Thứ Sáu, 9 tháng 9, 2011

Quản lý dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài ở Việt Nam năm 2010 và triển vọng

(Tamnhin.net) - Năm 2010, nhu cầu tìm kiếm nguồn vốn trên TTCK (thị trường chứng khoán) bất ngờ tăng mạnh cả từ phía ngân hàng, cũng như từ phía doanh nghiệp. Khu vực doanh nghiệp cần nhiều vốn bổ sung từ TTCK do khó tiếp cận được nguồn vốn vay ngân hàng ngày càng trở nên đắt đỏ và hạn hẹp trước sự gia tăng mạnh cả chỉ số lạm phát, lãi suất huy động và lãi suất cho vay của ngân hàng thương mại.

Tình hình thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2010 và triển vọng năm 2011

Mặt khác, việc tăng cường kiểm soát về hệ số an toàn tài chính đối với các ngân hàng thương mại từ NHNN thông qua các Thông tư 13/2010/TT-NHNN và Thông tư 19/2010/TT-NHNN khiến cho hệ số sử dụng vốn và khả năng cấp tín dụng của ngân hàng đối với nền kinh tế bị giảm sút đáng kể. Ngoài ra, với áp lực lãi suất vay quá cao, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh khó đáp ứng mức lợi suất đầu tư cao để cân đối chi phí vốn và lãi kinh doanh, do vậy huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu để đáp ứng vốn kinh doanh sẽ là cách làm tốt nhất vì không bị áp lực về lãi suất cao (chỉ trả cổ tức cho cổ đông nếu doanh nghiệp làm ăn có lãi). Các ngân hàng thương mại cũng quan tâm đến TTCK vì chịu áp lực tăng vốn để đáp ứng yêu mức vốn pháp định là 3.000 tỷ VND theo Nghị định 141/2006/NĐ-CP.

Năm 2010, TTCK Việt Nam có một số động thái đáng chú ý sau:

Thứ nhất, mức vốn hóa thị trường có tăng, nhưng thanh khoản của thị trường thấp hơn năm 2009. Tổng giá trị vốn hóa thị trường của 623 công ty niêm yết trên các SGDCK (sàn giao dịch chứng khoán) là 726.000 tỷ đồng, chiếm 39% GDP năm 2010, tăng khoảng 1,7% so với mức vốn hóa thị trường năm 2009.

Thứ hai, số lượng các trung gian tài chính không tăng, nhưng tổng mức vốn điều lệ các công ty gia tăng đáng kể. Thị trường hiện có 105 công ty chứng khoán với tổng vốn điều lệ là 33.300 tỷ đồng, tăng 1,3 lần so với năm 2009; 47 công ty quản lý quỹ, với tổng vốn điều lệ là 2.100 tỷ đồng, quản lý tổng tài sản trên 100.000 tỷ đồng, trong đó có 23 quỹ đầu tư với tổng vốn điều lệ là 13.300 tỷ đồng.

Thứ ba, số lượng tài khoản giao dịch chứng khoán của nhà đầu tư gia tăng mạnh, đạt 1,1 triệu tài khoản, tức tăng 126% so với 793.000 tài khoản năm 2009. Trong đó, số lượng tài khoản nhà đầu tư nước ngoài khoảng 15.000 tài khoản và góp phần đáng kể trong giao dịch dẫn dắt thị trường.

Từ áp lực của việc cắt giảm nguồn hỗ trợ lãi suất ưu đãi trong năm 2009, các doanh nghiệp còn khó khăn hơn khi hệ thống ngân hàng siết chặt cấp tín dụng, đặc biệt là tín dụng bất động sản và cho vay đầu tư chứng khoán, kiểm soát và thu hồi các khoản đầu tư tài chính vượt quá giới hạn an toàn, làm cho tổng mức dư nợ tín dụng toàn nền kinh tế xuống thấp (khoảng 19%) so với tổng mức dư nợ tín dụng năm 2009 là 37%. Với mục tiêu kiểm soát tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống là 25%, đồng nghĩa với hạn chế cấp vốn vay ngân hàng cho nền kinh tế và khu vực doanh nghiệp, điều đó có nghĩa là các doanh nghiệp phải tự cân đối nguồn vốn thông qua TTCK.

Với các áp lực tìm kiếm nguồn vốn của doanh nghiệp nói trên, nên có thể nói rằng mặc dù năm 2010 nền kinh tế có nhiều khó khăn, nhưng việc huy động vốn của các doanh nghiệp qua TTCK lại có mức tăng trưởng đáng kể. Tổng mức huy động vốn qua TTCK trong năm 2010 (đấu giá cổ phần hóa; phát hành tăng vốn; phát hành trái phiếu) khoảng 116.000 tỷ đồng (trong đó riêng số lượng cổ phiếu phát hành khoảng 33.000 tỷ đồng), tăng gần 3 lần so với mức huy động của cả năm 2009 là 39.000 đồng và năm 2008 là 29.000 tỷ đồng (năm 2007, do TTCK tăng trưởng mạnh nên kỷ lục huy động vốn qua TTCK đạt 127.000 tỷ đồng).

Nhà đầu tư nước ngoài tham gia TTCK Việt Nam đóng góp phần đáng kể vào tỷ lệ sở hữu trong các công ty cổ phần Việt Nam và nắm giữ khối lượng trái phiếu Chính phủ phát hành, góp phần tạo tính thanh khoản trên thị trường. Nhìn chung, các dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài qua TTCK chủ yếu được đầu tư thông qua các định chế quỹ đầu tư chuyên nghiệp và một số nhà đầu tư cá nhân. Trong đó, nhiều quỹ đầu tư được lập tại các vùng “thiên đường thuế” như Cayman; Brirtich Island…đầu tư với cơ chế hưởng lợi từ các chính sách ưu đãi thuế và năng động trong việc đầu tư, giải ngân vốn, nên chu chuyển dòng vốn vào ra khỏi Việt Nam khá phức tạp.

Tài khoản nhà đầu tư qua các năm
 
Năm
Cá nhân trong nước
Tổ chức trong nước
Cá nhân nước ngoài
Tổ chức nước ngoài
Tổng
2007
303.190
800
7.949
200
312.139
2008
517.463
2.003
11.465
497
513.428
2009
807.558
2.662
12.067
627
822.914
2010
1.038 730
3.468
13.035
800
1.056 027
Nguồn: UBCKNN-BTC

Năm 2010, giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài thể hiện lượng mua ròng qua các tháng, đặc biệt là các tháng vào cuối năm, đưa tổng lượng mua ròng cả năm khoảng 15.000 tỷ đồng, gấp 5 lần 2009. Mặc dù có nhiều biến động trong năm, dẫn đến nhà đầu tư nước ngoài đẩy mạnh cơ cấu lại danh mục đầu tư vào các nhóm cổ phiếu lớn trên thị trường. Tuy nhiên, khác với những năm trước lượng vốn thường được rút ra khỏi Việt Nam, thì cả năm 2010 tổng mức vốn thuần vào Việt Nam khoảng 1,1 tỷ USD.

Giá trị danh mục đầu tư hiện thời vào cuối năm 2010 của nhà đầu tư nước ngoài vào khoảng 6,5 tỷ USD, trong đó tỷ trọng cổ phiếu và chứng chỉ quỹ đầu tư chiếm khoảng 78,2%, trái phiếu khoảng 10% và giá trị số dư tiền gửi khoảng 5,3%.

Nhìn chung, diễn biến dòng vốn đầu tư nước ngoài trong năm 2010 không mấy phức tạp, tổng lượng vốn vào ra, kết dư thuần trên 1,1 tỷ USD cho thấy dòng vốn nước ngoài đang có xu hướng vào TTCK Việt Nam. Tuy nhiên, xét tương quan với dòng vốn vào các quốc gia trong khu vực Đông Á thì dòng chảy vào Việt Nam khá thấp.

Với những biến động của kinh tế vĩ mô trong năm 2011 cho thấy TTCK Việt Nam năm 2011 sẽ có nhiều khó khăn nhất định do các nhà đầu tư lo ngại từ các chính sách kinh tế vĩ mô của Việt Nam (đặc biệt là chính sách tiền tệ) trong cộng đồng nhà đầu tư nước ngoài khá lớn. Đặc biệt là trong 2 tháng đầu năm 2011 khi NHTW thực hiện chính sách phá giá VND so với USD thì lượng tài sản đầu tư “mất đi” của các quỹ đầu tư ước tính khoảng 324 triệu USD.

Một vấn đề lo ngại khác tác động tới tâm lý nhà đầu tư nước ngoài đó là yếu tố lạm phát và thâm hụt cán cân thương mại và cán cân thanh toán quốc tế, trong điều kiện dự trữ ngoại hối mỏng (nếu xem xét trên số tuần nhập khẩu thì hiện nay quá thấp) gây bất ổn cho khu vực doanh nghiệp (đặc biệt là lĩnh vực xuất khẩu của VN chiếm tỷ trong khoảng 70% vào tăng trưởng GDP). Vì vậy, dòng vốn đầu tư nước ngoài trong thời gian tới sẽ có dấu hiệu chậm lại.

Vấn đề khác quan ngại hơn tác động đến dòng chảy vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài có gốc xuất phát từ đầu tư trực tiếp. Việt Nam khá thành công trong thu hút các dòng vốn FDI trong hơn 20 năm qua và chúng ta đã có những nới lỏng nhất định về dịch chuyển bản chất các dòng vốn đầu tư nước ngoài. Đối với các doanh nghiệp FDI chuyển đổi sang công ty cổ phần (thực hiện theo Nghị định 38/2003/NĐ-CP của Chính phủ về thí điểm chuyển đổi các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sang công ty cổ phần) thì sau khi chuyển đổi bên nước ngoài phải duy trì tỷ lệ nắm giữ tối thiểu 30% vốn điều lệ trong suốt quá trình hoạt động của doanh nghiệp.

Khi doanh nghiệp FDI chuyển đổi sang công ty cổ phần thì việc niêm yết cổ phiếu chỉ giới hạn trong phạm vi phần cổ phiếu chào bán ra công chúng (không niêm yết phần cổ phiếu nắm giữ của cổ đông sáng lập khi chuyển đổi). Tuy nhiên, khi Chính phủ ban hành Nghị định 101/2006/NĐ-CP, ngày 21/9/2006 của Chính phủ quy định việc đăng ký lại, chuyển đổi và đăng ký đổi Giấy chứng nhận đầu tư của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo quy định của Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư (thay thế cho Nghị định 38/2003/NĐ-CP), thì không ràng buộc việc nắm giữ cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài (ngoại trừ doanh nghiệp FDI chuyển đổi muốn được tiếp tục hưởng ưu đãi đầu tư thì bên nước ngoài phải nắm giữ tối thiểu 30% vốn điều lệ).

Ngoài ra, tại Quyết định 55/2009/QĐ-TTg có quy định nhà đầu tư nước ngoài được phép nắm giữ tối đa 49% vốn điều lệ của công ty đại chúng. Quyết định 55/2009/QĐ-TTg không đề cập đến doanh nghiệp FDI chuyển đổi nên khi các doanh nghiệp này chuyển đổi sang công ty cổ phần thì sẽ hoạt động theo Luật Doanh nghiệp như bất kỳ một công ty cổ phần nào. Lúc này, việc niêm yết và mua bán chuyển nhượng giữa nhà đầu tư trong nước và nước ngoài không có rào cản nào để kiểm soát và yêu cầu các sáng lập nước ngoài có trách nhiệm lâu dài với doanh nghiệp họ lập tại Việt Nam.

Trên thực tế, các doanh nghiệp FDI khi chuyển đổi sang công ty cổ phần thường có tỷ lệ nắm giữ bên nước ngoài khá cao (từ 60-80%), tuy nhiên khi hết thời hạn ràng buộc 3 năm họ đều có xu hướng bán ra để về ngưỡng dới 49% theo quy định của pháp luật, điều này không khác gì chúng ta khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài “thoái vốn” trong các doanh nghiệp mà ho đã sáng lập và hoạt động trước đây. Trong khi đó, chúng ta thấy doanh nghiệp FDI có khá nhiều vấn đề trong hạch toán kế toán và huy động vốn trên TTCK Việt Nam.

Hiện tại, các định chế đầu tư chuyên nghiệp (công ty chứng khoán) có dấu hiệu thoái lui thị trường để chuyển sang các lĩnh vực đầu tư khác có sinh lời cao hơn và ít bị kiểm soát hơn (bất động sản; xây dựng công trình; khái thác tài nguyên…), do đó lo ngại về dòng chảy vốn đầu tư nước ngoài cũng là một vấn đề đặt ra. Tuy nhiên, chúng ta thấy dòng vốn vào Việt Nam không nhiều và trong bối cảnh tình hình quốc tế cũng có nhiều biến động, sự hồi phục của kinh tế toàn cầu và các quốc gia đầu tàu (Mỹ; Nhật; EU) cũng sẽ chậm lại, do đó việc rút vốn khỏi VN sẽ không lớn.

Mặt khác, việc rút vốn khỏi VN cũng không đơn giản, vì tính thanh khoản của thị trường VN khá thấp, mức giá P/E hiện nay so với khu vực là rất thấp và nếu để lâu dài cơ hội sinh lời khá cao. Ngoài ra, khoảng 2/3 danh mục đầu tư do các quỹ đóng nắm giữ nên sức ép thanh lý sẽ thấp hơn các quỹ mở. Nên sức ép rút vốn không cao, nếu có chủ yếu là rút từ trái phiếu Chính phủ (có độ thanh khoản cao) và số dư dòng tiền trên tài khoản gửi ngân hàng chưa đầu tư. Với dự trữ ngoại hối hiện nay và dòng kiều hối khá cao thì mức cân đối như vậy có thể chúng ta sẽ kiểm soát được.
(Còn tiếp)

ThS. Nguyễn Tấn Hoằng
Viện nghiên cứu phát triển KT-XH Hà Nội-Quản lý dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài ở Việt Nam năm 2010 và triển vọng


--TLQ:
Quản lí đầu tư công như thế nào cho hiệu quả ?
Đằng sau con số 6.000 doanh nghiệp phá sản (06/9/2011) --
- Thanh tra Vinalines sau tuyên bố lỗ (DT).

-Khi NHNN siết lại kỷ cương (04/9/2011)
-- TS Trần Đình Thiên: “Áp lực tái cấu trúc nền kinh tế đang rất lớn” (Bee).- Tái cấu trúc nền kinh tế: Áp lực đang rất lớn  (Stox) -
 

Tổng số lượt xem trang