-Trung Quốc - Biển Đông - Lợi ích cốt lõi: Can China Defend A "Core Interest" In The South China Sea? (Washington Quarterly Spring 2011) -- Trung Quốc có thể bảo vệ "lợi ích cốt lõi" ở Biển Đông không? Bài nên dịch ngay ◄◄----Trung Quốc có thể bảo vệ được "lợi ích cốt lõi" tại Biển Đông hay không? Nghiên cứu Biển Đông
Đặt giả thuyết rằng Trung Quốc thực sự coi Biển Đông là “lợi ích cốt lõi”, bài viết của Toshi Yoshihara và James R. Holmes, Đại học Hải chiến Mỹ, phân tích khả năng thành công của Trung Quốc trong việc bảo vệ “lợi ích cốt lõi” của mình tại Biển Đông. Khía cạnh mà tác giả tập trung phân tích chủ yếu nhằm vào năng lực quốc phòng của Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA).

Có cảm giác quanh các báo cáo rằng Trung Quốc đã tuyên bố Biển Đông là “lợi ích cốt lõi” của quốc gia. Các quan chức cao cấp của Trung Quốc được cho là đã đưa ra khái niệm này trong một cuộc gặp kín vào tháng 3 năm 2010 với hai chức sắc của Mỹ, Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ James B. Steinberg và ông Jeffrey Bader, Giám đốc phụ trách khu vực Châu Á thuộc Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ.[1] Tiếp đó, trong bài phỏng vấn với Tạp chí “The Australian”, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã tiết lộ rằng đoàn đại biểu Trung Quốc đã tái khẳng định tuyên bố của Bắc Kinh trong Đối Thoại Chiến Lược và Kinh Tế Mỹ-Trung lần thứ 2 được tổ chức tại Bắc Kinh vào tháng 5 năm 2010.[2] Từ đó xuất hiện rất nhiều các tranh cãi về của ngữ cảnh cũng như nội dung chính xác của các phát biểu tại các cuộc họp đó.[3] Từ đó, các quan chức Trung Quốc đã kiềm chế công khai mô tả Biển Đông theo thuật ngữ chính thức và cứng nhắc đó.
Sự mơ hồ và tranh cãi xung quanh vấn đề này gợi nhớ đến một sự kiện tương tự cách đó 15 năm, khi khủng hoảng tại Eo biển Đài Loan lên tới đỉnh điểm. Vào thời điểm đó, một vị tướng của Trung Quốc đã nói với cựu đại sứ Hoa Kỳ, Chas Freeman rằng lãnh đạo Hoa Kì “nên lo cho Los Angeles hơn lo Đài Loan”. Phát biểu đó được cho là sự úp mở về một mối đe dọa hạt nhân.[4] Sự phủ nhận sau này của Trung Quốc về điều này đã tạo nên sự mập mờ về bản chất của cuộc đối thoại không chính thức này. Tuy nhiên, những sự kiện này cho thấy rằng Bắc Kinh thường khoanh đỏ những vấn đề mà họ coi là tối quan trọng đối với lợi ích của mình. Chúng cũng cảnh báo về việc xem các phát ngôn của Trung Quốc như thật.
Đặt giả thiết cho cuộc tranh luận rằng Trung Quốc coi vấn đề Biển Đông là “lợi ích cốt lõi” của quốc gia. Việc khẳng định lợi ích đó đã đặt tầm quan trọng của vùng nước đó lên mức dành cho các vùng lãnh thổ như Tây Tạng, Đài Loan và Tân Cương mà Trung Quốc xem như một phần lãnh thổ quốc gia không thể tách rời của họ và sẽ bảo vệ bằng mọi giá. Điều này cho thấy một mục tiêu chính trị với phạm vi đáng ngạc nhiên. Để bảo vệ “lợi ích cốt lõi” của mình, Trung Quốc có thể tăng cường các nỗ lực ngoại giao và quân sự ở mức cao nhất. Nhưng liệu Quân đội giải phóng nhân dân (PLA) có thể thực hiện điều đó và bằng cách nào?
Liệu Bắc Kinh có các phương tiện quân sự, chiến lược và tinh thần chiến đấu quả cảm để bảo vệ được lợi ích quan trọng này của quốc gia? Đánh giá khả năng hiện tại và những khả năng tiềm ẩn của Trung Quốc sẽ giúp các nhà hoạch định chính sách và các nhà phân tích xác định liệu mục đích của Bắc Kinh tại Biển Đông có nằm trong khả năng các phương tiện quân sự của họ hay không. Nếu không, cần xác định thời gian và nguồn lực mà Trung Quốc phải đầu từ để có thể bảo vệ được lợi ích cốt lõi của mình. Đánh giá được điều này sẽ gợi ý các nước liên quan chủ yếu trong khu vực có thể đối phó như thế nào với chính sách ngày càng tham vọng của Trung Quốc mà không khiêu khích một sự phản ứng thái quá từ Bắc Kinh.
Phạm vi các mục tiêu chiến lược
Trước tiên cần xác định Bắc Kinh hàm ý gì trong cụm từ “lợi ích cốt lõi” và chỉ đạo chiến lược nào xuất phát từ lợi ích đó? Nếu lãnh đạo Đảng cộng sản Trung Quốc thực sự xử lí vấn đề Biển Đông như đã từng làm với Đài Loan thì có thể thấy rõ một số ngụ ý chiến lược sau:
Chủ quyền lãnh thổ là không thể chia cắt. Nếu lãnh đạo Trung Quốc coi chủ quyền trên biển không thể tách khỏi chủ quyển trên đất liền thì không thể để các tranh chấp về lãnh thổ không được giải quyết vô thời hạn.[5] Mặc dù Bắc Kinh đã có ý định gác lại các tuyên bố chủ quyền gây tranh cãi sang một bên vì mục đích khai thác chung nguồn tài nguyên thiên nhiên nhưng quan điểm của Trung Quốc về sự toàn vẹn lãnh thổ là bất khả xâm phạm. Vì thế dù thế nào thì Trung Quốc phải tìm được cách giải quyết cho vấn đề này.
Trung Quốc cần sức mạnh vũ trang để chiếm giữ các vùng lãnh thổ mà Trung Quốc đang có tranh chấp. Theo đó, nếu Biển Đông là lợi ích cốt lỗi cần được đảm bảo trong bất cứ hoàn cảnh nào thì Trung Quốc phải chuẩn bị những điều cần thiết nhằm đánh bại nỗ lực từ các nước bên ngoài để có thể biến nguyên trạng hiện tại thành một thực tế chính trị lâu dài. Bắc Kinh cần có đủ khả năng để chiếm giữ toàn bộ và nguyên vẹn tất cả vùng lãnh thổ đang có tranh chấp đồng thời ngăn cản ý định đảo ngược các lợi ích của Trung Quốc từ kẻ thù.
Trung Quốc phải áp đặt một trật tự mới trong khu vực. Để củng cố sự thống nhất quốc gia và bảo vệ tất cả các lợi ích cốt lõi của mình, Trung Quốc phải thiết lập một trật tự mới trong khu vực bất chấp những thách thức từ những nước láng giềng và các cường quốc bên ngoài. Nước này có thể thiết lập trật tự khu vực đó bằng sự đồng thuận hoặc ngoại giao cưỡng bức, tùy thuộc vào hoàn cảnh. Tuy nhiên để ngăn chặn các mối đe dọa đến trật tự mà Trung Quốc thiết lập, việc xây dựng một lực lương hải quân thống trị ở khu vực là điều khôn ngoan.
Những gợi ý này sẽ thúc giục các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc hướng tới quan điểm tối đa hóa lợi ích cốt lõi của quốc gia. Nếu Bắc Kinh hành động dựa trên các gợi ý này thì Biển Đông sẽ trở thành một cái hồ của Trung Quốc trong đó PLA chặn mọi đường vào của hải quân nước ngoài.
Một sự diễn giải khiêm tốn hơn căn cứ vào lịch sử Hoa Kỳ cũng có khả năng xảy ra. Một số người ở Trung Quốc xem Biển Đông, Hoa Đông và Hoàng Hải mà những người dân thường Trung Quốc gọi một cách đơn giản là ''Tam Hải” (ba vùng biển) hoặc ''Cận Hải'' (các vùng biển gần) theo cách tương tự mà những người Mỹ thế kỷ 19 xem biển Caribbean và Vịnh Mexico là hai khu vực mà Hoa Kỳ phải chiếm hữu để hiện thực hóa tiềm năng chính trị và thương mại của nước này.[6] Ngoại trừ một số ít các đảo chiếm từ Tây Ban Nha năm 1898, Washington không có tuyên bố lãnh thổ nào ở Caribbe hay vùng Vịnh và cũng không ngăn cản các tàu chiến của châu Âu tại khu vực này. Chính quyền Mỹ chủ yếu muốn ngăn chặn những nỗ lực của Châu Âu để có được các căn cứ Hải quân xuyên qua các làn đường biển dẫn đến eo đất Trung Mỹ, vị trí tương lai của một kênh đào xuyên đại dương.
Đó là chính xác là mục đích mà tổng thống Theodore Roosevelt muốn nói đến trong “Hệ luận” năm 1904 của ông đối với học thuyết Monroe. Roosevelt tuyên bố quyền hạn chế để can thiệp vào công việc của các quốc gia Caribe kém phát triển không có khả năng trả các khoản vay cho các ngân hàng Châu Âu. Các chính phủ Châu Âu thường gửi tàu chiến để chiếm các phòng thuế hải quan ở những quốc gia này để trả nợ cho những chủ nợ của họ. Để có thể làm như vậy, họ đã chiếm hữu lãnh thổ ven biển thuộc châu Mỹ nơi mà họ có thể biến thành căn cứ Hải quân dọc theo các làn đường biển Caribe. [7] Một viễn cảnh như thế là điềm xấu đối với các nhà chiến lược hàng hải Hoa Kì.
Tại sao việc chặn trước sự xâm nhập châu Âu quan trọng như vậy? Đối với nhà tư tưởng về sức mạnh biển Alfred Thayer Mahan, Eo đất (Isthmus) tạo nên một “cổng vào” Thái Bình Dương cho Hoa Kỳ ''.[8] Đào một kênh ngang qua Nicaragua hoặc Panama và bảo vệ các cửa ngõ hướng đến kênh đào đó là mối quan tâm lớn nhất của Mahan. Ông tiên đoán rằng '' các quốc gia thương mại táo bạo '' như nước Đức dưới thời Kaiser sẽ đấu tranh giành các thuộc địa có vị trí địa chính trị, như các đế quốc Tây Ban Nha và Anh đã làm trong nhiều thế kỷ.[9] Mahan cho rằng Hoa Kỳ bây giờ đặt lợi ích vượt trội lên eo đất này, do cả lợi ích thương mại đang phát triển ở vùng Viễn Đông và vì vị trí địa lý đặc biệt của nó mà đã cản trở '' sự liên lạc nhanh chóng và an toàn giữa hai vùng bờ biển của chúng ta''.[10] Đối với ông, sự lưu thông tự do vận tải quân sự và thương mại giữa bờ Đông và bờ Tây, và giữa Bắc Mỹ và Châu Á, tạo thành lợi ích cốt lõi của Mỹ tại Vùng vịnh và biển Carribe.
Để giữ vững lợi ích cốt lõi này, Mahan đòi hỏi lực lượng Hải quân Mỹ cần có 20 tàu chiến để có thể “chiến đấu, với những cơ hội chiến thắng hợp lý, lực lượng lớn nhất có thể được đem đến để chống lại nước này” ở các vùng biển phía Nam. [11] Một đội tàu “có khả năng tạo ra những cú đánh mạnh” và có thể giành lấy “quyền làm chủ trên biển” từ các đạo quân châu Âu được phái đến châu Mỹ.[12]
Biển Đông là câu trả lời của Trung Quốc cho Biển Carribe và Vùng Vịnh. Với vai trò là con đường biển quan trọng đến Ấn Độ Dương và eo Malacca, Biển Đông cũng khá giống với các biển nửa kín của Mỹ. Bán đảo Malay và quần đảo Sumatra nổi lên là một không gian địa lý, tạo nên một eo đất lớn, mà dưới con mắt của người Trung Quốc giống như eo đất đã từng ám ảnh Mahan. Và Biển Đông cũng giống như biển Carribe của Mahan, là một vùng biển mà chỉ có một quốc gia biển lớn là Trung Quốc bao quanh nó. Hai biển kín là Baltic và biển Đen, mà tiếp giáp với một cường quốc lục địa nổi bật là Nga, cũng đặt ra một tình huống tương tự. Liên Xô đã xây dựng một lực lượng hải quân mạnh để biến những biển trên thành của mình. Dường như các tình huống tương tự tạo ra các chiến lược tương tự.
NẾU TẬP TRUNG VÀO BIỂN ĐÔNG, TRUNG QUỐC CÓ THỂ XAO NHÃNG CÁC LỢI ÍCH Ở BIỂN HOÀNG HẢI VÀ BIỂN HOA ĐÔNG
Nhưng mà nước Mỹ cuối thế kỷ vẫn nằm rất xa khỏi các mối đe dọa từ các cường quốc chính khác. Nước này có khả năng để ngỏ bờ biển Thái Bình Dương hoặc Đại Tây Dương của mình ít nhiều không cần phòng thủ để tập trung năng lượng của mình vào một sự mở rộng kín đáo. Trung Quốc thì lại không có lợi thế này. Nếu nước này chỉ tập trung hải quân vào việc xử lý các tranh chấp ở Biển Đông thì sẽ có thể mất những lợi ích quan trọng ở biển Hoàng Hải và Hoa Đông. Bắc Triều Tiên vẫn tiếp tục gây phiền nhiễu ở ngay cửa ngõ biển của Trung Quốc. Đối thủ kình địch là Nhật Bản thì đang khoe mình với một đội tàu đẳng cấp thế giới và một vị trí chiến lược trên các con đường giao thông vận tải (sea lines of communication SLOCs) của Trung Quốc. Tình thế bế tắc trên eo biển Đài Loan vẫn bị kéo dài, lần lữa, đòi hỏi sự quan tâm chính sách của Trung Quốc. Cùng lúc đó, lợi ích biển ngày càng lớn kêu gọi sự chú ý của Trung Quốc đến các vùng biển bên ngoài Đông Á và đến các nhiệm vụ như chống cướp biển. Bắc Kinh không thể thờ ơ trước những vấn đề như vậy, những vấn đề có thể vắt kiệt các nguồn lực của các đội quân Đông Nam Á.
Đọc toàn bộ bản dịch tại đây
Toshi Yoshihara, James R. Holmes
PGS. về chiến lược trường ĐH Hải chiến Hoa Kỳ
Quách Huyền (dịch)
Đỗ Thủy (hiệu đính)
Bài viết đăng trên The Washington Quarterly, mùa xuân năm 2011 với nhan đề “ Can China Defend a “Core Interest” in the South China Sea?
[1] Edward Wong “Chinese Military Seeks to Extend Its Naval Power,” New York Times April 23, 2010, http://www.nytimes.com/2010/04/24/world/asia/24navy.html.
[2] U.S. State Department, “Remarks by Secretary Clinton: Interview with Greg Sheridan of The Austraslian,” Melbourne, Australia, 8/11/2010 http:///www.state.gov/secretary/rm/2010/11/15067/htm.
[3] Để xem một số lý giải hợp lý về những vấn đề này, xem Carlyle A. Thayer, “Recent Developments in the Soouth China Sea: Grounds for Cautious Optimism?” RSIS Working Paper, số 220 (14/12/2010) trang 2-6, http://www.rsis.edu.sg/publications/WorkingPapers/WP220.pdf, và Michale D. Swaine, “China’s Assertive Behavior, Phần I: On ‘Core Interests’, “China Leadership Monitor số34 (Fall2010), trang 8-11, http://www.carnegieendowmenr.org/files/Swaine_CLM_34_1114101.pdf.
[4] John W. Garver, Face Off: China, the United States, and Taiwan’s Democratization (Seattle: University of Washington Press, 1997), trang 129.
[5] Trong khi bản chất thật sự của các yêu sách biến của Bắc Kinh vẫn đang được tranh luận thì thậm chí trong số các nhà phân tích Trung Quốc, một nhóm học giả xem Biển Đông là lãnh thổ có chủ quyền. Xem Peter A. Dutton, “Through a Chinese Lens,” Naval Institute Proceedings 126, số 4 (4/2010): trang 24-39. Ngoài ra, xét về quan điểm lịch sử, xem Andrew R. Wilson, “The Maritime Transformations of Ming China,” trong China Goes to Sea: Maritime Transformation in Comparative Historical Perspective, eds. Andrew S. Erickson, Lyle J. Goldstein, and Carnes Lord (Annapolis: Naval Institute Press, 2009), trang 235-287.
[6] Fareed Zakaria, From Wealth to Power. The Unusual Origins of America’s World Role (Princeton: Princeton University Press, 1998), trang 128-180.
[7] Dexter Perkins, A History of the Monroe Doctrine (Boston: Little, Brown, 1955), trang 228-275.
[8] Alfred Thayer Mahan, Naval Strategy, Compared and Contrasted with the Principles and Practice of Military Operations on Land (Boston: Little Brown, 1911), trang 111.
[9] Alfred Thayer Mahan, The Interest of America in Sea Power, Present and Future (1897; tái bản, Freeport: Books Libraries Press, 1970), trang 65-68.
[10] Nt, trang 78-83.
[11] Nt, trang 198.
[12] Alfred Thayer Mahan, The Influence of Sea Power upon History, 1660- 1783 (1890; tái bản, New York: Dover, 1987), trang 138; Mahan, Interest of America in Sea Power, trang 198; Margaret Tuttle Sprout, “Mahan: Evangelist of Sea Power,” trong Makers of Modern Strategy: Military Thought from Machiavelli to Hitler, ed. Edward Mead Earle (Princeton: Princeton University Press, 1943), trang 433.
"Quyền Lợi Cốt Lõi" của Trung Quốc
Nguyễn Xuân Nghĩa - Ngày Nay 20110826
Từ Đài Loan vào Tây Tạng - Từ Hoàng hải xuống Đông hải....
Huê dạng và hoành tráng!
Nếu lãnh đạo Bắc Kinh chủ trương rằng quyền lợi cốt lõi của Trung Quốc là xây dựng hoà bình, phát huy nhân quyền và hợp tác kinh tế, là bảo vệ môi trường, giải trừ nguy cơ xung đột giữa các nước vì đấy là những điều có lợi cho mọi quốc gia, thì nhân loại đã có thể sống trong một thế giới khác. Khi đó, Trung Quốc là một cường quốc biết điều và có trách nhiệm về thiên hạ sự. Nhưng sự thể lại không vậy, bỉnh bút Nguyễn Xuân Nghĩa giải thích tại sao bằng cách kiểm điểm lại từng bước bành trướng của khái niệm "quyền lợi cốt lõi" của Bắc Kinh....
Thưa rằng chuyện Trung Quốc hành xử biết điều như vậy không xảy ra dù những chủ trương nói trên đã được quốc tế công nhận và nhiều quốc gia theo đuổi. Thay vào đó, lãnh đạo Bắc Kinh nêu ra một khái niệm co giãn về "hạch tâm lợi ích", và nhìn từ quyền lợi của mình ra ngoài mà bất chấp quy luật hành xử của các nước văn minh.
Điển hình nóng hổi là cách xử trí trong chuyến thăm viếng Trung Quốc của Phó Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden vào tuần qua. Cuộc họp báo của ông bị cắt đứt, báo chí quốc tế bị đuổi ra ngoài. Cuộc thao diễn bóng rổ trong tinh thần hữu nghị giữa hai đội Mỹ-Hoa đã biến thành một vụ hành hung khiến đội banh Mỹ cầu cứu cảnh sát không xong nên phải đi trốn vào phòng thay áo!
Sau khi Joe Biden rời Trung Quốc để tiếp tục chuyến công du Á châu của ông, hôm Thứ Tư 24 Tháng Tám, bộ Quốc phòng Mỹ mới công bố bản phúc trình chuẩn bị xong từ mùng sáu Tháng Năm về tình trạng hiện đại hóa quân sự của Trung Quốc. Những câu hỏi được nêu ra về mục tiêu đáng nghi ngờ của lãnh đạo Bắc Kinh khiến bộ Ngoại giao Trung Quốc lập tức phản pháo, và tơi bời đả kích Hoa Kỳ vào ngày Thứ Sáu 26.
Mà "hạch tâm lợi ích" đó là gì?
Chúng ta lại phải mở cuốn lịch và tấm bản đồ để chấm tọa độ trên hai trục thời gian và không gian....
***
QUYỀN LỢI MỔ RỘNG VỚI THỜI GIAN
Lần đầu tiên, khái niệm "hạch tâm lợi ích" xuất hiện trên ấn bản Anh ngữ của Nhân dân Nhật báo vào ngày 21 tháng Sáu năm 1980 - khi Bắc Kinh đã tiến hành cải cách - và đả kích việc Liên Xô xâm chiếm A Phú Hãn và việc Việt Nam tấn công Kampuchia. Theo cái kế khích bác của Thiên triều, hai hành động ấy đe dọa quyền lợi cốt lõi của... Tây phương!
Sau đó khái niệm này xuất hiện vài ba năm một lần.
Riêng về quyền lợi của Trung Quốc thì nó được lồng trong chữ khác, như "lợi ích căn bản" hay "trọng đại quan thiết" - mối quan tâm thiết yếu của Bắc Kinh. Nội dung bắt đầu thể hiện rõ nét hơn kể từ năm 2000, và nhắc đến hồ sơ Đài Loan cùng nguyên tắc "một quốc gia Trung Quốc". Khi ấy, lợi ích căn bản của Thiên triều là cải cách kinh tế xã hội và thống hợp Đài Loan - vốn dĩ là vấn đề "nội bộ" của Trung Quốc.
Bước vào thế kỷ 21, khái niệm này được nhắc nhở nhiều lần hơn và mở rộng ra ngoài để bao trùm lên nhiều lãnh vực chiến lược và khu vực địa dư. Nếu đếm ra thì chữ "hạch tâm lợi ích" xuất hiện ba lần trong năm 2003 rồi gần trăm lần trong năm 2008. Năm ngoái, người ta tính ra là 325 lần!
Về nội dung, như Ủy viên Quốc vụ viện Đới Bỉnh Quốc đã phát biểu nhân hội nghị Đối thoại về Kinh tế và Chiến lược (S&E Dialogue) với Hoa Kỳ vào Tháng Bảy năm 2009: quyền lợi cốt lõi đó gồm có ba mục là 1) bảo vệ chế độ, 2) phát triển kinh tế xã hội trong ổn định và 3) bảo vệ chủ quyền và lãnh thổ quốc gia. Tiết mục thứ ba, chủ quyền và lãnh thổ, được khai triển bằng những chữ rất nổ như "thống nhất quốc gia", "lưỡng ngạn thống nhất" (với Đài Loan), "thống nhất đại nghiệp" hay "độc lập".
Nhưng lại được mở ra một không gian rộng lớn hơn vì từ Đài Loan bao trùm lên hồ sơ Tây Tạng rồi cả Đông hải.
Quả như vậy vì khi theo dõi thì người ta thấy là từ khái niệm do một ủy viên có thẩm quyến về đối ngoại đề ra hai năm trước, truyền thông của Thiên triều đã vẽ rắn thêm chân trong tinh thần "bất khả tư nghị" và "bất khả tương nhượng". Không thể bán cãi hay đổi chác gì hết!
Theo luận điệu của Bắc Kinh mới từ hai năm nay thôi, "hạch tâm quyền lợi" của Trung Quốc bao trùm lên Đài Loan, lên Tây Tạng (tức là cả chuyện liên lạc với đức Đạt Lai Lạt Ma), lên đất Tân Cương (gồm cả phong trào ly khai của dân Duy Ngô Nhĩ, được Bắc Kinh đồng hóa với khủng bố); nó trải từ Hoàng hải phía Bắc xuống tới Trung Nam hải phía Nam, nó đòi chủ quyền trên đảo Điếu ngư đài mà Nhật Bản gọi là Senkaku của minh, và các quần đảo tại biển Đông Nam Á, trong đó có Hoàng sa và Trường sa.
Quyền lợi ấy còn là quan hệ thương mại song phương với mọi quốc gia mà Thiên triều muốn giao thương, và cả quy chế hay giá trị của đồng Nguyên, là vấn đề cốt lõi cũng thuộc thẩm quyền của Trung Quốc, v.v....
Riêng hai đề mục có tính chất phòng thủ do Đới Bỉnh Quốc nêu ra - là 1) bảo vệ chế độ và an ninh quốc gia và 2) phát triển kinh tế và xã hội trong ổn định - lại ít được nhắc tới!
Thực tế thì trong mấy năm vừa qua, Bắc Kinh đã lặng lẽ chuyển từ thủ sang công.
Diễn biến của việc mở rộng lá quạt lên một vùng rộng lớn và nhiều hồ sơ phức tạp ấy là thế nào?
***
KHỞI THỦY LÀ ĐÀI LOAN....
Người ta có thể đồng ý rằng việc bảo vệ chế độ và hình thái phát triển kinh tế xã hội là quyền lợi cốt lõi của Bắc Kinh vì quốc gia nào cũng muốn giành lấy quyền quyết định về cách sinh sống và phát triển của mình.
Riêng với đảng Cộng sản Trung Quốc, một thế lực chính trị nổi lên sau 150 năm lụn bại của đất nước và bị liệt cường sâu xé, việc thu hồi lại những mảnh đất đã bị chiếm đóng là điều bình thường. Và cực kỳ cần thiết cho lẽ chính danh của chế độ. Vì thế, Hong Kong hay Macao đều phải lần lượt "hồi quy cố quốc". Việc thống hợp Đài Loan cũng thế, dù lịch sử có những giai đoạn ly khai hay tự trị phức tạp hơn.
Từ đầu thế kỷ 21, hồ sơ này trở thành rắc rối vì sự xuất hiện và lớn mạnh của thành phần cư dân nguyên thủy, dân Đài Loan, chống lại thành phần thống trị xuất phát từ Hoa lục sau cuộc chiến Quốc-Cộng trong lục địa, là Quốc dân đảng. Khi Trần Thủy Biển – dân Đài Loan – và đảng Dân tiến của ông lên lãnh đạo, Bắc Kinh bắt đầu ngại phản ứng ly khai của chính người dân Đài Loan.
Thành phần "thổ dân" này đã từng bị Tưởng Giới Thạch đàn áp và bị di dân đến từ Hoa lục miệt thị là man rợ trí trá và hèn kém. Nhưng họ đã trưởng thànb và chẳng muốn liên hệ gì đến chuyện Quốc-Cộng ngày xưa. Cũng chẳng muốn "Quang phục Trung Hoa" theo chủ trương của Quốc dân đảng, và không tin vào nhu cầu đi vào lãnh đạo Bắc Kinh để lãnh đạo cả Trung Quốc.
Nếu có đổi tên thành Cộng hoà Đài Loan thì cũng được!
Vì thế, sự chuyển dịch dân số và thế lực chính trị tại đảo quốc Đài Loan trở thành cơn ác mộng cho Thiên triều. Tháng Ba năm 2005, Quốc hội Bắc Kinh ban hành đạo luật "Chống Ly Khai" và Bộ Chính trị yêu cầu Hoa Kỳ cùng các nước khác không đáp ứng lời kêu gọi độc lập của Đài Loan. Hồ sơ này trở thành "quyền lợi cốt lõi" và việc mua chuộc Quốc dân đảng để tiêu diệt mọi mầm mống tự trị đã được tiến hành, với sự hợp tác mẫn cán của Quốc dân đảng hay hậu thân của cái đảng già nua lạc hậu này.
Trong chiều hướng đó, Thiên triều chuẩn bị cả hai giải pháp văn võ để thống hợp đảo quốc.
Văn là qua ngả ngoại giao, kinh tế và tuyên truyền để cô lập xu hướng ly khai bên trong Đài Loan và để vận động Mỹ không bán khí giới cho chính quyền Đài Bắc nhằm bao vây cả đảo quốc hầu tiến tới thống nhất một cách ôn hoà. Võ là sử dụng võ lực lẫn sự uy hiếp để yểm trợ giải pháp thống nhất qua ngoại giao và chính trị. Và nếu/khi có đủ sức thì trực tiếp thôn tính.
Chính là nhu cầu ấy mới khiến Bắc Kinh hâm nóng hai bản thông cáo chung với Hoa Kỳ năm 1972 và 1982 về nguyên tắc "chỉ có một nước Trung Quốc" để đưa hồ sơ Đài Loan vào danh mục quyền lợi cốt lõi trong lời khẳng định nói trên của Đới Bỉnh Quốc vào Tháng Bảy năm 2009.
Nhưng, cũng chính là phản ứng suy nhược của Chính quyền Barack Obama đã khiến Thiên triều dấn tới và cài vào thông cáo chung của diễn đàn Đối thoại về Kinh tế và Chiến lược với Hoa Kỳ, Tháng 11 năm 2009, một nguyên tắc cứ tưởng là ngoại giao: hai nước tôn trọng quyền lợi cốt lõi của nhau cho một kỷ nguyên mới. Một "đồng thuận mới" cho "tân thời kỳ".
Mà trong danh mục gọi là "cốt lõi" này không chỉ còn chuyện bảo vệ chế độ hay kinh tế chính trị hoặc việc thống nhất Đài Loan. Thiên triều bắt đầu lè lưỡi rắn ra ngoài....
Tháng Giêng năm 2011, khi xông đất Hoa Kỳ và gặp Cậu bé quàng khăn đỏ Obama, Hồ Cẩm Đào không nhắc đến chuyện quyền lợi cốt lõi này nữa. Nhưng truyền thông và các "học giả" của chế độ liên tục nhắc đến tinh thần không thể bàn cãi hay thỏa nhượng gì về hạch tâm lợi ích của Trung Quốc.
Dư luận Hoa Kỳ và thế giới, kể cả các "học giả" hay "nhà báo lão thành" thì tin rằng lời tuyên bố chính thức của lãnh đạo mới đáng kể, chứ những bình luận hay quan điểm kia chỉ là chuyện hăm he không cơ sở. Thực tế thì Bắc Kinh đã thành công khi gây ra ấn tượng rằng Trung Quốc sẽ triệt để bảo vệ quyền lợi cốt lõi của mình. Và từ đó chi phối phản ứng của thiên hạ.
Nghệ thuật "điều tiết ấn tượng" – perception management – là một phần linh động và hữu hiệu của đấu tranh, để đạt mục tiêu mà khỏi cần dụng binh. "Bất chiến tự nhiên thành" là kết quả của "thuật quỷ biển", biển lận và quỷ quái.
***
SAU ĐÓ LÀ HĂM ĐỌA
Nhớ lại thì việc Tây Tạng là một phần không thể tách rời khỏi Trung Quốc đã được công bố trong một Bạch thư về Tây Tạng từ năm 1992. Và được Phó Chủ tịch / Ủy viên Bộ Chính trị Tăng Khánh Hồng minh định vào Tháng Tư năm 2006. Cũng năm 2006 đó, vào Tháng 11 người ta thấy chính Chủ tịch Hồ Cẩm Đào nói rõ - lần đầu tiên - rằng cùng với Đài Loan, Tây Tạng và nhân quyền, việc diệt trừ lực lượng khủng bố Đông Hồi tại Tân Cương là quyền lợi cốt lõi của Trung Quốc.
Các cơ quan truyền thông khác thì châm thêm trong nhu cầu cốt lõi việc bảo vệ Hoàng hải, Điếu Ngư đài và luồng ngoại thương với đồng bạc. Nghe mãi rồi mọi người cứ coi như lời tuyên truyền, nhưng dần dần bị thấm vào đầu.
Trong khung cảnh mập mờ ẩn hiện đó, lần đầu tiên người ta nghe đến chuyện hạch tâm lợi ích của Trung Quốc bao trùm lên chủ quyền ngoài Trung Nam Hải là vào Tháng Ba 2010. Tức là cũng gần đây thôi, khi giới chức Bắc Kinh ỡm ờ nói chuyện với hai viên chức an ninh và ngoại giao Hoa Kỳ ngay tại Bắc Kinh. Báo chí Mỹ có thay nhau loan truyền cùng một chi tiết ấy nên gây ra ấn tượng là Bắc Kinh đã nhiều lần khẳng định như vậy.
Mà thật ra mọi chuyện vẫn là mờ ảo vì không viên chức hữu trách nào công khai nói ra một điều cực kỳ ngang ngược: một vùng biển quốc tế lại thuộc thẩm quyền giải quyết của Trung Quốc, tương tự như loại vấn đề "nội bộ" như Tây Tạng, Tân Cương hay Đài Loan.
Nhưng khi thấy Hoa Kỳ không chính thức phản đối trái bóng thăm dò, Thiên triều có thể đã kết luận: cứ thế mà nhấn tới!
Không qua phát biểu mà bằng hành động cụ thể, theo cái kiểu mềm nắn rắn buông. Hành động cụ thể là vừa hăm dọa khiêu khích vừa chiêu dụ từng nước liên hệ đi vào những thoả thuận song phương. Có thoả thuận ấy trong túi rồi, Thiên triều sẽ cho thế giới rõ rằng đây là chuyện nội bộ của bản quốc! Cho đến nay, chỉ có Hà Nội là đi vào cái trò đơn phương chờn vờn đó với việc một Thứ tưởng Ngoại giao qua Bắc Kinh hộp họp với Ngoại trưởng và Ủy viên Quốc vụ viện Đới Bỉnh Quốc.
Và xòe ra một thông cáo chung cũng rất mập mờ!....
***
Bài tổng kết này đã dài nên xin đi vào kết luận: chúng ta có nhiều cách suy luận về diễn biến trong ngôn ngữ của Bắc Kinh.
Trung Quốc có thể gặp nhiều khó khăn nội bộ nên cần vuốt ve tự ái dân tộc của người dân, và bọc xuôi theo áp lực của xu hướng bảo thủ trong đảng hoặc xu hướng bành trướng trong quân đội mà quậy sóng ngoài Đông hải. Trung Quốc cũng có thể khai thác cơ hội thuận lợi là nhân khi Hoa Kỳ còn mắc bận với hai chiến trường nóng tại Afgahanistan và Iraq mà nhấn tới để tạo ra sự đã rồi, trước khi nước Mỹ trở lại Đông Á như đã hứa hẹn.
Hoa Kỳ cũng có thể đã thấy vậy nhưng còn mắc vào những ưu tiên khác nên chỉ phản ứng cầm chừng. Và thật ra cũng chưa tin rằng Trung Quốc đã có khả năng bành trướng để trở thành một mối nguy cho nước Mỹ. Một số giới chức thì lại cho rằng thái độ hung hăng đó của Bắc Kinh càng khiến cho các quốc gia trong khu vực phải chọn lựa. Thay vì Hoa Kỳ phải mất công thuyết phục. Cũng có người lạc quan tin rằng do sự hung hăng này, Bắc Kinh đã tạo thế liên kết Đông Á có lợi cho nước Mỹ, trước tiên là giúp Hoa Kỳ xuất cảng thêm võ khí.... v.v. và v.v...