Thứ Năm, 8 tháng 9, 2011

Hồ sơ Trần Đức Thảo: Từ Husserl đến Marx trở về Hiện tượng học và Chủ nghĩa duy vật biện chứng, Trần Đức Thảo đã mở đầu sự sáng tạo chủ nghĩa duy vật biện chứng nhân bản

Hồ sơ Trần Đức Thảo: Từ Husserl đến Marx trở về Hiện tượng học và Chủ nghĩa duy vật biện chứng, Trần Đức Thảo đã mở đầu sự sáng tạo chủ nghĩa duy vật biện chứng nhân bản (viet-studies 7-9-11) -- Bài mới của Cù Huy Chử và Cù Huy Song Hà ◄◄
Tiến sĩ Triết học CÙ HUY CHỬ,
và Luật sư CÙ HUY SONG HÀ
Căn cứ vào những tác phẩm của Giáo sư Trần Đức Thảo, các di cảo của ông để lại, căn cứ vào những bài khảo cứu khi cuối đời của Giáo sư về các mệnh đề và khái niệm của Hegel và Husserl, các bài bình luận ngắn của ông về tư tưởng của Mác và Ăng-ghen, căn cứ vào sự trao đổi giữa chúng tôi với Giáo sư và những lời dặn dò của ông, tác phẩm Hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật biện chứng cần được hiểu là: Từ Husserl đến Marx trở về Hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật biện chứng. Đây là tác phẩm mở đầu sự sáng tạo chủ nghĩa duy vật biện chứng nhân bản - tư tưởng triết học mà Trần Đức Thảo đã chung thủy, sáng tạo cho đến tận cuối đời.

Tác phẩm Hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật biện chứng được hình thành trong tư tưởng Trần Đức Thảo như thế nào?
Trong tác phẩm Hồi Ký (1986)[1], Trần Đức Thảo nói rõ, tháng 2 năm 1946, trong lúc bị nhà cầm quyền Pháp bắt và bỏ tù, vì chống thực dân Pháp trở lại xâm lược Đông Dương. Trong nhà tù do chiêm nghiệm về sự đối nghịch giữa chủ nghĩa đế quốc với các dân tộc thuộc địa, Trần Đức Thảo đã hình thành tư tưởng để viết tác phẩm Hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật biện chứng [2], nghĩa là ông đã khẳng định chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa tư bản mang trong nó mâu thuẫn sâu sắc giữa sự bóc lột giá trị thặng dư và sự xâm lược thuộc địa với loài người, với sự phát triển tự do của con người. Trần Đức Thảo sẽ lý giải điều ấy bằng triết học.
Sự phát triển tư tưởng trên đây diễn biến như thế nào trong hoạt động sáng tạo triết học của Trần Đức Thảo?
- Cũng trong tác phẩm Hồi ký (1986) và nhiều bài viết khác, Trần Đức Thảo cho biết: Năm 1948, những người lãnh đạo tạp chí Les Temps modernes đã mời Trần Đức Thảo viết một bài báo về Hegel, nhằm phê phán Kojève. Bài báo của Trần Đức Thảo có tên: Nội dung thực chất của hiện tượng luận tinh thần [3]. Bài báo này đã hướng Hegel về phía tinh thần biện chứng, khác hoàn toàn với Kojève đã hướng Hegel về phía chủ nghĩa hiện sinh. Trần Đức Thảo đã trả lời Kojève trong một bức thư với thái độ rất thẳng thắn: Ông (Kojève) chỉ công nhận tự do và phủ nhận tuyệt đối. Còn tôi, xuất phát từ chủ nghĩa duy lý của triết học khẳng định cả tự do và tuyệt đối [4]. Sau này trong các văn bản khác, Trần Đức Thảo nói rõ: Bài báo ấy của ông là thể hiện sự đoạn tuyệt với chủ nghĩa hiện sinh.
- Năm 1950, Trần Đức Thảo đối thoại với Jean-Paul Sartre về chủ nghĩa hiện sinh và chủ nghĩa Mác. Điểm khác nhau căn bản trong cách đặt vấn đề là: Jean-Paul Sartre chỉ công nhận chủ nghĩa Mác có giá trị về khoa học lịch sử và xã hội, theo ông chủ nghĩa Mác không có giá trị nhận thức triết học. Ngược lại Trần Đức Thảo cho rằng chủ nghĩa Mác có giá trị toàn diện, cả lịch sử, cả xã hội và cả triết học. Cuộc đối thoại gặp bế tắc khi đề cập đến Hiện tượng học của Husserl, vì Jean-Paul Sartre chưa thấu hiểu chủ nghĩa Mác và chưa đọc hết các tác phẩm căn bản của Mác, Jean-Paul Sartre cũng chưa đọc hết các tác phẩm của Husserl. Bởi vậy cuộc đối thoại đi vào bế tắc, thất bại, hai bên không ra được tác phẩm chung về cuộc đối thoại ấy. Sau này khi Jean-Paul Sartre qua đời, Trần Đức Thảo có nói với chúng tôi: Phải tầm cỡ như Jean-Paul Sartre mới đặt ra được sự nghi vấn về giá trị triết học của chủ nghĩa Mác, bởi vì trong bối cảnh lúc bấy giờ, tư tưởng Stalin đang đóng vai trò gần như thống trị học thuyết mác-xít, đã hướng chủ nghĩa Mác đi vào chính trị đơn thuần, dung tục hóa, đơn giản hóa chủ nghĩa Mác, làm mất đi giá trị căn bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng, đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng nhân bản, có khả năng khái quát toàn bộ quy luật của sự vận động của thế giới, là sự phát triển của tự nhiên tất yếu dẫn đến sự phát triển có tính loài của con người, sự phát triển của xã hội. Cuộc trao đổi giữa Trần Đức Thảo với Jean-Paul Sartre tuy không có kết quả, nhưng Trần Đức Thảo đã nhận thức được nguy cơ của việc nhận thức và phát triển sai lệch triết học Mác.
Với tri thức uyên bác về triết học duy lý nói chung và hiện tượng học tinh thần nói riêng, Trần Đức Thảo đã tìm thấy hướng phát triển và chính xác hóa chủ nghĩa duy vật biện chứng của Mác, bằng sự nhận biết Husserl - hậu thế của Hegel, trong những công trình khoa học về hiện tượng học của Husserl. Nghĩa là, Trần Đức Thảo nhận thức sâu sắc rằng, nếu Hegel vĩ đại vì ông đã tổng kết hơn 2000 năm của chủ nghĩa duy tâm khách quan từ Platon đến Hegel, thì Husserl là người đã phát triển Hegel trên một cung bậc mới, nghĩa là Husserl tiếp tục phát triển hiện tượng học tinh thần theo một hướng mới do nhu cầu của thời đại ông đặt ra: Khoa học kỹ thuật phát triển, tinh thần con người phát triển sẽ đưa loài người đi đến bờ bến nào?
Trần Đức Thảo trong thời kỳ Đại chiến thế giới lần thứ hai có dịp đi sang Áo để nghiên cứu toàn bộ tác phẩm của Husserl tại một thư viện riêng của Husserl do bà vợ của Husserl làm giám đốc. Ở đây, Trần Đức Thảo đã gặp giáo sư Cavaillès, là người về sau hướng dẫn Trần Đức Thảo làm luận án thạc sĩ và tiến sĩ.
Nhưng bản thân Cavaillès cũng không phát hiện được tư tưởng vĩ đại của Husserl. Chính Trần Đức Thảo mới phát hiện được sự vĩ đại ấy của Husserl trong một luận đề hết sức đặc sắc: Khi tư duy và vận dụng các loại hình ngôn ngữ để biểu đạt suy nghĩ của mình, con người bắt buộc phải hướng những suy nghĩ ấy vào một đối tượng nhất định nào đó. Con người không thể suy nghĩ và biểu đạt sự suy nghĩ ấy bằng ngôn ngữ mà không có đối tượng và khái niệm. Vậy cái động lực nào đã thúc đẩy sự tư duy và ngôn ngữ hướng tới đối tượng và khái niệm? Husserl mơ hồ nhận thấy đó phải là một lực lượng vật chất. Như vậy cái tạo ra động lực nhất thiết phải có nguồn gốc vật chất của nó. Nhưng thời đại mà Husserl sống, chủ nghĩa tư bản đang phát triển thành chủ nghĩa đế quốc, mâu thuẫn giữa các nước đế quốc đẩy nhân loại vào thảm họa hai cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất và lần thứ hai. Khoa học kỹ thuật bắt đầu phát triển để thỏa mãn nhu cầu của nền sản xuất, thỏa mãn nhu cầu phát triển trí tuệ con người, như thế càng làm tăng điều kiện cho giai cấp tư sản bóc lột sức lao động của nhân dân để tạo ra giá trị thặng dư, tăng cường điều kiện để tạo ra vũ khí giết người hàng loạt. Cũng trong giai đoạn đó, chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô được xây dựng theo tư duy triết học siêu hình của Stalin đã đưa đến chế độ xã hội cực quyền, thu hẹp và phủ định những giá trị tự do dân chủ mà lịch sử văn hóa nhân loại đã đạt được. Chính Stalin trong tác phẩm Lịch sử Đảng cộng sản Liên Xô (1938) khi khái quát chủ nghĩa duy vật biện chứng của Mác đã thu hẹp sự vận động của thế giới trong ba quy luật: vạn vật liên quan, sự phát triển số lượng đưa đến chất lượng, và vạn vật mâu thuẫn; trong xã hội chỉ có đấu tranh giai cấp là tuyệt đối… Như vậy là, với tư duy triết học của mình, Stalin đã hoàn toàn bỏ rơi một quy luật rất căn bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng của Mác, đó là quy luật phủ định của phủ định. Chính trong bối cảnh đó của thời đại, Husserl đã đưa đến một dự báo mang tính bi quan là trí tuệ loài người càng phát triển khoa học kỹ thuật càng phát triển thì chính sự phát triển tinh thần của loài người càng lôi kéo con người vào sự tha hóa, làm xói mòn tinh thần nhân bản. Chính đây là luận điểm để các nhà triết học duy tâm hướng hiện tượng học về phía chủ nghĩa hiện sinh, mà Kojève là đại biểu. Trong bài báo Nội dung thực chất của hiện tượng luận tinh thần, và trong cuộc tranh luận giữa Trần Đức Thảo và Jean-Paul Sartre, Trần Đức Thảo bước đầu nhận thức được điều đó, cho nên ông đã dứt khoát đoạn tuyệt với chủ nghĩa hiện sinh và kiên trì hướng hiện tượng học tinh thần, trong đó có hiện tượng học của Husserl, về phía chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng của Mác đã khẳng định động lực vật chất sáng tạo đời sống tinh thần của con người chính là lao động sáng tạo nền sản xuất vật chất của con người của xã hội loài người.
Trần Đức Thảo cũng thống nhất như thế. Nhưng ông đặt vấn đề lao động sáng tạo của con người gồm hai bộ phận hợp thành thống nhất biện chứng không thể tách rời, lao động tinh thần và lao động thực tiễn sản xuất vật chất của con người.
Đến đây đặt ra vấn đề: Vậy sự thống nhất biện chứng giữa lao động tinh thần, trở thành hiện tượng tinh thần, với lao động thực tiễn mang tính vật chất, diễn ra như thế nào trong lịch sử hình thành tính loài của con người? Ở thời điểm ấy (1948-1950), Trần Đức Thảo chưa đủ dữ liệu để giải quyết vấn đề. Chính vì lẽ đó ông đã trình bày tác phẩm của mình với hai nội dung đặt song song với nhau: hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật biện chứng. Sau này Trần Đức Thảo thấy đó là một hạn chế lớn của tác phẩm. Trong những tác phẩm sau, ông đã vận dụng tinh thần căn bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng để lý giải hiện tượng tinh thần của con người, của loài người bằng cách tập trung nghiên cứu lực lượng bản chất nhất của con người là sự vận động của đời sống tinh thần diễn ra trong mỗi con người cá thể, cá nhân, cụ thể và trong con người nói chung mang tính loài.
- Bước tiếp theo không kém phần quyết định trên con đường phát triển hiện tượng học tinh thần duy vật biện chứng diễn ra từ sau khi xuất bản tác phẩm Hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật biện chứng (1951) đến năm 1986.
- Trong Hồi ký (1986), Trần Đức Thảo nói rõ, xuất bản tác phẩm Hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật biện chứng xong, ông đã tìm đường về nước để tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp, như vậy là để làm cho lý luận thống nhất với thực tiễn cuộc sống. Trần Đức Thảo giải thích rõ ý trên đây với chúng tôi như sau: Phải tham gia hoạt động thực tiễn cách mạng mới có thể nhận chân được những ưu điểm và những sai lầm của lý luận mác-xít. Cũng như thế mới có thể tiếp tục sáng tạo để khẳng định những quy luật của hoạt động tinh thần của con người gắn bó mật thiết với hoạt động sáng tạo vật chất. Dẫu có liên hệ biện chứng giữa hai lĩnh vực ấy, nhưng đó vẫn là hai lĩnh vực có tính độc lập tương đối. Trần Đức Thảo tập trung nghiên cứu chủ nghĩa duy vật biện chứng trong lĩnh vực hoạt động tinh thần. Ngay sau khi về Hà Nội (1955), Trần Đức Thảo công bố hai tác phẩm quan trọng: “Hạt nhân duy lý” trong triết học Hegel [5], Nguồn gốc ý thức trong cuộc tiến hóa của hệ thần kinh [6]. Hai bài báo này đặt nền tảng cho việc nghiên cứu sự hoạt động sáng tạo tinh thần của con người.
Tiếp tục với hàng loạt các công trình nghiên cứu khoa học về nguồn gốc của con người, về sự hình thành con người và loài người, Trần Đức Thảo đã nghiên cứu thành công về sự hình thành của ngôn ngữ và ý thức. Trên cơ sở hàng loạt công trình nghiên cứu, năm 1973, ông công bố tác phẩm nổi tiếng: Tìm cội nguồn của ngôn ngữ và ý thức [7]. Đây là tác phẩm được giới triết học thế giới rất ca ngợi, được dịch ra nhiều thứ tiếng. Trần Đức Thảo được đánh giá là nhà sáng tạo triết học Mác và chủ nghĩa duy vật biện chứng. Trong tác phẩm này Trần Đức Thảo đã trình bày sáng rõ lý thuyết về sự trung giới của các quá trình vận động biện chứng, từ đó đã nhận thức sâu sắc rõ ràng sự chuyển hóa giữa hoạt động của năng lượng thần kinh chuyển sang năng lượng tâm thần người. Ở đây là sự thống nhất biện chứng giữa lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội, con người, loài người.
Vận dụng lý thuyết về cái trung giới trong hoạt động sáng tạo tinh thần của con người, Trần Đức Thảo đã giải thích và chứng minh một cách khoa học về sự xuất hiện của ngôn ngữ và ý thức, về sự hình thành đời sống tinh thần của con người. Đó chính là cái hình ảnh thân thể xã hội nằm trong bản thân mỗi con người cá thể, cụ thể tức trong bộ óc người, kêu gọi cái hình ảnh thân thể xã hội của riêng bản thân, cũng nằm trong bộ óc con người cá thể cụ thể. Chính sự kêu gọi trên được đáp lại, đã kích thích năng lượng thần kinh lên một tần số lớn và do đó đã làm cho năng lượng tâm thần phát triển đến vô cùng. Ngôn ngữ được hình thành, và ý thức, đời sống tinh thần trong mỗi cá nhân phát triển theo quy luật đó. Như vậy là Trần Đức Thảo đã giải thích, chứng minh sự biện chứng của hiện tượng tinh thần theo tinh thần duy vật biện chứng. Tất yếu sự biện chứng của hiện tượng tinh thần có gốc rễ từ trong lịch sử tự nhiên và liên hệ mật thiết với lịch sử xã hội, trước hết là lịch sử của nền sản xuất vật chất. Trần Đức Thảo đã rất thành công trong việc giải thích hiện tượng học tinh thần theo chủ nghĩa duy vật biện chứng nhân bản. Đó là quá trình thống nhất giữa lịch sử tự nhiên, lịch sử xã hội, lịch sử con người nói chung và lịch sử mỗi cá nhân-nhân cách.
Với những thành tựu khoa học trên đây, Trần Đức Thảo đã phát triển chủ nghĩa duy vật biện chứng, theo hướng thống nhất trong nhận thức sự vận động của thế giới, tự nhiên, xã hội, con người cá nhân cụ thể và con người nói chung mang tính loài.
Tư tưởng trên đây của Trần Đức Thảo được tổng kết trong hai tác phẩm cuối đời: Nghiên cứu biện chứng học ([8]) và Logic của thời hiện tại sống động [9].
Với tác phẩm Nghiên cứu biện chứng học, Trần Đức Thảo trình bày thành ba chương. Chương 1: Một hành trình. Ở chương này, Trần Đức Thảo đã trình bày con đường để ông đi đến chủ nghĩa duy vật biện chứng nhân bản, như là sáng tạo độc đáo của ông về chủ nghĩa duy vật biện chứng. Chương 2: Vấn đề con người. Ở chương này ông đã trình bày sự hình thành con người cá nhân cụ thể và con người nói chung mang tính loài như thế nào. Chương 3: Mối liên hệ biện chứng giữa sinh học, xã hội và tâm lý - Giới thiệu về vấn đề con người. Sự thống nhất ấy thể hiện trong con người cá nhân cụ thể và con người nói chung mang tính loài.
Nhưng để nhận thức sâu sắc biện chứng học phải có phương pháp triết học. Trần Đức Thảo đã trình bày một cách thiên tài vấn đề ấy trong tác phẩm Logic của thời hiện tại sống động. Với tác phẩm này Trần Đức Thảo trình bày thành 4 chương. Chương 1: Đối với một nền logic hình thức và biện chứng. Nghĩa là chỉ có một logic mà thôi, đó là logic hình thức thống nhất với logic biện chứng, hai cái đó không bao giờ tách rời nhau mới có thể nhận thức được bản chất của thế giới.
Chương 2: Biện chứng logic như là biện chứng vận động tổng quát của hiện tượng chuyển tiếp.
Chương 3: Mặt lý thuyết của cái hiện tại sinh dộng như là lý thuyết cá thể hóa. Chương 4: Lý thuyết về cái hiện tại sinh động như là lý thuyết về sự hợp tính.
Như vậy, Trần Đức Thảo đã đi đến kết luận: muốn nhận thức được bản chất của thế giới thì phải khắc phục, loại trừ triệt để tư tưởng siêu hình. Điều quan trọng là phải nhận thức rằng sự phát triển của tự nhiên tất yếu đưa đến sự phát triển xã hội của con người. Mọi cội nguồn của của sự nhận thức ấy phải bắt đầu từ sự thấu hiểu năng lượng vũ trụ đưa đến năng lượng thần kinh và sau đó là năng lượng tâm thần. Sự tích lũy năng lượng sẽ tạo ra cái tonic. Từ đó sẽ tạo ra cái phasic, tức động lực sáng tạo và sự sáng tạo. Sự trải nghiệm (le vécu) của đời sống tinh thần con người và của đời sống sản xuất vật chất của con người liên tục diễn ra như thế. Biện chứng hiện tượng học tinh thần thống nhất với biện chứng của toàn bộ đời sống sản xuất của xã hội, từ sản xuất vật chất đến sản xuất tinh thần, đến sản xuất ra con người, giống người.
Tất cả cái vô biên của vũ trụ được con người, loài người giải mã.
Đó là đích cuối cùng Trần Đức Thảo đã đạt được: chủ nghĩa duy vật biện chứng nhân bản. Điểm bắt đầu để đi đến cái đích ấy được mở đầu bằng tác phẩm Từ Husserl đến Marx trở về Hiện tượng học và Chủ nghĩa duy vật biện chứng. Hành trình đi đến chủ nghĩa duy vật biện chứng nhân bản của Trần Đức Thảo đã thành công rực rỡ, bởi ông đã nhận chân giá trị hiện tượng học tinh thần của Hegel và nhất là hiện tượng học của Husserl, thấu hiểu chủ nghĩa duy vật biện chứng của Mác và Ăng-ghen, nắm vững những thành tựu khoa học của nhân loại và thời đại, Trần Đức Thảo đã phát triển chủ nghĩa Mác lên một tầm cao mới.
 
TP. Hồ Chí Minh, ngày 7/9/2011

[1] Trần Đức Thảo. Hồi ký (1986). Di cảo được lưu giữ tại Thư viện Cù Huy Chử và Cù Huy Song Hà.
[2] Trần Đức Thảo. Phénoménologie et Matérialisme Dialectique, NXB Minh Tân, Paris, 1951, 367 trang. Văn bản này có bút tích Trần Đức Thảo sửa chữa. Bản gốc duy nhất này được lưu giữ tại Thư viện Cù Huy Chử và Cù Huy Song Hà.
[3] Trần Đức Thảo. La Phénoménologie de l’Esprit et Son Contenu Réel, in trong tạp chí Les Temps Modernes, No 36, 1948, tr. 492-519.
[4] Xem thư trao đổi giữa Trần Đức Thảo và Kojève, ngày 7-10-1948 và 30-10-1948. Văn bản được lưu giữ tại Thư viện Cù Huy Chử và Cù Huy Song Hà.
[5] Trần Đức Thảo. Hạt nhân duy lý” trong triết học Hê-ghen, Tập san Đại học Sư phạm (Văn khoa), số 6, 7-1956, tr. 18-36.
[6] Trần Đức Thảo. Nguồn gốc ý thức trong cuộc tiến hóa của hệ thần kinh, Tập san Đại học Sư phạm, số 1, tháng 5-1955, tr. 7-26; và số 2, tháng 6, 7-1955, tr. 59-75.
[7] Trần Đức Thảo. Recherches sur l’origine du langage et de la conscience, Paris: Editions Sociales, 1973. Tác phẩm này đã được Trần Đức Thảo sửa chữa rất nhiều. Đây là tác phẩm được Giải thưởng Hồ Chí Minh về Khoa học và Công nghệ (Đợt II). Bản gốc có bút tích sửa chữa của tác giả được lưu giữ tại Thư viện Cù Huy Chử và Cù Huy Song Hà.
[8] Trần Đức Thảo. Recherches Dialectiques (I) - Un Itinéraire, và Recherches Dialectiques (II) - Le Problème de l’Homme, Paris: 1991-1992. Di cảo lưu tại Thư viện Cù Huy Chử và Cù Huy Song Hà.
[9] Trần Đức Thảo La logique du present vivant, Paris: 1992. Di cảo lưu tại Thư viện Cù Huy Chử và Cù Huy Song Hà.

Tổng số lượt xem trang

5189346