khủng bố, độc đoán, có mục đích đè bẹp ngay từ trong trứng nước bất kì ý tưởng chống đối nào.

Còn 2 kì nữa


[1]"Thế giới công khai" điều khiển thế giới tội phạm thông qua các kênh mà trước đây KGB lãnh đạo bọn tội phạm có tổ chức” (Tin tức Moskva, số 52 ngày 29 tháng 12 năm 1991).  
[2]"Các Đảng viên xã hội” không tin những người “bôi đen chủ nghĩa xã hội”. Xin dành cho họ “luật bẩy phần tám- 7/8” hay tên chính thức là Nghị quyết liên tịch của Ban chấp hành trung ương và Hội đồng dân ủy Liên Xô ngày 7 tháng 8 năm 1932: “Về việc bảo vệ tài sản xí nghiệp quốc doanh, tài sản của nông trang và hợp xã và củng cố sở hữu xã hội (xã hội chủ nghĩa)”. Trong lời nói đầu các nhà làm luật viện dẫn “yêu cầu của công nhân và nông dân” về việc “trộm cắp” của “các phần tử lưu manh và nói chung là các phần tử phản xã hội”, và đây là lần đầu tiên người ta sử dụng thuật ngữ “thiêng liêng và bất khả xâm phạm” đối với tài sản xã hội chủ nghĩa. Những kẻ xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa bị coi là “kẻ thù của nhân dân”.
Phần đặc biệt lại gồm ba mục. Mục thứ nhất nói về việc trộm cắp hàng hóa trong quá trình vận chuyển. Mục thứ hai nói về trộm cắp tài sản của nông trang và hợp tác xã. Phần thứ ba, đúng hơn là không liên quan đến nội dung bộ luật; mục này qui định hình phạt cho “những phần tử phản xã hội”, những kẻ “buộc” xã viên ra khỏi nông trang hoặc hợp tác xã, nghĩa là những người chống lại việc áp đặt chế độ chiếm nô. Hai phần trên được qui định hình phạt như sau (xin trích dẫn): “xử bắn, kèm theo tịch thu toàn bộ tài sản hoặc trong trường hợp có các tình tiết giảm nhẹ thì phạt tù thời hạn ít nhất là mười năm (thời hạn tù dài nhất lúc đó - tác giả) kèm theo tịch thu tài sản”.
Điều 48 bộ luật hình sự liệt kê các tình tiết gỉam nhẹ, “số lượng không lớn” không nằm trong các tình tiết này. Trong luật không nói đến số lượng đồ vật bị mất cắp. Vì vậy khi áp dụng luật, quan tòa phải xử bắn, không phụ thuộc vào số lượng tài sản bị mất cắp. Hơn nữa, tòa án Tối cao Liên Xô lập tức giải thích rằng rằng luật ngày 7 tháng 8 bao gồm tất cả các điều khoản của bộ luật hình sự, liên quan đến việc “xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa” (kể cả điều 162 bộ luật hình sự, nói về các vụ ăn cắp vặt). Stalin, với tâm lí thô lậu của một bạo chúa phương Đông, cho rằng xử bắn có thể giải quyết được tất cả, nhưng khi bắn đã quá nhiều mà nạn ăn cắp vẫn không giảm thì người ta đành phải cài số lùi, tòa án Tối cao Liên Xô đưa ra giải thích mới, phủ nhận giải thích cũ, các vụ ăn cắp vặt lại xử theo điều 162 bộ luật hình sự, còn “luật ngày 7 tháng 8” thì chỉ áp dụng cho các vụ ăn cắp lớn, mặc dù trong thời kì chiến tranh nó được áp dụng, thí dụ, cho trường hợp hai người ăn cắp một bao bột, giá nhà nước lúc đó dưới 10 rub (Nghị quyết tòa án Tối cao Liên Xô ngày 12 tháng 2 năm 1942).
[3]tức là công bố vào ngày 7 tháng 8 năm 1932, 7/8- ND
[4]L. Nikitinsky, trong phóng sự về các nhà tù dành cho trẻ vị thành niên, viết rằng không thể giữ được tính người trong hệ thống này, nó biến người ta hoặc thành chó sói hoặc thành cừu: “Bước vào đây là những đứa trẻ ăn cắp vặt, nhưng đi ra là những tên sát nhân đầy thù hận”. L. Nikitinsky trong bài Vô giới hạn. Tạp chí Ngọn lửa nhỏ, năm 1988, số 32.  
[5]Các phiên tòa điển hình là một thiết chế của “nền tư pháp” Liên Xô ngay từ khi nước này mới được thành lập. Đây không chỉ là những vụ án chính trị nổi tiếng. Mỗi thẩm phán đều có trách nhiệm tiến hành các vụ xử ở các câu lạc bộ, phòng truyền thống, trong nhà náy, tại nơi làm việc hay nơi cư trú của phạm nhân. Vì vụ án có tính chất điển hình và “có ý nghĩa giáo dục” (xin nhắc lại rằng D. Khazard cho rằng đây là điểm tích cực của luật pháp Liên Xô), nên nhất định nó phải có tính cách kết án. Trong các phiên tòa như thế, kể từ thời Khrushchev, ngoài công tố viên của nhà nước còn có công tố viên “xã hội” tham gia nữa. Việc để luật sư biện hộ hay công tố viên “xã hội” tham gia theo điều 250 bộ luật hình sự là quyền của chánh án. Về khả năng tham gia của cả luật sư lẫn công tố viên thì luật không nói. Nhưng ý nghĩa của nó vẫn là: thể hiện quan điểm của tập thể, của xã hội. Dĩ nhiên là không thể có hai quan điểm được, cho nên việc chánh án cho công tố viên “xã hội” tham gia (có trường hợp mấy người cùng tham gia) thì ta có thể nói quan điểm của chánh án đã rõ ngay trước phiên tòa rồi.  
[6]Trung úy cảnh sát T., đi trên xe riêng, không mặc sắc phục, suýt nữa thì gây tai nạn với công nhân D. Anh này gọi viên cảnh sát là “đồ lừa”. Viên trung úy liền lôi người công nhân vào đồn và khởi tố vụ án hình sự với tội danh càn quấy. Tòa kêu án hai năm tù giam. Tòa án tỉnh bác bỏ bản án, nhưng cảnh sát T. vô can (Tin tức, ngày 23 tháng 2 năm 1974).
Viên giám đốc nhà máy (tỉnh Mitrurinsk) gây tai nạn, trong tình trạng say rượu với một công nhân, anh này bị thương nặng và chết vào tháng 12 năm 1982. Sau đó một năm, nhờ báo Sự thật tố cáo vụ bao che tòa án mới xử. Sau đó kẻ gây tai nạn vẫn làm việc ở nhà máy cũ, tuy đã không còn là giám đốc nữa. Giám đốc một cửa hàng (ở Rostov) đi trên xe Volvo và gây tai nạn chết người. tòa phạt tù… người lái xe tải có mặt tại hiện trường sau đó ít phút. Hai năm sau người lái xe mới được minh oan và kẻ gây tai nạn thực sự mới bị kết án (Báo Văn học, ngày 31 tháng 8 năm 1983).
Bí thư thứ nhất thành đoàn thành phố Volgagrad tên là Novikov gây tai nạn làm chết một người. Cảnh sát kết luận rằng chính nạn nhân có lỗi. Sau này mới biết rằng Novikov là đầu đảng một nhóm chuyên cướp các cửa hàng ở tỉnh bên cạnh ngay trên chính cái xe Volga đã gây ra tai nạn với người xấu số nói trên (Nước Nga Xô viết, ngày 16 tháng 4 năm 1986)
Sebrinsh, chuyên viên của văn phòng Hội đồng bộ trưởng Latvia, gây tại nạn trong tình trạng say rượu, làm chết một người đang đi xe đạp vào năm 1983. Vụ án được khởi tố rồi hủy bỏ mấy lần. Tháng 1 năm 1984 viện kiểm sát Liên Xô thụ lí vụ án. Phiên tòa vào năm 1984 tuyên án tù treo (Tin tức, ngày 4 tháng 6 năm 1986). Thành phố Novgorod: Antonova, kế toán một liên hợp chế biến thịt mang ra ngoài 3 túi thịt ngon. Khi bị giữ bà ta la lớn: “Chồng tao sẽ cho chúng mày biết!”. Chồng bà ta là trưởng phòng thuộc sở công an tỉnh. tòa án khu vực khởi tố vụ án, nhưng viện kiểm sát tỉnh hủy bỏ (Nước Nga Xô viết, ngày 15 tháng 3 năm 1987).
Có hàng trăm các vụ việc do các “ngôi sao thể thao” gây ra. Nhưng họ thường thoát, ngay cả những vụ nghiêm trọng nhất vì được nhiều “fan” cao cấp chống lưng.
[7]Bài báo trên tờ “Tin tức” về kế hoạch của cảnh sát trong việc “trồng người” vào trại giam và trại lao động cải tạo có tên “Có người là có điều khoản áp dụng” (Tin tức, ngày 30 tháng 3 năm 1989). Bốn năm “cải tổ” của Gorbachev.  
[8]"Tuyên trắng án” là thóa mạ công tác của các “cơ quan bảo vệ pháp luật” và làm mất uy tín của các cơ quan đó (Báo Văn học, ngày 13 tháng 10 năm 1971).
"Nhân danh cái gì mà tòa loại bỏ khái niệm bản án vô tội?” (Tin tức, ngày 25 tháng 7 năm 1985). Các công tố viên đã “quên” cách viết những bản án vô tội rồi. Bản án cuối cùng mà họ nhớ, được tuyên ở Krasnoiarsky cách đây đúng 15 năm (Tin tức, ngày 24 tháng 5 năm 1986). Điều này trùng hợp với quan sát của tôi “… thời gian gần đây (!) đã xuất hiện những bản án vô tội” (Tin tức, ngày 12 tháng 5 năm 1988).
[9]Những tên cán bộ ăn cắp dù bị kết án cũng không bao giờ phải ngồi tù. Shakhverdiev, nguyên giám đốc sở thương nghiệp thị trấn Bataisk bị tuyên 10 năm tù giam nhưng đã ra tù một năm rưỡi sau đó. Krylov, “anh hai” của thị trấn đã “xin” cho ông ta. Hiện nay Krylov là thư kí công đoàn tỉnh (Báo Văn học, ngày 28 tháng 1 năm 1987).
Đa số những kẻ bị kết án nhiều năm tù giam trong vụ “Uzbekistan” đã được về nhà.  
[10]Vì các điều tra viên trực thuộc viện kiểm sát và viện chịu trách nhiệm về công việc của họ nên hai bên bao che nhau trong việc che dấu khuyết điểm và tội phạm. Hiện nay người ta đang thảo luận: điều tra viên nằm trong cơ quan nào để đảm bảo rằng họ hành động một cách độc lập! Đúng là logic Xô viết!  
[11]Vài thí dụ: Vì lấy hai lọ dưa chuột muối của mẹ vợ mà con rể bị một năm rưỡi tù giam. Một thanh niên bị hai năm tù giam vì không trả bạn đôi kính râm. Một phụ nữ bị một năm rưỡu tù giam vì lấy của bà bạn một túi nilon (Báo Văn học, ngày 24 tháng 8 năm 1986).
[12]Kĩ thuật như sau: đặt cuốn sách lên đầu rồi đấm thật mạnh. Không để lại dấu vết. Có thể giết người bằng cách đó. Không ai chịu đựng nổi.  
[13]tòa án thành phố Moskva kết án A. phạm tội nghiêm trọng và tuyên 12 năm tù giam. Các nhân chứng phản đối, nhưng sau phiên tòa người ta đã sửa các bản cung của nhân chứng! Luật sư yêu cầu xem lại biên bản, nhưng yêu cầu bị bác. tòa án Tối cao hủy bỏ bản án vì biên bản đã bị chữa bằng loại mực khác (xin nói thêm là tại các phiên tòa người ta không ghi tốc kí. Biên bản do các thư kí viết. Việc các thẩm phán sửa biên bản là hiện tượng thường thấy. Vì vậy sau khi tòa kết thúc một số luật sư phải chụp ảnh ngay biên bản (Tin tức, ngày 17 tháng 11 năm 1964).
Lính cứu hỏa B. bị ngồi tù 10 tháng vì tội trộm cắp, mặc dù khi vụ mất cắp xảy ra thì anh ta đang trực ban. Vô tình mà người ta tìm được mấy tên trộm (Tin tức, ngày 1 tháng 7 năm 1969).
Krasnoiarsk. A. bị xử tử hình sau khi bị tra tấn và “thú nhận”. H. bị xử từ hình vì tội giết người trong tình huống tương tự (Nước Nga Xô viết, ngày 17 tháng 9 năm 1987).
Tỉnh Saratov. T. bị xử tử hình vì “tội giết hai người phụ nữ”. Sau này người ta đã tìm được kẻ sát nhân.
Tỉnh Novosimbirsk. Khrenov, một kẻ có nhiều tiền án, thụ án trong trại giam. Hắn thực hiện nhiều vụ hãm hiếp và giết người. Mấy người bị kết tội thực hiện các vụ giết người đó, trong đó có hai người bị xử tội giết vợ. Mãi năm 1987 Khrenov mới bị lật tẩy và bị tử hình (Nước Nga Xô viết, ngày 23 tháng 12 năm 1987).  
[14]Feofanov, bình luận viên tờ Tin tức viết: “Các nhà lí luận và các nhà báo hãy vứt bỏ khái niệm “trọng chứng”. Đối với cơ quan điều tra thì quan trọng là lới thú nhận tội lỗi. Ngay cả những điều phi lí cũng được, miễn là nhận. Và điều đặc biệt là, có thể điều khủng khiếp nhất chính là không hề xảy ra một sự vi phạm pháp luật nghiêm trọng nào trong quá trình điều tra (Tin tức, ngày 25 tháng 9 năm 1937).
[15]Công nhận rằng hiện nay không nghe thấy những chuyện như thế trong KGB, nhưng một cán bộ có trách nhiệm của KGB, thượng tá V. Koroliov, nói: “Những kẻ như Khvata (tên này đã tra tấn nhà bác học N. Vavilov, hiện nghỉ hưu) được coi là trong sạch. Các điều tra viên không đánh đập, không tra tấn, không hiếp phạm nhân, việc đó là do những tên chỉ điểm trong các buồng giam làm, chuyện này đã được nói tới trong tác phẩm: “Lời tự thú của một chỉ điểm” trên tờ Ngọn lửa nhỏ. Các cơ quan KGB, Bộ nội vụ và viện kiểm sát ở trung ương cũng như địa phương đều làm như thế cả. Vì vậy đáng ra bên cạnh Gdlian và Ivanov phải xử thêm nhiều “cán bộ pháp luật” khác nữa mới đúng. Gdlian và Invanov cũng như các nhân viên KGB trung thành với họ đã hành xử trong khuôn khổ của các quyết định và hướng dẫn nội bộ. Nhưng hiện nay người ta đã cố tình quên các văn bản này (Ngọn lửa nhỏ, 1990, số 43, trang 30).  
[16]"Theo luật hiện nay giới hạn là 2 tháng. Ngoài ra thì là các “ngoại lệ”: viện trưởng viện kiểm sát tỉnh.. có thể kéo dài thành 3 tháng, nước cộng hòa đến 6 tháng, viện trưởng viện kiếm sát Tối cao đến 9 tháng. Thế hóa ra đây là giới hạn cao su”. Kẻ nào dám gọi luật pháp là “cao su”? Xin lỗi, đây là ông A. Buturlin, phó viện trưởng viện kiểm sát Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga nói đấy (Tin tức, ngày 21 tháng 5 năm 1989). Có thể tin được. Nhưng ông ta không nói rằng việc kéo dài thời hạn như thế không phải do luật định mà là do “thực tiễn”, được Xô viết Tối cao thông qua.
[17]Xin đưa ra ở đây một văn bản nữa mặc dù chỉ có tính gián tiếp: Ngày 27 tháng 4 năm 1985 tại một ngôi nhà ở Armenia xảy ra một vụ cướp của giết người. A. X. một người bệnh có mặt trong ngôi nhà lúc xảy ra vụ án không bị đưa đi xét hỏi và chết vào đầu tháng 5. “Không có giám định y khoa tình trạng của A. X. Lúc nhập viện cũng như nguyên nhân cái chết của ông ta. Sáu tháng sau N. bị bắt và hai ngày sau “thú nhận” và bị tòa án Tối cao Armenia kết tội cướp của giết người, mặc dù anh ta khẳng định tại tòa rằng khi vụ án xảy ra anh ta có mặt tại một khu vực khác và các nhân chứng cũng đồng loạt khẳng định như thế. Tình trạng ngoại phạm không được kiểm tra. Chủ tịch đoàn tòa án Tối cao hủy bỏ bản án và cho điều tra lại (Bản tin của tòa án Tối cao Liên Xô, 1988, số 2 trang 46-48).
Xin phân tích trường hợp cụ thể này:
  -- Tại sao tòa án Tối cao Armenia và tòa án Tối cao Liên Xô không đặt câu hỏi vì sao N. lại thú nhận , trong một vụ án “tử hình”, nhanh chóng như thế? Câu trả lời đã rõ: họ biết vì sao.
  -- Tại sao không cho kiểm tra tình trạng ngoại phạm, chả lẽ các quan tòa lại kém đến thế? Vì sẽ phải đình chỉ vụ án và khởi tố các “cơ quan bảo vệ pháp luật”.
  -- tòa án tối cao Armenia có thể tự mình ra quyết định chấm dứt vụ án và không điều tra thêm. Tại sao họ không làm như thế mà vẫn bắt N. phải tạm giam tiếp? Để viện kiểm sát cho “chìm xuồng” mà không gây ra bất kì phản ứng nào. 
Nguồn: Nguyên bản tiếng Nga: http://lit.lib.ru/t/tille_a/text_0010.shtml

Tổng số lượt xem trang