-Với việc phe phiến loạn, dưới danh xưng Transitional National Council (TNC), đang dần dần kiểm soát toàn bộ thủ đô Tripoli, thanh toán những cứ điểm cuối cùng của lực lượng chính phủ Gaddafi, cuộc nội chiến Libya có lẽ đang đi vào giai đoạn cuối, hoặc sẽ kết thúc sự cầm quyền của một chế độ đã kéo dài 42 năm qua trên quốc gia này, hoặc chí ít cũng giảm thiểu phạm vi cai trị của chế độ ấy và đẩy Libya vào tình trạng phân ly vốn đã có mầm móng từ lâu trong cơ cấu xã hội của quốc gia này. Các tổ chức quốc tế, các chính phủ trên thế giới đang lần lượt thừa nhận NTC như là đại diện hợp pháp của Libya thay cho chính phủ của Đại Tá Gadhafi. Chủ tịch của TNC, ông cựu Bộ Trưởng Tư Pháp Mustafa Abdul Jalil trong chính phủ Gaddafi trước kia, ngay cả đã được Tổng Thống Obama của Mỹ tiếp kiến hôm thứ Ba vừa rồi bên lề một phiên họp quốc tế tại Liên Hiệp Quốc ở Newyork. [1]
Cuộc nội chiến Libya tuy gần như sắp qua rồi, nhưng hậu quả của nó về nhiều mặt: kinh tế, chính trị, xã hội, đối với đất nước và người dân Libyan chắc sẽ còn kéo dài khá lâu. Còn đối với công luận trên thế giới thì cuộc nội chiến này, có sự can thiệp từ bên ngoài dưới danh nghĩa Liên Hiệp Quốc, vẫn còn để lại những vấn đề về lịch sử, bối cảnh chính trị và pháp lý quốc tế rất đáng duyệt xét và thảo luận. Mọi chuyện đã xảy ra khá nhanh đến độ một số khá đông trong chúng ta dường như chưa kịp thu thập những thông tin trung thực về tình hình xã hội Liyba suốt hơn 40 năm dưới chế độ Gadhafi, về quan hệ đối ngoại của chế độ đó đối với các quốc gia trong Vùng và các cường quốc, về động cơ chính trị và tính chất pháp lý của sự can thiệp quốc tế vào cuộc nội chiến vừa qua.
Trước hết, do vô tình hay cố ý, cuộc nội chiến Libya đã được giới truyền thông Tây Phương lồng vào trong bối cảnh chung của phong trào biểu tình đòi dân chủ của người Ả rập, một phong trào thường được gọi là “Cách mạng Hoa Lài” từ Egypt, Tunisia, Bahrain, Yemen, Syria, v.v…Tuy nhiên, trên thực tế có những khác biệt rất lớn giữa tình hình Libya và các quốc gia khác trong phong trào vừa nói. Sự khác biệt điển hình nhất là giữa Ai Cập và Libya.
Sự khác biệt trong các biến động giữa Egypt và Libya
1.-Về phía người biểu tình-chống đối: Ở Egypt thì người biểu tình là thường dân, đa số thuộc lớp trẻ, sinh viên, học sinh, công nhân và tiểu thương, và số người này biểu tình bất bạo động. Trong lúc đó ở Libya, thành phần chống đối, ngoài thường dân ra, còn có các viên chức chính phủ và quân nhân đào ngũ ly khai, và sự chống đối mang tính chất bạo động với súng AK-47, súng phóng lựu, những dàn cao xạ tối tân, cả hoả tiển và ngay cả với chiến đấu cơ Mig-23. Nghĩa là ở Libya, không phải là những người dân thường nổi dậy biểu tình đòi Dân chủ như đã xãy ra ở Ai Cập, Tunisia, Bahrain hay Yemen. Thật ra, thì đã không hề có biểu tình đòi dân chủ ở Libya, mà chỉ có sự nổi loạn vũ trang của phe phiến loạn.
2.-Về phía chính quyền: Ở Egypt, ngoài lực lượng cảnh sát đàn áp người biểu tình ra, quân đội lại có thái độ ôn hoà đối với người biểu tình. Hơn nữa chính quyền lại nằm hoàn toàn trong tay quân đội. Người biểu tình chỉ đòi TT Mubarak từ chức mà không hề đòi thay đổi chế độ do quân đội lãnh đạo. Trong khi đó ở Libya, có ngay sự ly khai trong giới chức chính quyền và quân đội. Tình hình của Libya mang tính chất của một cuộc nổi loạn và nội chiến giữa các bộ lạc trong nước, chứ không chỉ là sự nổi dậy đòi Dân chủ như ở Egypt. Và tình hình nội chiến đó bắt rễ từ lâu trong sự khác biệt lâu đời giữa hai vùng Đông-Tây Libya và trong tính chất tranh chấp giữa các bộ lạc vẫn tồn tại trong xã hội Libya.
Điểm đáng chú ý nữa, là khác với ở Ai Cập và Tunisia, ở Libya không có đảng phái đối lập và công đoàn, trừ tổ chức Libyan Islamic Fighting Group (LIFG). Dân số tập trung nhiều ở nông thôn hơn thành thị. Quân đội và giới thượng lưu ít chịu ảnh hưởng của Tây phương, ít lệ thuộc vào quân viện của Mỹ.
3.-Về quan hệ đối ngoại; đặc biệt là với Mỹ: TT Egypt Mubarak được các chính phủ Mỹ ủng hộ mạnh mẽ, xem là đồng minh chiến lược ở Trung Đông suốt 30 năm qua. Suốt thời gian đó, ngoài viện trợ kinh tế, quân viện của Mỹ hằng năm dành cho quân đội Egypt của Mubarak trung bình là 1.3 tỉ dollars/ năm. Ngay cả đến lúc này, sau khi Mubarak xuống rồi, sự ủng hộ của Mỹ đối với quân đội Egypt chưa có dấu hiệu thay đổi.
Nhưng quan hệ Mỹ-Libya thì hoàn toàn khác. Trước đây các chính phủ Carter, Reagan đã tỏ ra rất thù địch với TT Muamma Gadhafi. Quan hệ hai bên đã nhiều lúc bị gián đoạn. Gadhafi đã từng bị Mỹ xem như một kẻ khủng bố, chịu trách nhiệm về việc bắn hạ máy bay dân sự Pan Am Flight 103 năm 1988. Chỉ từ năm 2003 trở đi, quan hệ Mỹ-Libya mới hoà dịu, sau khi Gadhafi công khai từ bỏ việc sở hữu Vũ Khí Huỹ Diệt Hàng loạt (WMD) và hoả tiển tầm xa, chấp nhận bồi hoàn cho gia đình các nạn nhân của chuyến bay Pan Am 103. Từ đó quan hệ hai bên trở nên hoà dịu hơn, và đến 31/5/ 2006 thì có quan hệ chính thức. Mặc dù vậy, khác biệt chính ở đây là mối quan hệ của Mỹ đối với Muamma Al Gadhafi không giống như đối với Mubarak, và quân đội Libya không lệ thuộc quân viện của Mỹ như quân đội Egypt, vì Egypt là đồng minh chiến lược của Mỹ, còn Libya thì chưa bao giờ.
4.- Về mức sống: Một cách tổng quát thì, phần nào do sự chênh lệch quá xa về dân số giữa hai quốc gia: Egypt có 83 triệu dân, Libya chỉ có chừng 6.3 triệu, mức sống của hai bên rất khác biệt. Trong khi có đến 40% dân Egypt có thu nhập không quá 2$/ ngày và lợi tức bình quân chỉ chừng 1.300 dollars/người, thì thu nhập bình quân đầu người của Libya đến gần 10.000 dollars/ người (số liệu năm 2004 của World Bank) [2]. Yếu tố quan trọng là trữ lượng dầu hỏa của Libya có đến chừng 44 tỉ thùng, gấp hơn 10 lần trữ lượng của Egypt. Vẫn còn nhiều vùng chưa được thăm dò đầy đủ và có một số chuyên gia về dầu hoả cho rằng trữ lượng thật sự của Libya còn lớn hơn con số hiện nay khá nhiều.
Đến đây thiết nghĩ cũng nên điểm qua về bối cảnh xã hội-kinh tế của Libya trước nội chiến.
Libya có chừng 140 bộ lạc lớn nhỏ, trong đó có chừng 30 bộ lạc với dân số đáng kể, sống tập trung vào ba vùng quan trọng; đó là: Tripolitania, với thủ phủ là Tripoli nằm trên bờ Địa Trung Hải về phiá Tây Bắc Libya; kế đến là Cyrenaica với Benghazi làm thủ phủ, ở phía Đông Bắc, trải dài từ bờ Địa Trung Hải vào tận sa mạc Sahara; và Fezzan nằm trong nội địa với sa mạc mênh mông.
Trong ba vùng kể trên, thì Tripolitania và Cyrenaica là quan trọng nhất. Tripolitania nằm về phía Tây từ lâu là căn cứ địa của Gadhafi. Còn vùng Cyrenaica thì trong lịch sử đã từng có khuynh hướng không thần phục Tripoli và tỏ ra gần gũi thân thiện với Ai Cập hơn. Điều này giúp hiểu dễ dàng hơn nổ lực ly khai hiện nay của người ở vùng này. Chính vua Idris, người bị Gadhafi lật đổ năm 1969, sinh ra từ vùng này. Đây là lý do tại sao trong những ngày đầu nội chiến, người ở đây đã treo cờ cũ của chế độ quân chủ Libya. Cyrenaica cũng là vùng đất của những nhóm cực đoan Hồi giáo, như nhóm Libyan Islamic Fighting Group (LIFG) là nhóm đã bị Gadhafi trấn áp trong nhiều năm qua.
Phân bố ra ba vùng trên có 4 bộ lạc quan trọng nhất là Gadhafa, Warfallah, Zuwaya và Magariha; trong đó đông đảo nhất là bộ lạc Warfallah chiếm gần 1/6 dân số Libya, có dân cư sống ở cả hai vùng Tripolitania và Cyrenaica. Bộ lạc lớn thứ hai là Magahira ở vùng Fezzan. Bộ lạc Gadhafa tuy không lớn nhất, nhưng Gadhafa lại có quan hệ huyết thống với bộ lạc Warfallah và được sự ủng hộ mạnh mẽ của bộ lạc này trong nhiều năm. Mặc dầu vậy, năm 1993 một số thành viên của Warfallah đã liên kết với bộ lạc Magahira âm mưu đảo chánh Gadhafi, nhưng không thành, bị Gadhafi dùng không quân đè bẹp. Trong biến động hiện nay, có nhiều thủ lãnh của Warfallah đứng vềp phe nổi dậy, chống lại Gadhafi. Bộ lạc hiện chống đối Gadhafi mạnh nhất là Zuwaya, cư trú đông đảo ở vùng Cyrenaica.
Lịch sử cơ cấu bộ lạc của Libya như nên trên đây sẽ là yếu tố xã hội quan trọng định hình tương lai hậu chiến, cả đối nội lẫn đối ngoại, sắp đến của Libya.
Kinh tế- xã hội Libya dưới chế độ Gadhafi
Kể từ năm 1969 đến nay, Libya đã có nhiều thay đổi rất đáng chú ý.
Về mặt lý thuyết, Gadhafi và nhóm sĩ quan trẻ ủng hộ Ông trong cuộc đảo chính đã có tham vọng chấm dứt sự bất công xã hội do chế độ thuộc điạ và chế độ quân chủ tạo ra, xây dựng một chế độ xã hội chủ nghĩa dựa trên những giá trị tốt đẹp truyền thống của Hồi giáo kết hợp với một sự phân phối lợi tức công bằng nhằm giảm thiểu sự bất bình đẳng lớn giữa các thành phần trong xã hội.
Trước năm 1969, xã hội Libya tổng quát có ba giai cấp chính: giai cấp thượng lưu gồm hoàng tộc, các giới chức cao cấp trong chính phủ và những gia đình giàu có nhất. Kế đến là một giai cấp trung lưu nhỏ bao gồm các chức sắc tôn giáo, tiểu thương, tiểu điền chủ, các nhà xuất nhập cảng, giới doanh nhân dầu hoả, chuyên gia các ngành, công chức, v.v…Cuối cùng là đại đa số dân thuôc giai cấp nông dân, thợ thủ công và công nhân. Lợi tức phân phối trong xã hội giữa các giai cấp là rất chênh lệch.
Kỹ nghệ dầu hoả phát triển dẩn đến việc thành hình đời sống đô thị với sự gia tăng ngày càng nhanh thành phần chuyên viên và công nhân trẻ có trình độ kỹ thuật khá hơn nhờ được đào tạo ngày càng đầy đủ hơn trước. Điều này ảnh hưởng rõ rệt đến sự thay đổi cơ cấu giai cấp-xã hội của Libya. Đồng thời vai trò của quân đội cũng ngày càng trở nên quan trọng. Nền độc lập quốc gia giúp cho ra đời ngày càng nhiều các sĩ quan Libyan thay thế các cấp chỉ huy Tây Phương, hình thành một tầng lớp quân nhân bản xứ với ảnh hưởng chính trị ngày càng tăng. Gadhafi và nhóm Sĩ Quan Tự Do (Free Officer Movement) đã ra đời trong bối cảnh đó với hạt nhân chính trị là Hội Đồng Tư Lệnh Cách Mạng (Revolutionary Command Council, RCC), trở thành lực lượng ưu tú trẻ và nhóm này được sự ủng hộ ngày càng tăng của giai cấp trung lưu, nông dân và giới thợ thuyền thành thị.
Chủ trương của RCC, do Gadhafi cầm đầu, là tước dần quyền lực và tài sản của tầng lớp thượng lưu, thu hút sự hậu thuẫn của giai cấp trung lưu và giới nghèo, tăng cường sự kiểm soát của nhà nước đối với kinh tế quốc gia, tạo ra cơ cấu chính trị mới, đặt trọng tâm vào sự tái phân phối lợi tức và tạo cơ hội đồng đều cho mọi thành viên trong xã hội thông qua những biện pháp như xác lập mức lương tối thiểu, chính phủ trực tiếp quản lý thị trường nhân dụng và thực hiện quốc sách trợ cấp xã hội.
Công đoàn Xã hội Chủ nghĩa Ả Rập (Arab Socialist Union, ASU) được thành lập năm 1971 và xử dụng như một công cụ huy động quần chúng nhằm thực hiện những chủ trương cải cách chính trị-xã hội nêu trên. Mục tiêu chính của ASU là xoá bỏ, bằng phương cách hoà bình, sự cách biệt lớn giữa các giai cấp, nguồn gốc của thảm kịch đấu tranh giai cấp ngấm ngầm trong xã hội. Về mặt này thì Gadhafi và những sĩ quan đồng chí hướng đã có một chủ trương thực tiễn trong việc đối phó với vấn nạn xung đột giai cấp trong xã hội. Tuy vẫn đề cao Socialism, nhưng Gadhafi đã không áp dụng một cách mù quáng học thuyết đấu tranh giai cấp sắt máu của Karl Marx và Lenine, trái lại đã biết dung hoà giữa nhu cầu bình đẳng xã hội và truyền thống Hồi giáo của xứ sở mình. Đến năm 1973 chính phủ Libya còn đưa ra luật đòi hỏi các công ty lớn phải chia lợi nhuận cho nhân viên của mình, đưa công nhân tham gia ban giám đốc và thành lập các cơ quan liên hiệp tư vấn với sự tham gia đồng đều giữa quản trị viên và công nhân.
Mặc dù không cổ xúy đấu tranh giai cấp, nhưng Gadahfi và RCC, trên thực tế, vẫn thực hiện một số biện pháp nhằm thu hẹp dần ảnh hưởng xã hội, các ưu đãi và quyền lực kinh tế của giới thượng lưu. Một số chiến dịch công kích nhắm vào giới “tiểu tư sản quan liêu” (bourgeois bereaucrats) được thực hiện trong nhiều năm .Kế đến là những hạn chế áp dụng đối với các thương nhân tư doanh được đưa ra vào khoảng năm 1975. Đến khoảng năm 1978, luật về giới hạn đầu tư tư nhân trong lãnh vực địa ốc được ban hành, mỗi gia đình nhỏ (vợ chồng và con cái vị thành niên) chỉ được phép sỡ hữu một căn nhà, số nhà dư ra sẽ bị chính phủ thu mua. Nhiều giới hạn khác cũng được áp dụng đối với ngoại thương và kỹ nghệ. Ngoại thương hoàn toàn thuộc về độc quyền của các công ty quốc doanh (public corporations). Ngành bán sỉ tư nhân (whole sale) hoàn toàn bị loại bỏ.
Ngoài ra một nỗ lực chính khác của Gadhafi và RCC là xóa đi sự phân tranh cố hữu giữa Đông và Tây Libya, giữa Tripolitania và Cyrenaica, nhằm tạo dựng sự thống nhất và khẳng định căn cước chính trị cho quốc gia Libya. Nhiều nỗ lực đã được đưa ra để xoá bớt lằn ranh chia rẽ giữa các bộ tộc, loại dần ảnh hưởng của các tộc trưởng và của các chức sắc tôn giáo; xử dụng trình độ giáo dục làm tiêu chuẩn tuyển chọn nhân tài thay cho các quan hệ huyết thống và tôn giáo như trước kia.[3]
Những cải cách trên của Gadhafi và RCC đã thay đổi bộ mặt của Libya một cách đáng kể. Do tính cách bình đẳng xã hội cao, Libya khác hoàn toàn với phần đông các quốc gia sản xuất dầu hoả khác. Lương bổng cao hơn, các dịch vụ giáo dục và y-tế được phổ quát và tốt hơn; mức độ tích lũy tài sản xã hội vào tay tư nhân cũng giảm đi nhiều. Cũng là chế độ độc tài ở Trung Đông, nhưng so với Ai Cập hay Saudi Arabia thì sự khác biệt hiện ra rất rõ ràng. Chẳng hạn về kinh tế, GDP (tổng sản lượng quốc gia) chia trên đầu người của Libya năm 2008 ước tính chừng 14.400 dollars/ người trong khi chỉ số đó ở Ai Cập trong cùng năm chỉ được chừng 5.400 dollars/ người.[4] Về mặt công bằng xã hội, ở Saudi Arabia, hoàng tộc và toàn bộ những người có quan hệ hôn nhân nội ngoại với hoàng tộc tổng số chừng khoảng từ 60.000 đến gần 100.000 người nắm hầu hết quyền lực kinh tế trong tay, chiếm hữu hơn 40% tổng tích sản của cả nước chỉ chừa 60% còn lại cho gần 26 triệu người khác! Về dân trí, tỉ lệ mù chữ ở Libya cũng thấp hơn Saudi Arabia: 13.2% so với 15%; trong khi ở Ai Cập thì đến 33.6%!
Trong bảng xếp hạng phát triển nhân sinh thế giới năm 2009 (Human Development Report), Libya được xếp ở hạng 55, trong khi Saudi Arabia đứng hạng 59, còn Ai Cập thì ở hạng 123, thua cả Việt Nam CS ở hạng 116![5] Điều đáng chú ý ở đây là Saudi Arabia và Ai Cập là hai quốc gia có chế độ độc tài khắc nghiệt nhất ở Trung Đông, là đồng minh thân cận được Mỹ ủng hộ từ hơn 30 năm qua.
Về mặt Y tế tỉ lệ bác sĩ / bệnh nhân ở Libya theo thống kê năm 2007 là chừng 1/750; so với 1/1900 ở Ai Cập và Việt Nam; ở Mỹ là 1/390.[6] Mọi công dân được hưởng miễn phí những săn sóc y tế căn bản. Hệ thống săn sóc y tế là một hổn hợp cả công lẫn tư. So với các quốc gia khác ở Trung Đông thì hệ thống y tế của Libya tương đối tốt; việc chích ngừa cho trẻ em được thực hiện rộng rãi và cưỡng bách trên toàn quốc; hệ thống cung cấp nước uống được cải thiện rất nhiều từ suốt mấy mươi năm qua.
Trong lãnh vực giáo dục, trẻ em trong độ tuổi từ 6 đến 15 bị đặt dưới hệ thống cưỡng bách giáo dục và hoàn toàn miễn phí. Có chừng hơn 800,000 học sinh cấp I &II và chừng hơn 700,000 học sinh cấp III và khoảng 300,000 sinh viên đại học.(Số liệu năm 2000).
Những đổi thay chính trị, vừa nêu ở trên, đã được thực hiện theo những gì Gadhafi viết ra trong quyền Green Book. Đó là một bộ sách ba tập đưa ra lý thuyết về Third International Theory với chủ đề chính yếu là thiết lập một hệ thống kinh tế-chính trị khác với cả hệ thống tư bản của Mỹ lẩn hệ thống cộng sản của Liên Xô; một sự phối hợp giữa các nguyên tắc đạo đức của Hồi Giáo với sự bình đẳng xã hội dựa trên một nền dân chủ trực tiếp (direct democracy).
Về cơ cấu chính quyền, toàn quốc được phân định ranh giới thành 1500 công xã (communes) được quản trị bởi các Ủy ban Nhân dân (peoples’ committees) do dân trực tiếp bầu ra; các uỷ ban này có chức năng cai trị và hoạch định ngân sách trong địa phương của mình với sự phê chuẩn của một cơ quan dân cử khác của công xã, có vai trò như Hội Đồng Nhân dân. Các công xã này thuộc về 34 khu tự quản (municipalities) trên toàn quốc, cùng với cơ cấu Uỷ ban và Hội Đồng tương tự. Đến lượt mình, các uỷ ban của khu tự quản này sẽ đệ trình các vấn đề về ngân sách và chính sách lên cho Quốc Hội Nhân dân (General People’s Congress, GPC) của toàn Libya; GPC gồm cả chức năng Lập pháp,Hành pháp, và Tư pháp; các bộ trưởng cũng như thẩm phán sẽ từ cơ quan này mà ra. Đó là trên nguyên tắc, trên thực tế thì chính Gadhafi nắm quyền, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp, trong việc bổ nhiệm các bộ trưởng và các viên chức cao cấp khác trong chính phủ.
Những việc đầu tiên khi lên cầm quyền của Gadhafi là hoàn thiện việc giành chủ quyền quốc gia. Chính quyền mới đã tịch thu tất cả tài sản của các kiều dân Do Thái, tịch thu tài sản và trục xuất hơn 45,000 kiều dân Ý, những người đã di cư đến Libya trong thời thuộc điạ. Cùng lúc, chính phủ Gadhafi đã yêu cầu Anh và Mỹ rút toàn bộ các căn cứ quân sự ra khỏi lãnh thổ Libya; ngày được ấn định là 28/3 và 11/6/1970. Hai ngày này và ngày 7/10/1970, là ngày trục xuất người Ý, về sau đã được dùng như ngày quốc lễ của Libya. Ngoài ra chính phủ Gadhafi còn làm áp lực buộc các công ty dầu hoả Tây Phương phải tái thương lượng các hợp đồng khai thác dầu hoả trước đây và phải nhượng lại phần lớn doanh lợi cho Libya.[7]
Đối ngoại, ngoài thái độ bài Tây Phương, chống chế độ thuộc điạ và tích cực cổ xuý cho cuộc đấu tranh giành độc lập của các quốc gia nhược tiểu, chính phủ của Gadhafi, ít nhất cho đến khoảng năm 2009, rất chống Do Thái. Lúc đầu Gadhafi chống lại mọi đàm phán với Do Thái trong vấn đề Palestine; sự chống đối mạnh mẽ đến độ đã gây ra bất hoà sâu sắc giữa Gadhafi và Anwar Sadat của Ai Cập, và ngay cả với Yasir Arafat, chủ tịch Phong trào Giải phóng Palestine.
Gadhafi cho rằng để giành lại cho người Palestine những gì đã mất thì không còn con đường nào khác ngoài đấu tranh bằng bạo lực. Vì vậy Gadhafi trong nhiều năm trước đây đã chống lại mọi cuộc đàm phán với DoThái trong vấn đề Palestine, tích cực tài trợ và huấn luyện cho các tổ chức đấu tranh bạo động của người Palestine. Những năm sau này, tuy không còn tài trợ cho các nhóm đó, Gadhafi vẫn chống lại đề nghị về “hai quốc gia” cho vấn đề Do Thái-Palestine. Trong một bài báo viết cho New York Times, Gadhafi đưa ra đề nghị về một quốc gia, chung cho cả người Do Thái lẫn Palestine, với tên gọi là Isratine và rằng người tị nạn Palestine nên được quyền hồi cư về nguyên quán trước năm 1948. Tất nhiên những đề nghị đó của Gadhafi bị phiá Do Thái phản đối và bác bỏ. Lập trường của Gadhafi đối với vấn đề Do Thái là một trong những trở ngại lớn nhất trong mối quan hệ Mỹ-Libya.
Chính phủ Gadhafi cũng đã đạt được những thành tựu đáng kể trong lãnh vự săn sóc y-tế, giáo dục, nhà ở, quyền của phụ nữ và một số dịch vụ xã hội căn bản. Chế độ “Xã hội Chủ nghiã Hồi giáo” do Gadhafi khởi xướng, cộng với số dân ít và dự trữ dầu hoả lớn đã biến Libya trở nên một xã hội khá phồn thịnh và bình đẳng ở Trung Đông. Và tuy là một nhà độc tài, Gadhafi đã cho khai sinh một hệ thống chính trị tản quyền (decentralization), nổ lực xây dựng bước đầu nền dân chủ trực tiếp ở các địa phương với sự tham gia rộng rãi của dân chúng trong một số lãnh vực. Tuy nhiên, nhìn chung thì sự đàn áp đối lập vẫn thường xảy ra
Vấn đề hối lộ của các viên chức nhà nước là một quan tâm lớn. Năm 1975 một đạo luật cứng rắn đối với tệ nạn này đã được áp dụng, theo đó viên chức nhận hối lộ sẽ bị án đến 10 năm tù giam cộng với tiền phạt bằng hai lần số tiền nhận hối lộ. Kẻ đút lót hối lộ có thể bị án đến 5 năm và bị phạt tiền đến 500 LD (LD Libyan Dinar, tiền Libya, 1LD~0.82dollars)
Về mặt đối ngoại
Đáng chú ý nhất là mối quan hệ Mỹ-Libya.
Do thái độ bài Do Thái, kịch liệt chống chế độ thuộc địa, đề cao phong trào giành độc lập của các nước thứ ba, công khai chỉ trích Tây Phương trên mọi diễn đàn quốc tế của Gadhafi, ngay từ đầu quan hệ Libya-Mỹ đã không đầm ấm. Có thể tạm chia quan hệ Libya-Mỹ ra các giai đoạn như sau:
Từ khoảng năm 1969-1986: Ngay từ khi lên nắm quyền, chính phủ Gadhafi đã lập tức thực hiện chính sách quốc gia Arab, đóng cửa các căn cứ quân sự Anh-Mỹ trên đất Libya, trục xuất các đại công ty dầu hoả của Mỹ, đặt tất cả các nguồn tài nguyên, đặc biệt là dầu hỏa, dưới sự quản trị của các công ty quốc doanh của chính phủ. Căng thẳng nhất trong giai đoạn này là việc chính phủ của Gadhafi, năm 1973, tuyên bố lãnh hải rộng 12 hải lý ở vịnh Sidra dọc duyên hải của Libya. Phía Mỹ liền tiến hành chiến dịch Freedom of Navigation, đòi tự do hải hành trong khu vực. Năm 1981 khi Ronald Reagon lên cầm quyền, tình hình càng căng thẳng hơn; tháng 8/1981 Reagan cho một hạm đội lớn với hai chiến hạm lớn Forrestal và Nimitz vào thao dượt trong hải phận 12 hải lý mà Libya đã tuyên bố. Ngày 19/8/1981 hai chiến đấu cơ Sukhoi Su-22 của Libya nghênh chiến với phi cơ hải quân Mỹ và bị hai chiến đấu cơ F-14 của Mỹ bắn hạ ngay trên vùng trời vịnh Sidra.
Giai đoạn từ 1986-1999 :Những năm sau đó chính phủ Mỹ loan tin là chính phủ Libya đang dùng các tổ chức khủng bố để tấn công viên chức và công dân Mỹ ở nước ngoài. Vụ tấn công toà đại sứ Mỹ ở Khartoum, Sudan được quy là do nhóm khủng bố được Libya tài trợ. Tháng 12/1985 một vụ khủng bố tấn công ở Rome và phi trường Vienne khiến 5 người Mỹ thiệt mạng, có bằng chứng cho thấy là có sự dính líu của Libya.Lập tức, tổng thống Regan cho phong toả các tích sản của Libya ở Mỹ; đồng thời tháng 3/1986 một cuộc đụng độ khác giữa hải quân hai bên xảy ra tại vịnh Sidra khiến 58 thuỷ thủ Libya thiệt mạng. Tháng Tư/1986 một qủa bom nổ ở một hí viện tại Tây Bá Linh, nơi thường có quân nhân Mỹ đến du hí, giết chết một quân nhân Mỹ và làm bị thương hàng trăm người khác, trong đó có 50 quân nhân Mỹ. Có tin là cơ quan tình báo Mỹ đã phát hiện là vụ nổ do toà đại sứ của Libya ở Bá Linh ra lệnh.
Ngày 14/5/1986, chiến dịch không tập mang tên El Dorado Canyon gồm hơn 30 chiến đấu và oanh tạc cơ F-111 của Mỹ, bay từ ngoài Địa Trung Hải và từ căn cứ ở Anh qua, đã dội bom xuống Tripoli và Bengazhi của Libya. Kết quả có hơn trăm thường dân Libya thiệt mạng, trong đó có cô con gái nuôi của Gadhafi; và nhiều người khác bị thương trong đó có hai con trai của Gadhafi. Về phiá Mỹ thì 1 máy bay F-111 bị bắn hạ và hai phi công mất tích.
Để trả đũa, ngày 15/4 tàu tuần tra Libya đã bắn hoả tiễn vào một trạm viễn thông của hải quân Mỹ ở Địa Trung Hải, nhưng không gây thiệt hại đáng kể. Hai năm sau, 1988, phi cơ dân sự Pan Am 747, chuyến bay 103, của Mỹ bị nổ bom trên không phận Lockerbie của Tô Cách Lan, giết chết tổng cộng 270 người. Cuộc điều tra kết thúc năm 1991 với kết quả cho biết rằng chính phủ Libya có dính líu vào vụ này. Từ năm 1992 trở đi Liên Hiệp Quốc bắt đầu cấm vận Libya, đòi chính phủ Libya phải giải giao nghi can của vụ nổ bom.
Giai đoạn từ 1999-2006: Năm 1999, chính phủ Gadhafi đồng ý giải giao nghi phạm vụ Pan Nam 103 nói trên cho toà án Tô Cách Lan xét xử. Và sau đó chính phủ Libya chấp nhận bồi thường cho các gia đình nạn nhân theo như đòi hỏi của Mỹ và Liên Hiệp Quốc. Số tiền bồi thường là 2.7 tỉ dollars được chuyển cho gia đình nạn nhân năm 2003. Sau đó việc cấm vận đã được chấm dứt. Cùng năm Gadhafi tuyên bố từ bỏ việc sỡ hữu vũ khí huỷ diệt hàng loạt và vũ khí nguyên tử. Từ đó trở đi quan hệ Mỹ-Libya trở nên hoà dịu hơn, các công ty dầu hoả của Mỹ bắt đầu được phép trở lại Libya. Đến năm 2006 quan hệ bình thường giữa hai quốc gia được chính thức tái lập.[8]
Libya của Gadhafi luôn chống lại Al-Qaeda. Bằng chứng là trong những cuộc mật đàm giữa Mỹ thời TT Clinton và Libya ở Geneva năm 1999, đại diện của Libya hưởng ứng việc chống Al-Qaeda. Libya cũng thỏa thuận mở các nhà máy hoá chất cho quốc tế kiểm tra. Các cuộc mật đàm đó do đại sứ Saudi Arabia ở Mỹ là hoàng tử Bandar Bin Sultan làm trung gian.[9]
Theo bác sĩ Ronald Bruce St. John, của cơ quan The International Advisory Board of The Journal of Libyan Studies, thì sau 9/11 Libya cộng tác mật thiết với Mỹ trong mặt trận chống khủng bố Al-Qaeda, cơ quan tình báo của Libya đã cung cấp toàn bộ tin tức liên quan đến Al-Qaeda cho phía Mỹ. Gadhafi ngay cả đã treo thưởng 1 triệu dollars cho những ai cung cấp tin tức về các tổ chức Hồi giáo cực đoan chống chính phủ. Sỡ dĩ như vậy là vì trong một thời gian dài Gadhafi đã từng là mục tiêu tấn công của các nhóm Al-Qaeda ở Trung Đông.[10]
Trong cuộc nội chiến hiện nay,nhìn bề ngoài Mỹ dường như không có lợi ích quốc gia gì thiết thực và lớn lao ở Libya. Mặt khác, hai cuộc chiến Iraq và Afghanistan chưa giải quyết xong và đang cầm chân một lực lượng quân sự quan trọng của Mỹ. Điều đó chắc đã khiến Ngũ Giác Đài hết sức cân nhắc trong việc trực tiếp đưa quân vào tham chiến ở một quốc gia có tầm chiến lược thấp như Libya. Bởi vì việc đó sẽ khiến cho lực lượng dự trữ chiến lược toàn cầu của Mỹ bị dàn mỏng ra, khiến cho khả năng phản ứng cấp thiết đối với những vùng khác trên thế giới sẽ bị thu hẹp một cách đáng ngại. Chưa kể là một khi đã đưa quân vào thì cuộc chiến tất nhiên sẽ mở rộng, thời gian bình định để lập chính quyền mới sẽ kéo dài, tổn phí sẽ lên cao hơn; ngay ở Afghanistan không thôi, đã tốn mất gần 2 tỉ dollars/ tuần. Có lẽ vì vậy mà Bộ trưởng QP Robert Gates trước đây, khi điều trần trước Quốc Hội, đã khẳng định rằng Mỹ sẽ không đưa bộ binh vào Libya.[11]
Tuy nhiên sâu bên trong, Mỹ có những lý do quan trọng để can thiệp vào Libya. Từ mấy mươi năm qua, Libya do Gadhafi lãnh đạo là một quốc gia có mức độ tự chủ, độc lập rất cao đối với sự chi phối của các chính phủ Mỹ. Gadhafi, một mặt hoà hoãn với Mỹ, để khỏi tiếp tục bị cấm vận, nhưng mặt khác lại muốn gia tăng quan hệ với Trung Quốc và Nga để duy trì tư thế độc lập của mình. Ngược lại phía Trung Quốc và Nga cũng muốn gia tăng ảnh hưởng của mình ở Phi Châu qua sự trung gian của Libya-Gadhafi, một nước đang có uy tín ở Phi Châu. Như vậy rõ ràng dù đã trở lại hoà hoãn với nhau, Mỹ vẫn luôn xem Libya của Gadhafi là cái gai trong mắt cần phải thanh toán bằng biện pháp “regime change”.
(Còn tiếp phần II)
Cuộc nội chiến Libya tuy gần như sắp qua rồi, nhưng hậu quả của nó về nhiều mặt: kinh tế, chính trị, xã hội, đối với đất nước và người dân Libyan chắc sẽ còn kéo dài khá lâu. Còn đối với công luận trên thế giới thì cuộc nội chiến này, có sự can thiệp từ bên ngoài dưới danh nghĩa Liên Hiệp Quốc, vẫn còn để lại những vấn đề về lịch sử, bối cảnh chính trị và pháp lý quốc tế rất đáng duyệt xét và thảo luận. Mọi chuyện đã xảy ra khá nhanh đến độ một số khá đông trong chúng ta dường như chưa kịp thu thập những thông tin trung thực về tình hình xã hội Liyba suốt hơn 40 năm dưới chế độ Gadhafi, về quan hệ đối ngoại của chế độ đó đối với các quốc gia trong Vùng và các cường quốc, về động cơ chính trị và tính chất pháp lý của sự can thiệp quốc tế vào cuộc nội chiến vừa qua.
Trước hết, do vô tình hay cố ý, cuộc nội chiến Libya đã được giới truyền thông Tây Phương lồng vào trong bối cảnh chung của phong trào biểu tình đòi dân chủ của người Ả rập, một phong trào thường được gọi là “Cách mạng Hoa Lài” từ Egypt, Tunisia, Bahrain, Yemen, Syria, v.v…Tuy nhiên, trên thực tế có những khác biệt rất lớn giữa tình hình Libya và các quốc gia khác trong phong trào vừa nói. Sự khác biệt điển hình nhất là giữa Ai Cập và Libya.
Sự khác biệt trong các biến động giữa Egypt và Libya
1.-Về phía người biểu tình-chống đối: Ở Egypt thì người biểu tình là thường dân, đa số thuộc lớp trẻ, sinh viên, học sinh, công nhân và tiểu thương, và số người này biểu tình bất bạo động. Trong lúc đó ở Libya, thành phần chống đối, ngoài thường dân ra, còn có các viên chức chính phủ và quân nhân đào ngũ ly khai, và sự chống đối mang tính chất bạo động với súng AK-47, súng phóng lựu, những dàn cao xạ tối tân, cả hoả tiển và ngay cả với chiến đấu cơ Mig-23. Nghĩa là ở Libya, không phải là những người dân thường nổi dậy biểu tình đòi Dân chủ như đã xãy ra ở Ai Cập, Tunisia, Bahrain hay Yemen. Thật ra, thì đã không hề có biểu tình đòi dân chủ ở Libya, mà chỉ có sự nổi loạn vũ trang của phe phiến loạn.
2.-Về phía chính quyền: Ở Egypt, ngoài lực lượng cảnh sát đàn áp người biểu tình ra, quân đội lại có thái độ ôn hoà đối với người biểu tình. Hơn nữa chính quyền lại nằm hoàn toàn trong tay quân đội. Người biểu tình chỉ đòi TT Mubarak từ chức mà không hề đòi thay đổi chế độ do quân đội lãnh đạo. Trong khi đó ở Libya, có ngay sự ly khai trong giới chức chính quyền và quân đội. Tình hình của Libya mang tính chất của một cuộc nổi loạn và nội chiến giữa các bộ lạc trong nước, chứ không chỉ là sự nổi dậy đòi Dân chủ như ở Egypt. Và tình hình nội chiến đó bắt rễ từ lâu trong sự khác biệt lâu đời giữa hai vùng Đông-Tây Libya và trong tính chất tranh chấp giữa các bộ lạc vẫn tồn tại trong xã hội Libya.
Điểm đáng chú ý nữa, là khác với ở Ai Cập và Tunisia, ở Libya không có đảng phái đối lập và công đoàn, trừ tổ chức Libyan Islamic Fighting Group (LIFG). Dân số tập trung nhiều ở nông thôn hơn thành thị. Quân đội và giới thượng lưu ít chịu ảnh hưởng của Tây phương, ít lệ thuộc vào quân viện của Mỹ.
3.-Về quan hệ đối ngoại; đặc biệt là với Mỹ: TT Egypt Mubarak được các chính phủ Mỹ ủng hộ mạnh mẽ, xem là đồng minh chiến lược ở Trung Đông suốt 30 năm qua. Suốt thời gian đó, ngoài viện trợ kinh tế, quân viện của Mỹ hằng năm dành cho quân đội Egypt của Mubarak trung bình là 1.3 tỉ dollars/ năm. Ngay cả đến lúc này, sau khi Mubarak xuống rồi, sự ủng hộ của Mỹ đối với quân đội Egypt chưa có dấu hiệu thay đổi.
Nhưng quan hệ Mỹ-Libya thì hoàn toàn khác. Trước đây các chính phủ Carter, Reagan đã tỏ ra rất thù địch với TT Muamma Gadhafi. Quan hệ hai bên đã nhiều lúc bị gián đoạn. Gadhafi đã từng bị Mỹ xem như một kẻ khủng bố, chịu trách nhiệm về việc bắn hạ máy bay dân sự Pan Am Flight 103 năm 1988. Chỉ từ năm 2003 trở đi, quan hệ Mỹ-Libya mới hoà dịu, sau khi Gadhafi công khai từ bỏ việc sở hữu Vũ Khí Huỹ Diệt Hàng loạt (WMD) và hoả tiển tầm xa, chấp nhận bồi hoàn cho gia đình các nạn nhân của chuyến bay Pan Am 103. Từ đó quan hệ hai bên trở nên hoà dịu hơn, và đến 31/5/ 2006 thì có quan hệ chính thức. Mặc dù vậy, khác biệt chính ở đây là mối quan hệ của Mỹ đối với Muamma Al Gadhafi không giống như đối với Mubarak, và quân đội Libya không lệ thuộc quân viện của Mỹ như quân đội Egypt, vì Egypt là đồng minh chiến lược của Mỹ, còn Libya thì chưa bao giờ.
4.- Về mức sống: Một cách tổng quát thì, phần nào do sự chênh lệch quá xa về dân số giữa hai quốc gia: Egypt có 83 triệu dân, Libya chỉ có chừng 6.3 triệu, mức sống của hai bên rất khác biệt. Trong khi có đến 40% dân Egypt có thu nhập không quá 2$/ ngày và lợi tức bình quân chỉ chừng 1.300 dollars/người, thì thu nhập bình quân đầu người của Libya đến gần 10.000 dollars/ người (số liệu năm 2004 của World Bank) [2]. Yếu tố quan trọng là trữ lượng dầu hỏa của Libya có đến chừng 44 tỉ thùng, gấp hơn 10 lần trữ lượng của Egypt. Vẫn còn nhiều vùng chưa được thăm dò đầy đủ và có một số chuyên gia về dầu hoả cho rằng trữ lượng thật sự của Libya còn lớn hơn con số hiện nay khá nhiều.
Đến đây thiết nghĩ cũng nên điểm qua về bối cảnh xã hội-kinh tế của Libya trước nội chiến.
Libya có chừng 140 bộ lạc lớn nhỏ, trong đó có chừng 30 bộ lạc với dân số đáng kể, sống tập trung vào ba vùng quan trọng; đó là: Tripolitania, với thủ phủ là Tripoli nằm trên bờ Địa Trung Hải về phiá Tây Bắc Libya; kế đến là Cyrenaica với Benghazi làm thủ phủ, ở phía Đông Bắc, trải dài từ bờ Địa Trung Hải vào tận sa mạc Sahara; và Fezzan nằm trong nội địa với sa mạc mênh mông.
Trong ba vùng kể trên, thì Tripolitania và Cyrenaica là quan trọng nhất. Tripolitania nằm về phía Tây từ lâu là căn cứ địa của Gadhafi. Còn vùng Cyrenaica thì trong lịch sử đã từng có khuynh hướng không thần phục Tripoli và tỏ ra gần gũi thân thiện với Ai Cập hơn. Điều này giúp hiểu dễ dàng hơn nổ lực ly khai hiện nay của người ở vùng này. Chính vua Idris, người bị Gadhafi lật đổ năm 1969, sinh ra từ vùng này. Đây là lý do tại sao trong những ngày đầu nội chiến, người ở đây đã treo cờ cũ của chế độ quân chủ Libya. Cyrenaica cũng là vùng đất của những nhóm cực đoan Hồi giáo, như nhóm Libyan Islamic Fighting Group (LIFG) là nhóm đã bị Gadhafi trấn áp trong nhiều năm qua.
Phân bố ra ba vùng trên có 4 bộ lạc quan trọng nhất là Gadhafa, Warfallah, Zuwaya và Magariha; trong đó đông đảo nhất là bộ lạc Warfallah chiếm gần 1/6 dân số Libya, có dân cư sống ở cả hai vùng Tripolitania và Cyrenaica. Bộ lạc lớn thứ hai là Magahira ở vùng Fezzan. Bộ lạc Gadhafa tuy không lớn nhất, nhưng Gadhafa lại có quan hệ huyết thống với bộ lạc Warfallah và được sự ủng hộ mạnh mẽ của bộ lạc này trong nhiều năm. Mặc dầu vậy, năm 1993 một số thành viên của Warfallah đã liên kết với bộ lạc Magahira âm mưu đảo chánh Gadhafi, nhưng không thành, bị Gadhafi dùng không quân đè bẹp. Trong biến động hiện nay, có nhiều thủ lãnh của Warfallah đứng vềp phe nổi dậy, chống lại Gadhafi. Bộ lạc hiện chống đối Gadhafi mạnh nhất là Zuwaya, cư trú đông đảo ở vùng Cyrenaica.
Lịch sử cơ cấu bộ lạc của Libya như nên trên đây sẽ là yếu tố xã hội quan trọng định hình tương lai hậu chiến, cả đối nội lẫn đối ngoại, sắp đến của Libya.
Kinh tế- xã hội Libya dưới chế độ Gadhafi
Kể từ năm 1969 đến nay, Libya đã có nhiều thay đổi rất đáng chú ý.
Về mặt lý thuyết, Gadhafi và nhóm sĩ quan trẻ ủng hộ Ông trong cuộc đảo chính đã có tham vọng chấm dứt sự bất công xã hội do chế độ thuộc điạ và chế độ quân chủ tạo ra, xây dựng một chế độ xã hội chủ nghĩa dựa trên những giá trị tốt đẹp truyền thống của Hồi giáo kết hợp với một sự phân phối lợi tức công bằng nhằm giảm thiểu sự bất bình đẳng lớn giữa các thành phần trong xã hội.
Trước năm 1969, xã hội Libya tổng quát có ba giai cấp chính: giai cấp thượng lưu gồm hoàng tộc, các giới chức cao cấp trong chính phủ và những gia đình giàu có nhất. Kế đến là một giai cấp trung lưu nhỏ bao gồm các chức sắc tôn giáo, tiểu thương, tiểu điền chủ, các nhà xuất nhập cảng, giới doanh nhân dầu hoả, chuyên gia các ngành, công chức, v.v…Cuối cùng là đại đa số dân thuôc giai cấp nông dân, thợ thủ công và công nhân. Lợi tức phân phối trong xã hội giữa các giai cấp là rất chênh lệch.
Kỹ nghệ dầu hoả phát triển dẩn đến việc thành hình đời sống đô thị với sự gia tăng ngày càng nhanh thành phần chuyên viên và công nhân trẻ có trình độ kỹ thuật khá hơn nhờ được đào tạo ngày càng đầy đủ hơn trước. Điều này ảnh hưởng rõ rệt đến sự thay đổi cơ cấu giai cấp-xã hội của Libya. Đồng thời vai trò của quân đội cũng ngày càng trở nên quan trọng. Nền độc lập quốc gia giúp cho ra đời ngày càng nhiều các sĩ quan Libyan thay thế các cấp chỉ huy Tây Phương, hình thành một tầng lớp quân nhân bản xứ với ảnh hưởng chính trị ngày càng tăng. Gadhafi và nhóm Sĩ Quan Tự Do (Free Officer Movement) đã ra đời trong bối cảnh đó với hạt nhân chính trị là Hội Đồng Tư Lệnh Cách Mạng (Revolutionary Command Council, RCC), trở thành lực lượng ưu tú trẻ và nhóm này được sự ủng hộ ngày càng tăng của giai cấp trung lưu, nông dân và giới thợ thuyền thành thị.
Chủ trương của RCC, do Gadhafi cầm đầu, là tước dần quyền lực và tài sản của tầng lớp thượng lưu, thu hút sự hậu thuẫn của giai cấp trung lưu và giới nghèo, tăng cường sự kiểm soát của nhà nước đối với kinh tế quốc gia, tạo ra cơ cấu chính trị mới, đặt trọng tâm vào sự tái phân phối lợi tức và tạo cơ hội đồng đều cho mọi thành viên trong xã hội thông qua những biện pháp như xác lập mức lương tối thiểu, chính phủ trực tiếp quản lý thị trường nhân dụng và thực hiện quốc sách trợ cấp xã hội.
Công đoàn Xã hội Chủ nghĩa Ả Rập (Arab Socialist Union, ASU) được thành lập năm 1971 và xử dụng như một công cụ huy động quần chúng nhằm thực hiện những chủ trương cải cách chính trị-xã hội nêu trên. Mục tiêu chính của ASU là xoá bỏ, bằng phương cách hoà bình, sự cách biệt lớn giữa các giai cấp, nguồn gốc của thảm kịch đấu tranh giai cấp ngấm ngầm trong xã hội. Về mặt này thì Gadhafi và những sĩ quan đồng chí hướng đã có một chủ trương thực tiễn trong việc đối phó với vấn nạn xung đột giai cấp trong xã hội. Tuy vẫn đề cao Socialism, nhưng Gadhafi đã không áp dụng một cách mù quáng học thuyết đấu tranh giai cấp sắt máu của Karl Marx và Lenine, trái lại đã biết dung hoà giữa nhu cầu bình đẳng xã hội và truyền thống Hồi giáo của xứ sở mình. Đến năm 1973 chính phủ Libya còn đưa ra luật đòi hỏi các công ty lớn phải chia lợi nhuận cho nhân viên của mình, đưa công nhân tham gia ban giám đốc và thành lập các cơ quan liên hiệp tư vấn với sự tham gia đồng đều giữa quản trị viên và công nhân.
Mặc dù không cổ xúy đấu tranh giai cấp, nhưng Gadahfi và RCC, trên thực tế, vẫn thực hiện một số biện pháp nhằm thu hẹp dần ảnh hưởng xã hội, các ưu đãi và quyền lực kinh tế của giới thượng lưu. Một số chiến dịch công kích nhắm vào giới “tiểu tư sản quan liêu” (bourgeois bereaucrats) được thực hiện trong nhiều năm .Kế đến là những hạn chế áp dụng đối với các thương nhân tư doanh được đưa ra vào khoảng năm 1975. Đến khoảng năm 1978, luật về giới hạn đầu tư tư nhân trong lãnh vực địa ốc được ban hành, mỗi gia đình nhỏ (vợ chồng và con cái vị thành niên) chỉ được phép sỡ hữu một căn nhà, số nhà dư ra sẽ bị chính phủ thu mua. Nhiều giới hạn khác cũng được áp dụng đối với ngoại thương và kỹ nghệ. Ngoại thương hoàn toàn thuộc về độc quyền của các công ty quốc doanh (public corporations). Ngành bán sỉ tư nhân (whole sale) hoàn toàn bị loại bỏ.
Ngoài ra một nỗ lực chính khác của Gadhafi và RCC là xóa đi sự phân tranh cố hữu giữa Đông và Tây Libya, giữa Tripolitania và Cyrenaica, nhằm tạo dựng sự thống nhất và khẳng định căn cước chính trị cho quốc gia Libya. Nhiều nỗ lực đã được đưa ra để xoá bớt lằn ranh chia rẽ giữa các bộ tộc, loại dần ảnh hưởng của các tộc trưởng và của các chức sắc tôn giáo; xử dụng trình độ giáo dục làm tiêu chuẩn tuyển chọn nhân tài thay cho các quan hệ huyết thống và tôn giáo như trước kia.[3]
Những cải cách trên của Gadhafi và RCC đã thay đổi bộ mặt của Libya một cách đáng kể. Do tính cách bình đẳng xã hội cao, Libya khác hoàn toàn với phần đông các quốc gia sản xuất dầu hoả khác. Lương bổng cao hơn, các dịch vụ giáo dục và y-tế được phổ quát và tốt hơn; mức độ tích lũy tài sản xã hội vào tay tư nhân cũng giảm đi nhiều. Cũng là chế độ độc tài ở Trung Đông, nhưng so với Ai Cập hay Saudi Arabia thì sự khác biệt hiện ra rất rõ ràng. Chẳng hạn về kinh tế, GDP (tổng sản lượng quốc gia) chia trên đầu người của Libya năm 2008 ước tính chừng 14.400 dollars/ người trong khi chỉ số đó ở Ai Cập trong cùng năm chỉ được chừng 5.400 dollars/ người.[4] Về mặt công bằng xã hội, ở Saudi Arabia, hoàng tộc và toàn bộ những người có quan hệ hôn nhân nội ngoại với hoàng tộc tổng số chừng khoảng từ 60.000 đến gần 100.000 người nắm hầu hết quyền lực kinh tế trong tay, chiếm hữu hơn 40% tổng tích sản của cả nước chỉ chừa 60% còn lại cho gần 26 triệu người khác! Về dân trí, tỉ lệ mù chữ ở Libya cũng thấp hơn Saudi Arabia: 13.2% so với 15%; trong khi ở Ai Cập thì đến 33.6%!
Trong bảng xếp hạng phát triển nhân sinh thế giới năm 2009 (Human Development Report), Libya được xếp ở hạng 55, trong khi Saudi Arabia đứng hạng 59, còn Ai Cập thì ở hạng 123, thua cả Việt Nam CS ở hạng 116![5] Điều đáng chú ý ở đây là Saudi Arabia và Ai Cập là hai quốc gia có chế độ độc tài khắc nghiệt nhất ở Trung Đông, là đồng minh thân cận được Mỹ ủng hộ từ hơn 30 năm qua.
Về mặt Y tế tỉ lệ bác sĩ / bệnh nhân ở Libya theo thống kê năm 2007 là chừng 1/750; so với 1/1900 ở Ai Cập và Việt Nam; ở Mỹ là 1/390.[6] Mọi công dân được hưởng miễn phí những săn sóc y tế căn bản. Hệ thống săn sóc y tế là một hổn hợp cả công lẫn tư. So với các quốc gia khác ở Trung Đông thì hệ thống y tế của Libya tương đối tốt; việc chích ngừa cho trẻ em được thực hiện rộng rãi và cưỡng bách trên toàn quốc; hệ thống cung cấp nước uống được cải thiện rất nhiều từ suốt mấy mươi năm qua.
Trong lãnh vực giáo dục, trẻ em trong độ tuổi từ 6 đến 15 bị đặt dưới hệ thống cưỡng bách giáo dục và hoàn toàn miễn phí. Có chừng hơn 800,000 học sinh cấp I &II và chừng hơn 700,000 học sinh cấp III và khoảng 300,000 sinh viên đại học.(Số liệu năm 2000).
Những đổi thay chính trị, vừa nêu ở trên, đã được thực hiện theo những gì Gadhafi viết ra trong quyền Green Book. Đó là một bộ sách ba tập đưa ra lý thuyết về Third International Theory với chủ đề chính yếu là thiết lập một hệ thống kinh tế-chính trị khác với cả hệ thống tư bản của Mỹ lẩn hệ thống cộng sản của Liên Xô; một sự phối hợp giữa các nguyên tắc đạo đức của Hồi Giáo với sự bình đẳng xã hội dựa trên một nền dân chủ trực tiếp (direct democracy).
Về cơ cấu chính quyền, toàn quốc được phân định ranh giới thành 1500 công xã (communes) được quản trị bởi các Ủy ban Nhân dân (peoples’ committees) do dân trực tiếp bầu ra; các uỷ ban này có chức năng cai trị và hoạch định ngân sách trong địa phương của mình với sự phê chuẩn của một cơ quan dân cử khác của công xã, có vai trò như Hội Đồng Nhân dân. Các công xã này thuộc về 34 khu tự quản (municipalities) trên toàn quốc, cùng với cơ cấu Uỷ ban và Hội Đồng tương tự. Đến lượt mình, các uỷ ban của khu tự quản này sẽ đệ trình các vấn đề về ngân sách và chính sách lên cho Quốc Hội Nhân dân (General People’s Congress, GPC) của toàn Libya; GPC gồm cả chức năng Lập pháp,Hành pháp, và Tư pháp; các bộ trưởng cũng như thẩm phán sẽ từ cơ quan này mà ra. Đó là trên nguyên tắc, trên thực tế thì chính Gadhafi nắm quyền, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp, trong việc bổ nhiệm các bộ trưởng và các viên chức cao cấp khác trong chính phủ.
Những việc đầu tiên khi lên cầm quyền của Gadhafi là hoàn thiện việc giành chủ quyền quốc gia. Chính quyền mới đã tịch thu tất cả tài sản của các kiều dân Do Thái, tịch thu tài sản và trục xuất hơn 45,000 kiều dân Ý, những người đã di cư đến Libya trong thời thuộc điạ. Cùng lúc, chính phủ Gadhafi đã yêu cầu Anh và Mỹ rút toàn bộ các căn cứ quân sự ra khỏi lãnh thổ Libya; ngày được ấn định là 28/3 và 11/6/1970. Hai ngày này và ngày 7/10/1970, là ngày trục xuất người Ý, về sau đã được dùng như ngày quốc lễ của Libya. Ngoài ra chính phủ Gadhafi còn làm áp lực buộc các công ty dầu hoả Tây Phương phải tái thương lượng các hợp đồng khai thác dầu hoả trước đây và phải nhượng lại phần lớn doanh lợi cho Libya.[7]
Đối ngoại, ngoài thái độ bài Tây Phương, chống chế độ thuộc điạ và tích cực cổ xuý cho cuộc đấu tranh giành độc lập của các quốc gia nhược tiểu, chính phủ của Gadhafi, ít nhất cho đến khoảng năm 2009, rất chống Do Thái. Lúc đầu Gadhafi chống lại mọi đàm phán với Do Thái trong vấn đề Palestine; sự chống đối mạnh mẽ đến độ đã gây ra bất hoà sâu sắc giữa Gadhafi và Anwar Sadat của Ai Cập, và ngay cả với Yasir Arafat, chủ tịch Phong trào Giải phóng Palestine.
Gadhafi cho rằng để giành lại cho người Palestine những gì đã mất thì không còn con đường nào khác ngoài đấu tranh bằng bạo lực. Vì vậy Gadhafi trong nhiều năm trước đây đã chống lại mọi cuộc đàm phán với DoThái trong vấn đề Palestine, tích cực tài trợ và huấn luyện cho các tổ chức đấu tranh bạo động của người Palestine. Những năm sau này, tuy không còn tài trợ cho các nhóm đó, Gadhafi vẫn chống lại đề nghị về “hai quốc gia” cho vấn đề Do Thái-Palestine. Trong một bài báo viết cho New York Times, Gadhafi đưa ra đề nghị về một quốc gia, chung cho cả người Do Thái lẫn Palestine, với tên gọi là Isratine và rằng người tị nạn Palestine nên được quyền hồi cư về nguyên quán trước năm 1948. Tất nhiên những đề nghị đó của Gadhafi bị phiá Do Thái phản đối và bác bỏ. Lập trường của Gadhafi đối với vấn đề Do Thái là một trong những trở ngại lớn nhất trong mối quan hệ Mỹ-Libya.
Chính phủ Gadhafi cũng đã đạt được những thành tựu đáng kể trong lãnh vự săn sóc y-tế, giáo dục, nhà ở, quyền của phụ nữ và một số dịch vụ xã hội căn bản. Chế độ “Xã hội Chủ nghiã Hồi giáo” do Gadhafi khởi xướng, cộng với số dân ít và dự trữ dầu hoả lớn đã biến Libya trở nên một xã hội khá phồn thịnh và bình đẳng ở Trung Đông. Và tuy là một nhà độc tài, Gadhafi đã cho khai sinh một hệ thống chính trị tản quyền (decentralization), nổ lực xây dựng bước đầu nền dân chủ trực tiếp ở các địa phương với sự tham gia rộng rãi của dân chúng trong một số lãnh vực. Tuy nhiên, nhìn chung thì sự đàn áp đối lập vẫn thường xảy ra
Vấn đề hối lộ của các viên chức nhà nước là một quan tâm lớn. Năm 1975 một đạo luật cứng rắn đối với tệ nạn này đã được áp dụng, theo đó viên chức nhận hối lộ sẽ bị án đến 10 năm tù giam cộng với tiền phạt bằng hai lần số tiền nhận hối lộ. Kẻ đút lót hối lộ có thể bị án đến 5 năm và bị phạt tiền đến 500 LD (LD Libyan Dinar, tiền Libya, 1LD~0.82dollars)
Về mặt đối ngoại
Đáng chú ý nhất là mối quan hệ Mỹ-Libya.
Do thái độ bài Do Thái, kịch liệt chống chế độ thuộc địa, đề cao phong trào giành độc lập của các nước thứ ba, công khai chỉ trích Tây Phương trên mọi diễn đàn quốc tế của Gadhafi, ngay từ đầu quan hệ Libya-Mỹ đã không đầm ấm. Có thể tạm chia quan hệ Libya-Mỹ ra các giai đoạn như sau:
Từ khoảng năm 1969-1986: Ngay từ khi lên nắm quyền, chính phủ Gadhafi đã lập tức thực hiện chính sách quốc gia Arab, đóng cửa các căn cứ quân sự Anh-Mỹ trên đất Libya, trục xuất các đại công ty dầu hoả của Mỹ, đặt tất cả các nguồn tài nguyên, đặc biệt là dầu hỏa, dưới sự quản trị của các công ty quốc doanh của chính phủ. Căng thẳng nhất trong giai đoạn này là việc chính phủ của Gadhafi, năm 1973, tuyên bố lãnh hải rộng 12 hải lý ở vịnh Sidra dọc duyên hải của Libya. Phía Mỹ liền tiến hành chiến dịch Freedom of Navigation, đòi tự do hải hành trong khu vực. Năm 1981 khi Ronald Reagon lên cầm quyền, tình hình càng căng thẳng hơn; tháng 8/1981 Reagan cho một hạm đội lớn với hai chiến hạm lớn Forrestal và Nimitz vào thao dượt trong hải phận 12 hải lý mà Libya đã tuyên bố. Ngày 19/8/1981 hai chiến đấu cơ Sukhoi Su-22 của Libya nghênh chiến với phi cơ hải quân Mỹ và bị hai chiến đấu cơ F-14 của Mỹ bắn hạ ngay trên vùng trời vịnh Sidra.
Giai đoạn từ 1986-1999 :Những năm sau đó chính phủ Mỹ loan tin là chính phủ Libya đang dùng các tổ chức khủng bố để tấn công viên chức và công dân Mỹ ở nước ngoài. Vụ tấn công toà đại sứ Mỹ ở Khartoum, Sudan được quy là do nhóm khủng bố được Libya tài trợ. Tháng 12/1985 một vụ khủng bố tấn công ở Rome và phi trường Vienne khiến 5 người Mỹ thiệt mạng, có bằng chứng cho thấy là có sự dính líu của Libya.Lập tức, tổng thống Regan cho phong toả các tích sản của Libya ở Mỹ; đồng thời tháng 3/1986 một cuộc đụng độ khác giữa hải quân hai bên xảy ra tại vịnh Sidra khiến 58 thuỷ thủ Libya thiệt mạng. Tháng Tư/1986 một qủa bom nổ ở một hí viện tại Tây Bá Linh, nơi thường có quân nhân Mỹ đến du hí, giết chết một quân nhân Mỹ và làm bị thương hàng trăm người khác, trong đó có 50 quân nhân Mỹ. Có tin là cơ quan tình báo Mỹ đã phát hiện là vụ nổ do toà đại sứ của Libya ở Bá Linh ra lệnh.
Ngày 14/5/1986, chiến dịch không tập mang tên El Dorado Canyon gồm hơn 30 chiến đấu và oanh tạc cơ F-111 của Mỹ, bay từ ngoài Địa Trung Hải và từ căn cứ ở Anh qua, đã dội bom xuống Tripoli và Bengazhi của Libya. Kết quả có hơn trăm thường dân Libya thiệt mạng, trong đó có cô con gái nuôi của Gadhafi; và nhiều người khác bị thương trong đó có hai con trai của Gadhafi. Về phiá Mỹ thì 1 máy bay F-111 bị bắn hạ và hai phi công mất tích.
Để trả đũa, ngày 15/4 tàu tuần tra Libya đã bắn hoả tiễn vào một trạm viễn thông của hải quân Mỹ ở Địa Trung Hải, nhưng không gây thiệt hại đáng kể. Hai năm sau, 1988, phi cơ dân sự Pan Am 747, chuyến bay 103, của Mỹ bị nổ bom trên không phận Lockerbie của Tô Cách Lan, giết chết tổng cộng 270 người. Cuộc điều tra kết thúc năm 1991 với kết quả cho biết rằng chính phủ Libya có dính líu vào vụ này. Từ năm 1992 trở đi Liên Hiệp Quốc bắt đầu cấm vận Libya, đòi chính phủ Libya phải giải giao nghi can của vụ nổ bom.
Giai đoạn từ 1999-2006: Năm 1999, chính phủ Gadhafi đồng ý giải giao nghi phạm vụ Pan Nam 103 nói trên cho toà án Tô Cách Lan xét xử. Và sau đó chính phủ Libya chấp nhận bồi thường cho các gia đình nạn nhân theo như đòi hỏi của Mỹ và Liên Hiệp Quốc. Số tiền bồi thường là 2.7 tỉ dollars được chuyển cho gia đình nạn nhân năm 2003. Sau đó việc cấm vận đã được chấm dứt. Cùng năm Gadhafi tuyên bố từ bỏ việc sỡ hữu vũ khí huỷ diệt hàng loạt và vũ khí nguyên tử. Từ đó trở đi quan hệ Mỹ-Libya trở nên hoà dịu hơn, các công ty dầu hoả của Mỹ bắt đầu được phép trở lại Libya. Đến năm 2006 quan hệ bình thường giữa hai quốc gia được chính thức tái lập.[8]
Libya của Gadhafi luôn chống lại Al-Qaeda. Bằng chứng là trong những cuộc mật đàm giữa Mỹ thời TT Clinton và Libya ở Geneva năm 1999, đại diện của Libya hưởng ứng việc chống Al-Qaeda. Libya cũng thỏa thuận mở các nhà máy hoá chất cho quốc tế kiểm tra. Các cuộc mật đàm đó do đại sứ Saudi Arabia ở Mỹ là hoàng tử Bandar Bin Sultan làm trung gian.[9]
Theo bác sĩ Ronald Bruce St. John, của cơ quan The International Advisory Board of The Journal of Libyan Studies, thì sau 9/11 Libya cộng tác mật thiết với Mỹ trong mặt trận chống khủng bố Al-Qaeda, cơ quan tình báo của Libya đã cung cấp toàn bộ tin tức liên quan đến Al-Qaeda cho phía Mỹ. Gadhafi ngay cả đã treo thưởng 1 triệu dollars cho những ai cung cấp tin tức về các tổ chức Hồi giáo cực đoan chống chính phủ. Sỡ dĩ như vậy là vì trong một thời gian dài Gadhafi đã từng là mục tiêu tấn công của các nhóm Al-Qaeda ở Trung Đông.[10]
Trong cuộc nội chiến hiện nay,nhìn bề ngoài Mỹ dường như không có lợi ích quốc gia gì thiết thực và lớn lao ở Libya. Mặt khác, hai cuộc chiến Iraq và Afghanistan chưa giải quyết xong và đang cầm chân một lực lượng quân sự quan trọng của Mỹ. Điều đó chắc đã khiến Ngũ Giác Đài hết sức cân nhắc trong việc trực tiếp đưa quân vào tham chiến ở một quốc gia có tầm chiến lược thấp như Libya. Bởi vì việc đó sẽ khiến cho lực lượng dự trữ chiến lược toàn cầu của Mỹ bị dàn mỏng ra, khiến cho khả năng phản ứng cấp thiết đối với những vùng khác trên thế giới sẽ bị thu hẹp một cách đáng ngại. Chưa kể là một khi đã đưa quân vào thì cuộc chiến tất nhiên sẽ mở rộng, thời gian bình định để lập chính quyền mới sẽ kéo dài, tổn phí sẽ lên cao hơn; ngay ở Afghanistan không thôi, đã tốn mất gần 2 tỉ dollars/ tuần. Có lẽ vì vậy mà Bộ trưởng QP Robert Gates trước đây, khi điều trần trước Quốc Hội, đã khẳng định rằng Mỹ sẽ không đưa bộ binh vào Libya.[11]
Tuy nhiên sâu bên trong, Mỹ có những lý do quan trọng để can thiệp vào Libya. Từ mấy mươi năm qua, Libya do Gadhafi lãnh đạo là một quốc gia có mức độ tự chủ, độc lập rất cao đối với sự chi phối của các chính phủ Mỹ. Gadhafi, một mặt hoà hoãn với Mỹ, để khỏi tiếp tục bị cấm vận, nhưng mặt khác lại muốn gia tăng quan hệ với Trung Quốc và Nga để duy trì tư thế độc lập của mình. Ngược lại phía Trung Quốc và Nga cũng muốn gia tăng ảnh hưởng của mình ở Phi Châu qua sự trung gian của Libya-Gadhafi, một nước đang có uy tín ở Phi Châu. Như vậy rõ ràng dù đã trở lại hoà hoãn với nhau, Mỹ vẫn luôn xem Libya của Gadhafi là cái gai trong mắt cần phải thanh toán bằng biện pháp “regime change”.
(Còn tiếp phần II)
© Trương Đình Trung
© Đàn Chim Việt
[1] http://www.npr.org/player/v2/mediaPlayer.html?action=1&t=1&islist=false&id=140642290&m=140643674
[2] http://siteresources.worldbank.org/INTEEI/Data/21836829/EGY08.pdf
[3] http://countrystudies.us/libya/45.htm. Source: U.S. Library of Congress
[4] http://siakhenn.tripod.com/capita.html.
[5] http://hdrstats.undp.org/en/indicators/99.html.
[6] http://bigthink.com/ideas/21237.
[7] Ibid. Cùng nguồn trên.
[8] http://www.c-spanvideo.org/program/298688-4
[9] http://www.nytimes.com/2004/01/23/opinion/why-libya-gave-up-on-the-bomb.html
[10] http://www.mepc.org/journal/middle-east-policy-archives/libya-and-united-states-faustian-pact.
[11] http://www.cbc.ca/news/world/story/2011/03/31/libya-nato-un-gadhafi.html?ref=rss
- Nội chiến ở Libya nhìn từ góc độ khác[1]
---------------
- Tìm thấy 1.270 hài cốt tù nhân ở Libya “bị giết hại bởi chế độ của ông Gaddafi trong một vụ thảm sát nhà tù năm 1996″ (TN).--Mồ chôn tập thể được phát hiện tại Libya
-
- Nội chiến ở Libya nhìn từ góc độ khác[1]
---------------
- Tìm thấy 1.270 hài cốt tù nhân ở Libya “bị giết hại bởi chế độ của ông Gaddafi trong một vụ thảm sát nhà tù năm 1996″ (TN).--Mồ chôn tập thể được phát hiện tại Libya
-
Nội chiến ở Libya nhìn từ góc độ khác[2]
Tiếp theo phần I
Động cơ của Pháp trong sự can thiệp vào Libya
Sự hăng hái của nước Pháp, một thời là mẫu quốc vĩ đại của một số người An-nam chúng ta, trong việc can thiệp vào Libya lần này, tuy núp dưới danh xưng bảo vệ dân lành Libya, thật ra bắt nguồn vì những lý do đối nội-đối ngoại sau đây:
Về đối nội, không lâu trước khi các cuộc biểu tình đòi dân chủ bùng phát ở Tunisia khiến tổng thống Ben Ali phải từ chức lánh ra nước ngoài, nữ cựu ngoại trưởng Pháp, bà Michelle Alliot-Marie đã từng hứa sẽ ủng hộ cho chính phủ của Tunisia. Alliot-Marie và cha mẹ của Bà đều có quan hệ doanh thương chặt chẻ với giới thân cận trong chính phủ của Ben Ali, nghĩa là với giới mà người biểu tình Tusinian chống đối. Trong khi đó hiện ở Pháp có đến gần 600,000 kiều dân Tunisian và số người này đang rất bất mãn đối với cung cách phản ứng của chính phủ Pháp trong vụ Tunisia, và việc giới chức của chính phủ Pháp có quan hệ mật thiết với chính phủ của Ben Ali sẽ càng tạo ra những dư luận bất lợi cho Tổng Thống Pháp Sarkozy là người mà uy tín hiện nay đang giảm sút, mức thăm dò dư luận thua khá xa các ứng viên TT khác trong cuộc tranh cử sẽ xảy ra trong hơn một năm sắp đến. Để vớt vát, Sarkozy đã tận dụng cơ hội này để can thiệp ở Libya dưới danh nghĩa bảo vệ dân lành vô tội trong việc đòi hỏi dân chủ.
Về đối ngoại, thì lâu nay Sarkozy vẫn thường có thói quen nhảy vào các vấn đề quốc tế để gây uy tín cho bản thân cũng như cho nước Pháp già cỗi. Điển hình là vụ Sarkozy, không ai mời, tự nguyện đứng ra làm trung gian giàn xếp một cuộc đình chiến giữa Nga-Georgia năm 2008. Thật ra thì dù không có sự trung gian của Sarkozy, cuộc đình chiến vẫn diễn ra vì Nga đã đạt được tất cả những mục tiêu của cuộc chiến là trừng phạt và phá huỷ phần lớn tiềm năng quân sự của Georgia mà không gặp phải một phản ứng đáng kể nào từ Mỹ. Sau cuộc khủng hoảng tài chánh năm 2008, tại hội nghị G-20, một lần nữa Sarkozy lại “làm nổi” bằng cách đưa ra đề nghị về một hệ thống Bretton Wood Mới! Đề nghị nghe rất kêu, nhưng sức mạnh kinh tế của Pháp khiêm tốn quá so với nhiều cường quốc khác, nên rốt cuộc chẳng ai nghe theo.
Mặt khác, từ sau Thế Chiến Thứ Hai với sự hậu thuẫn của Anh-Mỹ, và do Đức bị chia cắt, Pháp ít nhiều đóng vai trò lãnh đạo của Châu Âu. Nhưng từ sau khi kết thúc Chiến Tranh Lạnh, vai trò đó của Pháp ngày càng lu mờ dần, bị một nước Đức thống nhất hùng mạnh hơn lấn lướt. Điều đó thể hiện rõ rệt nhất trong vụ khủng hoảng nợ nần năm 2009 của các quốc gia Âu Châu.
Cùng với việc dùng sức mạnh kinh tế và dự trữ ngoại tệ lớn lao của mình để chuộc Hy-Lạp ra khỏi cảnh phá sản, giúp đỡ tài chánh cho Tây Ban Nha, Băng Đảo và các nước khác của khu vực EURO ra khỏi những khó khăn kinh tế, Đức đã tìm cách gây ảnh hưởng để tái định hình các định chế kinh tế-tài chánh của Âu Châu do Pháp thiết lập trước đây, và đã đưa ra nhiều cải cách tài chánh đối với hệ thống ngân hàng Âu Châu. Pháp, do sự yếu kém kinh tế của mình, đành phải chấp nhận các đề nghị của Đức. Đã có lúc giới báo chí quốc tế gán cho Sarkozy là một Merkel’s Yes-man(nghĩa là chỉ biết nói Vâng đối với bà nữ thủ tướng Đức). Điều đó cho thấy uy tín và địa vị của Đức trong Cộng Đồng Âu Châu ngày càng gia tăng, uy hiếp vị trí lãnh đạo của Pháp. Liên minh với Anh, dựa vào danh nghĩa của NATO và sự hậu thuẩn của Mỹ, để đi đầu trong việc can thiệp vào Libya là một nước cờ của Sarkozy nhằm vớt vát và củng cố cho thế đứng chính trị quốc tế đang sa sút của nước Pháp.
Cũng phải kể đến mối lợi về khai thác dầu hoả mà ảnh hưởng gia tăng ở Libya trong tương lai sẽ mang lại cho các công ty dầu hỏa của Pháp. Hiện nay Pháp tiêu thụ đến 14% sản lượng dầu xuất cảng của Libya. Nhưng dầu vậy công ty dầu hoả Total của Pháp vẫn không có ưu thế ở Libya cho bằng công ty ENI của nước Ý. Ngoài ra, về mặt bán vũ khí thì từ năm 2004 đến nay Pháp đã bán cho chính phủ Gadhafi của Libya khoảng 500 triệu dollars; nhưng mới năm ngoái, 2010, Ý lại hớt tay trên Pháp bằng việc ký kết được với Libya một hợp đồng mua bán vũ khí trị giá lên đến hơn 1 tỉ dollars! Đây có lẽ lại là một lý do khác khiến Sarkozy của Pháp lại càng mau mắn hơn trong việc đi tiên phong đánh đổ Gadhafi của Libya.
Đối với Anh Quốc
Chính phủ Anh hiện không có những vấn đề đối nội như Pháp, nhưng Anh đang cùng Pháp dẩn đầu trong việc can thiệp vào Libya vì Anh có những tính toán quyền lợi riêng của mình. Quyền lợi đó gắn chặt với việc khai thác dầu hoả. Cho đến nay các công ty dầu hoả của Anh, đứng đầu là hảng BP, chưa có phần hùn đáng kể, so với Ý, Pháp. Công ty BP của Anh mặc dầu đã ký được hợp đồng khai thác dầu hoả trị giá 1 tỉ dollars với Libya hồi năm 2007, và rồi sau đó vào năm 2009 một hợp đồng khác dài hạn hơn với tổng trị giá đến 20 tỉ dollars cũng đã được ký kết, nhưng việc sản xuất dầu của BP ở đó vẫn chưa tiến triển khả quan. Vụ tràn dầu ở giếng dầu Macondo thuộc vùng Vịnh Mexico ở Mỹ của hảng BP đã gây tổng phí tổn lên đến gần 40 tỉ dollars cùng với nhiều tai tiếng về môi trường khiến cho công việc khai thác và sản xuất dầu của hảng này ở Libya bị chậm lại. Mặt khác vụ dầu tràn đó cũng khiến cho hoạt động tương lai của hảng BP ở Mỹ trở nên bấp bênh hơn. Trong tình trạng như vậy, việc mở rộng được thị trường vào Libya để thay thế cho thị trường ở Mỹ sẽ là một giải pháp tuyệt vời cho BP; cũng có nghĩa là có lợi cho Anh Quốc, vì ai cũng biết mối quan hệ ruột thịt giữa hảng BP và chính giới Anh. Nếu Gadhafi bị phe phiến loạn lật đổ, hoặc chí ít Libya bị chia làm hai, với miền Đông có nhiều mõ dầu thuộc quyền kiểm soát của phe phiến loạn, thì Anh Quốc, và tất nhiên cả BP, sẽ có nhiều cơ hội và ảnh hưởng hơn trong thị trường khai thác và sản xuất dầu hoả ở Lybia. Đó chính là mục tiêu thôi thúc Anh cùng tham gia trong vụ can thiệp này.[12]
Cũng xin nhớ rằng Anh-Pháp, đã cùng với Ý, là những đế quốc đã từng có thời, dài ngắn khác nhau, cai trị các lãnh thổ của dân Arabs ở Trung Đông, trong đó có vùng Libya ngày nay. Ngày xưa, các cường quốc này đã dùng sức mạnh quân sự và ưu thế kỹ thuật áp đặt chế độ thuộc điạ đối với các lãnh thổ đó, khai thác tài nguyên và vắt kiệt nhân lực người bản xứ phục vụ cho sự phát triển kỹ nghệ của mình. Nhưng nay thì lại tỏ ra nhân đạo tột cùng, lớn tiếng kêu gọi can thiệp để bảo vệ cho những người dân Arabs vô tội được thực thi quyền làm chủ của mình, chống lại ách độc tài của Gadhafi. Hệ thống truyền thông Âu Châu không ngớt kêu gào và lặp đi lặp lại khẩu hiệu vì dân lành và dân chủ ấy, quên đi rằng số người được họ cho là “ dân lành” đó chẳng “ lành” chút nào, mà chỉ là bọn phiến loạn, được bên ngoài xúi giục và tài trợ. Bởi vì “dân lành” nào mà lại biết sử dụng thành thạo các loại súng cao xạ tối tân, súng chống chiến xa đắt tiền và hoả tiển mang vai cá nhân? Câu hỏi rất đơn giản là ai đã cung cấp vũ khí cho phe phiến loạn?
Chỉ cần nhìn ra cách Libya không xa, là dải Gaza và West Bank, nơi người Palestine đang sống là thấy ngay sự khác biệt. Tại hai nơi đó, người Palestine dù đã trải qua mấy mươi năm kháng cự, chưa bao giờ họ có được những loại vũ khí tối tân như nhóm phiến quân Libya hiện nay đang dùng. Chính quyền Do Thái, với sự ngấm ngầm tán trợ của các cường quốc, và sự bất lực của Liên Hiệp Quốc, đã phong toả mọi sự vận chuyển vũ khí vào hai vùng đất đó, đẩy người Palestine vào tư thế defenless để dễ bề đàn áp. Có gì khác nhau giữa hai trường hợp? Có gì khác nhau giữa nguyện vọng tự quyết của người Palestine và quyền tự trị của đám phiến loạn ở Đông Libya?
Ngoài các cường quốc nêu trên, những quốc gia trong Vùng trực tiếp dính líu vào cuộc nội chiến Libya là Ai Cập và Arab Saudi, hai đồng minh thân cận của Mỹ.Theo Stratfor thì ngay từ hồi đầu tháng Hai, chính phủ Ai Cập đã âm thầm cùng với Saudi Arabia cung cấp tài chánh, thuốc men và vũ khí cho phe phiến loạn ở phiá Đông Libya. Động cơ của Ai Cập trong công việc này rất dễ thấy. Trước hết, Libya là một thị trường rất tốt cho sự thặng dư lao động rẽ tiền của Ai Cập. Theo ước tính của chính phủ Ai Cập thì có đến chừng 1.5 triệu người Ai Cập qua làm việc ở Libya, cung ứng lượng tiền gởi về gia đình khoảng 250 triệu dollars/ năm. Những năm sau này Gadhafi tìm cách hạn chế người lao động Ai Cập vào Libya và việc đó khiến chính phủ Ai Cập rất bất bình. Kế đến, phần lớn sản lượng dầu hoả của Libya lại tập trung ở miền Đông, giáp giới với Ai Cập, vì vậy từ lâu Ai Cập luôn nổ lực để tăng cường ảnh hưởng lên vùng này; một chính phủ Libya mới thuộc quyền kiểm soát của người Đông Libya tất nhiên là có lợi cho Ai Cập.
Với những lý do vừa nêu, Ai Cập sẽ ngay lập tức can thiệp vào Libya một khi được siêu cường bật đèn xanh. Đó là lời giải đáp cho việc Ai Cập bí mật hậu thuẩn cho phe phiến loạn và giúp giải thích do đâu mà phe này lại vũ khí tối tân với số lượng dồi dào như vậy.[13]
Những động cơ khác của sự can thiệp
Các quan hệ đối ngoại của chính phủ Gadhafi ở Phi Châu là một động cơ khác, và có lẽ là động cơ thầm kín nhưng quan trọng nhất, thúc đẩy các cường quốc Tây Phương, nhân khi thời cơ thuận lợi, tìm cách can thiệp vào Libya, loại trừ Gadhafi.
Trước đây châu Á và châu Phi là hai lục địa bị chủ nghĩa thực dân của các đế quốc Tây Phương dày xéo và bóc lột tàn tệ. Kể từ sau Đệ Nhị TC, song song với sự thoái trào của chủ nghĩa thực dân, các quốc gia trong hai châu này lần lượt giành lại được sự độc lập của mình.Tuy vậy sự độc lập thật sự và mức độ phát triển kinh tế của hai Châu không giống nhau. Một cách tổng quát thì cho đến nay Á Châu tương đối phát triển hơn và phần nào nền kinh tế ít bị chi phối bởi các cường quốc hơn. Trong khi đó thì Châu Phi vẫn còn là châu kém phát triển và lạc hậu hơn cả. Và tuy lạc hậu, nhưng do tài nguyên vô cùng phong phú và lao động dồi dào, Châu Phi đã và đang trở thành thị trường béo bở cho sự khai thác của các cường quốc. Ngoài Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Ý là những cường quốc đã thâm nhập vào châu Phi từ lâu, những thập kỷ sau này còn có thêm Trung Quốc nhảy vào. Sự cạnh tranh kinh tế, và cùng với nó là ảnh hưởng chính trị, giữa các cường quốc này tại Phi Châu ngày càng gia tăng.
Điều đáng quan tâm là tuy tài nguyên phong phú, nhân lực dồi dào, và đã độc lập hơn nửa thế kỷ, châu Phi vẫn lạc hậu về mọi mặt, vẫn nghèo nhất thế giới, nạn đói vẫn hoành hành, bệnh tật lan tràn, nội chiến liên miên và chia năm xẻ bảy. Tình trạng này là mối ưu tư lớn của giới lãnh đạo các quốc gia châu Phi. Gadhafi là một trong số những nhà lãnh đạo ấy. Từ khoảng hơn 20 năm trở lại đây, Libya tuy chỉ là một quốc gia nhỏ, nhưng đã có những đóng góp đáng kể vào nổ lực đoàn kết và phát triển Phi Châu. Chính phủ Gadhafi đã tích cực theo đuổi một chính sách kết hợp toàn Châu Phi (foreign policy of Pan-African integration)[14] trong nhiều năm.
Theo Stratfor Global Intelligence thì về mặt kinh tế, thông qua cơ quan Libyan Investment Authority (LIA), một sovereign wealth fund, và các ngân hàng trực thuộc của cơ quan này, Libya đã mở rộng sự đầu tư vào ít nhất là 31 quốc gia trên toàn Phi Châu với tổng số vốn tới 65 tỉ dollars. Mức đầu tư trung bình lên hàng trăm triệu dollars cho mỗi công trình. Chẳng hạn như công ty viễn thông Zamtel ở Zambia với số vốn đầu tư lên gần 400 triệu dollars; hoặc đầu tư về hệ thống dẩn và chứa dầu ở Congo lên đến hơn 300 triệu dollars.
Một trường hợp được dư luận quốc tế nhắc đến nhiều là việc Libya đã giúp phát triển hệ thống thông tin bằng vệ tinh ở Phi Châu. Số là trước đó vào đầu thập niên 1990, khi 45 quốc gia ở Châu Phi họp lại, thành lập RASCOM (Regional African Satellite Communication Organisation) dự trù để điều hành mạng liên lạc vô tuyến qua vệ tinh cho toàn lục điạ. Trở ngại mà RASCOM gặp phải là vốn. Hàng năm RASCOM phải chi trả 500 triệu dollars để thuê vệ tinh viễn thông của Âu Châu( như của hảng Intelsat chẳng hạn). Trong khi đó chỉ cần chừng 400 triệu dollars là đủ để mua một vệ tinh viễn thông như vậy. Đã nhiều năm RASCOM xin vay IMF để mua vệ tinh riêng, nhưng không có kết quả. Cũng không một ngân hàng Âu-Mỹ nào khác sẳn sàng tài trợ cho dự án đó của RASCOM. Cuối cùng vào năm 2007, LIA của Libya đã bỏ ra 300 triệu dollars, African Development Bank và West African Development Bank thêm vào mỗi bank 50 triệu, vậy là lần đầu tiên các nước Châu Phi có riêng vệ tinh phục vụ cho nhu cầu viễn thông của mình, không phải mất 500 triệu dollars tiền thuê vệ tinh phải trả mỗi năm. Sau đó, đến năm 2010, với sự giúp đỡ của Nga và Trung Quốc, RASCOM của Châu Phi đã phóng thêm được một vệ tinh viễn thông khác. Có điều cũng từ đó các công ty viễn thông Âu Châu mất đi mối lợi và chắc chắn các chính phủ Âu Châu không thể quên điều đó.
Với nguồn tài chánh dồi dào thu được từ dầu hỏa, Libya cũng đã đóng vai trò không nhỏ trong việc hình thành các ngân hàng quan trọng của Châu Phi. Trước hết Libya Central Bank đã giúp hình thành African Monetary Fund (AMF), có trụ sở ở Cameroon; African Investment Bank (AIB), trụ sở ở Libya; và African Central Bank (ACB), đặt ở Nigeria. Ba banks này được xem là trụ cột tài chánh cho một Liên Đoàn Phi Châu (African Federation) trong tương lai, và được dự trù sẽ phát hành đồng tiền riêng cho Châu Phi, thay thế dần đồng tiền CFA franc (Colonies Francaises d’Afrique/Communauté Financière Africaine) đã ngự trị hơn 50 năm qua. Afrcian Monetary Fund (AMF) có tham vọng sẽ thay thế International Monetary Fund (IMF) (Quỹ Tiền Tệ Quốc tế) nhằm giúp các quốc gia Châu Phi thoát khỏi những điều kiện khắt khe nổi tiếng (conditionality) của Quỹ này. Cử chỉ tượng trưng đầu tiên của AMF là vào tháng 12/2010 ngân hàng này từ chối đơn xin tham gia của các quốc gia Tây Phương với lý do là Ngân hàng chỉ dành cho các quốc gia Châu Phi.[15]
Libya của chính phủ Gadhafi cũng đã góp phần làm thất bại nỗ lực của các quốc gia Âu Châu, đứng đầu là Pháp của Sarkozy, trong việc thành lập Liên Hiệp Địa Trung Hải (Union for the Mediterranean, UPM) gồm Bắc Phi và 27 nước Âu Châu với thâm ý gây phân hoá lục địa đen này. Tuy được mời tham gia UPM, vì Libya cũng thuộc Bắc Phi, Gadhafi đã từ chối. Do Libya từ chối tham gia, UPM mất luôn sự hưởng ứng của African Federation và cuối cùng không thành hình được.
Cuối cùng, cũng theo Stratfor thì song song với ảnh hưởng tài chánh, chính phủ Gadhafi cũng đã tạo được những ảnh hưởng chính trị rất quan trọng trong cộng đồng các quốc gia Châu Phi. Ảnh hưởng đó lan rộng từ Sudan, Niger, Chad, Mali, Mauritania, Congo, Kenya, Zimbabwe, v.v…và cả Nam Phi.
Lãnh tụ nổi tiếng và rất có uy tín ở Nam Phi, ông Nelson Mandela, cũng có quan hệ rất thân thiện và hết lòng ủng hộ Gadhafi.
Có điều rằng vai trò và những ảnh hưởng quan trọng về kinh tế-chính trị của chính phủ Gadhafi đối với Châu Phi lại là trở lực cho tham vọng của các cường quốc Tây Phương ở lục địa này, và đây mới chính là lý do thầm kín của sự can thiệp mang tính chất quốc tế hiện nay ở Libya.
Sự đối kháng của bản thân Gadhafi đối với các cường quốc không những chỉ ở Châu Phi mà còn ở cả phạm vi thế giới. Tháng Chín năm 2009 trên diễn đàn của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, trong bài diễn văn khá dài của mình đọc trước đại diện của 191quốc gia, Gadhafi đã phân tích tình hình quốc tế, lớn tiếng chỉ trích những bất bình đẳng trong trật tự quốc tế cũng như sự vi phạm đối với bản Hiến Chương Liên Hiệp Quốc. Một trong những công kích của Gadhafi là quyền Phủ quyết (veto) của các thành viên trong Hội Đồng Bảo An LHQ. Ông cho rằng quyền đó trái với tinh thần của Hiến Chương và nên được huỷ bỏ. Gadhafi cũng cho rằng Hội Đồng Bảo An đã không cung cấp an ninh cho thế giới mà trên thực tế chỉ khủng bố và cấm vận các quốc gia thành viên, và rằng bằng cớ là suốt 60 năm tồn tại của LHQ đã có đến 65 cuộc chiến tranh lớn nhỏ xảy ra trên khắp thế giới![16] Với giọng điệu đó thì rõ ràng ông Gadhafi đã… vuốt râu cọp! Có lẽ chính vì bài diễn văn đó mà Nghị Quyết 1973 đã được Hội Đồng BA/LHQ thông qua mà không ai phủ quyết hết chăng?
Phe nổi dậy là những ai?
Phe nổi dậy không phải là một khối thống nhất. Cái chung nhất mà họ có đối với nhau là chống lại sự cầm quyền của Gadahfi và các con ông ta. Có một bộ phận chống đối tự phát, không được tổ chức chặt chẻ, gồm những người dân thường chống lại tính chất độc đoán của chế độ và sự thối nát của các viên chức chính phủ. Một số khác chống lại Gadhafi do những tranh chấp bộ lạc đã có từ lâu; trong số này có cả những viên chức cao cấp trong chính phủ của Gadhafi, nay ly khai và muốn làm đảo chánh. Phần đông số viên chức này cũng thuộc loại tham ô thối nát và không có sự hậu thuẩn của dân. Những nhân vật được biết đến nhiều trong phe đối kháng là Mustafa Abdul Jalil, Aref Sharif và Al-Yunnis đều đã là những bộ trưởng trong chính phủ của Gadhafi. Một nhân vật khác là Abdel Moneim Al-Honi, cựu đặc sứ của Libya trong Liên Đoàn Ả rập ở Cairo. Al-Honi từng cùng tham gia đảo chánh năm 1969 với Gadhafi, nhưng sau đó ông ta âm mưu lật đổ Gadhafi và thất bại phải trốn ra ngoại quốc, đến năm 1990 được Gadhafi ân xá cho trở về Libya, nay lại chạy qua Benghazi theo phe đối kháng. Các viên chức này đều không được sự ủng hộ của đông đảo dân chúng.
Nhóm chống đối quan trọng nhất là những thành phần Hồi giáo cực đoan và những chính khách bảo hoàng lâu nay đang lưu vong ở ngoại quốc, nay được ngấm ngầm đưa vào Libya qua ngã Ai Cập. Nổi bật trong nhóm có hậu thuẩn từ bên ngoài này là vài tổ chức sau:
National Front for the Salvation of Libya, FNSL: Đây là một tổ chức do Mỹ và Israel huấn luyện từ những thập niên 1980s, gồm chừng 2000 người Libyan, có căn cứ ở Chad. Saudi Arabia cũng đã từng cho tổ chức này 2.7 triệu dollars trợ cấp. Tình báo của Pháp cũng đã bí mật giúp huấn luyện tổ chức này. Cùng phối hợp với FNSL còn có một tổ chức gọi là National Conference for the Libyan Opposition,NCLO), có trụ sở ở Anh Quốc.
Quan trọng nhất là tổ chức Libyan Islamic Fighting Group (LIFG): Đây là nhóm Hồi Giáo cực đoan, rất gần gũi với các nhóm Al-Qaeda, là nguồn cung cấp nhân lực thâm nhập vào Iraq trong những năm qua để chống lại quân Mỹ ở đó. Các thành viên của nhóm LIFG này đã bị Gadhafi trấn áp, bắt bớ, giam cầm trong suốt nhiều năm qua. Mới đây, do nổ lực hoà giải của các con trai Gadhafi, hàng trăm thành viên của nhóm đã được phóng thích ra khỏi các nhà tù sau nhiều năm bị giam cầm.
Một điểm khác đáng chú ý khi bàn về thành phành của phe phiến loạn là các hồ sơ lưu trữ cho thấy rằng hai thành phố Darnah và Benghazi, căn cứ địa của phe này, cũng là căn cứ điạ của các nhóm Hồi Giáo cực đoan, từng có nhiều thành tích đối kháng vũ trang với chính quyền Gadhafi, là nơi xuất phát của những nhóm cảm tử quân xâm nhập vào Iraq, qua ngã Syria và Egypt, để tấn công quân đội Mỹ.[17]
Khía cạnh pháp lý
Theo đề nghị của Anh, Pháp và Lebanon, ngày 17/3/2011, Hội Đồng Bảo An LHQ đã xét và thông qua Nghi Quyết 1973 về tình hình ở Libya. Có 10 phiếu thuận, không phiếu chống, và có 5 thành viên không bỏ phiếu(abstention). Trong số 10 phiếu thuận thì có 3 là thành viên thường trực: Mỹ, Anh và Pháp. Trong 5 thành viên không bỏ phiếu thì có 2 thành viên thường trực là Nga và Trung Quốc.
Nghị quyết nhận định rằng tình hình Libya đã trở thành mối mối đe doạ đối với an ninh và hoà bình thế giới(Determining that the situation in the Libyan Arab Jamahiriya continues to constitute a threat tointernational peace and security).Nhận định đó được viết ra để cho phù hợp với quy định trong Chương Bảy của Hiến Chương LHQ liên quan đến các biện pháp quân sự, hoặc không quân sự, mà Hội Đồng Bảo An LHQ (HĐBA) được quyền uỷ quyết (mandate) để áp dụng đối với những hành vi của một quốc gia đe doạ hay phá vỡ hoà bình và an ninh quốc tế, hoặc các hành động xâm lăng của một quốc gia đối với một quốc gia thành viên.[18]
Với nhận định trên, Nghị Quyết đề ra những biện pháp cần thiết để bảo vệ thường dân (necessary meassures to protect civilians), thiết lập No-fly zone trên toàn lãnh thổ Libya, phong toả tích sản của chính quyền Libya và của gia đình Gadhafi ở hải ngoại, cấm vận vũ khí, hạn chế sự đi lại của nhiều viên chức cao cấp của chính phủ Liyba, và yêu cầu ngưng bắn.
Rõ ràng Nghị Quyết 1973 là một sự vi phạm ngay đối với Hiến Chương của LHQ, bởi vì trên thực tế, chính quyền Libya của Gadhafi đã không có hành động gì được xem là đe doạ đến hoà bình và an ninh thế giới, cũng không hề xăm lăng ai cả. Việc chính phủ Gadhafi trấn áp bạo loạn có vũ trang trên lãnh thổ Libya của mình chỉ là sự thực thi nhiệm vụ hợp pháp, căn bản và thông thường của một chính quyền, ở một quốc gia có chủ quyền và là thành viên LHQ, để duy trì trật tự và ổn định xã hội trong phạm vi lãnh thổ trách nhiệm, và đó là công việc nội bộ của Libya.
Một khiá cạnh khác là về vấn đề THƯỜNG DÂN (civilians). Theo định nghĩa của luật quốc tế thì thường dân là một người không không thuộc về các tổ chức quân sự, chính quyền, không được vũ trang, và cũng không phải là dân quân (militia). Ý nghĩa chính của chữ civilian là không chiến đấu (non-combatants). Theo định nghĩa đó thì số người Libyan được vũ trang bằng đủ loại vũ khí tối tân đang đánh nhau với quân chính phủ Gadhafi không thể được xem là thường dân; mà đúng ra phải gọi họ là phiến quân. Nhưng hiển nhiên là việc thiết lập No-Fly zone của Nghị Quyết đã được dùng để bảo vệ những thành phần phiến quân đó, hơn là bảo vệ thường dân.
Ngoài ra cần nhận ra sự mâu thuẩn của Nghị Quyết khi đề ra No-Fly zone để bảo vệ Thường Dân.
Mới nghe qua thì rất hấp dẫn và nhân đạo. Nhưng xét kỹ thì trên thực tế rất khó để thực hiện một lúc hai công tác đó: vừa bảo đảm không một phi cơ nào của phe Gadhafi bay trên vùng trời vừa bảo vệ được thường dân khỏi bị thiệt mạng. Trước hết để áp đặt được no-fly zone, một việc phải làm là cần phải triệt hạ hết toàn bộ hệ thống phòng không gồm các dàn radars và hoả tiển địa không được các dàn radars đó hướng dẩn. Để thực hiện được điều đó cần có nguồn tin tình báo chính xác về vị trí của hệ thống phòng không; đó không phải là việc dễ dàng. Thông thường các máy bay do thám AWACS dựa vào các tín hiệu phát ra của các dàn radars để xác định toạ độ của chúng, và lập tức gọi phi cơ oanh kích để tiêu diệt dàn radar. Đó là một chuỗi công việc xảy ra liên tục với độ phối hợp cao, nhanh chóng và tức thời. Nhưng máy bay AWACS khi xác định vị trí của các dàn radars phòng không của đối phương không có khả năng để biết là dàn radars có nằm lẫn trong khu dân cư. Điều đó có nghĩa rằng việc không kích hệ thống phòng không đối phương để thực hiện vùng no-fly zone không làm sao tránh khỏi việc giết hại dân thường. Nói cách khác, trên thực tế, hai nhiệm vụ thực hiện vùng no-fly zone và bảo vệ dân thường không thể nào tương dung với nhau được, có chăng chỉ là những tuyên truyền để che mắt công luận mà thôi. Bằng cớ là phe phiến loạn đã thừa nhận nhiều lần rằng ngay thường dân trong vùng kiểm soát của họ cũng đã bị thương vong do các cuộc oanh kích của liên quân NATO. Tất nhiên tổn thất nhân mạng của thường dân xảy ra sẽ khiến cho Nghị Quyết của LHQ mất đi tính chính đáng của nó.
Một khía cạnh khác là Nghị Quyết đã vi phạm một điều khoản khác trong Hiến Chương. Chương I, Điều 2, khoản 7 của Hiến Chương quy định rằng sẽ không có điều nào trong Hiến Chương trao quyền cho LHQ để can thiệp vào những vấn đề thuộc thẩm quyền tài phán đối nội của bất cứ quốc gia nào.(Nothing contained in the present Charter shall authorize the United Nations to intervene in matters which are essentially within the domestic jurisdiction of any state).[19] Việc bảo vệ trị an, chống lại bạo loạn của chính phủ Libya rõ ràng là thuộc về thẩm quyền tài phán đối nội đó. Chắc chắn là không có một chính phủ của một quốc gia nào trên thế giới lại không dùng quân đội để dẹp những phần tử nổi loạn có vũ khí cả.
Bản thân Nghị Quyết cũng đã bị ngay các cường quốc thực thi Nghị Quyết đó vi phạm. Đó là trong khi chính phủ Gadhafi chấp hành lời kêu gọi ngưng bắn của Nghị Quyết thì các lực lượng nổi loạn và không lực Anh-Pháp đã không hưởng ứng. Việc cấm vận vũ khí do Nghị Quyết quy định cũng đã không được các cường quốc và đồng minh của họ tuân hành. Nhiều nguồn tin đã khẳng định rằng một số lực lượng đặc biệt của Anh-Pháp đã đổ bộ vào Libya để giúp quân phiến loạn cả về huấn luyện lẫn tham gia chiến đấu, và một số lớn vũ khí từ bên ngoài đã được chuyển vào cho phe đó qua ngả Ai Cập với sự mặc nhiên đồng thuận của các cường quốc.
Tóm lại, xét về mặt pháp lý, sự can thiệp của Anh, Pháp, Mỹ và khối NATO vào cuộc nội chiến ở Libya, núp dưới danh nghĩa của HĐBA/LHQ, thông qua Nghị Quyết 1973, là không phù hợp hoàn toàn với quy định của Hiến Chương LHQ, xâm phạm đến nguyên tắc chủ quyền quốc gia, tạo thành một tiền lệ xấu trong công pháp quốc tế, và gây tổn hại cho trật tự hiện thời của thế giới. Vắn tắt thì các cường quốc đã xúi giục, tài trợ và trang bị cho kẻ phiến loạn để từ đó có cớ can thiệp vào nội bộ của một chính quyền hợp pháp và vi phạm chủ quyền của một quốc gia thành viên LHQ. Không những thế, bằng việc dùng bom tìm giết Gadhafi và thân nhân ông ta, các cường quốc được uỷ nhiệm thực hiện Nghị Quyết 1973 của LHQ đã công khai tiến hành việc ám sát nguyên thủ của một quốc gia thành viên, người mà mới trước đó vào ngày 23/9/ 2009 đã tham dự và đọc diễn văn tại phiên họp Đại Hội Đồng LHQ có sự tham dự của 191 nguyên thủ quốc gia khác trên toàn thế giới . Rõ ràng đó là một việc làm phi pháp và thô bạo, hoàn toàn trái với mọi công ước và tập tục trong bang giao quốc tế có hiệu lực từ trước đến nay.
Kết luận
Gọi là nhìn từ góc độ khác, bởi vì ngoài kia, trên các hệ thống truyền thông chính thức của cả Mỹ lẫn Việt ở hải ngoại, thông tin và bình luận về tình trạng ở Libya có vẻ như thuận theo một chiều hướng nhất định, dưới ảnh hưởng áp đảo của một phía, cho rằng những biến động hiện nay ở Libya là nằm chung trong phong trào vùng lên đòi dân chủ của quần chúng Ả rập, là “Cách mạng Hoa Lài“, đang lan rộng ở Bắc Phi và Trung Đông, rằng chính phủ Gadhafi là một chế độ độc tài và là một bạo chúa đang đến ngày tàn, và rằng Hội Đồng Bảo An LHQ, vì mục đích cao cả là bảo vệ những thường dân (civilians) cùng đòi hỏi dân chủ chính đáng của họ, đã ra nghị quyết, uỷ nhiệm cho các cường quốc Anh, Pháp, Mỹ thực hiện những biện pháp cần thiết đối với chính phủ Gadhafi.
Luồng dư luận chính thức trên đây bề ngoài có vẻ hợp tình, hợp lý và khả tin; nhất là khi chúng ta chỉ quen được nghe bởi một phía. Nhưng nếu suy ngẫm kỹ dựa ngay chính trên những thông tin nhận được, rồi đem đối chiếu, một cách sáng suốt và tỉnh táo, với kiến thức thông thường về các mặt, với lịch sử của những biến cố tương tự nói riêng và lịch sử chính trị quốc tế hiện đại nói chung, với tình hình kinh tế-chính trị của khu vực và của thế giới, thì một người với tri thức trung bình không khỏi có những hoài nghi nảy sinh trong đầu đối với luồng dư luận chính thức đó, và bắt đầu tìm cách nhận định sự kiện từ một góc độ khác.
Chẳng hạn về kiến thức thông thường thì, như đã đề cập đến ở phần trước, thường dân là những kẻ không chiến đấu (non-combatants). Vậy nhưng sao trên TV thì thấy những người biểu tình chống lại Gadhafi, những người mà Nghị Quyết LHQ quyết tâm bảo vệ, thì toàn là những người được trang bị tận răng, với vũ khí tối tân, e rằng còn tối tân hơn của QLVNCH trước đây? Cũng xét theo lý lẽ thường tình thì trước đây Ý, Anh và Pháp đều đã từng xâm chiếm, biến Libya và nhiều nước Ả rập khác thành thuộc điạ, bóc lột tàn tệ và đàn áp người dân ở đó trong hàng thế kỷ, nay sao cũng các cường quốc đó, vì phép lạ trời ban nào, bổng dưng trở nên nhân ái, quan tâm đến sự an nguy của người Libya và các dân Ả-rập khác nhiều đến vậy, đến mức trong lúc kinh tế của các cường quốc đó đang hồi khó khăn, hàng triệu người dân của họ đang thất nghiệp nhưng không có đủ trợ cấp thất nghiệp, mà vẫn sẳn sàng tiêu tốn hàng trăm triệu dollars cho số bom đạn ném xuống, gọi là để bảo vệ thường dân Libyan?
Còn về lịch sử thì có nhiều những trường hợp tương tự. Điển hình nhất là vụ Thiên An Môn ở Trung Quốc mùa hè năm 1989. Trong vụ đó hàng chục ngàn sinh viên tay không tấc sắt bị nghiền nát dưới xích xe tanks, nhãn tiền trước mắt toàn thế giới, vậy nhưng sao hồi đó HĐBA của LHQ và những cường quốc của khối NATO lại chẳng có lấy một nghị quyết nào về ” all necessary measures to protect civilians“, về no-fly zone, hay về freezing assets, v.v… áp dụng cho TQ? Trái lại, Mỹ vào lúc ấy tuy bề ngoài cũng theo Ấu Châu cấm vận TQ, nhưng chỉ 3 tuần sau biến cố, một cách bí mật TT Bush (senior) đã gởi một phái đoàn do Cố Vấn ANQG Brent Scowcroft và Thứ Trưởng Eagleburger qua Bắc Kinh để… trấn an![20]
Trường hợp khác, cũng đáng chú ý, là vụ Indonesia cho quân đội, trang bị bằng vũ khí của Mỹ, xâm chiếm và tàn sát Đông Timore năm 1975, giết đến gần 200,000 thường dân (1/3 tổng số dân trên Đảo). Với vụ này thì HĐBA của LHQ cũng… im re!
Còn nhiều trường hợp tương tự nữa, không thể kể hết, nhưng có lẽ gần nhất, cùng trong luồng gió của “Cách mạng Hoa Lài” là trường hợp Bahrain, một tiểu quốc nằm sát Saudi Arabia. Ở đó trong suốt thời gian qua chính phủ đã cho quân đội bắn giết hàng trăm người biểu tình tay không vũ khí. Vương quốc Saudi Arabia, một đồng minh của Mỹ, còn gởi quân để giúp thêm trong việc đàn áp đó nữa. Vậy nhưng HĐBA của LHQ cũng đã…làm ngơ, và giới truyền thông Mỹ thì không đả động bao nhiêu!
Những so sánh các trường hợp tương tự như trên với trường hợp của Libya, cùng với những tìm hiểu về các chính sách đối nội của chính phủ Gadhafi, mối quan hệ đối ngoại và vai trò của chính phủ ấy đối với Châu Phi trong những thập niên gần đây, và sau cùng là tình hình hiện nay của trật tự thế giới, đã thôi thúc việc tìm nhìn về biến động ở Libya dưới góc độ khác, với một nhận định đơn giản, nhưng thật hơn, rằng các cường quốc, đứng đầu là Mỹ, do nhu cầu chiến lược, xuất phát từ quyền lợi quốc gia của mình, đã tận dụng làn sóng đòi dân chủ của dân Ả-rập, khai thác nhược điểm của chế độ Gadhafi và của xã hội Libya, giúp dựng lên và yểm trợ cho lực lượng phiến loạn, tạo ra bất ổn ở Libya để có cớ can thiệp núp dưới danh nghĩa của LHQ, nhằm hoặc tối đa là lật đổ Gadhafi, lập một chính phủ mới, hoặc tối thiểu cũng phân chia được Libya, làm suy yếu nước này và chế độ Gadhafi; một chế độ không còn phù hợp với trật tự thế giới mới ở trong Vùng và đang có những chính sách đi ngược với quyền lợi của siêu cường.
Điểm căn bản của nhận định vừa nêu là nổ lực tiếp cận sự thật dựa vào nguyên tắc chính trị quyền lực (power politics), theo đó thì quan hệ quốc tế của các quốc gia trên thế giới chỉ đặt trên một nền tảng duy nhất; đó là quyền lợi quốc gia (national interests); mọi quốc gia đều tìm cách thâu đạt và phát huy tối đa quyền lực của mình để phục vụ cho quyền lợi đó. Những giá trị khác: nhân quyền, dân chủ, nhân đạo, pháp lý, v.v… chỉ hoặc là chiêu bài tuyên truyền, hoặc là lợi khí sử dụng, không hơn không kém. Trên đấu trường chính trị quốc tế, các chính khách không có được những lựa chọn mang tính đạo đức để hoàn toàn bị chi phối bởi những giá trị vừa nêu. Trong một lần phỏng vấn khi đề cập đến Toà Án Hình sự Quốc tế (International Criminal Court, ICC) và vấn đề Universal Jurisdiction, ông Henry Kissinger đã nói: “ The average person thinks that morality can be applied as directedly to the conducts of the states to each other as it can to the human relations. That is not for all the cases, because sometime statemen have to choose among evils.“[21] Có thể hiểu là chính khách nói chung (cũng như chính phủ Mỹ nói riêng) không phải là người bình thường(average persons), mà là những biệt lệ (exceptionalists), và đạo đức không áp dụng được trực tiếp cho mối quan hệ giữa các quốc gia như thường được áp dụng cho các mối quan hệ nhân sinh giữa cá nhân với nhau! Thiết nghĩ đó là một câu nói đáng suy ngẫm, tiêu biểu nhất cho quan điểm chính trị Quyền lực (power politics) trong quan hệ quốc tế, rất thích hợp đem dùng để nhìn về cuộc nội chiến hiện nay ở Libya.
California 20/9/2011
© Trương Đình Trung
© Đàn Chim Việt
[15] http://www.herald.co.zw/Jean-Paul Pougala.
[17] Blanchard, Christopher M., US Congress Report Service, August 2009.
[20] Kissinger, Henry. On China, p.418. Newyork: Penguin, 2011.
**********************
Về biến động ở Ai-Cập
Những biến động diễn ra ở Ai-Cập trong hai tuần lễ gần đây đang chiếm vị trí trung tâm, thu hút sự chú ý của dư luận toàn thế giới, choán thời lượng ngày càng cao trong hoạt động của mọi hệ thống truyền thông lớn nhỏ ở khắp nơi, cũng như được thảo luận xôn xao trên hầu hết các diễn đàn; đặc biệt tập trung nhất vào khía cạnh Dân chủ của sự kiện. Bài viết này là một nổ lực khiêm tốn nhằm đóng góp vào dư luận chung đó; chú ý đến trước hết bối cảnh lịch sử, điạ lý, sau đó đến nội tình kinh tế-xã hội của Ai Cập, tác động ngoại lai do sự thay đổi của tình hình quốc tế góp phần vào biến động, và sau cùng mối liên tuởng từ biến động đó đến vấn đề Dân chủ cho Việt Nam.
SƠ LƯỢC VỀ AI CẬP
Ai-Cập nằm về phía đông Bắc Phi Châu, có biên giới chung với Sudan ở phía Nam, với Lybia ở phía Tây, Hồng Hải ở phía Đông, Địa Trung Hải ở phía Bắc, và với Israel ở phía Đông Bắc (Xem bản đồ 1). Ai-Cập có đến 2,900km đường duyên hải tiếp giáp với Địa Trung Hải, Vịnh Suez, Vịnh Aqaba và Hồng Hải.
Biên giới dài nhất là với Sudan, 1,270km, chạy dài từ Hồng Hải về hướng Tây, dọc theo vĩ tuyến 22. Biên giới dài thứ hai, khoảng 1,150 km, là với Lybia ở phía Tây. Ở hướng Đông Bắc, Ai Cập chia biên giới với Israel trên bán đảo Sinai trên một chiều dài hơn 250km; và với dãi Gaza của Palestine chừng 11km. Đoạn biên giới ngắn này là nơi trong những năm gần đây du kích Palestine thường dùng đường hầm để chuyển lén vũ khí vào Gaza.
Tổng dân số hiện nay của Ai Cập chừng 83 triệu người, trong đó người Ai Cập chiếm hơn 99%. Ngoài Ả rập là ngôn ngữ chính ra; tiếng Anh và tiếng Pháp rất thông dụng trong giới trí thức.
Với vị trí như vậy Ai Cập có đặc điểm như một đầu cầu nối liền Á Châu và Phi Châu qua bán đảo Sinai. Trước đây các đạo quân của các dân tộc Assyrians, Babylonians, Persians, Macedonians, Byzantines, Romans , và rồi về sau này, người Turks đã lần lượt xâm chiếm Ai Cập. Biên giới phía Nam, tiếp giáp với Sudan, nhờ sa mạc ngăn cách và phần nào do lịch sử giao hiếu lâu dài nên ít bị uy hiếp hơn.
Mặt khác, Ai Cập còn là đầu cầu từ Địa Trung Hải đi vào Hồng Hải, rồi ra Ấn Độ Dương. Vì đặc điểm này nên đế quốc Anh, trong những thế kỷ trước, rất quan tâm đến việc kiểm soát Ai Cập. Kênh đào Suez nối Địa Trung Hải với Hồng Hải đã giúp hải quân Anh rút ngắn được đoạn hải hành đến Ấn Độ; lộ trình mới là từ Đại Tây Dương qua eo Gibraltar vào Điạ Trung Hải, qua kênh Suez, ra Hồng Hải, rồi tiến vào Ấn Độ Dương. Trước đó, để từ Đại Tây Dương đến Ấn Độ Dương, người ta phải đi xa hơn gấp bội, vòng hết phần cực Nam của Phi Châu, qua mũi Hảo Vọng ( Cape of Good Hope) rồi mới đến được đích. Vì lý do này mà trước đây Anh quốc đã đặt vấn đề kiểm soát kênh Suez, và toàn Ai Cập, lên tầm chiến lược trong việc bảo vệ thuộc địa lớn nhất của mình là Ấn Độ.
Ngoài ra, trong lịch sử hiện đại, kể từ khi dầu hoả trở nên nguồn năng lượng huyết mạch của nhân loại thì vị trí địa lý của Ai Cập lại càng trở nên quan trọng hơn .Ai Cập là quốc gia lớn nhất trong khối Ả Rập, là khối dân, do một tình cờ lịch sử, cư trú ngay trên vùng Trung Đông là nơi có vựa dầu hoả lớn nhất thế giới. Ngoại trừ Iran ra, tất cả các nước có lượng dầu hoả lớn như Iraq, Arab Saudi, Kuwait, Syria, Lybia, v.v… đều là người Ả Rập. Khối dân Ả Rập, tuy trong thời hiện đại bị phân ly thành nhiều quốc gia khác nhau, nhưng lại có chung các đặc điểm về ngôn ngữ, chủng tộc, văn hoá, tôn giáo và lịch sử. Do những đặc điểm chung đó, từ lâu người Ả Rập luôn có một nguyện vọng thiết tha là được thống nhất lại và làm chủ lấy kho tài nguyên dầu hoả quý báu của mình. Ai Cập, và các lãnh tụ như Nasser, Alwar-El-Sadat, đã đóng vai trò lãnh đạo khối Ả Rập trong nổ lực không ngừng nhằm hiện thực nguyện vọng thiết tha đó, nhưng không thành. Sự thất bại một phần là do sự thiếu đoàn kết nội bộ của khối dân Ả Rập; phần khác là do sự can thiệp của các siêu cường Tây Phương, theo nguyên tắc cổ điển chia để trị, nhằm duy trì sự khống chế đối với nguồn dầu hoả lớn nhất của thế giới.
Chính trong bối cảnh trên đây mà trong suốt thời Chiến Tranh Lạnh lịch sử của Ai Cập đã hầu như luôn gắn liền với các diễn biến chính trị lớn của toàn vùng Trung Đông, và sự gắn bó đó vẫn còn tiếp tục cho đến nay.
Năm 1952 Trung Tá Gaman Abdul Nasser lãnh đạo quân đội đứng lên làm cuộc cách mạng lật đổ vương quyền, đưa Ai Cập vào một giai đoạn lịch sử mới. Nasser, cầm đầu nhóm sĩ quan được mệnh danh là Nhóm Sĩ quan Tự Do (Free Officers), là một người xuất thân thuộc giới bình dân, đã tham gia biểu tình chống sự cai trị của Anh quốc khi còn là sinh viên. Về sau Nasser gia nhập quân đội, từng bị thương trong cuộc xung đột với Israel năm 1948, tỏ ra là một người yêu nước nồng nàn với mong ước thiết tha cho đất nước Ai Cập của Ông thoát khỏi sự khống chế của ngoại bang, vươn lên thành quốc gia lãnh đạo và thống nhất khối Arabs. Độc lập cho Ai Cập và thống nhất Arabs là hai mục tiêu suốt đời của Nasser.
Nhưng mong ước của Nasser và nguyện vọng của người dân Ai Cập, cũng như quyền Dân tộc Tự quyết của cộng đồng đông đảo người Arabs đã không thành đạt trọn vẹn và được tôn trọng hoàn toàn như mong đợi. Ai Cập đã, cùng với các nước khác ở Trung Đông, bị cuốn hút vào cuộc tranh chấp của hai siêu cường Mỹ-Liên Xô, bị dằng xé trong nhiều năm giữa hai hệ thống: Hệ thống Trung Đông và Hệ thống Arab (The Middle Eastern and The Arab systems).
Hệ thống Trung Đông do Mỹ chủ xướng, với sự hậu thuẩn của Anh, Pháp và Thổ Nhĩ Kỳ, có mục đích ngăn chận sự lan tràn ảnh hưởng của Liên Xô vào Trung Đông. Hệ thống này cổ suý cho việc hình thành một liên minh quân sự có tên là Middle East Defense Organization (MEDO), có vai trò như một mắt xích lớn, phối hợp với NATO và SEATO, tạo thành một vòng đai vây kín Liên Xô. Liên minh này ngoài các quốc gia vừa nêu tên, sẽ bao gồm nhiều quốc gia Arabs khác, Iran, Pakistan, và Do Thái.
Hệ thống Arab do Ai Cập lãnh đạo, gồm những quốc gia Arab có chung ngôn ngữ, lịch sử, văn hoá và tôn giáo như Syria, Iraq, Arab Saudi, Algeria, v.v…Hệ thống này là nổ lực thống nhất Arab, thường được biết với tên gọi Liên Đoàn Arabs (League of Arabs), nhằm đạt được độc lập khỏi sự chi phối hay cai trị của các cường quốc, cả từ phiá Anh- Mỹ lẫn từ phía Liên Xô. Hệ thống này, mà Nasser được xem là lãnh tụ, đã cùng với Nehru của Ấn Độ và Sukarno của Nam Dương, hình thành và phát triển Phong Trào Các Quốc gia Không Liên Kết, chủ trương không liên minh với cả Mỹ lẫn Liên Xô. Ai Cập của Nasser, và sau này của Anwar el Sadat, chủ trương tinh thần độc lập quốc gia và xây dựng đất nước theo hướng xã hội chủ nghĩa (socialism). Tuy giới truyền thông Tây Phương đã một thời thường chụp cho Nasser và Sadat cái mũ “Cộng sản”, và Ai Cập đã có những lúc nhận được viện trợ vũ khí và tài chánh lớn của Liên Xô, nhưng trên thực tế các chính phủ Ai Cập thời đó lại đề cao truyền thống Hồi Giáo và chống lại vấn đề đấu tranh giai cấp của học thuyết Cộng Sản. Trong bài diễn văn đọc hồi tháng 10/1972 Anwar el-Sadat đã nêu lên khẩu hiệu: Tự Do-Xã hội Chủ nghĩa- Thống Nhất (Freedom, Socialism and Unity)[1], trong đó Sadat nhấn mạnh đến sự độc lập, truyền thống hữu thần và chủ trương xây dựng Ai cập theo một chế độ thế quyền (secular government), thực hiện xã hội chủ nghĩa theo hướng hoà giải các mâu thuẩn giai cấp, đồng thời nêu lên mục tiêu thống nhất khối Arab.
Vào giai đoạn đầu, Hệ Thống Arab thu hút được sự hưởng ứng của đông đảo khối Arab, lý do là vì dấu tích của chủ nghĩa thực dân với sự thống trị của Anh-Pháp ở trong Vùng còn mới mẻ quá. Hơn nữa ngay sau đó, năm 1956, việc Anh-Pháp và Do Thái liên minh tấn công Ai Cập vì vụ quốc hữu hoá kênh đào Suez, đã khiến cho uy tín của Nasser, và do đó của Hệ Thống, lên cao. Cuộc tấn công đó củng cố niềm tin của khối dân Arabs rằng Do Thái là đồn tiền tiêu của Tây Phương ở Trung Đông với mục tiêu đánh phá, gây chia rẽ và làm suy yếu khối Arabs để chiếm đoạt tài nguyên dầu hoả của dân trong Vùng.
Phía Hệ thống Trung Đông nằm dưới sự lãnh đạo của Mỹ. Trong giai đoạn đầu, tuy hệ thống này có ưu thế gần như tuyệt đối về quân sự và kinh tế, lại không thâu đạt được những thành quả chính trị mong muốn. Tuy bề ngoài Mỹ công khai phản đối và buộc Anh-Pháp-Do Thái phải ngưng việc tái chiếm kênh Suez, nhưng điều đó không đủ khiến dư luận của dân trong Vùng tin rằng Mỹ sẽ không nối gót Tây Phương để tiếp tục khống chế nguồn tài nguyên dầu hỏa cho quyền lợi vị kỷ của mình.
Nhưng rồi giai đoạn đầu qua đi, Hệ thống Arab, do Ai Cập lãnh đạo, ngày càng trở nên yếu thế, bị tan vỡ dần và cuối cùng hoàn toàn bị loại, nhường chỗ cho sự tòan thắng của Hệ thống TĐ do Mỹ đứng đầu. Sự kiện đánh dấu cho bước cáo chung của Hệ thống Arab là việc TT Ai Cập Anwar El Sadat đã đến Camp David của Mỹ để ký Hiệp Định Hoà bình với Thủ tướng Do Thái Menachem Begin năm 1978 (Camp David Accords). Hiệp ước Hoà bình David là một bước ngoặt quan trọng trong chính sách đối ngoại của Ai Cập; một sự quay ngoắt 180 độ trong thái độ đối với Do Thái, và đối với Mỹ. Chính phủ Ai Cập từ đó đã hoàn toàn từ bỏ thái độ chống Do Thái và lập trường Không Liên Kết, ngã hẳn về phía Mỹ và đồng minh. Sự thay đổi đó gặp phải phản ứng mãnh liệt của dư luận Arabs trong Vùng, họ cho rằng chính phủ Ai Cập đã chà đạp lên nguyện vọng của họ và phản bội lý tưởng thống nhất Arabs. Đỉnh cao của phản ứng đó là việc Sadat bị ám sát năm 1981.
Thật ra thì các lãnh tụ Ai Cập đã không còn lựa chọn nào khác. Liên Xô đã không đủ giàu mạnh để cạnh tranh với MỸ trong việc giúp Ai Cập thành đạt các mục tiêu chiến lược của mình. Về mặt quân sự, quân viện của Liên Xô không nhiều, kém cả lượng lẫn phẩm chất, đã không giúp quân đội Ai Cập, tuy quân số đông hơn, có thể trở nên đồng cân đồng lạng với quân đội Do Thái. Lượng viện trợ kinh tế của Liên Xô là không đáng kể so với mức viện trợ của Mỹ dành cho các quốc gia khác trong Vùng. Trong khi đó Ai Cập lại là quốc gia phải nhập cảng lúa mì với số lượng lớn từ Mỹ. Điều quan trọng hơn hết là Ai Cập, do vai trò quan trọng của Hồi giáo trong xã hội, không thể nào tương hợp lâu dài với xã hội vô thần của Liên Xô và hòa đồng vào quỹ đạo của khối Cộng Sản được. Mối quan hệ Liên Xô-Ai Cập, vì vậy, chỉ có tính chất chiến thuật tạm thời mà không được xây dựng trên nền tảng của một chiến lược lâu dài. Cuối cùng rồi Nasser đã phải trục xuất các nhân viên Liên Xô về nước.
Mặt khác, nhu cầu thống nhất khối Arabs tuy cao cả, nhưng nội bộ của Khối lại không đòan kết, lòng vị kỷ của mỗi nước riêng rẽ bị đối phương khai thác để khoét sâu hố chia rẽ; trong khi đó Ai Cập cũng có những tính toán riêng cho quyền lợi của mình và của chế độ. Khi bị buộc phải lựa chọn giữa một bên là quyền lợi quốc gia và chế độ với bên kia là lý tưởng thống nhất Arabs, giới lãnh đạo Ai Cập đã đành phải chọn điều thứ nhất. Anwar El Sadat đã phải tạm gác việc thống nhất Arabs, quay về lo cho chính Ai Cập của mình. Để làm vậy, Sadat chỉ còn một lựa chọn; đó là thừa nhận vai trò của Mỹ ở Trung Đông, hòa hiếu với Do Thái, để nhận được viện trợ cả quân sự lẫn kinh tế từ Mỹ-Tây Phương nhằm xây dựng quân đội, củng cố chế độ và phát triển đất nước. Hơn nữa, việc hoà hiếu với Do Thái sẽ giúp Ai Cập giảm được một lượng ngân sách chi phí quốc phòng lớn để dùng vào việc phát triển kinh tế sau này.
Nhìn từ phía khác, việc Ai Cập thay đổi lập trường đối ngoại và việc ký kết Hiệp ước Hoà bình Camp David với Do Thái là một thành công lớn lao trong chính sách đối ngoại của Mỹ ở Trung Đông. Đó là kết quả của nhiều thập niên xử dụng nhuần nhuyễn cả “cây gậy” lẫn “củ cà rốt” để phân hoá khối Arabs, phá vỡ Liên Minh Arab, củng cố thế đứng cho Do Thái, duy trì được sự khống chế Trung Đông, loại trừ hẳn ảnh hưởng của Liên Xô ra khỏi vùng có trữ lượng dầu hoả lớn nhất thế giới, và từ đó giữ vững được thế bá chủ thế giới của mình.
Kể từ đó, chính sách căn bản của Mỹ đối với Ai Cập là hậu thuẩn cho một chế độ do quân đội nắm quyền và tìm cách loại trừ dần ảnh hưởng của các lực lượng thần quyền Hồi giáo khác, như lực lượng Muslim Brotherhood; một tổ chức đề cao vừa tinh thần quốc gia vừa tinh thần Hồi giáo, đặt trọng tâm hoạt động của mình vào các công tác tôn giáo và từ thiện xã hội.Mặt khác, việc quân đội nắm quyền là một thực trạng phổ biến ở các quốc gia kém phát triển tại Á-Phi, nơi mà song song với nền kinh tế chậm tiến là sự kém phát triển của các định chế xã hội cần thiết cho sự hình thành các lực lượng chính trị dân sự và chính đảng vững mạnh. Một hệ luận của thực trạng đó là đa số quân đội của các quốc gia Á-Phi này đều lệ thuộc vào vũ khí và quân viện của Tây Phương, đứng đầu là Mỹ. Nói cách khác, Mỹ có thể dễ dàng, qua quân viện, gây ảnh hưởng sâu xa đến chính tình của các quốc gia. Đối với Ai Cập, mức viện trợ quân sự trung bình hằng năm của Mỹ, trong gần 3 thập niên qua, là chừng 1.3 tỉ dollars/ năm.
Từ đó đến nay, đã gần 30 năm qua, các chính phủ Mỹ liên tục ủng hộ cho chế độ quân đội cầm quyền của Hosni Mubarak. Ngoài quân đội, Mubarak đã sử dụng một mạng lưới cảnh sát rộng lớn gần cả triệu nhân viên chìm nổi để cai trị. Mọi đối lập chính trị đều bị đè bẹp; quốc hội của Ai Cập không gì hơn là một loại “gia nô” của chính phủ. Ai Cập của Mubarak đã cùng với Do Thái, Saudi Arabia trở nên ba trụ cột quan trọng giúp duy trì và bảo vệ quyền lợi của Mỹ ở Trung Đông. Điều đáng chú ý ở đây là trong 3 quốc gia đó, thì ngoại trừ Do Thái ra, Saudi Arabia và Ai Cập là hai quốc gia, một thần quyền và một thế tục, có chế độ độc tài với thành tích không mấy tốt đẹp về Nhân Quyền và Dân Chủ, đến độ thua kém nhiều so với một quốc gia khác trong Vùng, vẫn luôn bị giới truyền thông Mỹ công kích, là Iran.
KHIÁ CẠNH KINH TẾ
Ngay từ cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 nền kinh tế Ai Cập đã chịu sự khống chế mạnh mẽ của hệ thống tài chánh-ngân hàng Âu Châu, đứng đầu là Anh Quốc. Giới cẩm quyền Ai Cập lúc đầu đã cố gắng tận dụng ưu thế nông nghiệp của lưu vực sông Nile để làm nền tảng cho sự phát triển kỹ nghệ. Nhưng rồi vì thiếu cả vốn lẫn kỹ thuật, Ai Cập đã phải vay vốn của Tây Phương. Từ đó hệ thống tài chánh-ngân hàng Anh xâm nhập và dần dần nắm quyền khống chế kinh tế của Ai Cập. Ngay cả cổ phần của chính phủ Ai Cập đối với kinh Suez cũng đã phải bán lại cho Tây Phương để thế chấp các món nợ tài chánh khổng lồ. (Thời đó, kinh Suez tuy nằm trên lãnh thổ của Ai Cập, nhưng quyền quản trị lại thuộc một công ty của Anh-Pháp và chính phủ Ai Cập chỉ sỡ hữu một số cổ phần trong công ty đó. Mãi đến năm 1956 Nasser mới quyết định quốc hữu hóa kinh này và vì vậy đã gặp phải phản ứng quân sự mạnh mẽ của Anh-Pháp).
Từ năm 1952 trở đi, khi nhóm Sĩ Quan Tự Do (Free Officers Group) của Nasser lật độ vương quyền thân Anh Quốc rồi lên cầm quyền, Ai Cập đi theo hướng kinh tế hoạch định cứng rắn của mô hình xã hội chủ nghĩa. Đường lối kinh tế đó, cộng thêm với áp lực phong toả của hệ thống Trung Đông, như trình bày ở phần trước, đã dẩn đưa Ai Cập vào lạc hậu và bế tắc.
Sự chuyển hướng mạnh mẽ trong chính sách đối ngoại từ những năm 1972 trở đi, xa lánh Liên Xô, bắt tay với Mỹ, và ký hiệp ước hoà bình với Do Thái năm 1978, mở ra con đường mới cho sự phát triển kinh tế của Ai Cập. Vốn đầu tư và kỹ thuật Tây Phương tuồn vào ào ạt đã làm thay đổi hẳn diện mạo của nền kinh tế. Nhìn chung mức sống của xã hội được cải thiện nhiều về mọi mặt. Thành quả đó củng cố uy tín của chế độ do quân đội cầm quyền. Vai trò và uy tín của quân đội từ đó ngày càng gia tăng.
Mặc dầu vậy, nền kinh tế Ai Cập đã không phát triển đúng mức như mong đợi. Những nhược điểm chí tử do sự cộng hưởng của chế độ độc tài, trong đó quân đội nắm quyền, và di sản của nền kinh tế hoạch định bắt đầu bộc lộ mạnh mẽ vào đầu thập niên 1990s. Tệ nạn tham nhũng hối lộ lan tràn và ngày càng trầm trọng; bộ máy hành chánh ngày càng trở nên quan liêu và kém hiệu năng, gây tiêu hao nặng nề cho tiềm lực kinh tế. Hệ thống công ty quốc doanh ngốn hết phần lớn ngân sách đầu tư của chính phủ nhưng lại thua lỗ nặng nề làm gia tăng khiếm hụt ngân sách và nợ nước ngoài. Những năm 1990-1995 tổng GDP chỉ gia tăng 1.6%; trong khi mức gia tăng dân số lại lên đến 2.4%![2] Mức thất nghiệp cao, trung bình 9-10%. Bất công xã hội lan tràn; sự chênh lệch giữa giàu-nghèo và giữa nông thôn-thành thị tăng cao. Với tổng dân số gần 83 triệu người, Ai Cập hiện có tổng GDP chừng 188 tỉ dollars, nhưng tổng số nợ nước ngoài lên đến gần 35 tỉ. Sự phân phối lợi tức trong xã hội lại quá bất công; gần 40% dân số sống với mức thu nhập chỉ 2 dollars/ngày!
Trong khi đó, viện trợ kinh tế của Mỹ từ cuối thập niên 1990 lại bắt đầu giảm dần, mặc dù mức viện trợ quân sự thì hầu như không thay đổi từ đó cho đến nay, trung bình là 1.3 tỉ dollars. Ngoại trừ đỉnh cao là vào năm 2003 lúc mức viện trợ kinh tế của Mỹ cho Ai Cập lên đến gần 1 tỉ, những năm sau đó giảm đi nhiều và cho đến năm 2010 chỉ còn chừng 200 triệu dollars/ năm.[3]
Ngoài sự giảm sút viện trợ kinh tế của Mỹ, áp lực của sự toàn cầu hoá kinh tế thông qua các tổ chức quốc tế như IMF, World Bank và WTO, ngày càng gia tăng đã buộc chính phủ của Hosni Mubarak, kể từ năm 1991 phải đưa ra chính sách cải cách kinh tế để thích nghi. Đại thể những cải cách ấy không gì khác hơn ngoài những toa thuốc thông thường do các tổ chức quốc tế đó đưa ra cho các nước đang phát triển: Cắt giảm chi tiêu công ích của chính phủ; thu hẹp và giải thể dần các cơ sở quốc doanh; gia tăng việc tư hữu hoá doanh nghiệp, đặc biệt là tư hữu hoá tài chánh-ngân hàng; pháp chế hoá hoạt động kinh tế; giảm thiểu tài trợ công; v.v…
Nhưng chính sách cải cách gặp phải trở lực lớn; đó là quán tính của hệ thống quốc doanh xã hội chủ nghĩa trước đây và sự chống đối, tuy ngấm ngầm, nhưng mạnh mẽ của quân đội. Suốt nhiều thập niên trước đó và cho đến nay, với vai trò cầm quyền, quân đội Ai Cập đã được hưởng vô số đặc quyền đặc lợi, không chỉ về chính trị mà, quan trọng hơn, cả về kinh tế. Các đặc quyền ấy đã biến quân đội trở thành một giai cấp mới trong xã hội, và giai cấp đó không dễ dàng gì một sớm một chiều chấp nhận sự đổi mới kinh tế để từ bỏ những đặc quyền đã thụ hưởng cả nửa thế kỷ nay. Một chi tiết bên lề, nhưng đáng chú ý và đặc biệt liên quan đến những biến động hiện nay; đó là chính sách cải cách kinh tế lại do chính con trai của Mubarak cầm đầu thực hiện. Chi tiết này góp phần không nhỏ vào phản ứng của giới quân nhân cầm quyền đối với việc cải cách kinh tế, và dẩn đến việc Mubarak không còn được quân đội ủng hộ, phải ra đi.
Ngoài ra một thực trạng khác, cũng thuộc lãnh vực kinh tế, có vai trò không nhỏ trong những biến động ở Ai Cập; đó là sự gia tăng giá cả lương thực.Từ năm 2008 đến nay, giá lương thực và thực phẩm gia tăng đột ngột và lên rất cao tại hầu hết các quốc gia trên thế giới, và đặc biệt nghiêm trọng tại Trung Đông và Tây Phi. Nguyên nhân là do sự sút giảm sản lượng của một số nông sản chính yếu ở những quốc gia sản xuất lương thực lớn như Mỹ và Canada, trong khi dân số toàn thế giới gia tăng nhanh, do thiên tai ở nhiều nơi, và kế đến là do giá xăng dầu tăng cao. Theo PBS thì Chủ tịch World Bank, ông Robert Zoellick, cho biết rằng việc giá lương thực gia tăng sẽ đẩy chừng 44 triệu người vào cảnh khốn cùng, và từ đó gây ra biến loạn, tại các quốc gia như Ai Cập, Algeria, Tunisie và Yemen.[4]
Cũng theo ông Zoellick thì đây là lần tăng giá lương thực cao nhất trong hơn 20 năm qua, và nhiều chục triệu gia đình sẽ phải chi phí hơn 50% lợi tức của mình cho phần lương thực. Riêng ở Ai Cập thì vấn đề lương thực lại còn trầm trọng hơn, mức gia tăng giá cả trung bình chỉ từ nửa năm nay đã lên đến 20%, nhiều loại lương thực tăng đến 35%. Trong khi đó thì có đến hơn 40% dân chúng có thu nhập dưới 2 dollars/ngày và số người này sẽ phải chi gần hết lợi tức của mình cho phần lương thực mà vẫn không đủ ăn. Đáng ngại hơn nữa là giá cả lương thực vẫn còn tiếp tục gia tăng. Người Việt chúng ta có thành ngữ: “đói khát, loạn lạc”; đói và loạn luôn đi liền với nhau. Tình hình kinh tế tồi tệ chính là nguyên nhân gần của các biến động hiện nay ở Ai Cập.
BỐI CẢNH CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ TRONG KHU VỰC.
Sau khi Chiến Tranh Lạnh kết thúc, nhiều người đã tưởng rằng thế giới sẽ bước vào một giai đoạn ổn định và hoà bình lâu dài, trong một trật tự Thế Giới Mới, như cách gọi của cựu TT Bush senior, hay như giáo sư tiến sĩ Francis Fukuyama đã viết, vào năm 1992, trong quyển sách nổi tiếng The End of History and the Last Man, rằng sự chấm dứt của Chiến Tranh Lạnh có nghĩa rằng lịch sử-hiểu theo nghĩa là sự tiến hoá của nhân loại trên bình diện đấu tranh ý thức hệ- đã đến hồi kết thúc và tự do dân chủ của phương Tây sẽ được phổ quát hoá như là hình thái chính quyền cuối cùng của loài người. (Ông viết nguyên văn: “What we may be witnessing is not just the end of the Cold War, or the passing of a particular period of postwar history, but the end of history as such… That is, the end point of mankind’s ideological evolution and the universalization of Western liberal democracy as the final form of human government”).
Tiếc rằng sự hồ hởi (euphoria) của của Fukuyama hơi “sảng” khiến nhiều người không cảm thấy bị thuyết phục. Chỉ sau đó một năm, một đồng nghiệp của Fukuyama ở Havard, ông Samuel P. Huntington, đã bày tỏ quan điểm trái ngược của mình trong quyển sách bán rất chạy The Clash of Civilizations and the Remaking World Order, trong đó Huntington cho rằng sự hồ hởi của Fukuyama là không phù hợp với thực tế và gây ra ảo tưởng về sự hoà hợp (an illusion of harmony) của nhân loại. Thực tế thì, theo Huntington, cứ sau khi một cuộc chiến lớn kéo dài và đẩm máu kết thúc, người ta đều luôn có khuynh hướng vui mừng và mong đợi một nền hoà bình trong một trật tự vĩnh cữu và phổ quát; người ta đã từng gọi Thế Chiến Thứ Nhất là “ war to end wars”, rồi Roosevelt, sau Đệ Nhị TC cũng đã rất hân hoan nói về “ a universial organization of peace-loving Nations” với một “ permanent structure of peace”; nhưng rồi Chiến Tranh Lạnh lại xảy ra; và chỉ vài năm sau Chiến Tranh Lạnh, nhân loại lại được nghe nói về “ethnic cleansing” ở Nam Tư, rồi chiến tranh ở Bosnia và Kosovo!
Tiếp đến là vụ 9/11; biến cố đã đặt nước Mỹ trước một cuộc chiến hoàn toàn mới, trước đối thủ mới, với hình thái chiến tranh mới, khác hẳn những cuộc chiến trước kia; đòi hỏi những phương lược mới hơn, bao trùm lên tất cả các mặt trận quân sự, chính trị, kinh tế và văn hoá. Cuộc tấn công làm thiệt mạng gần 3000 công dân Mỹ, ngay tại thành phố lớn nhất và cả vào Bộ Quốc Phòng của Hoa kỳ, là một sự kiện không tiền khoáng hậu, gây tổn thất không chỉ về nhân mạng và vật chất mà còn cả về tâm lý và chính trị cho nước Mỹ, vì đó là lần đầu tiên một nước Mỹ được che chắn bởi hai đại dương, đã bị tấn công ngay vào nội điạ. Về nhiều mặt, vụ 9/11 còn hơn cả cuộc tấn công Trân Châu Cảng của Nhật trước đây. Vì New York và Ngũ Giác Đài rõ ràng là quan trọng hơn Trân Châu Cảng, và Nhật là một đại cường mà sự xung đột với Mỹ, vào thời gian 1941, là không tránh khỏi; trong khi đó Al-Qaeda, kẻ chủ mưu của vụ 9/11, chỉ là một tổ chức phi quốc gia và phân tán. Mặt khác, việc bất thần tấn công của Nhật so ra dễ thực hiện hơn. Để thực hiện thành công vụ 9/11, Al-Qaeda đã phải dàn dựng một kế hoạch hết sức tinh vi; từ việc chọn lựa và huấn luyện nhân sự; đến việc tổ chức bảo mật, vấn đề xâm nhập, vấn đề thu thập tình báo và chống tình báo để qua mặt không chỉ CIA, FBI mà cả các cơ quan tình báo đồng minh của Mỹ; vấn đề chọn lựa mục tiêu, chọn lựa phương tiện và thời điểm; vấn đề phối hợp giữa các nhóm hoạt động; vấn đề yểm trợ, v.v…Nội một việc tuyển chọn nhân sự không thôi cũng đủ để khiến Al-Qaeda trở thành một đối thủ đáng sợ: 19 tên khủng bố, đã chết theo 4 chiếc phi cơ trong vụ tấn công đã phải hội đủ những đòi hỏi khó khăn: thông thạo Anh ngữ, có học vấn căn bản vững vàng đủ để học sử dụng được phi cơ thương mãi tối tân, thể lực tốt, thông minh, phản ứng bén nhạy và quan trọng nhất là chấp nhận chịu chết. Những tên khủng bố ấy hơn hẳn các cảm tử quân thông thường ở chỗ là họ hành sự với quyết định chết trong sự tỉnh táo và sáng suốt nhất để lái cho được máy bay vào mục tiêu với mức sát hại đối phương tối đa. Nếu gác bỏ vấn đề đạo lý qua một bên thì so ra Kinh Kha qua sông Dịch ngày xưa cũng không bằng, vì Kinh Kha đã, vì sự thiếu điềm tỉnh của người đồng sự, chém trượt Tần Thuỷ Hoàng; còn những tên khủng bố 9/11 đã đánh chính xác vào mục tiêu dự định, ngoại trừ chiếc thứ tư định chuyển đường bay về White House hoặc Capitol đã bị hành khách can thiệp nên thất bại, không bay được vào mục tiêu.
Cũng có dư luận, sau 9/11, không xem trọng khả năng của Al-Qaeda đến như vậy, mà cho rằng sỡ dĩ cuộc tấn công thực hiện được là vì chẳng qua các cơ quan tình báo Mỹ, do ảnh hưởng của nhóm neo-conservatives, đã cố tình làm ngơ cho bọn khủng bố tiến hành 9/11 để có cớ dấy lên một chiến lược tấn công toàn diện vào Hồi Giáo. Dư luận đó thường được gán cho tên gọi là (Thuyết Âm mưu) Conspiracy theory[5], được một nhân vật tiếng tăm là Jesse Ventura dẩn đầu. Thuyết Âm mưu về vụ 9/11, tuy gây xôn xao, nhưng không trưng dẩn đủ chứng cứ thuyết phục nên dần dà đi vào quên lãng. Hơn nữa, Thuyết Âm mưu đúng hay không, không quan trọng, vì dù sao 9/11 cũng đã gây nên nhiều biến chuyển lớn từ đó đến nay.
Trên bình diện quốc tế, vụ 9/11 khiến chính phủ Mỹ có những thay đổi chiến lược rất quan trọng trên bàn cờ quốc tế, đặc biệt là ở Trung Đông. Trước hết, để tiến hành tấn công Afghanistan, Mỹ đã phải thay đổi thái độ đối với Nga, vì Mỹ cần Nga giúp hai điều quan trọng: một là mượn các phi trường ở Trung Á để chuyển quân và đường bay qua không phận của Nga để vào vùng đó; hai là tin tức tình báo về Liên Minh Phương Bắc ở Afghanistan là lực lượng cho đến lúc đó còn giữ quan hệ với Nga. Vì Afghanistan nằm sâu trong nội điạ, hải cảng gần nhất là Karachi, của Pakistan, nằm trên Ấn Độ Dương, cũng cách xa đến 400 miles. Các pháo đài bay chiến lược B52 có thể bay thẳng đến Afghanistan từ Anh quốc hoặc từ căn cứ Diego Garcia, nhưng các máy bay chiến thuật và trực thăng đổ quân thì lại cần những căn cứ gần hơn. Và những căn cứ gần hơn đó lại ở Trung Á thuộc vùng ảnh hưởng của Nga. Đổi lại Mỹ thôi không qua trung gian của Georgia để tiếp trợ vũ khí nữa cho Chechnya trong việc đòi ly khai khỏi Nga. Về sau này Mỹ cũng đành phải làm ngơ cho Nga “đập” Georgia tơi bời vào năm 2008 vì cái tội dám dựa vào Mỹ để chống lại ảnh hưởng lâu đời của Nga.
Ngoài ra, Mỹ cũng hoà hoãn hơn đối với Iran để được sự ủng hộ của nước này và thu thập tin tức tình báo cần về Afghanistan, vì Iran vẫn còn có quan hệ rất chặt chẻ đối với một bộ phận không nhỏ những người theo hệ phái Shiite ở Afghanistan và cả với vài thành phần khác trong Liên Minh Bắc Phương mà Mỹ đang muốn hợp tác với trong chiến dịch tấn công Afghanistan.
Một sự thay đổi khác rất quan trọng trong chính sách đối ngoại của Mỹ gây ra do vụ 9/11 là mối quan hệ đối với vương quốc Saudi Arabia, vựa dầu lớn nhất thế giới. Ở đây sự thay đổi lại hết sức tinh vi nên ít được biết đến. Chính sách đối với Saudi Arabia thay đổi đơn giản chỉ vì mối quan hệ mật thiết giữa Vương quốc và Al-Qaeda. Về nhân sự thì 15 trong số 19 tên khủng bố 9/11 là người của Saudi Arabia, chưa kể là ngay Osama Bin Laden cũng là người Saudi đã từng có mối liên lạc thân cận với hoàng tộc. Nhưng điều quan trọng hơn là hầu hết các nguồn tài chánh cung ứng cho Al-Qaeda đều đến từ Saudi Arabia. Một sự việc đáng chú ý khác là trước biến cố 9/11 chừng hai tuần thì ông hoàng Turki al Faisal, người chỉ huy cơ quan tình báo của Vương quốc, từng cộng tác chặt chẻ với CIA, đột ngột bị cách chức. Vụ cách chức này đã khiến cho việc điều tra về sau của chính phủ Mỹ về đầu mối Al-Qaeda ở Saudi Arabia đi vào ngõ cụt. Ngoài ra, khác với sự hợp tác nhiệt tình trước kia của vương triều Saudi với chính phủ Mỹ trong việc giúp Mujahideen (phần lớn về sau trở nên thành viên nòng cốt của Al-Qaeda) ở Afghanistan chống lại Liên Xô hồi thập niên 1980s, trong vụ 9/11 Vương triều đổi hẳn thái độ, không tích cực cộng tác trong việc truy lùng Al-Qaeda, bất chấp yêu cầu nhiều lần của chính phủ Mỹ.
Mặc dầu vậy, chính phủ Mỹ của TT Bush đã không gây chiến với Saudi Arabia, vì điều đó không giúp đạt được mục đích chiến lược trong cuộc chiến chống Al-Qaeda. Saudi Arabia là thánh địa của toàn thể Hồi Giáo trên thế giới. Tấn công trực tiếp vào đó là đồng nghĩa với việc chính thức gây ra một cuộc thánh chiến với hơn 1 tỉ tín đồ Hồi Giáo, và đó là cái bẩy mà Al-Qaeda mong muốn cho Mỹ rơi vào khi khiêu khích Mỹ bằng vụ 9/11. Đối sách tối ưu của chính phủ Mỹ là làm thế nào để hoặc vương triều Saudi phải tự nguyện hợp tác với Mỹ chống lại Al-Qaeda, hoặc Saudi Arabia- xét như một chỗ dựa tài chánh chính yếu của Al-Qaeda- phải rơi vào khủng hoảng để rồi chuyển biến theo hướng Mỹ mong muốn mà không cần trực tiếp đổ quân vào. Để thực hiện đối sách đó, Mỹ chọn việc tấn công Iraq.
Chọn lựa việc tấn công Iraq để giải bài toán Saudi Arabia trong cuộc chiến chống Al-Qaeda, đồng thời vẫn duy trì được sự khống chế nguồn dầu hỏa Trung Đông, là một nước cờ rất cao và bí hiểm của giới lãnh đạo Mỹ. Nước cờ này, được phối hợp khéo léo với một số những hoạt động khác, sẽ góp phần tạo ra bối cảnh cho những biến cố hiện nay ở Tunisia, Ai Cập, Bahrain, và Lybia.
Saudi Arabia là vương quốc, tuy có diện tích rộng đến 900,000 dặm vuông, nhưng dân số ít chỉ khoảng gần 26 triệu người, đa số theo hệ phái Sunni-Wahabi, một hệ phái Hồi giáo rất cực đoan. Cho đến đầu thế kỷ 20, Saudi Arabia vẫn còn là một xã hội bộ tộc, phân hoá và lạc hậu. Nếu không nhờ vựa dầu lớn nhất thế giới, với sản lượng chừng 8 triệu tấn, thu gần nửa tỉ dollars/ ngày thì có lẽ không mấy ai biết đến vùng đất khô cằn với đám dân tàn bạo và hiếu chiến này. Abdul Aziz Ibn Saud là vị vua thống nhất được các bộ lạc cát cứ lại thành vương quốc mang tên chính thức là United Kingdom of Saudi Arabia. Ibn Saud là một người nổi tiếng hung tàn và nhiều vợ (hơn 100 bà vợ, 45 con trai và 125 con gái!)[6], đã xử dụng tiền thu được từ dầu hoả và niềm tin tôn giáo để củng cố cho độc quyền cai tri của bộ lạc Saud của Ông. Cũng nhờ dầu hoả mà Saudi Arabia, kể từ thập niên 1930 trở đi được sự che chở hết lòng của siêu cường số một thế giới. Biểu hiện của sự bảo vệ ấy vẫn còn mới: khi Saddam Hussein tấn công Kuwait năm 1991, Mỹ đã vội vàng đáp lời yêu cầu của Saudi đưa quân qua ngăn chận và đánh tan quân Iraq.
Do vị trí điạ lý của mình, Saudi Arabia luôn bị uy hiếp từ Do Thái, Iraq và Iran. Đối thủ sinh tử là Iran vì khác biệt cả chủng tộc lẫn đối địch tôn giáo. Từ lâu Iraq, một quốc gia trộn lẫn cả hai hệ phái Sunni và Shiite, nằm đệm vào giữa, trở thành một trái độn an toàn, che chở cho Arab Saudi khỏi sự uy hiếp trực tiếp của Iran.
Về phần Iraq thì đó là một lãnh thổ trống trải nằm ở giữa 6 quốc gia khác nhau, rất khó phòng thủ. Nhưng ngược lại nếu một cường quốc chiếm được Iraq thì có thể một lúc uy hiếp nhiều nước ở chung quanh: Kuwait, Saudi, Iran, Jordan, Turkey, và Syria. Sự hiện diện của Mỹ ở Iraq, như vậy, không những chỉ làm đứt một mắt xích quan trọng của khối Arab, mà còn uy hiếp cả Saudi Arabia, Syria, và Iran nữa. Trong khi đó một Iraq không còn Saddam Hussein và do người Shiite cầm quyền thì lại khiến ảnh hưởng của Iran, theo hệ phái Shiite, gia tăng và áp lực lên Saudi Arabia nặng nề hơn. Đó là chưa kể việc làm chủ Iraq sẽ dẩn đến việc khống chế sản lượng dầu hoả của nước này, trực tiếp ảnh hưởng đến lượng cung dầu trên thị trường quốc tế, từ đó có thể tạo nên một áp lực kinh tế nặng nề lên Saudi Arabia là quốc gia chỉ sống nhờ dầu hoả. Đối phó với áp lực như vậy, vương triều Saudi bị đặt trước sự lựa chọn: hoặc chấp nhận nguy cơ đối kháng chính trị lớn trong nội bộ để chống lại Al-Qaeda, nhưng được Mỹ bảo vệ; hoặc tiếp tục như hiện nay để tránh xung đột nội bộ thì lại không được Mỹ che chở trước sự uy hiếp của liên minh Shiite Iraq-Iran.
Đến đây một câu hỏi vẫn thường được nêu ra là tại sao Mỹ, năm 1991, không nhân đà chiến thắng của chiến dịch Desert Storm, tiến về Baghdad, chiếm luôn Iraq, mà phải đợi đến năm 2003. Câu trả lời nằm trong việc áp dụng nguyên tắc cổ điển về cân bằng quyền lực thường được siêu cường (hay đế quốc) sử dụng để giữ các nước nhỏ yếu hơn trong thế kìm chế lẫn nhau nhằm duy trì sự ổn định trong một khu vực mà không cần trực tiếp can thiệp. Năm 1991, Saudi Arabia vẫn còn được Mỹ xem là đồng minh cần được bảo vệ, vì vậy Mỹ vẫn muốn Iraq của Saddam đủ mạnh để cân bằng với Iran và che chắn cho Saudi. Đến năm 2001 trở đi thì tình hình lại khác, với những yếu tố mới phát sinh. Yếu tố đầu tiên là Al-Qaeda trở thành kẻ thù chiến lược. Saudi Arabia, do từ chối không hợp tác chống Al-Qaeda, không còn là đồng minh chiến lược nữa, vì vậy không đáng được Mỹ bảo vệ mà trái lại cần phải bị cưỡng chế. Trong khi đó thì Iran, do theo hệ phái Shiite, là kẻ đối địch của Al-Qaeda, nghĩa là có khả năng sẽ là đồng minh của Mỹ chống lại tổ chức cực đoan đó. Nói cách khác là Mỹ, sau vụ 9/11, tìm cách thay đổi thế cân bằng của hai hệ phái Hồi Giáo Sunni và Shiite ở Trung Đông, rồi lợi dụng sự mâu thuẩn của hai bên cho mục đích tiêu diệt kẻ thù chính là Al-Qaeda.
Vậy việc xâm chiếm Iraq của Mỹ tháng 3/2003 là một nước cờ hay. Nhưng chưa hết. Mỹ còn mở một mặt trận khác, phối hợp với việc xâm chiếm Iraq, trong chiến lược chống Al-Qaeda. Mặt trận đó mang một danh xưng rất hiền lành; đó là Greater Middle East Project, hay sau này được sửa lại là New Middle East Project. Đây mới là nguồn chính sách nơi khai sinh ra những biến động vừa qua tại Tunisia, rồi tại Ai Cập, Bahrain, Lybia hiện nay, và có lẽ sẽ còn nhiều nơi khác ở Trung Đông.
Có thể nói rằng Greater Middle East, hay New Middle East Project, là chiến lược thuộc lãnh vực văn hoá, chính trị và kinh tế của cuộc chiến nhắm vào nền tảng xã hội và cơ cấu chính quyền của những quốc gia có, hoặc có thể có, gốc rễ của Al-Qaeda. Ýniệm căn bản, nhìn từ bề ngoài và một cách chính thức, của chiến lược này rất đơn giản: xiển dương Dân Chủ và Tự Do để đẩy lùi sự độc đoán, thù hận và bạo động vốn là những tính chất gắn liền với các tổ chức cuồng tín. TT Bush, trong một bài diễn văn đọc tại National Endowment for Democracy vào hồi tháng 11/2003, đã nói rằng: “As long as the Middle East remains a place where freedom does not flourish, it will remain a place of stagnation, resentment, and violence ready for export.[7] Đó là nhận định, tuy nghe đơn sơ, nhưng khơi mào cho một kế hoạch lớn lao và bao quát hơn về sau, nằm trong chiến lược chung nhằm đẩy lùi, cô lập những khuynh hướng cực đoan, hổ trợ sự lớn mạnh cho những quan điểm ôn hoà và trung dung trong các cộng đồng Hồi giáo; đồng thời tạo ra một hình ảnh mới về nước Mỹ đối với dân cư trong Vùng.
Xuất phát từ nhận định vừa nói, chính phủ Bush đã đỡ đầu cho nhiều dự án nghiên cứu về một chiến lược vận động, cổ suý dân chủ rộng lớn trải dài từ Ma-rốc tới Afghanistan, bao trọn cả vùng Trung Đông ( vì vậy lúc đầu có tên là Greater Middle East). Một trong những cơ quan tư nhân nhận trách nhiệm nghiên cứu là RAND, một think-tank lâu đời, nổi tiếng chuyên về hoạch định chiến lược thế giới. RAND đã đúc kết nghiên cứu của mình thành đề nghị về một chiến lược phức tạp, dựa theo kinh nghiệm của những cuộc cách mạng màu đã diễn ra trước đây ở các nước như Ukraine, Georgia, Kazakhstan,v.v…vận dụng phối hợp các hệ thống truyền thông, các mạng internet, Facebook, Twitter và các phương tiện tin học tối tân khác nhắm vào giới trẻ (theo thống kê có giới trẻ trong hạng tuổi 15-35 chiếm đến hơn 60% dân số trong Vùng), tìm cách huy động khối lượng đông đảo giới này từ các quốc gia:Algeria, Morocco Lybia, Lebanon, Tunisia, Egypt, Bahrain, Syria, Sudan, Yemen,v.v… vào một mặt trận chung, rộng khắp, đứng lên đòi hỏi cho Dân Chủ và Tự Do. Hổ trợ hoặc công khai, hoặc ngấm ngầm cho cuộc vận động rộng lớn đó sẽ là các cơ quan phi-chính phủ (NGOs) như Human Right First, National Endowment for Democracy, Egyptian Center for Women’s Rights,USAID, International Republican Institute, Freedom House, Open Society Institute, v.v…
Đó là chiến lược chung, riêng trong trường hợp Ai Cập thì, theo giáo sư William Engdahl, các cơ quan NGOs đã tài trợ và giúp đỡ kỹ thuật cho một phong trào mang tên Egyptian Movement for Change, hay còn gọi là Kefaya, do Muslim Brotherhood thành lập khoảng năm 2004. Phong trào này khai thác kỹ thuật tin học biến nó thành phương tiện nối kết và huy động chừng 800,000 thành viên trẻ qua interet, blogs, Facebook, Twitter cho mục tiêu vận động Tự Do-Dân Chủ, và quan trọng hơn, tạo ra thay đổi chế độ hiện thời[8]. Xin mở ngoặc ở đây là có nguồn tin cho rằng từ nhiều năm rồi, nhân viên Bộ Ngoại Giao Mỹ đã tiếp xúc với đại diện của Muslim Brotherhood, tổ chức Hồi Giáo lâu nay vốn được xem là cực đoan và chống Tây Phương, từng bị Sadat và Mubarak đàn áp khốc liệt.[9] (Điều này gợi nhớ lại ở Miền Nam VN trước đây vào năm 1963, toà Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn cũng bí mật tiếp xúc và bảo vệ cho một vị lãnh tụ tôn giáo đang chống lại chính phủ lúc đó.)
Một điểm khác đáng chú ý đối với trường hợp Ai Cập; đó là thái độ ôn hoà của quân đội đối với quần chúng biểu tình; một thái độ gây nhiều thắc mắc. Như đã trình bày ở trên, từ năm 1952 đến nay, quân đội là kẻ nắm giữ chính quyền ở Ai Cập, bản thân Mubarak là một sĩ quan cao cấp không quân đi theo nhóm Sĩ quan Tự Do của Nasser. Vậy tại sao trong lúc quần chúng biểu tình đòi Mubarak từ chức thì quân đội lại tỏ ra thân thiện với dân chúng? Có thể suy diễn được câu trả lời khi nhìn vào cơ cấu viện trợ của Mỹ dành cho Ai Cập trong suốt mấy chục năm qua. Trong cơ cấu đó, viện trợ kinh tế ngày càng giảm, nhưng quân viện không hề thay đổi mảy may. Để nhận quân viện như vậy, nhiều thế hệ sĩ quan Ai Cập đã được huấn luyện ở Mỹ, và số lượng sĩ quan được huấn luyện ở Mỹ ngày càng đông; sự thâm nhập và tuyển mộ của CIA vào hàng ngũ các sĩ quan này chắc chắn là càng sâu và càng nhiều. Cũng do đó thành phần sĩ quan trẻ, chịu ảnh hưởng của Mỹ sẽ ngày càng đông hơn số sĩ quan già do Anh-Pháp đào tạo trước đây mà Mubarak là đại diện. Như vậy có thể xuyên qua thái độ của quân đội để hiểu phần nào lập trường của Mỹ đối với biến cố. Hoặc Mubarak là cái bung xung để cho nỗi thống khổ của đa số lớp trẻ và dân nghèo có dịp xả thoát và được xoa dịu, đồng thời để cho mọi sự diễn ra ăn khớp với chiến lược mới trong toàn vùng; hoặc đã đến lúc lớp lãnh tụ già nua trong quân đội Ai Cập trở nên không đắc dụng nữa nên cần được thay thế. Dù thế nào đi nữa thì đám đông biểu tình, tuy có nguyện vọng chính đáng, vẫn vô tình trở thành phương tiện cho siêu cường ở ngoài và tầng lớp thống trị ở trong xử dụng cho một mục đích định sẳn.
Tóm lại, Ai Cập trước sau vẫn thuộc về khối quốc gia thứ ba, nghèo và bị các cường quốc thay nhau chi phối, trước đây đã không hoàn toàn làm chủ được vận mệnh của mình, đến nay tình hình vẫn vậy. Nhìn bề ngoài, việc đám đông quần chúng nổi dậy đòi lật đổ chính phủ để xây dựng Tự Do-Dân Chủ là một sự kiện cao đẹp làm rung động mọi tấm lòng yêu chuộng công lý-bình đẳng ở khắp nơi. Nhưng đó chỉ là biểu tượng, sự vùng dậy của dân chúng trong trường hợp này, tuy do những động cơ chính đáng, đã bị chi phối bởi những yếu tố không mong muốn cả từ bên trong lẫn bên ngoài, nên chỉ trở thành như bọt nước sôi sục ở trên mặt, bị đẩy đưa bởi những động lực khác nằm chìm khuất ở dưới. Không ai chối cãi về nỗi thống khổ và lòng khao khát tự do-dân chủ chính đáng của dân chúng Ai Cập. Vấn đề là ở chỗ nổi thống khổ ấy đã một mặt thì bị lôi cuốn vào trong một chiến lược quốc tế lớn của siêu cường, và mặt kia thì bị lợi dụng bởi sự tham quyền cố vị của giới thống trị bản xứ muốn làm một cuộc đảo chánh nội bộ. Nhiều người đã vội gán cho sự biến động ở Ai Cập là một cuộc cách mạng, quên rằng sự ra đi của Mubarak không hề tạo ra một đảo lộn lớn lao nào đối với chế độ chính trị hiện có, bởi vì quyền lực vẫn ở trong tay quân đội, dù rằng quân đội đó có hứa sẽ thay đổi hiến pháp, giải tán và bầu quốc hội mới trong vòng 6 tháng. Nhưng bằng vào hiện tình kinh tế của Ai Cập, vào tình hình hiện nay trong khu vực, và vào việc quân đội đã chỉ biết sống lệ thuộc vào ngoại viện suốt 30 năm qua thì liệu có tin được rằng những hứa hẹn ấy sẽ được thực hiện đúng với tinh thần của nó? Thật đáng ngờ! Có lẽ nhiều lắm thì giới cầm quyền mới, do sự đạo diễn kín đáo ở đằng sau, sẽ tỏ ra ít độc đoán hơn ở những vấn đề thứ yếu, một số những tự do và nhân quyền căn bản có lẽ sẽ được tôn trọng hơn, cũng có lẽ sẽ có cả chính phủ dân sự nữa, miễn sao tất cả những thay đổi ít ỏi đó không gây thay đổi bất lợi cho ảnh hưởng của siêu cường mà lại phục vụ được cho mục đích chính là triệt tiêu, hay chí ít vô hiệu hoá, các khuynh hướng cực đoan, khuyến khích và hổ trợ cho khuynh hướng Hồi giáo ôn hoà. Nhưng chung quy sẽ không có cái gọi là cách mạng (revolution), hiểu theo nghĩa là một sự thay đảo lộn, thay đổi tận gốc rễ (radical change), và quyền lực quốc gia vẫn nằm trong tay của giới thống trị hiện nay, tức của quân đội.
Mặt khác, biến cố Ai Cập chỉ là một phần, như đã nói, của một chiến dịch rộng lớn hơn của siêu cường đối với Trung Đông. Sau Tunisia, đến Ai Cập, và nay thì đang diễn ra ở Bahrain và ở Lybia. Diễn biến như vậy rõ ràng là rơi vào đúng kế hoạch vạch ra từ nhiều năm về trước trong Greater (or New) Middle East Project. Bahrain thì sát ngay sau lưng của Saudi Arabia và những biến động ở đó chắc chắn sẽ gây những chấn động lớn vào Saudi Arabia. Trong những ngày này giới truyền thông bắt đầu loan tin về sự phân rẽ giữa vương triều Saudi và chính phủ Obama; ngay cả còn có tin đồn rằng vua Abdullah, tám mươi mấy tuổi, suýt nữa bị heart attack. Trước đó ông vua này đã lên tiếng công kích chính sách của Mỹ đối với Mubarak và tuyên bố sẳn sàng giúp Ai Cập trám vào lỗ hổng tài chánh nếu như bất thần Mỹ cắt quân viện cho nước này[10].
NGHĨ VỀ DÂN CHỦ CHO VIỆT NAM
Hầu hết dư luận của người Việt đều liên tưởng đến vấn đề Dân Chủ cho Việt Nam khi theo dõi những biến động vừa rồi ở Ai Cập. Đó là một biểu hiện tình cảm rất tự nhiên, vì ai ai cũng mong ước cho Quê hương có được một chế độ chính trị tốt hơn, trong đó quyền lực thuộc về toàn dân, dân quyền và nhân quyền được tôn trọng, xã hội có văn hoá và công bằng, nhân dân ấm no và Đất Nước hùng cường.
Nhưng có lẽ điều cần thiết để có một sự liên tưởng đúng và hữu ích là phải kiên trì tìm hiểu cặn kẻ và nắm bắt đúng bản chất của biến cố cũng như của mối quan hệ quốc tế tạo nên bối cảnh của biến cố đó. Ngược lại, nếu chỉ dừng lại ở bề mặt và chỉ bằng lòng với những gì hệ thống truyền thông Anh-Mỹ: CNN, Foxnews, Bloomberg, MSNBC, Newyork Times, Washington Post, BBC, v.v… mớm cho hằng ngày thì e rằng sẽ chỉ thấy hiện tượng mà không đào sâu được vào bản chất, và vì vậy sẽ có những liên tưởng không mấy thích hợp và kém hữu ích cho việc vận động Dân Chủ cho Quê hương.
Do lòng khao khát Tự Do-Dân Chủ mãnh liệt, lâu nay chúng ta đã cùng nhau đề cập và hô hào nhiều cho những giá trị cao quý đó; đến độ mấy chữ Dân Chủ-Đa Nguyên-Đa Đảng gần như trở thành một thứ kinh nhật tụng của nhiều người và của nhiều cây bút tiếng tăm, cả ở trong Nước lẫn hải ngoại. Tiếc rằng, hầu như đa số chúng ta chỉ dừng lại ở thềm ngoài của những giá trị đó mà chưa có nhiều cố gắng để đi vào sâu hơn, ít nhất là trên phương diện nghị luận, để phân tích và từ đó hiểu thấu đáo hơn về chế độ DC, để có những chuẩn bị và vận động thích hợp.
Chẳng hạn, hầu như chưa có bao nhiêu thảo luận nghiêm chỉnh và sâu xa về mối quan hệ giữa Dân Chủ và Văn hoá. Ở các nơi trên thế giới, mối quan hệ này đã được đề cập đến rất nhiều.Mỗi dân tộc, mỗi quốc gia có một nền văn hoá riêng và chính do mối tương quan giữa Dân chủ-Văn hoá mà phát sinh nhiều hình thái dân chủ khác nhau. Sự hô hào về dân chủ của chúng ta lâu nay tạo một một ấn tường rằng dường như có một giá trị Dân Chủ phổ quát phù hợp cho mọi người, và từ đó sẽ có một hình thái dân chủ chung cho mọi dân tộc trên thế giới. Thực tế cho thấy không phải vậy. Chỉ cần nhìn lướt qua các chế độ dân chủ ở Nhật, Đài Loan, Nam Hàn và rồi so với ở Úc, Tân Tây Lan, Canada, v.v… là sẽ thấy ngay những khác biệt. Những khác biệt ấy, ngoài những yếu tố khác, quan trọng nhất vẫn là do sự khác nhau về văn hoá mà ra. Điểm quan trọng ở đây là nếu không hiểu sâu sắc được mối tương quan dân chủ-văn hoá thì sẽ không tìm được kiến giải thích hợp cho sự nghiệp xây dựng dân chủ sau này. Tiếc rằng đây là lãnh vực nghị luận cho đến nay vẫn chưa được sự chú ý đúng mức của các bậc thức giả.
Một dẫn chứng khác nữa là về mối quan hệ giữa dân chủ và địa lý-lịch sử. Nền dân chủ Mỹ đạt đến cực thịnh như ngày nay ít nhiều cũng nhờ vào những ưu điểm về địa lý: được che chở bởi hai đại dương, không phải chia chung biên giới vói một cường quốc nào, và tài nguyên vô cùng phong phú. Liệu Việt Nam, ở sát nách Trung Quốc khổng lồ và chuyên đoán, có thể xây dựng dân chủ yên ổn như Đài Loan hay Singapore chăng? Không những là áp lực bên ngoài từ Trung Quốc thôi, mà ngay cả từ bên trong; chúng ta chắc không ai không nhớ đến sự khống chế của Hoa kiều Chợ lớn đối với kinh tế Sài Gòn và vựa lúa đồng bằng sông Cửu Long trước đây, và từ đó họ đã ảnh hưởng đến các chính khách Miền Nam như thế nào. Vậy nhưng lâu nay có bao nhiêu người trong chúng ta đi sâu nghiên cứu về mối tương quan vừa nói, quan tâm đến ảnh hưởng của vị trí địa lý VN trong việc vận động DC?
Nhiều ngòi bút tiếng tăm cũng không ngừng tụng Dân Chủ-Đa đảng. Nhưng về đề tài này cũng vậy, rất ít thấy các bậc thức gỉa đưa ra được những nghiên cứu nghiêm túc về chính đảng, giải đáp thỏa đáng những câu hỏi, tưởng đơn giản, như chính đảng là gì, các điều kiện cần thiết nào về cơ cấu kinh tế-xã hội phải có để khai sinh chính đảng, và những điều kiện ấy hiện đã tiềm tàng ở VN như thế nào, v.v…? Sự hiểu biết thực tế của đa số chúng ta về chính đảng, sự hình thành và vai trò của nó, có phần hời hợt, nhiều người ngay cả không chú ý phân biệt giữa chính đảng, tổ chức quần chúng và đoàn thể xã hội, hay hội đoàn. Trong thư viện của Miền Nam trước đây, chỉ có một quyển sách nhỏ của một cố giáo sư biên khảo về lịch sử các đảng phái chính trị VN, và đó cũng chỉ là một công trình đơn sơ nhằm tìm hiểu lịch sử và vai trò của các chính đảng VN trong bối cảnh lịch sử của những thập niên 1930-1960. Ngoài quyển sách đó ra, lâu nay cả ở trong Nước, lẫn ở hải ngoại, chưa hề thấy có một công trình nghiên cứu nào khác liên quan đến vấn đề chính đảng trong xã hội VN. Tất nhiên việc thực tiễn đi trước lý luận là thường tình, nhưng vấn đề nổi rõ ở đây là khuynh hướng ưa hô khẩu hiệu mà thiếu phân tích sâu xa của chúng ta đối với những đề tài quan trọng của đất nước.
Điểm nữa, thiết nghĩ cũng cần lưu ý khi suy ngẫm về vận động Dân chủ cho VN. Đó là tính cách thực tế của cuộc vận động. Không thể vận động mà không thừa nhận thực trạng của Đất Nước, cho dù đó là thực trạng không mong muốn. Thực trạng đó là đảng CS, một lực lượng hơn 3 triệu người với tổ chức hết sức chặt chẻ, đã tồn tại 80 năm trên Quê hương, và đang cầm quyền. Lực lượng ấy nên được xem là đối tượng quan trọng đầu tiên của cuộc vận động DC. Thử hình dung rằng nếu ý thức dân chủ của đa số đảng viên CS được nâng lên, và các đại hội toàn quốc của đảng không còn theo nguyên tắc dân chủ tập trung, tức là từ trên xuống, mà ngược lại từ dưới lên, rồi thành viên Ban Chấp Hành TU thật sự biết thực thi quyền hạn của mình để chọn lựa đúng Uỷ viên BCT, và không những thế có quyền bãi miễn đối với Uỷ viên BCT bất xứng, thì hậu quả sẽ thế nào đối với xã hội? Một tình huống như thế xảy ra trong nội bộ đảng CS chắc chắn rất có lợi cho cuộc vận động DC chung cho cả Nước. Tình huống đó không phải chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng hay của lòng mong ước, và không có hy vọng xảy ra. Tỉ lệ đảng viên trẻ hiện rất cao, và khác với lớp đảng viên tiền bối, lớp đảng viên trẻ hiện nay tiếp xúc nhiều với Tây Phương, và ngay cả du học ở Mỹ. Một chiến lược vận động Dân Chủ đúng đắn, biết đặt quyền lợi tối thượng của Tổ Quốc lên trên hết, ngoài các mục tiêu quan trọng khác, nên quan tâm nhắm đến các đảng viên CS. Lâu nay, dường như chúng ta, khi hô hào vận động DC, đã mặc nhiên loại trừ toàn thể đảng viên đảng CSVN ra ngoài. Liệu như vậy có đúng không? Có xa rời thực tế không khi nhìn lại những trường hợp như tướng Trần Độ, hay ông Trần Xuân Bách?
Cuối cùng, Dân Chủ không phải là một món hàng có thể đem xuất cảng ra ngoài hoặc nhập cảng từ ngoài vào. Dân Chủ trước hết là vấn đề tự ý thức của mỗi dân tộc, và là vấn đề nội bộ của mỗi quốc gia. Sẽ không thể nào có dân chủ thật sự trong một nước khi đa số các thành viên của quốc gia đó chưa thức tỉnh để có ý thức đầy đủ về bổn phận và trách nhiệm của mỗi người đối với vận mệnh chung của xứ sở mình. Và vì mỗi dân tộc, mỗi quốc gia có những điều kiện địa lý, lịch sử,văn hoá, kinh tế, xã hội và nhân văn riêng nên dân chủ ở mỗi quốc gia là một nét đặc thù, chỉ phù hợp với chính quốc gia đó và những quyền lợi của nó. Vì những lý do đó, không nên nằm mơ để mong đợi rằng có một ngày đẹp trời, một thế lực bên ngoài nào đó sẽ tìm đến VN, lật đổ ách độc tài và “nhập cảng” Dân Chủ vào cho dân tộc Việt. Cùng nói đến Dân Chủ, nhưng nội dung bao hàm hoặc mục tiêu nhắm đến sẽ hoàn toàn khác nhau, đôi khi đến độ đối kháng nữa, giữa chính sách của một siêu cường và nguyện vọng của một dân tộc địa phương. Biến động đang diễn ra ở Ai Cập, Tunisia, Bahrain, Lybia là một bằng chứng hùng hồn cho điều vừa nói. Trong các biến động đó cả siêu cường lẫn những người dân ở các quốc gia liên quan đều nói về Dân Chủ, Tự Do và Bình Đẳng, nhưng dụng ý và mục tiêu của các bên không trùng lặp với nhau. Đối với người dân thì là để thoát khỏi ách độc tài, để được thoả mãn những nguyện vọng về tự quyết, và để có một xã hội công bằng hơn; nhưng đối với siêu cường thì là để dễ dàng xen vào nội bộ quốc gia khác nhằm gây những ảnh hưởng có lợi cho mình, là để thay đổi một chế độ chính trị theo hướng mình muốn, và là để thành tựu những mục tiêu chiến lược định trước trong nổ lực duy trì vị thế bá chủ của mình. Thiết nghĩ, đó là sự phân biệt mà người vận động DC nên luôn lưu tâm khi quan sát thời sự quốc tế rồi liên tưởng đến hoạt động của mình.
2/20/2011
© Trương Đình Trung
© Đàn Chim Việt Online
[3] http://www.connectusfund.org/blogs/understanding-us-aid-egypt-rebecca-williams-and-mary-kaszynski.
[6] Posner, Gerald. Secrets of the Kingdom. Random House, 2005
[10] http://fellowshipofminds.wordpress.com/2011/02/10/deep-us-saudi-rift-over-egypt-abdullah-stands-by-mubarak-turns-to-tehran/
Sách tham khảo:
George Friedman, Amercia’s secret war, Anchor Book, New York, 2004
George Friedman, the Next Decade, Doubleday, New York, 2011.
Francois Massoulie, Middle East Conflicts, Interlink Books, New York, 1999.
Samuel P. Huntington, The Clash of Civilizations, Simon &Schuster, 2003