Bài viết của ông Trần Gia Phụng lại là câu trả lời cho bài phỏng vấn ông Lê Xuân Khoa về con đường hòa giải. Liệu có thể cùng với ĐCS chống Tầu trước và sau đó mới hòa giải không vì theo ông Lê Xuân Khoa thì khi đó ĐCS đã khác?Vào cuối tháng Tư vừa qua, trong và ngoài nước xuất hiện một số bài báo đề cập đến vấn đề hòa giải quốc cộng sau khi chiến tranh đã kết thúc 40 năm. Chuyện nầy chẳng có gì mới mẻ, cũng đã từng diễn ra năm 1945. Vì vậy, xin hãy cùng nhau ôn lại chuyện hòa giải quốc cộng 70 năm trước để rút kinh nghiệm cho tương lai.
Cách đây 70 năm, mặt trận Việt Minh (VM) thuộc đảng Cộng Sản Đông Dương (CSĐD) cướp được chính quyền. (Nhóm chữ “cướp chính quyền” là chữ do cộng sản đưa ra.) Ngày 2-9-1945, Hồ Chí Minh, lãnh tụ của đảng CSĐD, tuyên bố độc lập và ra mắt chính phủ lâm thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Gần 10 ngày sau, Trung ương đảng CSĐD họp tại Hà Nội ngày 11-9-1945 đưa ra nguyên tắc căn bản là đảng CSĐD nắm độc quyền điều khiển mặt trận VM và một mình thực hiện cách mạng. (Philippe Devillers, Histoire du Viêt-Nam de 1940 à 1952, Editions Du Seuil, Paris 1952, tr. 143.) Đảng CSĐD nắm độc quyền VM, mà VM đang nắm chính quyền, cai trị đất nước; nghĩa là đảng CSĐD độc quyền cai trị đất nước.
Dầu Hồ Chí Minh, VM và đảng Cộng Sản Đông Dương (CSĐD) quyết ra tay nhanh chóng để tạo ra tình trạng chính trị đã rồi, nhưng các cường quốc không thừa nhận chính phủ Hồ Chí Minh và vẫn thi hành giải pháp do tối hậu thư Potsdam đưa ra ngày 26-7-1945, theo đó việc giải giới quân đội Nhật tại Đông Dương ở bắc vĩ tuyến 16 do quân đội Trung Hoa (Quốc Dân Đảng) phụ trách và ở nam vĩ tuyến 16 do quân Anh phụ trách. Giải pháp nầy không đề cập đến việc sau khi quân đội Nhật bị giải giới, ai sẽ cai trị Đông Dương, tạo ra một khoảng trống chính trị và hành chánh ở Đông Dương.
Việt Minh Cộng sản gặp khó khăn
Khoảng 200,000 quân Trung Hoa do các tướng Lư Hán và Tiêu Văn lãnh đạo tiến vào Hà Nội từ giữa tháng 9-1945. Cũng trong thời gian nầy, quân Anh đến Sài Gòn do tướng Douglas Gracey chỉ huy. Nhờ sự giúp đỡ của người Anh, vào đầu tháng 10-1945, quân Pháp do tướng Leclerc cầm đầu đổ bộ khá đông ở Nam Kỳ và uy hiếp các lực lượng VM.
Tại miền Nam, VM rất lúng túng trước việc quân Pháp càng ngày càng mở rộng vùng kiểm soát, dồn VM vào thế co cụm và lẫn tránh vào các vùng bưng biền. Tại miền Bắc, Hồ Chí Minh và mặt trận VM cũng khó khăn không kém, gặp ba áp lực cùng một lúc. Đó là: 1) Theo tối hậu thư Potsdam, 200,000 quân Trung Hoa vào Việt Nam giữa tháng 9-1945. 2) Các lãnh tụ Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội (Việt Cách) và Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ) từ Trung Hoa trở về Việt Nam sau thế chiến thứ hai, quyết liệt chống đối Hồ Chí Minh và mặt trận VM. 3) Sau khi tái chiếm miền Nam, người Pháp tiến quân từ nam ra bắc, dự tính tái chiếm toàn bộ Đông Dương. Lúc đó, VM chỉ có khoảng từ 2,000 đến 5,000 đảng viên cộng sản. (Philippe Devillers, sđd. tr. 182.)
Khi mới nổi lên cướp chính quyền, Hồ Chí Minh và VM cộng sản đã giết nhiều người không theo VM như đảng viên các đảng phái ở Hà Nội, nhóm bảo hoàng ở Huế, nhóm Đệ tứ quốc tế ở Sài Gòn… Nay vì khó khăn mới, Hồ Chí Minh và VM thực hiện một kế hoạch hai mặt. Bề ngoài, VM tỏ ra hòa hoãn, nói chuyện với tất cả các phe phái, kêu gọi lòng yêu nước, đoàn kết và liên hiệp để cùng nhau chống ngoại xâm. Bề trong, VM thực hiện các cuộc khủng bố ngầm, thủ tiêu lẻ tẻ những địch thủ chính trị và đe dọa những ai không theo VM.
Khi cùng với Tiêu Văn, từ Quảng Châu về Việt Nam, Nguyễn Hải Thần, lãnh tụ Việt Cách, liên lạc và hội họp với Jean Sainteny, đại diện Pháp ở Bắc Kỳ ngày 12-10 và 15-10-1945 tại Hà Nội, để thảo luận về tương lai chính trị Bắc Kỳ. Thấy thế, ngày 23-10-1945, Hồ Chí Minh liền mời Nguyễn Hải Thần họp tay đôi giữa hai bên, và ký thỏa thuận hợp tác giữa VM và Việt Cách.
Để gây lòng tin nơi các đảng phái theo chủ nghĩa dân tộc, nhất là các tướng lãnh Trung Hoa Quốc Dân Đảng đang có mặt ở Hà Nội, Hồ Chí Minh tuyên bố giải tán đảng CSĐD ngày 11-11-1945 và thành lập Hội Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Mã Khắc Tư [Mác-xít] do Trường Chinh (Đặng Xuân Khu) làm tổng thư ký. Tuy vậy, theo lời Hồ Chí Minh “dù là bí mật, đảng [CSĐD] vẫn lãnh đạo chính quyền và nhân dân.” (Hồ Chí Minh toàn tập, [tập 6], xuất bản lần thứ hai, Hà Nội: Nxb. Chính Trị Quốc Gia, 2000, tr. 161.)
Trong khi đó, ngày 6-11-1945, Vũ Hồng Khanh, lãnh tụ VNQDĐ về lại Hà Nội. Ngày 8-11-1945 Nguyễn Hải Thần đòi thành lập một chính phủ liên hiệp. Đòi hỏi nầy phù hợp với ý muốn của các tướng lãnh Trung Hoa vì trước khi Lư Hán qua Việt Nam, Hoa Kỳ gây ảnh hưởng để Tưởng Giới Thạch bắt tay với Mao Trạch Đông. (T.E. Vadney, The World Since 1945, London: Penguin Books, 1987, tr. 121.) Ngày 14-8-1945, chính phủ Tưởng Giới Thạch ký hiệp ước thân hữu với Liên Xô. (Trevor N. Dupuy, Curt Johnson và David L. Bongard, The Harper Encyclopedia of Military History, New York: HarperCollins, 1993, tr. 1423.) Do đó, chính phủ và các tướng lãnh Trung Hoa, vừa ủng hộ các nhà lãnh đạo Việt Nam theo chủ nghĩa dân tộc, vừa muốn Việt Nam theo công thức quốc cộng liên hiệp như Trung Hoa, nên họ áp lực cả hai phía ngồi lại với nhau. Các tướng lãnh Trung Hoa còn muốn giải quyết cho xong vấn đề Việt Nam để rút quân về ứng phó với tình hình Trung Hoa.
Lúc đó, ở Việt Nam lãnh tụ các đảng phái theo chủ nghĩa dân tộc và các nhà trí thức yêu nước không phải là không biết về lai lịch Hồ Chí Minh, và cũng không phải không có những nghi ngờ đối với VM cộng sản. Tuy nhiên, các đảng phái quốc gia ở thế chẳng đặng đừng, phải gia nhập chính phủ liên hiệp, vì đã chậm chân để cho VM chiếm được chính quyền trước; nay muốn tranh đấu giành lại chính quyền khỏi tay VM, thì phải chấp nhận ngồi lại tranh đấu chính trị.
Chính Phủ liên hiệp
Ngày 23-12-1945, đại diện của VM, Việt Cách và VNQDĐ cùng họp tại số 40 đại lộ Gia Long (Hà Nội), dưới sự chủ tọa của tướng Tiêu Văn, ký thỏa thuận gọi là HỢP TÁC TINH THÀNH, gồm 18 điểm, đại khái là: Từ ngày 1-1-1946, một chính phủ liên hiệp sẽ được thành lập do Hồ Chí Minh làm chủ tịch, Nguyễn Hải Thần làm phó chủ tịch. Nội các gồm VM (2 ghế), Việt Cách (2 ghế), QDĐ (2 ghế), Dân Chủ (2 ghế), độc lập (2 ghế). Quốc hội sẽ được tổ chức bầu cử ngày 6-1-1946. QDĐ giữ 50 ghế, Việt Cách 20 ghế. Các đảng cam kết không gây hấn với nhau. (Chính Đạo, Việt Nam niên biểu, tập A, Houston: Nxb. Văn Hóa: 1996, tr. 293.)
Ngày 26-12-1945, báo chí Hà Nội đăng thông cáo chung của Hồ Chí Minh, Nguyễn Hải Thần và Vũ Hồng Khanh, nguyên văn như sau:
Ngày 24-12-1945, chúng tôi là Hồ Chí Minh, Nguyễn Hải Thần và Vũ Hồng Khanh thay mặt cho Việt Minh, Quốc Dân Đảng và Cách mệnh Đồng Minh Hội, cùng ký tên công nhận những điều ước sau đây:
- Độc lập trên hết, đoàn kết trên hết. Căn cứ vào thái độ thân ái, tinh thành, cùng nhau thảo luận để giải quyết hết thẩy những vấn đề khó khăn trước mắt. Ai dùng ngang vũ lực gây nên những cuộc nội loạn sẽ bị quốc dân ruồng bỏ.
- Kể từ ngày 25-12-1945, đôi bên phải ủng hộ một cách thiết thực cuộc tổng tuyển cử, quốc hội và kháng chiến.
- Bắt đầu từ ngày 25-12-1945, đôi bên đều đình chỉ hết thẩy những việc công kích nhau bằng ngôn luận và bằng hành động.
Ký tên: Hồ Chí Minh, Nguyễn Hải Thần và Vũ Hồng Khanh. (Chính Đạo, sđd. tr. 294.)
Từ đó, CHÍNH PHỦ LIÊN HIỆP ra đời tại Hà Nội ngày 1-1-1946, do Hồ Chí Minh làm chủ tịch, Nguyễn Hải Thần phó chủ tịch, với đa số đảng viên cộng sản, thân cộng sản (cộng sản trá hình) và một số đảng viên các đảng phái khác làm bộ trưởng. Đồng thời một Hội đồng Quốc phòng được lập ra do Võ Nguyên Giáp làm chủ tịch và Vũ Hồng Khanh giữ chức phó chủ tịch. (Đây là chính phủ liên hiệp quốc cộng đầu tiên sau năm 1945.)
Theo thỏa thuận “hợp tác tinh thành”, cuộc bầu cử quốc hội đầu tiên ở Việt Nam được tổ chức ngày 6-1-1946 trên toàn quốc, gồm tổng cộng 333 ghế. Hồ Chí Minh đắc cử ở Hà Nội. Cựu hoàng Bảo Đại không ký đơn ứng cử, mà vẫn đắc cử ở Thanh Hóa. (Bảo Đại, Con rồng Việt Nam, California: Nxb. Xuân Thu, 1990, tr. 222.)
Tuy quốc hội lập hiến đã được bầu xong, nhưng các đảng phái không cộng sản tiếp tục phản đối mạnh, vì trong cuộc bầu cử nầy, số người đắc cử không ngoài các lãnh tụ VM, những người thân VM, hoặc những người do VM chọn, như trường hợp cựu hoàng Bảo Đại. Lúc đó, VM buộc phải mở rộng quốc hội, thêm 70 đại biểu cho Việt Cách và QDĐ từ nước ngoài trở về, không thông qua bầu cử, như đã quy định trong cuộc họp ngày 23-12-1945. Như thế, tổng số đại biểu lên đến 403 người.
Sau đây là lời sử gia Trần Trọng Kim mô tả cuộc bầu cử: “Khi ấy tôi đã về ở Hà Nội rồi, thấy cuộc tuyển cử rất kỳ cục. Mỗi chỗ để bỏ phiếu, có một người của Việt Minh trông coi, họ gọi hết cả đàn ông, đàn bà đến bỏ phiếu, ai không biết chữ thì họ viết thay cho. Việt Minh đưa ra những bản kê tên những người họ đã định trước, rồi đọc những tên ấy lên và hỏi anh hay chị bầu cho ai? Người nào vô ý bầu cho một người nào khác, thì họ quát lên; “Sao không bầu cho những người này? Có phải phản đối không?” Người kia sợ mất vía nói: “Anh bảo tôi bầu cho ai, tôi xin bầu người ấy.” Cách cưỡng bách ra mặt như thế, lẽ dĩ nhiên những người Việt Minh đưa ra được đến tám chín mươi phần trăm số người đi bầu.” (Lệ Thần Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, Sài Gòn: Nxb. Vĩnh Sơn, 1969, tr. 103.)
Quốc hội lập hiến họp kỳ thứ nhứt ngày 2-3-1946, cử ra CHÍNH PHỦ LIÊN HIỆP KHÁNG CHIẾN, do cựu hoàng Bảo Đại, nay là công dân Vĩnh Thụy làm cố vấn tối cao, và các chức vụ quan trọng là Hồ Chí Minh (chủ tịch), Nguyễn Hải Thần (phó chủ tịch), Huỳnh Thúc Kháng (bộ trưởng Nội vụ), Nguyễn Tường Tam (bộ trưởng Ngoại giao), Phan Anh (bộ trưởng Quốc phòng). Đa số còn lại là bộ trưởng VM (cộng sản) và một số ít các đảng phái khác. Quân sự ủy viên hội vẫn là hai nhân vật chính là Võ Nguyên Giáp và Vũ Hồng Khanh. (Đây là chính phủ liên hiệp quốc cộng lần thứ hai sau 1945.)
Sử gia Trần Trọng Kim kể về hoạt động của chính phủ liên hiệp: “Khi tôi còn ở Hà Nội, cụ Huỳnh Thúc Kháng ra nhận chức bộ trưởng bộ nội vụ, có đến thăm tôi. Ngồi nói chuyện, tôi hỏi: “Cụ nay đứng đầu một bộ rất quan trọng trong chính phủ, chắc là bận việc lắm”. Cụ Huỳnh nói: “Bây giờ việc gì cũng do địa phương tự trị cả, thành ra không có việc gì mấy, và khi có việc gì, thì họ làm sẵn xong cả rồi, tôi chỉ có vài chữ ký mà thôi”. Những khi có hội đồng chính phủ thì bàn định những gì? “Cũng chưa thấy có việc gì, thường thì họ đem những việc họ đã làm, rồi nói cho chúng tôi biết”. Xem như thế thì các ông bộ trưởng chỉ đứng để làm vị mà thôi, chứ không có quyết định gì cả. Có người hỏi ông Nguyễn Tường Tam rằng: “Khi ông nhận chức bộ trưởng bộ ngoại giao, ông thấy có việc gì quan trọng lắm không?” Ông trả lời: “Tất cả giấy má trong bộ ngoại giao của cụ Hồ giao lại cho tôi, tôi chỉ thấy có ba lá đơn của mấy người sĩ quan Tàu nhờ tìm cho mấy cái nhà, và tìm cái ví đựng tiền bị kẻ cắp lấy mất”. Câu chuyện có thể là ông Tam nói khôi hài, nhưng đủ rõ việc các ông bộ trưởng không có gì. Tôi đem câu chuyện đó nói ra đây để chứng thực là các bộ trưởng chỉ giữ hư vị chứ không có thực quyền. Cái thực quyền trong chính phủ lúc ấy là ở mấy người như ông Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp và ở tổng bộ cộng sản điều khiển hết cả.” (Lệ Thần Trần Trọng Kim, sđd. tr. 110.)
Cần chú ý là lúc đó VM đang gặp khó khăn: Khoảng 200,000 quân QDĐ Trung Hoa chưa về nước sau lễ đầu hàng của quân đội Nhật ngày 28-9-1945. Quân đội Pháp chiếm được toàn bộ Nam Kỳ đang từ Nam Kỳ tiến ra Trung Kỳ và đe dọa Bắc Kỳ. Vì vậy, Hồ Chí Minh và VM mới nhượng bộ các đảng phái theo chủ nghĩa dân tộc, tổ chức bầu cử quốc hội, soạn thảo hiến pháp, để tạm ổn việc nội bộ nhằm rảnh tay giải quyết công việc ngoại giao.
Kết quả
Nhờ kế hoạch “hợp tác tinh thành” và liên hiệp với các đảng phái đối lập, Hồ Chí Minh và VM tạm ổn định tình hình nội bộ, quay qua vận động ngoại giao, ký với đại diện Pháp thỏa ước Sơ bộ ngày 6-3-1946 tại Hà Nội, rồi Tạm ước (Modus Vivendi) ngày 14-9-1946 tại Paris, hợp thức hóa việc Pháp trở lại Đông Dương và tái thiết lập lại toàn bộ các cơ sở Pháp tại Việt Nam.
Trong khi tạm ổn về ngoại giao, VM quay qua tấn công các thành phần đối lập. Nguyễn Hải Thần âm thầm bỏ qua Trung Hoa. (Hoàng Cơ Thụy, Việt sử khảo luận, cuốn 4, Paris: Nxb. Nam Á, 2002, tr. 2092.) Huỳnh Thúc Kháng được cử lên thay làm phó chủ tịch nước.
Hồ Chí Minh qua Pháp theo phái đoàn tham dự Hội nghị Fontainebleau, rời Hà Nội ngày 31-5-1946. Hồ Chí Minh cử Huỳnh Thúc Kháng làm quyền chủ tịch nước. Nhân cơ hội Hồ Chí Minh đang còn ở Pháp, tức không có mặt ở Việt Nam, VM cộng sản mở cuộc đại khủng bố các thành phần đối lập nhằm chứng tỏ rằng Hồ Chí Minh là kẻ ngoại phạm, không liên can trong các vụ nầy.
Để có lý do tấn công VNQDĐ, Võ Nguyên Giáp, chủ tịch Quân sự ủy viên hội, lấy cớ rằng có tin mật báo đặc vụ QDĐ âm mưu sẽ tấn công và ám sát các nhân viên chính phủ trong dịp tham dự lễ duyệt binh do Pháp tổ chức tại Hà Nội nhân ngày quốc khánh Pháp (14-7-1946), nên ngày 13-7-1946, Võ Nguyên Giáp cho người lục soát trụ sở của VNQDĐ ở số 9 phố (đường) Ôn Như Hầu ở Hà Nội.
Trụ sở nầy vốn của quân đội Nhật Bản giao lại cho quân đội Trung Hoa; rồi được chuyển cho QDĐ sử dụng. Quốc Dân Đảng sử dụng số 9 phố Ôn Như Hầu làm trụ sở của ban Tuyên huấn Đệ thất khu Đảng bộ của VNQDĐ. Việt Minh dùng võ lực, bất ngờ tràn vào nhà, bắt tất cả những đảng viên QDĐ có mặt hôm đó tại trụ sở, tịch thâu một số giấy tờ quan trọng, trong đó theo lời VM, có “kế hoặc đảo chính” chính phủ Hồ Chí Minh. Việt Minh cho rằng đã tìm thấy trong khu vực nhà nầy một số xác người, và lập biên bản kết tội QDĐ tổ chức “hắc điếm” để bắt cóc, giết người, tống tiền, cướp của. (Hoàng Văn Đào, Việt Nam Quốc Dân Đảng, tái bản kỳ 2, Sài Gòn, 1970, tt. 322-324.) Tiếp tục tại Hà Nội, tối hôm 20-10-1946, công an xung phong VM trang bị súng ống, tiến vào tòa soạn nhật báo Việt Nam, tại số 80 phố [đường] Quan Thánh (Grand Bouddha cũ), Hà Nội. Nhật báo nầy do VNQDĐ lập ra vào cuối năm 1945, và do nhà văn Khái Hưng phụ trách. Sau khi lục soát toàn bộ khu nhà, phá hoại máy móc, VM bắt khoảng 20 người có mặt trong tòa báo về ty công an ở đường Trần Hưng Đạo (Gambetta cũ).
Việt Minh lùng bắt đảng viên QDĐ và Việt Cách. Báo Cứu Quốc của VM ngày 1-11-1946 loan báo đã bắt hơn 300 người vào ngày 29-10-1946, đa số bị đưa đi an trí. Đại đa số những người bị VM đưa đi an trí, nếu không trốn thoát, đều bị VM thủ tiêu luôn, nhứt là khi chiến tranh Việt Pháp bùng nổ ngày 19-12-1946.
Trong khi đó, sau biến cố “Ôn Như Hầu” (13-7-1946), nhiều đảng viên QDĐ lui vào hoạt động bí mật và nhất là rút lên các chiến khu tiếp tục chiến đấu. Để tấn công QDĐ, Võ Nguyên Giáp dựa vào kết luận trong biên bản vụ Ôn Như Hầu do VM lập ra, cho rằng QDĐ tổ chức “hắc điếm”, để ra lệnh cho Vệ quốc đoàn VM tổng tấn công bảy chiến khu của QDĐ trên toàn quốc.
Trong các vụ tấn công QDĐ, nghiêm trọng nhứt là vụ “Cầu Chiêm Sơn” ở Quảng Nam vào cuối tháng 7-1946. Chiêm Sơn ở xã Phú Tân (nay là xã Điện Quang, Gò Nổi), huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Tàu hỏa chạy từ Đà Nẵng vào nam, qua cầu Kỳ Lam, vào cù lao Gò Nổi (tên chữ là Phù Kỳ, ở Điện Bàn), và rời Gò Nổi bằng cầu Chiêm Sơn, đi qua Trà Kiệu. Vào cuối tháng 7-1946, nhân một chuyến xe lửa chuyên chở võ khí vào nam, ngang qua cầu Chiêm Sơn, đoàn xe dừng lại vì có lửa đốt báo động nguy hiểm. Theo lời khai của tài xế lái tàu, ông ta phát hiện rằng có kẻ tháo bù-lon để làm sập cầu Chiêm Sơn (?). Việt Minh hô lên rằng QDĐ chủ mưu việc nầy, liền bắt Phan Bá Lân, bí thư kiêm phó chủ nhiệm tỉnh đảng bộ QDĐ Quảng Nam, và một số lãnh tụ QDĐ địa phương như Phan Ngô, Huỳnh Hòa, Phan Thiệp… Các ông bị tra tấn tàn bạo, nhưng chẳng có ai chịu nhận tội.
Tiếp đó, VM ra lệnh khủng bố, lùng bắt và thủ tiêu đảng viên QDĐ các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, và Bình Định, nhất là những tổ chức cơ sở QDĐ ở các huyện. Trong vụ nầy, QDĐ Quảng Nam bị thiệt hại nặng nhất. Việt Minh bắt đảng viên QDĐ bỏ vào bao bố, rồi thả trôi sông. Lúc đó, người dân đi qua cầu Câu Lâu (trên sông Thu Bồn) ở Điện Bàn, thấy nhiều bao bố nổi lềnh bềnh trên mặt nước.
Khi chiến tranh Việt Minh với Pháp bùng nổ tối 19-12-1945, VM lại lợi dụng tình trạng chiến tranh, tiếp tục tiêu diệt những thành phần đối lập như Trương Tử Anh, Lý Đông A, nhà văn Khái Hưng Trần Khánh Dư. Tại Nam Kỳ, VM bắt và đem đi mất tích ngày 16-4-1947 một nhân vật quan trọng là Đức Huỳnh Phú Sổ, người khai sáng đạo Phật Giáo Hòa Hảo.
Từ khi nắm quyền, với chủ trương “giết tiềm lực”, VM không phải chỉ giết hại những thành phần nổi tiếng ở thành phố, mà VM còn giết hại, thủ tiêu những người bất đồng chánh kiến ở tất cả các cấp, xuống tận các làng xã và vùng rừng núi xa xôi. Bất cứ ai, lỡ phát biểu một ý kiến bất đồng nhỏ, cũng bị giết. Tất cả đã gây nên tình trạng khủng bố rùng rợn chung trên toàn quốc trong giai đoạn nầy.
Kết luận
Những diễn tiến trong cuộc hòa giải và liên hiệp năm 1945 cho thấy các điểm sau đây: 1) Khi gặp thời, thế lực mạnh mẽ, thì CS độc quyền chính trị, độc quyền cai trị đất nước. (Nghị quyết ngày 11-9-1945 của Trung ương đảng CSĐD tại Hà Nội.) 2) Khi yếu thế, gặp trở ngại, khó khăn, CS kêu gọi lòng yêu nước, đoàn kết, hòa giải, liên hiệp với các đảng phái theo chủ nghĩa dân tộc, thậm chí còn giả vờ giải tán đảng CSĐD. (Hợp tác tinh thành và chính phủ liên hiệp.) 3) Sau khi hòa giải, liên hiệp để thoát khỏi hoạn nạn, nắm được quyền lực, thì CS quay lại độc quyền chính trị, thẳng tay tiêu diệt tất cả những ai bất đồng chính kiến, kể cả những người đã từng hòa hợp hòa giải với cộng sản. (Vụ án Ôn Như Hầu, vụ cầu Chiêm Sơn, các vụ thủ tiêu trên toàn quốc.) Như thế rõ ràng KINH NGHIỆM LỊCH SỬ NĂM 1945 CHO THẤY HÒA GIẢI VÀ LIÊN HIỆP VỚI CỘNG SẢN LÀ TỰ SÁT.
Vậy ngày nay, người Việt nghĩ sao về chuyện hòa giải hòa hợp lần nữa với cộng sản Việt Nam trong khi điều 4 Hiến pháp năm 1992 vẫn còn đó và chi phối toàn bộ sinh hoạt trong nước?
(Toronto, 12/05/2015)
Trần Gia Phụng
---
-
-
-
Khó thể quên ‼!
-
Hành Khất (danlambao) - Lời Giao Ngỏ: Xin cảm ơn những trang mạng, những bài viết đưa tin và hình ảnh, những người đã và đang góp phần nói lên sự thật: những tủi nhục "khó thể quên" cho dân tộc Việt Nam. Đó là những bài học thực tiễn, quý giá để chúng ta, lần nữa, nghiền ngẫm lại hầu tìm ra một hướng đi mới khác cho dân tộc, cho một Việt Nam không phải chịu tủi nhục ngày mai.
Những cuộc bể dâu đã làm lòng người quặn nhói khi vô tình đọc thấy hay nghe kể lại "một thời huy hoàng" nào đó biến mất vĩnh viễn, không còn một dấu tích, mà lẽ ra nó đáng được gìn giữ như một dấu tích lịch sử quan trọng, cho hậu thế mai sau được nhìn tận mắt, chạm qua tay thời gian quá khứ đó, như đang sống lại trong hiện thực. Nhưng đáng tiếc thay, phần lớn những di tích trên mảnh đất Việt Nam dường như mang cùng số phận của một dân tộc luôn bị áp đặt nô lệ - nếu không do chiến tranh vô tình tàn phá, thì bởi lòng thù hận của ngoại bang. Nào có ai nghĩ rằng, nguyên nhân thứ ba là do chính dân tộc Việt Nam tự hủy hoại di sản của đất nước mình, cũng chỉ vì lòng thù hận nhau qua tư tưởng hệ hơn nửa thế kỷ nay.
Dù đã qua hơn ba mươi sáu năm trôi đi, dường như lòng thù hận nào đó vẫn tiềm ẩn, tồn tại mãi nhưng trong lòng kẻ chiến thắng, sau biến cố 75. Quân đội miền Nam đã phải chịu câm lặng, chấp nhận sự thất bại, và cúi đầu trước quyền lực mới của miền Bắc. Kẻ bại trận thì không có quyền yêu sách bất cứ điều gì vì đó như là quy luật của chiến tranh. Và kẻ chiến thắng có quyền quyết định cho bất cứ việc gì, ngay cả "xử tội kẻ chết."
Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa (NtQdBH) của miền Nam, có phải chăng đó là nơi đang tiến hành cái luật bất định của kẻ chiến thắng? Những nấc thang mẻ vụn, những con đường trần trụi, những bia mộ gãy đổ, những nấm mồ sụp lở, những đám cỏ lêu nghêu, những rừng lá xanh um, những hàng muồng đại thụ v.v. Tất cả là hình ảnh còn lại cho di tích sắp bị xóa bỏ, lãng quên mà một số người nào đó xem chúng như vết lở trong tự ái của họ, và số còn lại thì cảm thấy chua xót cho thân phận làm người Việt Nam.
Trong những nghĩa trang nhỏ hay trung bình, xi măng thường được tráng làm nền, nhưng với nghĩa trang rộng lớn như NtQdBH, chiếm khoảng 125 mẫu, có sức chứa cho 30.000 ngôi mộ (theo "Tóm lược lịch sử Nghĩa Trang Quân Ðội tại Biên Hòa", của Giao Chỉ (cựu Đại tá Vũ Văn Lộc, trên mạng congdongnamfloria.com, 29/09/2011), thường được trải thảm cỏ, và xây những con đường tráng nhựa chạy vòng quanh. Không bao giờ có nghĩa trang nào trồng những hàng muồng đại thụ, hay những hàng cây nào khác vì sự hữu dụng trong môi trường nầy hoàn toàn không có. Nhưng tại sao nhà cầm quyền đương thời cho trồng hàng loạt cây cối trong NtQdBH mà hiện thời đã bị thu hẹp trong khoảnh đất chỉ còn 52 mẫu? Để tìm câu trả lời đó, trước hết chúng ta thử tìm hiểu sơ qua về những đặc tính của cây muồng nói riêng, cho nhận định chung chung về những loại cây cối khác.
A- Hàng muồng đại thụ:
Cây muồng dường như đã được trồng trong NtQdBH, khoảng vài năm trở lại đây (2011). Theo wikipedia, bản tiếng Việt, cho biết:
"Cây me tây còn gọi là cây còng, muồng tím, cây mưa, muồng ngủ... tên khoa học là Samanea, họ Fabaceae, bộ đậu (Fabales). Một loại cây gỗ cực lớn, cao 15-25m, có thể cao tới 50 m; gốc có bạnh vè lớn. Đường kính thân và tán cây rất lớn, có khi rộng đến 30m."
Và thêm một vài chi tiết đặc biệt, đáng lưu ý về cây muồng (vẫn theo wikipedia):
· Thảm cỏ dưới tàn cây mưa thường xanh hơn nhiều so với thảm cỏ vùng xung quanh, vì lá non của cây rất nhạy cảm với ánh sáng và sẽ khép lại khi trời vần vũ.
· Các loại dịch bài tiết qua lá thỉnh thoảng cũng thấy rơi xuống trông giống như mưa.
Và theo trang mạng cayxanhtienduc.com.vn cũng xác nhận những điều đó, với hình ảnh quen thuộc mà dân Sài Gòn, Hà Nội thường bắt gặp trên những vĩa hè đại lộ, trong công viên Bách Thảo v.v. để lấy bóng mát, làm đẹp, và tạo thêm sinh khí hiệu ứng trong vùng nhà kính không gian (greenhouse effect). Tuy nhiên, nhánh của cây muồng cũng thường hay bị gảy đỗ trong cơn giông. Trang mạng worldagroforestrycentre.org cho biết thêm, dưới điều kiện thích hợp nhất, đường kính thân cây muồng có thể phát triển đến 18 cm trong vòng 5 năm, và có thể đạt được chiều cao 60 m khi trưởng thành.
"Ông cổ thụ" cây Muồng ngủ trong công viên Bách Thảo. Wikipedia, bản tiếng Anh, cho biết thêm là cây muồng với hơn 200 tuổi, không phải là hiếm.
B- Kế hoạch của nhà cầm quyền đương thời cho Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa:
Điểm qua trang mạng news.socbay.com, "Một ngày tháng Tư thăm nghĩa trang quân đội Biên Hoà", được sao chép lại từ tuanvietnam.net ra ngày 19/04/2010, bày tỏ sự nhận xét của tác giả qua ghi chú bên dưới hai tấm hình về những ngôi mộ và hàng cây trong NtQdBH như sau:
"… Quyết định dân sự hóa nghĩa trang quân đội cũ xem ra đã là một bước tiến khá dài cho mục tiêu hoà hợp dân tộc, hàn gắn lòng người.
Cách Sài Gòn hơn 30km về hướng ngã ba Vũng Tàu trên xa lộ Hà Nội, nghĩa trang của các tử sĩ Việt Nam cộng hoà vẫn còn đó tại xã Bình An, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương.Dưới những rặng cây xanh, đây là nơi yên nghỉ của 16 ngàn tử sĩ chế độ cũ, chia làm 8 khu từ A đến I"
Nguyên văn lời ghi chú: (Trái: Dưới "những rặng cây xanh"đây là nơi yên nghỉ của 16 ngàn tử sĩ chế độ cũ, chia làm 8 khu từ A đến I. Ảnh: Thu Hà). Phải: Lá và hoa của cây muồng, còn được gọi là cây me tây.
Nguyên văn lời ghi chú: Trái: "Quyết định dân sự hóa nghĩa trang quân đội cũ được nhìn nhận là một "bước tiến khá dài" cho mục tiêu "hoà hợp dân tộc, thống nhất lòng người".". Ảnh: Thu Hà). Phải: Thân cây muồng lúc còn nhỏ.
Qua đó, tác giả vô tình tiết lộ kế hoạch của nhà cầm quyền đương thời cho NtQdBH qua việc trồng những "rặng cây xanh" che bóng mát cho những ngôi mộ, như mang một "đặc ân bao dung" của nhà nước đối với 16 ngàn tử sĩ của chế độ cũ, và việc dân sự hóa nghĩa trang như nhằm thể hiện nét đậm hơn cho "đặc ân bao dung" đó.
1- Những "rặng cây xanh":
Đó có phải chỉ là những "rặng cây xanh" đơn thuần, được trồng trong khoảng cách của hai ngôi mộ? Nếu phóng tầm nhìn quang cảnh chung quanh, rộng hơn, chúng trong giống như một rừng cây thẳng tấp, hay một đồn điền trồng cây đại thụ với quy mô lớn (như những đồn điền cao su với những hàng thông ở Long Khánh, hay Nghệ An, v.v. thời Pháp thuộc). Những "rặng cây xanh" đó có thể là những cây muồng, còn gọi là cây me tây, như trên mạng letungchau.blogspot.com, "Thượng Nghị sỹ Jim Webb yêu cầu ngưng chương trình trợ giúp Việt Nam", 23/09/2011, ghi chú bên dưới những hình ảnh về NtQdBH, được chụp vào khoảng mùa Tết Trung Thu, 09/2011. Điều nầy có thể kiểm chứng qua hình thân cây muồng từ nguồn Google, được chụp gần với sự phóng ảnh của hình bên cạnh; cũng như hình lá cây muồng so với ảnh phóng trong hình kế bên.
Vậy có thể kết luận đó là những hàng cây muồng đại thụ, với những đặc tính nổi bậc như là sự phát triển khá nhanh (18 cm đường kính trong 5 năm), với những chân rễ nổi cộm trên mặt đất khi trưởng thành, và dịch cây tiết ra hay những giọt mưa qua lá khép tự nhiên làm cho cỏ bên dưới càng xanh và phát triển nhanh hơn.
Với những đặc tính tiêu biểu của cây muồng, cho thấy nó có khả năng hủy hoại những nấm mộ quanh đó rất nhanh, với đám cỏ càng lúc lớn mạnh, lan tràn hơn. Vậy có phải chăng đó là những "rặng cây xanh" che bóng mát cho mộ?
Xen lẫn trong những cây muồng có vài loại cây khác, nhưng tất cả được trồng theo lề lối rõ ràng, từng hàng song song với hàng mộ phần. Những hàng cây còn non tuổi, trông cũng "ngây thơ", tươi đẹp một cách hiền hòa, không gây tác hại gì. Với thân cây nhỏ nhắn, cành lá lưa thưa; cho biết rằng, chúng chỉ được trồng lên trong khoảng 1/2 năm, nhưng có những khu khác (xem hình bên dưới), thân cây cao, và đường kính rộng hơn theo thời gian được trồng trước đó. Một gốc rể nhô lên khỏi mặt đất giữa hàng mộ, cho thấy rằng, những hàng cây già tuổi hơn nầy là mối đe dọa nghiêm trọng cho những phần mộ gần quanh đó. Vì ai cũng biết, rễ cây có sức rất mạnh, và cứng chắc; chúng có khả năng len lổi qua chân mộ, vách mộ, và nâng mặt mộ lên, ngay cả đi xuyên qua vách ván hòm.
Trái: Những hàng cây thẳng hàng do bàn tay con người trồng lên, dù đó không phải là loại cây mộ, theo thời gian sẽ bung ra lan rộng xâm phạm những phần mộ chung quanh. Phải: Một gốc rễ, tiêu biểu nhô lên giữa hàng muồng đại thụ.
Có nghĩa, không bao lâu nữa, những "rặng cây xanh" nầy chính là những kẻ "đào phá mộ", không tên tuổi và hợp pháp nhất. Bởi vậy, không ai trồng cây đại thụ trước mộ phần, nhất là trong một nghĩa trang là điều tối kỵ. Lượng nước mưa sẽ tích tụ lâu hơn làm phần mộ dễ bị hư hại do đất lún. Đó là chưa nói đến quang cảnh sẽ trở thành một khu rừng âm u, ẩm thấp, với thảm lá mục rữa, hoang vắng đến lạnh người. Sẽ không còn hình ảnh nào cho một Nghĩa trang Quân đội, mà đáng lý ra nó nói lên sự trang trọng xứng đáng cho những người đã quên mình không vì mục đích cá nhân - dù đó là lý tưởng trái ngược với một số người, nhưng cũng được số người không ít nhìn nhận. Ngay cả trong vấn đề tâm linh của người Việt, sự xâm phạm của rễ cây vào xác người quá cố, là một điềm không tốt, bất an cho gia đình, thân nhân họ.
Và đồng thời qua những hình ảnh dưới đây, chứng minh rằng nhà nước bỏ phế Nghĩa trang nầy cho đầy thêm cỏ dại như một bản án dành cho người chết. Những thay đổi nhỏ nhặt trong hình ảnh qua việc tẩy cỏ, đấp mộ, là do chính những người dân địa phương được thuê mướn bởi những thân nhân của người quá cố. Và sau đó, những "rặng cây xanh" được trồng lên; thoạt nhìn như những công viên bóng mát.
Dù rằng hàng năm, nhà cầm quyền vẫn nhận được tiền từ những chương trình trợ giúp phát triển của Hoa Kỳ bao gồm công cuộc tìm xác những binh lính bị mất tích. Tuy nhiên, trong thời gian qua, Hoa Kỳ không có những áp lực mạnh mẽ với nhà cầm quyền Việt Nam trong việc tìm lại chiến sĩ vong thân của VNCH.
Trái: Đây thực sự là nơi an nghĩ cho người quá cố, mà không e ngại những mớ rễ của "rặng cây xanh" đâm xuyên phần mộ. Phải: Rừng cỏ hoang khoảng đầu người; khó có thể nghĩ rằng đó là một nghĩa trang.
2- Dân sự hóa nghĩa trang:
Qua 2 bài viết "Những sự thật về Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa" của Phong Thu, trêntroinam.net (phấn 1) và tuongvangvn.com (phần 2) trong khoảng giữa tháng 01/2009, kể lại chuyến viếng thăm NtQdBH của tác giả và những người bạn trong tổ chức QGNT Heritage (Di sản Quốc Gia Nghĩa Tử là một nhánh của tổ chức do những cựu học sinh liên trường Quốc Gia Nghĩa Tử thành lập) trong khoảng cuối tháng 12/2008, cho biết:
"Vòng đai của nghĩa trang đã bị thu hẹp đáng kể. Ban Quản Trang cho biết khoảng20 ha đất"
Sự kiện nầy rất phù hợp với bài viết của cựu Đại tá Vũ Văn Lộc ở trên, đã xác minh một sự thật hiển nhiên. Và việc dân sự hóa nghĩa trang trong bài "Một ngày tháng Tư thăm nghĩa trang quân đội Biên Hoà" đã đề cập ở trên, cho biết thêm:
"Quyết định số 1568/QĐ - TTg của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký tháng 11/2006: Đồng ý chuyển mục đích sử dụng 58 hecta đất khu nghĩa trang Bình An, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương do Quân khu 7, Bộ Quốc Phòng quản lý sang sử dụng vào mục đích dân sự. Giờ đây nghĩa trang được đổi tên thành Nghĩa trang nhân dân Bình An do UBND huyện Dĩ An quản lý."
Điều nầy được tác giả Phong Thu ghi nhận bằng hình ảnh sau:
“Ban Quản Lý Nghĩa Trang” và phía dưới là hàng chữ "Nghĩa Trang Nhân Dân Bình An”. Phải: Tấm bảng thông báo Quy Định dành cho người vào thăm viếng mộ.
Theo Quyết định số 1568/QĐ, nói đến 58 hecta nhưng qua cuộc trao đổi của tác giả Phong Thu với với Ban Quản Trang, chỉ còn lại là 20 hecta. Có nghĩa, trong khoảng 3 năm, từ đầu năm 2007 đến đầu năm 2009, 38 hecta đã biến mất một cách tự nhiên, không ai biết; ngay cả tin tức được cựu Đại tá Vũ Văn Lộc ghi nhận là 52 hecta- có lẽ cũng dựa trên Quyết định số 1565/QĐ. Đâu là sự thật? Trừ phi, đó là sự lầm lẫn của Ban Quản Trang của huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Giả thuyết nầy khó biện luận cho sự sai lầm giữa con số 5 và 2, trong khi huyện Dĩ An trực tiếp thu nhận và quản lý vùng đất NtQdBH vào tháng 5/2007, chỉ sau 6 tháng từ Quyết định số 1568/QĐ được ban hành. Và Phó ban quản lý nghĩa trang, Lê Ngọc Thuận cho biết, hiện nay (12/2008) có khoảng 18.315 ngôi mộ - hơn ước lượng (16.000 được tính đến cuối ngày 30/4/1975) của cựu Đại tá Vũ Văn Lộc là 2.315 ngôi mộ, và đến năm 2007 sau nhiều đợt cải táng lẻ tẻ, "Số còn lại ước chừng từ 8 ngàn đến 10 ngàn ngôi mộ" (theo "Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa, Chuyện Kể Từ Đầu", trên motgoctroi.com, 16/02/2007).
Như vậy, giả sử cho là 10.000 ngôi mộ còn lại vào năm 2007, số sai biệt không phải là 2.315 mà là 8.315 ngôi mộ khác được chôn xen vào! Đó không phải là một con số nhỏ trong sự khác biệt giữa khoảng 2 năm! Nếu cho là số mộ được tăng thêm là của dân địa phương trong 33 năm qua (từ 1975-2008), theo mật độ trung bình là 252 người được chôn cất trong một năm; như vậy nếu tính đến 2011, có lẽ sẽ có khoảng 9.000 ngôi mộ dân trong đó, gần tương đương với số mộ của tử sĩ! Và đó có phải cũng là lý do cho việc dân sự hóa NtQdBH?
Tuy nhiên cựu Phó Tổng Thống của miền Nam Việt Nam, Nguyễn Cao Kỳ (NCK), trong lúc còn sinh thời, cũng đã "nhất trí" với việc dân sự hóa NtQdBH của Thủ Tướng Dũng, trong cuộc phỏng vấn của phóng viên đài RFA, Đỗ Hiếu, trong bài "Ông Nguyễn Cao Kỳ hoan nghênh quyết định dân sự hóa Nghĩa trang Biên Hòa", 13/01/2007:
"… Tôi cũng đề nghị những người trong chánh quyền xây dựng tượng đài tưởng niệmcác chiến sĩ thuộc hai miền Nam Bắc cùng các chiến sĩ Hoa Kỳ, Thái Lan, Nam Hàn đã hy sinh trong cuộc chiến bảo vệ tự do, và cả những đồng bào hai miền đã nằm xuống nữa."
"… Trước đây, khu nghĩa trang quân đội Biên Hòa được đặt dưới sự quản lý của quân khu 7, nay một khi được dân sự hóa thì người dân sẽ ra vào dễ dàng để thăm viếng, sửa sang, tu bổ những mộ phần của những người thân an nghỉ tại đây."
Trái: Nguyễn Cao Kỳ trong cuộc tiếp kiến Nguyễn Minh Triết, Chủ tịch nhà nước: 2006-2011. Phải: Nguyễn Cao Kỳ "hòa hợp" khá đẹp với chiếc nón bộ đội được tặng.
Dường như dự kiến của NCK về vấn đề "xây dựng tượng đài tưởng niệm" là một bước… quá nhanh trước thời đại trong thực tiển năm 2007, trong khi nhà nước còn chưa chấp nhận cho phép trùng tu toàn bộ NtQdBH. Không biết dự kiến đó chỉ để trả lời phỏng vấn báo chí hay thực sự được "đề nghị" với nhà cầm quyền (?). Nhung dù sao đó cũng là một dự kiến "khá hay", chỉ đáng tiếc là không hợp thời hợp lúc, cũng như chiếc nón cối bộ đội trông "khá đẹp" với gương mặt NCK, nhưng với bộ áo vest thì hơi… lạc lõng.
Thật ra, sự tán đồng của NCK có lẽ chỉ vì mong muốn người dân được ra vào tự do thăm viếng mà không chút lo sợ bị dòm ngó bởi nhà cầm quyền, nhưng đồng thời cũng là sự ủng hộ nhà nước trong những bước kế tiếp để xóa dấu tích lịch sử nầy, mà NCK dường như không có dự tưởng xa hơn trong tầm nhìn. Hay NCK chỉ biết "nhất trí" như một đảng viên chân chính khác? Điều nầy, có lẽ chỉ có NCK trả lời cho chính mình!
Trước đó, vấn đề trùng tu NtQdBH đã được nói đến từ năm 2005, như trong bài phỏng vấn của Nam Nguyên, phóng viên RFA, "Ông Nguyễn Cao Kỳ nói chuyện về việc trùng tu Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa", 8/03/2005, qua câu hỏi như sau:
Nam Nguyên: Kể cả chuyến đi lần thứ ba này tại VN, ông đã thực sự viếng thăm những nghĩa trang nào, nơi chôn cất những đồng đội cũ của ông. Tình trạng thực tế ở các nghĩa trang đó ra sao?
Nguyễn Cao Kỳ: Ngay từ cuộc viếng thăm đầu tiên tôi đã nêu vấn đề đó với các anh em ở trong nước. Có thể nói bây giờ đã có sự thông cảm hoàn toàn của mọi giới chức, mọi thành phần đối với chuyện tôi đề nghị đó. Thì ai cũng nghĩ đó là một hành động tốt đẹp thôi, chính phủ VN họ đã đồng ý và ra chỉ thị cho các nơi, nhất là ở Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hoà lúc trước, cho dọn dẹp sạch sẽ lại sau bao nhiêu năm bị bỏ hoang. Ở Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hoà cũ vẫn còn giữ được 14 ngàn ngôi mộ của anh em chiến sĩ VNCH "
Có lẽ, qua cái nhìn của NCK, nhà nước lúc bấy giờ (2005) "… đã có sự thông cảm hoàn toàn" về vấn đề trùng tu, nên năm sau (2006), nhà nước tuyên bố rỏ ràng về vấn đề dân sự hóa nghĩa trang, mà theo NCK đó là đặc ân cho người thăm viếng, cho thân nhân đến sửa sang mộ phần. Nhưng những việc đó có phản ảnh đúng nghĩa trong bốn chữ "trùng tu nghĩa trang" không? Vì một nghĩa trang gồm nhiều mộ phần, cổng ra vào, đài tưởng niệm, lối đi, v.v., đâu phải chỉ "… cho dọn dẹp sạch sẽ lại sau bao nhiêu năm bị bỏ hoang" như NCK đã nói, là… hoàn tất hết việc "trùng tu nghĩa trang"! Nếu NCK không hiểu nghĩa bốn chữ đó thì cũng hơi lạ, vì chính NCK cũng là nhân vật hiện diện trong ngày Quốc Khánh 1/10/1969 tại NtQdBH nầy, thì chắc chắn NCK phải thấy sự khác biệt giữa hai hình ảnh của một NtQdBH lúc đó và bấy giờ (2005).
Ngày Quốc Khánh 1/10/1969 tại NtQdBH
Nhưng dường như NCK cố tình không trả lời trực tiếp câu hỏi về "Tình trạng thực tế ở các nghĩa trang đó ra sao?".
Và trong bài phỏng vấn đó có đoạn: "…tôi có đặt vấn đề chuyện trùng tu dọn dẹp nếu có tổn phí cần thiết thì chúng tôi sẵn sàng đóng góp… nhưng mấy anh em trả lời là không, chính phủ sẽ làm chuyện đó. Có thể nói rằng đó là một cử chỉ đẹp"
Nều thực sự như những gì NCK đã nói với phóng viên là "chính phủ sẽ làm chuyện đó", thì tình trạng của NtQdBH không phải như hôm nay (2011) hay trong năm 2007 khi mà NCK tán đồng việc dân sự hóa, sau bài viết nầy (2005). Ngoài ra, việc sửa sang phần mộ, NCK cũng biết rằng chính những thân nhân chi trả- không có bất kỳ trợ giúp nào từ nhà nước- trừ khi NCK chưa bao giờ bước chân đến NtQdBH thăm viếng lại hay gặp gỡ vài người làm cỏ ở nghĩa trang, hay thân nhân người quá cố. Và ngay cả con số mộ phần của tử sĩ VNCH mà NCK cho là 14.000 vào năm 2005, xem ra không hẳn là con số chắc chắn, dù đã qua nhiều cuộc tiếp xúc "hòa hợp, hoà giải". Hay đây cũng chỉ là câu phát biểu "cảm hứng" chỉ dành cho phóng viên? Hay NCK cũng có cũng có cùng lòng "thiện cảm" của kẻ chiến thắng?
Hành Khất (danlambao) - Niềm hy vọng mong chờ một đặc ân trong hòa hợp hòa giải dân tộc từ phía nhà cầm quyền đương thời, cho những phần mộ của chiến sĩ "được nằm yên" trong Nghĩa trang Quân đội Biên hòa, là một điều rất mong manh - chắc không bao giờ là hiện thực. Vả lại Việt Nam hôm nay có quá nhiều thay đổi; sức mạnh đồng tiền (đô la) không còn là hư ảo trong chủ nghĩa xã hội nữa, mà nó hiển hiện một cách trung thực, rõ ràng, và mãnh liệt nhất, hơn cả sinh mạng con người đang sống. Thì làm sao, có thể đặt chút hy vọng vào một đặc ân nào đó cho người quá cố của chế độ "thù nghịch" cũ!
Phần 1 (đã đăng, bấm vào đây để đọc)
A. Hàng muồng đại thụ :
B. Kế hoạch của nhà cầm quyền đương thời cho Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa :
1. Những "rặng cây xanh"
2. Dân sự hóa nghĩa trang
(Lời đính chánh : Trong Phần 1, B. , 2.: Ngày Quốc Khánh 1/11/1969 (sai sót 2 chổ trong 2. Xin cảm ơn bạn đọc đã nhắc nhở)
C. Lòng "thiện cảm" của kẻ chiến thắng (?):
Qua bài viết "Một ngày tháng Tư thăm nghĩa trang quân đội Biên Hoà" trong phần mở đầu viết rằng :
"Ba mươi lăm năm nhìn lại. Thời gian đã đủ lâu để những người đang sống thấy thấm thía nỗi đau ngăn cách. Quyết định dân sự hóa nghĩa trang quân đội cũ xem ra đã là một bước tiến khá dài cho mục tiêu hoà hợp dân tộc, hàn gắn lòng người"
Và mượn lời của nhân vật tên Kha, tiếp : "Vậy mà có những người không rõ vô tình hay ác ý đến giờ vẫn cứ lạnh lùng phân biệt"bên này" với"bên kia". Nghe đau lòng lắm. Mẹ tôi hồi còn sống cũng rất khổ tâm", ông Kha bộc bạch."
Quả thật, người sống đang thấm thía nỗi đau ! Nhưng thử hỏi lại lòng mình, của một kẻ chiến thắng : "Nỗi đau thấm thía đó, có phải họ muốn dành cho những kẻ bại trận phải chịu đựng - không chỉ là hơn 35 năm qua - khi trở lại viếng thăm những nấm mồ của người thân đã hy sinh trong chiến cuộc, nơi những nghĩa trang bị bỏ quên cho thêm hoang phế, mà không bao giờ được nhà cầm quyền đương thời chấp nhận sự trùng tu, dù chi phí hoàn toàn do sự quyên góp mà có ?"
Có lẽ, có một số người mĩm cười thú vị khi biết rằng có "những người đang sống thấm thía nỗi đau", và trong số đó là những kẻ cầm bút - viết để được sống còn mà không phải từ bất kỳ cảm nhận nào của họ, dù phải ngoa ngôn, ngụy tạo, hay sống sượng bịa đặt nhằm mê muội lòng người ngây ngô.
Và có phải chăng, quyết định dân sự hóa nghĩa trang quân đội cũ là một đặc ân cho sự hòa hợp dân tộc nhằm "hàn gắn lòng người", hay đó chính là kế hoạch muốn xóa tan dấu tích lịch sử dân tộc mà qua đó cũng là một bài học hiển thực - khiến kẻ chiến thắng lo sợ - cho thế hệ mai sau nghiền ngẫm ?
Vì một khi đã là dân sự hóa, thì nghĩa trang quân đội không còn được xem là một di tích bất khả xâm phạm. Đặc quyền đó bị tước đoạt vì những người đã phải hy sinh không bao giờ được xem là tử sĩ, mà chỉ là những cái chết rất bình thường trong xã hội, không vì bổn phận hay nghĩa vụ gì cả. Và cho dù những sự hy sinh cao đẹp đó, bị phủ nhận bởi kẻ chiến thắng, nhưng ít ra, trong số những người còn lại chắc chắn phải nghiêng mình kính phục với tất cả sự tôn trọng dành cho họ.
Vời một cái nhìn xa hơn, người ta cũng có thể thấy rằng, một khi nhà nước muốn dân sự hóa nghĩa trang quân đội cũ được tiến mau hơn, thì chỉ cần "mở cửa" tự do - không thu tiền mua đất mộ, hay chỉ lấy tượng trưng - vừa được lòng dân, và sự hòa nhập tăng lên rất mau. Từ đó, không ai không biết hay không nhìn nhận đó là nghĩa trang dân sự. Đến một thời gian sau, nếu nhà nước cần quy hoạch vùng đất nghĩa trang cho mượn tạm, thì rất hợp lý và hợp pháp. Dân địa phương sẽ cho người đến lo dời phần mộ người thân, nhưng những nấm mồ chiến sĩ của chế độ cũ có được mấy ai lo vì gia đình bị lưu lạc, phân tán, hay bần hàn trong một xã hội phân biệt nhau bằng tờ khai lích lịch ba đời. Có một nghĩa trang dân sự nào được nhà nước ra Quyết định trên văn bản, là bất khả xâm phạm không ? Hay có ai đã dám ký xác nhận, một khi dân sự hóa NtQdBH sẽ được pháp luật bảo vệ vùng đất đó vĩnh viễn không ? Dĩ nhiên là không ! Ngàn lần là không ! Như vậy, đó không phải là kế hoạch của nhà nước, vừa xóa được một vết lở, và thu lợi không ít trên vùng đất đó sao ?
Sự "lạnh lùng phân biệt" "bên này" với "bên kia" là "vô tình hay ác ý", như ông Kha nào đó nói, quả không sai. Có ai nghĩ rằng, thái độ đó là của kẻ chiến bại đang mong nhờ đặc ân thiện cảm nào đó của kẻ chiến thắng dành cho họ không ? Hay kẻ chiến thắng với quyền lực đang có, nên họ có quyền tỏ thái độ như trên ? Và sự "vô tình hay ác ý" đã và đang được thể hiện qua những tiến hành thực tế nhất đối với Nghĩa trang Quân đội Biên hòa (NtQdBH), hôm nay. Và tất nhiên, những điều đó, không thể nghĩ rằng do chính những kẻ bại cuộc, không quyền lực, nhưng đã có thể gây nên.
Và bài viết đó tiếp: "Đây là thực tế mà ông Võ Văn Sung, một trong 5 thành viên chính thức của phái đoàn Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà tham dự ký Hiệp định Paris đã nhắc tới khi nói về hoà hợp dân tộc, hàn gắn lòng người.
Trong một bài viết thu hút đông đảo sự chú ý của dư luận, ông Sung nói rằng:"Ở Việt Nam có đặc điểm là kháng chiến chống xâm lược nước ngoài kéo dài quá lâu. Riêng ở miền Nam Việt Nam liên miên gần 30 năm và ước tính có đến 90% gia đình Việt Nam có người cả hai bên. Mặt khác chiến tranh lâu năm cả nước và mỗi gia đình Việt Nam đều chịu nhiều mất mát đau thương, do đó không có cách nào khác là phải tha thứ cho nhauđể xây dựng lại, vì nếu làm ngược lại thì 90% gia đình Việt Nam phải tiếp tục đau khổ"."
Trước mặt những người đại diện trong Hiệp định Paris, Võ Văn Sung đã đứng ra lên tiếng về sự "tha thứ cho nhau" và bày tỏ sự đồng cảm cùng 90% gia đình Việt Nam. Lời kêu gọi thật là ý nghĩa, và không kém phần thiết tha ! Dường như có cả dân tộc Việt Nam đang sung sướng mĩm cười trong niềm tự hào về lòng nhân đạo mà họ có được từ lễ giáo Đông phương, trước những quan khách ngoại quốc. Chắc chắn rằng, sau đó sẽ có những tràng pháo tay cổ võ, tán thưởng, và khen ngợi dù… điều đó chưa được chứng minh qua thực hiện, nhưng người ta vẫn mong muốn và hy vọng hơn là chẳng có gì. Đáng tiếc thay, sự "tha thứ cho nhau" chỉ là một nước cờ chính trị trong hiện tình năm 1973 cho việc trao đổi tù binh chiến tranh; chớ không phải là một chính sách được áp dụng sau khi chiến tranh chấm dứt trên hai miền, mà nhiều người cứ mãi hiểu lầm khi đọc lại câu nói trên. Vì bằng chứng lịch sử gần đây ghi nhận rằng, 90% gia đình miền Nam Việt Nam phải tiếp tục đau khổ qua chính sách tập trung học tập cải tạo, qua lao tù nhục hình hạ thấp nhân phẩm, qua cưỡng bức xây dựng kinh tế mới, qua xã hội phân biệt giai cấp dựa trên tờ khai lích lịch, v.v. Và nhất là qua sự thi hành bản án cho người chết đang nằm rải rác trong những nghĩa trang quân đội nói chung, và NtQdBH nói riêng.
Bài viết cũng không quên nhắc đến lời của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, trước báo Quốc tế (Bộ Ngoại giao) về sự kiện ngày 30/04 như sau :
"Ông nói, chiến thắng tháng Tư năm 1975 là vĩ đại, nhưng Việt Nam cũng đã phải trả giá cho chiến thắng đó bằng cả nỗi đau và nhiều sự mất mát. Và đây là câu chuyện khi nhắc lại có hàng triệu người vui mà cũng có hàng triệu người buồn. Đó là một vết thương chung của dân tộc cần đươc giữ lành thay vì tiếp tục làm nó thêm rỉ máu".
Chia sẻ với trăn trở này, ông Lê Hiếu Đằng, nguyên Phó chủ tịch Mặt trận tổ quốc TP. Hồ Chí Minh (Mttq Tp HCM ) cũng lưu ý: "Nếu vẫn để căng thẳng kéo dài chắc chắn không mang lại một chút lợi ích nào về mặt tinh thần cho những người Việt Nam khắp nơi, dù thuộc bên này hay bên kia, trong hay ngoài nước".
Những lời của Võ Văn Kiệt trong vai trò Thủ tướng (1992-1997) và Lê Hiếu Đằng, Phó chủ tịch Mttq Tp HCM (1989-2009), dù trong hai hoàn cảnh khác nhau, nhưng dường như có cùng ý tưởng. Trong 17 năm đã qua, từ 1975 đến điểm thời gian 1992, và suốt 5 năm nhiệm kỳ của Thủ tướng Kiệt, cũng không đủ làm lành vết thương đang rỉ máu, nên oán hận nào đó vẫn cứ trút đổ xuống những nấm mồ chiến sĩ của chế độ cũ_ những người chết mang bản án nhân dân, và được xét xử lại trong mỗi giai đoạn nhiệm kỳ mới của Thủ tướng nào đó. Và xa hơn nữa, là thời điểm năm 2009 - khoảng thời gian mà tác giả Phong Thu trở về thăm viếng NtQdBH_ trong suốt 12 năm sau khi vai trò Thủ tướng Kiệt chấm dứt, Phó chủ tịch Mttq Tp HCM cũng không đủ sức làm giảm đi sự căng thẳng đang kéo dài vì sự mâu thuẩn trong hòa hợp hòa giải dân tộc giữa hai khối người Việt trong và ngoài nước, giữa kẻ vẫn là chiến thắng và kẻ vẫn phải là chiến bại, dù đã nhiều lần kêu gọi thoáng qua. Nên thực trạng hôm nay, 2011, so với năm 2009, của NtQdBH, dĩ nhiên, càng ngày càng thêm trầm trọng, và có nhiều biểu hiện cho một di tích lịch sử sẽ biến mất trong một ngày không xa.
Những bức hình sau đây được so sánh qua hai thời điểm khác nhau : từ nguồn của tác giả Phong Thu vào khoảng cuối tháng 12/2009 và từ nguồn trên trang mạng letungchau.blogspot vào khoảng tháng 09/2011, để chứng minh cho sự kêu gọi hòa hợp hòa giải dân tộc trong hơn 36 năm của những người mang tên "chiến thắng".
Và trong đoạn kết của bài viết "Một ngày tháng Tư thăm nghĩa trang quân đội Biên Hoà", qua lời của nhân vật tên Kha như sau :
"Xem ra, chẳng có gì quá khó."Tất cả đều ở cách con người ứng xử thế nào với nhau. Họ có đủ can đảm và dũng khí, dám vượt lên quá khứ đau buồn hay không?", ông Kha kết thúc câu chuyện với những người khách lần đầu gặp mặt."
Thoáng đọc qua đoạn kết, như có một cảm giác chợt rùng mình khi cơn gió trái mùa đi ngang, khiến cơ thể mệt mõi và nhuốm bệnh làm mất hết "can đảm và dũng khí" để "vượt lên quá khứ đau buồn", trong khi "ở cách con người ứng xử" của kẻ chiến thắng luôn là dấu hỏi. Nhưng đoạn kết đó dễ làm người ta xúc động trong một bài viết "lưu loát văn chương". Dường như điều mà mọi người muốn biết là bằng chứng hiện thực hơn là những bài viết vu vơ, vô tội vạ, hay những lời tuyên bố hùng hồn, thậm chí trong ký kết hiệp định hay dùng danh nghĩa hội viên quốc tế nào đó.
D. Công Ước Genéva và Hiệp Định về vấn đề phần mộ:
Clip phim youtube "Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hoà - Quốc Hận 30/4/1975 Phần II", có ghi lại những phần như sau :
- Công Ước Genéva được ký ngày 12/08/1949, Chương III, Điều 120, và Điều 121: nói vềtrách nhiệm chôn cất tù binh và bảo vệ phần mộ của các phe lâm chiến.
- Hiệp Định Genéva ngày 20/07/1954, Điều 23 : xác nhận trách nhiệm bảo toàn phần mộ của các tử sĩ đối phương trong lãnh thổ chiếm đóng.
- Hiệp Định Hòa Bình Paris ký ngày 17/01/1973, Điều 8 : cũng ghi rõ nhiệm vụ bảo vệ và gìn giữ phần mộ của tử sĩ phe đối địch.
Để minh xác cho sự thật, chúng ta thử duyệt qua những trích đoạn trong Công Ước, Hiệp Định nêu trên, để một lần nữa không-còn-nghi-ngại đó là cách ngụy biện của kẻ thua cuộc bày ra.
1. Công Ước ngày 12/08/1949 :
Đây là Công Ước quốc tế lần thứ tư định nghĩa một cách rộng rãi về những quyền cơ bản của tù nhân chiến tranh (dân sự và quân nhân) trong chiến tranh, thành lập sự bảo vệ cho những người bị thương tích và dân sự trong vùng chiến, kể cả những nầm mồ, hài cốt của người tham chiến hay không dự phần. Công Ước nầy được những nước là thành viên của Liên Hiệp Quốc ứng dụng trong thực thi lòng nhân đạo nhằm xoa dịu phần nào những đau thương, thống khổ, và mất mát trên cả hai phần của con người : vật chất/ (thể chất) và tinh thần. Dù trong chiến tranh, người ta cố gắng bảo vệ lý tưởng nào đó, nhưng trong đoạn kết, ngay cả kẻ chiến thắng cũng cảm thấy quá mõi mệt để đeo đuổi nó, khi nhìn lại những xác chết, nấm mồ của bạn-và-thù chưa từng quen biết.
Nguồn trên trang mạng http://www.icrc.org có đăng toàn bộ Công Ước. Trong Phần IV: Mức hạn của sự giam cầm, Mục III: Sự tử vong của các tù nhân chiến tranh, và…
a. Điều 120 có những đoạn như sau :
"… The burial or cremation of a prisoner of war shall be preceded by a medical examination of the body with a view to confirming death and enabling a report to be made and, where necessary, establishing identity.
The detaining authorities shall ensure that prisoners of war who have died in captivity are honourably buried, if possible according to the rites of the religion to which they belonged, and that their graves are respected, suitably maintained and marked so as to be found at any time. Wherever possible, deceased prisoners of war who depended on the same Power shall be interred in the same place.
Deceased prisoners of war shall be buried in individual graves unless unavoidable circumstances require the use of collective graves."
Tạm dịch : "… Việc chôn cất hoặc hỏa táng một tù sẽ được tiến hành sau một cuộc kiểm tra y tế trên thể xác với sự thẩm định để xác nhận về sự tử vong và cho phép làm bản báo cáo và, khi cần thiết, xác minh sự nhận dạng
Các nhà chức trách giam giữ sẽ phải bảo đảm rằng các tù binh, những người đã tử vong trong sự giam cầm, được chôn cất một cách vinh dự, nếu có thể, theo các nghi thức của tôn giáo của họ, và phần mộ của họ được tôn trọng, duy trì một cách phù hợp và đánh dấu để có thể tìm lại được trong bất kỳ thời gian nào. Bất cứ khi nào có thể, những tù binh quá cố, những người dựa vào cùng chính quyền sẽ được táng cùng một nơi.
Những tù binh quá cố sẽ được chôn trong những phần mộ riêng lẽ, trừ khi trong hoàn cảnh không thể tránh được, đòi hỏi phương cách của ngôi mồ tập thể."
Trong trích đoạn của Điều 120 ở trên, có nhắc đến trách nhiệm của nhà chức trách trong tinh thần nghĩa vụ quốc tế về sự chôn cất, bảo vệ phần mộ đối phương, và "lòng cao thượng" của họ nên được thể hiện qua sự tôn trọng những chiến binh quá cố, sự đồng cảm về tình đồng đội. Và để nhấn mạnh thêm về trách nhiệm chăm sóc phần mộ là của nhà cầm quyền, phần cuối của Điều khoản viết :
"… Responsibility for the care of these graves and for records of any subsequent moves of the bodies shall rest on the Power controlling the territory, if a Party to the present Convention"
Tạm dịch : "… Trách nhiệm cho việc chăm sóc các phần mộ và hồ sơ của bất kỳ sự xê dịch xác chết tiếp theo sau đó sẽ vẫn là của nhà cầm quyền đang kiểm soát lãnh thổ, nếu nhóm đảng tham gia Công Ước này."
b. Điều 121 có đoạn :
"Every death or serious injury of a prisoner of war caused or suspected to have been caused by a sentry, another prisoner of war, or any other person, as well as any death the cause of which is unknown, shall be immediately followed by an official enquiry by the Detaining Power
… If the enquiry indicates the guilt of one or more persons, the Detaining Power shall take all measures for the prosecution of the person or persons responsible."
Tạm dịch : "Mỗi cái chết hoặc sự chấn thương nghiêm trọng của tù binh bị xãy ra hoặc nghi ngờ rằng đã bị gây ra bởi lính gác, tù binh khác, hoặc bất kỳ người nào khác, cũng như bất kỳ cái chết nào từ nguyên nhân chưa được biết, sẽ phải được theo dõi ngay lập tứcbởi công cuộc điều tra chính thức của nhà cầm quyền."
… Nếu cuộc điều tra chỉ rỏ tội của một hoặc nhiều người, nhà cầm quyền sẽ phải tiến hành các biện pháp truy tố cá nhân hoặc những người có trách nhiệm."
Trong Điều 121, nói về "trách nhiệm" của nhà cầm quyền đối với "cái chết" của tù binh, dù với lý do nầy hay lý do khác, nhưng đó vẫn là trách nhiệm của họ !
2. Hiệp định Genéva ngày 20/07/1954, Điều 23:
Đây là một Hiệp Định mà hầu hết người dân Việt biết đến, vì nó đánh dấu sự chia cắt hai miền Nam-Bắc nơi vĩ tuyến 17, cùng những đoàn người xuôi ngược giữa hai miền trước khi bước vào giai đoạn "hận thù" nhau, hơn nửa thế kỷ qua.
Từ nguồn http://www.usshancockcv19.com/histories/xodesk3.htm là toàn bộ Hiệp Định 54. Một phần trích đoạn trong Điều 23 như sau :
"In cases in which the place of burial is known and the existence of graves has been established, the Commander of the Forces of either party shall, within a specific period after the entry into force of the Armistice Agreement, permit the graves service personnel of the other party to enter the part of Vietnam territory under their military control for the purpose of finding and removing the bodies of deceased military personnel of that party, including the bodies of deceased prisoners of war. The Joint Commission shall determine the procedures and the time limit for the performance of this task. The Commanders of the Forces of the two parties shall communicate to each other all information in their possession as to the place of burial of military personnel of the other party."
Tạm dịch : "Trong những trường hợp mà trong đó các địa điểm mai táng được biết đến và sự tồn tại của ngôi mộ đã được xây dựng, Tư lệnh Lực lượng của cả hai bên, trong khoảng thời gian cụ thể sau khi sự ghi nhận danh mục trở nên có hiệu lực trong Hiệp Định đình chiến, sẽ phải cho phép các nhân viên phục vụ mộ phần của bên kia vào phần lãnh thổ Việt Nam dưới sự kiểm soát quân sự của họ cho mục đích của việc tìm kiếm và di chuyển xác của những quân nhân quá cố của bên đó, bao gồm xác của các tù binh đã mất. Ủy ban Hợp tác sẽ quyết định phương thức và thời hạn để thực hiện nhiệm vụ này. Tư lệnh Lực lượng của hai bên sẽ trao đổi với nhau tất cả các thông tin của họ như là nơi chôn cất các quân nhân của bên kia."
Qua Điều 23, có nói về quyền hạn của nhân viên phục vụ mộ phần vào Nam hay ra Bắc, nhưng phải tuân theo phương thức và thời hạn của nhà cầm quyền trên miền của họ. Có nghĩa, dường như nó chỉ có hiệu lực trong thời gian ấn định nào đó, vì khi chiến tranh bùng nỗ sau 1954, xem như Hiệp Định 54 đã hết hữu hiệu.
3. Hiệp định Paris ký ngày 17/01/1973, Điều 8 :
Và đây cũng là một Hiệp Định được biết đến với đại đa số dân Việt. Hiệp Định nầy là cả sự hảnh diện của chình quyền Hà Nội trong thế chính trị khôn ngoan đã buộc Hoa Kỳ lui bước khỏi miền Nam Việt Nam và trói tay quân lực Việt Nam Cộng Hòa với tên gọi Hiệp Định Đình chiến Hòa Bình.
Cũng từ nguồn http://www.mtholyoke.edu/acad/intrel/vietnam/treaty.htm cung cấp một bản sao đầy đủ những Chương, Điều khoản. Trong đó, Điều 8 được viết như sau :
"(a) The return of captured military personnel and foreign civilians of the parties shall be carried out simultaneously with and completed not later than the same day as the troop withdrawal mentioned in Article 5. The parties shall exchange complete lists of the above-mentioned captured military personnel and foreign civilians on the day of the signing of this Agreement.
(b) The parties shall help each other to get information about those military personnel and foreign civilians of the parties missing in action, to determine the location and take care of the graves of the dead so as to facilitate the exhumation and repatriation of the remains, and to take any such other measures as may be required to get information about those still considered missing in action.
(c) The question of the return of Vietnamese civilian personnel captured and detained in South Viet-Nam will be resolved by the two South Vietnamese parties on the basis of the principles of Article 21 (b) of the Agreement on the Cessation of Hostilities in Viet-Nam of July 20, 1954. The two South Vietnamese parties will do so in a spirit of national reconciliation and concord, with a view to ending hatred and enmity, in order to ease suffering and to reunite families. The two South Vietnamese parties will do their utmost to resolve this question within ninety days after the cease-fire comes into effect."
Tạm dịch : "(a) Sự trao trả quân nhân, thường dân nước ngoài bị bắt của các bên sẽ được tiến hành cùng lúc và hoàn tất không muộn hơn trong cùng ngày khi quân rút lui, được đề cập tại Điều 5. Các bên sẽ trao đổi danh sách đầy đủ những quân nhân và thường dân nước ngoài bị bắt nói trên vào ngày ký kết Hiệp định này.
(b) Các bên sẽ giúp đỡ lẫn nhau để có tin tức về những quân nhân và thường dân nước ngoài của các bên bị mất tích trong trận chiến, để xác định vị trí và chăm sóc các ngôi mộcủa người chết nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc khai quật và hồi hương các bộ hài cốt, và để thực hiện bất kỳ biện pháp khác như có thể được yêu cầu góp nhặt tin tức về những người vẫn được xem là mất tích trong trận chiến.
(c) Những câu hỏi về sự trao trả nhân viên dân sự Việt bị bắt và bị giam giữ ở miền Nam Việt-Nam sẽ được giải quyết do hai đảng phái của miền Nam Việt Nam trên cơ sở các nguyên tắc của Điều 21 (b) của Hiệp Định về sự đình chiến ở Việt Nam ngày 20 tháng bảy, 1954. Hai đảng phái của miền Nam Việt Nam sẽ làm như vậy trong một tinh thần quốc gia hòa giải và hòa hợp, với một quan điểm chấm dứt thù hận và thù nghịch, nhằm giảm bớt đau khổ và đoàn tụ với gia đình. Hai đảng phái của miền Nam Việt Nam sẽ làm hết sức mình để giải quyết câu hỏi này trong vòng chín mươi ngày sau khi lệnh ngưng bắn có hiệu lực."
Vì đây là Hiệp Định giữa bốn bên (Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng Hòa, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam_ Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam hay Việt Minh_, và Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa) nên có những Điều khoản rất dễ làm người đọc hiểu sai, vì đôi khi cả ba bên được nói đến trong cùng một Điều khoản, hoặc chỉ nói đến 2 bên. Như trong Điều 23, phần (a) và (b) ứng dụng cho 3 bên (hơn là 4 bên, hay chỉ 2 bên Nam-Bắc), và phần (c) dành cho 2 bên, nhưng chỉ ứng dụng trong miền Nam giửa 2 nhóm thế lực.
Và Điều 23(b) cũng nhắc đến sự giúp đỡ lẫn nhau giữa các bên trong việc khai quật, hồi hương hài cốt, và chăm sóc phần mộ. Cũng như tin tức về những người mất tích trong chiến tranh.
Xét qua những Điều khoản trên, đều có nhắc đến "phần mộ", và tùy theo mục đích của Công Ước hay Hiệp Định vấn đề đó được nhấn mạnh, hay chỉ sơ sài chi tiết. Cho dù là vậy, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã là thành viên của Liên Hiệp Quốc từ ngày 20/09/1977 nhưng vẫn cố tình không thực hiện những Điều khoản trong Công Ước Genéva quốc tế, và Hiệp Định đã từng ký kết về phần mộ của các tù nhân chiến tranh, hay chiến sĩ đối phương.
Điều nầy chắc chắn sẽ gây nên trở ngại cho những cuộc bang giao của Việt Nam với quốc tế, ngoại trừ với khối cộng sản bé nhỏ. Sự tín nhiệm của nước khác vào Việt Nam trong cương vị là một thành viên của Liên Hiệp Quốc, sẽ là một dấu hỏi không nhỏ. Nhất là khi NtQdBH - một nghĩa trang bậc quốc gia của chế độ cũ, còn sót lại - bị xóa mất dấu tích, sẽ khiến quốc tế có cái nhìn e ngại hơn về lòng nhân đạo của Việt Nam.
Thử nhìn lại một góc cạnh nhỏ trong bối cảnh sau khi Hiệp Định Paris 1973 đã được ký kết, để có thể phán xét, ai là kẻ gây nên chiến tranh, trong sự công bằng và sự thật của lịch sử. Theo Wikipedia, "Le Duc Tho", bản tiếng Anh, có đoạn như sau :
"Lê Đức Thọ and Henry Kissinger were jointly awarded the 1973 Nobel Peace Prize for their efforts in negotiating the Paris Peace Accords. However, Thọ declined to accept the award, stating, "There was never a peace deal with the U.S. We won the war."
Tạm dịch : "(Trưởng ban Tổ chức Trung ương, Chính khách VNDCCH) Lê Đức Thọ và (Bộ Trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ) Henry Kissinger cùng được trao chung giải Hòa Bình Nobel năm 1973 cho những nỗ lực của họ trong cuộc đàm phán Hiệp định Hòa bình Paris. Tuy nhiên, Thọ đã từ chối chấp nhận giải thưởng, nói rằng "Không bao giờ có một thỏa thuận hòa bình với Mỹ. Chúng tôi chiến thắng."
Và vẫn theo Wikipedia, "Kissinger", bản tiếng Anh, đã viết : "Tho rejected the award, telling Kissinger that peace had not been really restored in South Vietnam."
Tạm dịch : "Thọ từ chối giải thưởng, nói với Kissinger rằng hòa bình chưa thực sự được khôi phục ở miền Nam Việt Nam"
Qua câu nói của Lê Đức Thọ_ chỉ vừa sau khi ký xong Hiệp Định_ đã đủ phô diển niềm tự kiêu của kẻ hiếu chiến (xâm phạm Hiệp Định Paris, nhất là nơi Điều 15) và chỉ mong chiến thắng (tiếp tục vận chuyển bộ đội, vũ khí Trung cộng, Liên Xô vào miền Nam) hơn là xây dựng nền hòa bình thực sự như trong bản Hiệp Định mang tên Hòa Bình đó. Có lẽ, cũng vì vậy, niềm hy vọng mong chờ một đặc ân trong hòa hợp hòa giải dân tộc từ phía nhà cầm quyền đương thời, cho những phần mộ của chiến sĩ "được nằm yên" trong NtQdBH, là một điều rất mong manh - chắc không bao giờ là hiện thực. Vả lại Việt Nam hôm nay có quá nhiều thay đổi; sức mạnh đồng tiền (đô la) không còn là hư ảo trong chủ nghĩa xã hội nữa, mà nó hiển hiện một cách trung thực, rõ ràng, và mãnh liệt nhất, hơn cả sinh mạng con người đang sống. Thì làm sao, có thể đặt chút hy vọng vào một đặc ân nào đó cho người quá cố của chế độ "thù nghịch" cũ ! (?).
Hành Khất (danlambao) - Ngoài cái nghĩa trang liệt sĩ của Trung cộng ở Lạng Sơn, còn có khá nhiều những nghĩa trang nhỏ khác, được xây dựng rải rác ở những vùng tiếp giáp biên giới, và ngay cả trong Hà Nội. Điều đáng chú ý là một số những nghĩa trang đó, dù được xây dựng trong thời kỳ hai khối cộng sản Việt-Trung hợp nhau phản kháng quân đội Trung Hoa Dân quốc của Tưởng Giới Thạch, nhưng vẫn đẹp đẽ, sạch sẽ hơn gấp nhiều lần so với Nghĩa trang Quân đội Biên hòa...
Phần 2
E. Những nghĩa trang Trung-Việt:
Nếu cho rằng những ai cảm thấy bất bình khi nhìn thấy những hình ảnh về NtQdBH (như ở Phần "C -Lòng "thiện cảm" của kẻ chiến thắng (?)" trong bài nầy hay trên nhiều trang mạng khác) là những kẻ "phản động" vì nghĩa trang đó là của "bọn lính ngụy làm tay sai cho giặc Mỹ", "bọn bán nước hại dân", "bọn giết người không gớm máu tanh", v.v…
Hoặc nếu cho rằng những nhóm "thù nghịch" cố tình đưa lên mạng những hình ảnh bị sửa đổi qua photoshop hay dụng cụ phần mềm nào đó, cho thêm phần tang thương ngụy tạo để "xuyên tạc phá hoại" nhà nước với mục đích "kích động" lòng dân có thể làm "mất an ninh cho xã hội" trong "mưu đồ lật đổ chính quyền", vân vân và vân vân…
… thì xin hãy nhìn lại những hình ảnh của vài nghĩa trang Trung-Việt (dù số người Việt biết đến không nhiều) _ để có sự so sánh nào đó dấy lên trong tâm hồn dân tộc - cũng được ghi nhận trên nhiều trang mạng khác, sau đây.
Xin được trích nguyên văn vài câu viết trên mạng 12bennuoc.blogspot.com với đề tựa:
"Nghiã trang liệt sĩ người Trung Quốc ở Lạng Sơn" , 2/04/2010, mà người viết dường như quê ở Lạng Sơn :
"…Sáng sớm đọc cái tin nghĩ là lại tin vịt cho vui, ai ngờ nhìn tấm hình nghĩa trang liệt sĩ Trung Quốc, phải nó bằng chữ Hoa thì mình còn nghĩ ai đó xuyên tạc "diễn Nôm" nhưng rõ ràng là tiếng Việt.
Người Việt Nam với nhau, chiến sĩ hai bên chết không biết bao nhiêu mà kể, còn mỗi cái nghĩa trang ở Thủ Đức của Việt Nam Cộng Hoà thì bị bỏ phế bao nhiêu thập niên, chỉ có thân nhân họ lén lút chăm sóc. Những nơi khác thì "đào tận gốc, trốc tận mồ" người ta. Trong khi đó thì trang trọng xây nghĩa trang cho kẻ thù.
Chưa kể bao nhiêu người lính Quân đội Nhân Dân đã chết để gìn giữ đất nước năm 1979 thìbị chết bờ chết bụi che dấu ở góc xó xỉnh nào đó như bài báo năm nào đã đăng. Không rõ Lạng Sơn có nghĩa trang nào dành riêng cho các chiến sĩ đã chết vì cuộc chiến tranh ấy hay không?"
Trên trang mạng anhbasg với tiêu đề "Mời TQ dự Lễ dâng hương Liệt sĩ Trung cộng ở VN !", ra ngày 31/03/2010", được sao lại từ vietland.net có đoạn như sau :
"Trung Quốc chủ tâm gây ra cuộc chiến ngày 17/2/1979. Trung Quốc theo lệnh của Đặng Tiểu Bình, muốn dạy cho Việt Nam một bài học vì đã đưa quân sang xâm lấn Cam-pu-chia. Cuộc chiến gây ra thiệt hại rất nặng cho cả 2 nước. Trung Quốc tổn hại nặng về binh lính (26 ngàn chết, 37 ngàn bị thương và 265 bị bắt làm tù binh), còn Việt Nam bị thiệt hại lớn về sinh mạng, đặc biệt của dân thường (2000 bộ đội và hơn 28 ngàn thường dân chết, 32 ngàn bị thương, 1.638 bị bắt), quân Trung Quốc đã phá tan nhà cửa tại Lào Cai, Đồng Đăng, Lạng Sơn, san bằng bình địa thị xã Cao Bằng trước khi rút và đặc biệt về lãnh thổ thể hiện trong Hiệp ước biên giới Việt Trung ngày 30-12-1999. Thê thảm nhất là ở Bát Xát, Lào Cai, hàng trăm phụ nữ trẻ em bị hãm hiếp, bị giết chết một cách dã man ngay trong ngày đầu tiên quân Trung Quốc tiến sang. Tất cả đều bị kết liễu sinh mạng bằng dao, đa phần bị ném xuống giếng, xác bị chặt ra nhiều khúc. Tuy rút về phía biên giới, Trung Quốc vẫn tiếp tục pháo kích vào làng xóm Việt Nam và chiếm đóng những cao điểm chiến lược vùng biên giới, dẫn đến nhiều xung đột đẫm máu kéo dài tới năm 1988."
Tuy nhiên, có những trang mạng khác "phản bác" kịch liệt vì cho rằng những hình ảnh của nghĩa trang ở trên, chỉ là sự biểu hiện tình hữu nghị Việt-Trung trong những năm kháng chiến chống Mỹ. Nhưng qua hình ảnh với những cây trồng còn non nhỏ, và sự tươm tất, tương đối mới mẻ của bệ liệt sĩ, cổng nghĩa trang, cho thấy rằng lý luận "phản bác" trên dường như không đứng vững.
Hai vòng hoa "kính biếu" viết rõ là của xã Đề Thám, cho biết đó là một xã thuộc thị xã Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng, cũng chính là nơi từng bị "san bằng bình địa" trong đoạn trích ở trên, trước khi quân Trung cộng rút về lãnh thổ họ. Chứng minh của chiến tích vẫn còn đó, nhưng tủi nhục vẫn còn ghi lại đậm nét hơn qua "Nghĩa trang liệt sỷ người Trung quốc" ngay trên vùng đất bị quân Trung cộng "phá tan nát nhà cửa"; tuy vậy xã Đề Thám đã thay mặt đảng, nhà nước, và cả nhân dân Việt Nam đến tưởng niệm những liệt sĩ Trung cộng, những kẻ đã từng đối xử với dân Việt bằng cách… "hàng trăm phụ nữ trẻ em bị hãm hiếp, bị giết chết một cách dã man" và "… Tất cả đều bị kết liễu sinh mạng bằng dao, đa phần bị ném xuống giếng, xác bị chặt ra nhiều khúc". Dù sao đi nữa, đảng vẫn tồn tại, không ai bị tổn thương hay mất xác và nhất là không bị sức mẽ chút nào trong tình hữu nghị tốt đẹp đó. Vì "Việt Nam bị thiệt hại lớn về sinh mạng, đặc biệt là dân thường" thôi !
Trên trang mạng tumasic.blogspot, với bài viết "Lạng Sơn:Mời Trung Quốc sang dâng hương tưởng niệm các "liệt sĩ" Trung Quốc sang xâm lược Việt Nam năm 1979", 2/04/2010, có đoạn như sau :
"Cùng với dịp Tết Thanh minh 2010, tỉnh Quảng Ninh (tỉnh tiếp giáp với trung Quốc) cũng chỉ đạo Sở Ngoại vụ phối hợp với Liên hiệp các tổ chức hữu nghị tỉnh và Đại sứ quán Trung Quốc tổ chức thăm viếng nghĩa trang liệt sỹ Trung Quốc tại Cẩm Phả,Quảng Ninh."
Và để bày tỏ thêm lòng thành của nhà nước đối với Trung quốc, qua lễ "Miếu Hội Phục Ba Tướng Quân" tại Đông Hưng (thành phố giáp giới cửa khẩu Móng Cái của Việt Nam) có sự tham gia của Đoàn nghệ thuật phía Việt Nam (theo trang mạng tumasic.blogspot.com). Qua bài viết "Có nỗi nhục nào bằng nỗi nhục này: Hai Bà Trưng sang Trung Quốc cúng tế, ca ngợi, tạ tội tướng giặc Mã Viện", có đoạn :
"Thời gian gần đây, quan hệ giữa Việt Nam - Trung Quốc được nhiều người chú ý sau khi các tin tức động trời như việc một đoàn nghệ thuật Quảng Ninh sang miếu Phục Ba( tức tướng giặc Mã Viện từng sang cướp nước ta) tại Quảng Tây, Trung Quốc để "lên đồng" cúng tế linh hồn tướng này cũng như ca ngợi công đức của tướng giặc đó"
(Cùng những nữ tướng thuộc quyền của Hai Bà Trưng : Ngọc Phượng Công Chúa, Khâu Ni Công Chúa, Bà Chúa Bầu, Đệ Bát Vị Đông Cung, Ngọc Lâm Công Chúa, Thiều Hoa v.v... Tất cả được chính phủ Việt Nam gửi sang Quảng Tây thăm Mã Viện. Màn chập chén truyền thống Việt Nam!) (Theo nguyên văn).
(Đến màn quy thuận Hán tộc, Hai Bà Trưng phục trang Kinh tộc thiểu số theo hầu rượu, dâng kiếm cho Mã Viện.)(Theo nguyên văn)
Ngoài cái nghĩa trang liệt sĩ của Trung cộng ở Lạng Sơn, còn có khá nhiều những nghĩa trang nhỏ khác, được xây dựng rải rác ở những vùng tiếp giáp biên giới, và ngay cả trong Hà Nội. Điều đáng chú ý là một số những nghĩa trang đó, dù được xây dựng trong thời kỳ hai khối cộng sản Việt-Trung hợp nhau phản kháng quân đội Trung Hoa Dân quốc của Tưởng Giới Thạch, nhưng vẫn đẹp đẽ, sạch sẽ hơn gấp nhiều lần so với NtQdBH. Và đây lại thêm một phát hiện "ngạc nhiên" về "Nghĩa trang liệt sĩ người Trung quốc" khác, được đăng tại boxitvn7.blogspot, 3/07/2011, được sao chép lại từ MaiThanhHải blog. Tác giả bài viết cũng không giấu sự "thú vị bất ngờ" khi khám phá ra cái nghĩa trang nầy. Theo tác giả, có thể đó là nghĩa trang của người Trung quốc trong những năm 60-70 qua miền Bắc giúp xây dựng công trình, và vị trí được xác định nằm ở huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái, như sau :
"Nghĩa trang Liệt sĩ người Trung Quốc, nằm ở bên đường 32 (Ba Khe, Văn Chấn, Yên Bái), phía bên phải hướng Hà Nội (TP.Yên Bái) lên Nghĩa Lệ, Mù Căng Chải (Yên Bái) và sau đó tỏa về Lào Cai hoặc chạy thẳng lên Lai Châu."
Và thêm vài hình ảnh của những nghĩa trang khác, được đăng trên vantholacviet.org, qua bài viết "Nhân dân Việt Nam đời đời nhớ ơn các liệt sĩ Trung Quốc" , 18/02/2009. Theo tác giả Long Trần :
"Nghĩa trang liệt sĩ Long Châu (Thủy Khẩu) tiếp giáp với tỉnh Cao Bằng, là nơi đã xảy ra giao tranh ác liệt với Việt Nam trong chiến tranh biên giới 1978-1988."
Trang mạng lienmangvietsan.50webs.com, có phần chú thích chi tiết về Cổng Lão Sơn, như sau :
"Cổng Lão Sơn, thuộc huyện Ma Lật Pha, tỉnh Vân Nam, giáp giới tỉnh Hà Giang ở phía tây, cách Long Châu thuộc tỉnh Quảng Tây ở phía đông khoảng 200 km. Đặt biệt có lính gác"
"…Lão Sơn, phía Việt Nam gọi là Núi Đất, nơi giao tranh năm 1984-1991, và đã mất về tay TQ. Là 1 trong 6 cao địa, theo Lê Công Phụng trả lời báo Văn Hóa ngày 23/9/2008, khi ký Hiệp Ước Biên Giới Trên Đất Liền năm 1999, CSVN đã nhượng luôn cho TQ với lý do họ đã xây công sự (nghĩa trang…) trên đó
"…Sau chiến tranh năm 1984-1991, TQ chiếm đóng Lão Sơn, lập nghĩa trang, không trả lại! Trung Quốc đã chiếm được một số điểm cao chiến lược dọc biên giới như ở các huyện Vị Xuyên, Yên Minh (tỉnh Hà Giang) và Cao Lộc, Tràng Định (tỉnh Lạng Sơn). Các cuộc lấn chiếm này đã được hợp pháp hóa qua Hiệp Ước Biên Giới Trên Đất Liền năm 1999."
Qua bản tin trên, tất cả đã nói đủ, và rỏ ràng… đến nghẹn lời, nên không cần thêm từ gì nữa. Chúng ta đã từng học cách cố nuốt trôi, mà không dám "ngậm"… ngùi nỗi khó. Thì dù có thêm một lần… thắt lại cơn đau, cũng ráng cắn răng chịu đựng. Trừ khi, cơn đau đã quá đầy, cần phải phá vỡ, đó mới chính là sự thử thách giữa sống và chết để lành hẳn những vết thương "khó thể quên" .
Lại thêm một thông tin về nghĩa trang lạ, tại xã Tân Dĩnh, huyện Lạng Giang (tỉnh Bắc Giang) qua bài viết "Chuyện ở nghĩa trang quốc tế lạ nhất Việt Nam", 21/07/2011, từ nguồn Nhà Báo & Công Luận như sau:
"… Khu nghĩa trang Triều Tiên rộng 2ha tọa lạc trang trọng trên đồi Rừng Hoàng (thuộc xã Tân Dĩnh) là nơi an nghỉ của 14 chiến sỹ không quân CHDCND Triều Tiên hy sinh trên bầu trời Việt Nam trong những năm chiến tranh ác liệt nhất"
"… Mặc dù hài cốt của họ đã được chuyển về Tổ quốc, nhưng ngày thương binh– liệt sỹ (27/7) năm nào địa phương cùng nhân dân xung quanh nghĩa trang cũng đến thắp hương và viếng họ." (!???)
Trong thời kỳ phong kiến, khi một triều đại mới lên ngôi sau những cuộc chiến tranh giành quyền lực, kẻ thắng trận thường dành cho những người thua cuộc những cách trả thù tàn bạo, và nhiều cách hạ nhục, thậm chí vô nhân tính, ngay cả đối với đã người chết hay phần mộ tổ tiên của kẻ thù. Những điều nầy không lạ gì với người Việt qua phim ảnh, sử truyện Tàu, và ảnh hưởng không kém trong tư tưởng người cầm quyền dưới vài triều đại thời xưa mà qua đó, lịch sử luôn phán xét phân minh giữa công và tội. Nhưng hôm nay, trong thế kỷ 21 nầy, những điều đó vẫn tồn tại trong xã hội Việt Nam, được che đậy bằng những hư từ mới mẻ khác, nhưng không giấu được sự gượng ép, giả tảo, để dựa vào lý luận theo chiều hướng ngụy biện nhằm đánh lạc hướng sự hiểu biết của dân vốn đã được mở rộng hơn với tư tưởng phóng thoáng, dung hòa, và nhân hậu mà cũng là bản sắc thuần túy người Việt của ông cha để lại.
Có thể nghĩ rằng, trong thời phong kiến, vì sự tiếp cận giữa hai nước Việt và Trung quá gần gủi, ngoài ra không biết một nền văn hóa tân tiến nào khác, nên khó tránh khỏi sự tiêm nhiễm trong cách hành xử. Dù đã trải qua hơn nửa thế kỷ trong sự giao tiếp được mở rộng, qua những chuyến công du, thăm viếng nước khác bao gồm những nước tự do hay trong khối cộng sản, nhưng nhà cầm quyền hiện nay vẫn chưa tiếp nhận được một tư tưởng cởi mở, bao dung, và hòa hợp đúng nghĩa như những nước khác đã từng thể hiện; tiêu biểu nhất là sau thế chiến lần thứ 2 khi trật tự được ổn định.
Bằng chứng thực tiển là những nghĩa trang lịch sử được xây dựng dành cho cả hai phía đối kháng, ngay cả một số thường dân bị lâm nạn trong giai đoạn đó. Và điều nầy hoàn toàn không giống như Nghĩa trang Triều Tiên ở vùng Bắc Giang, vì đó chỉ là những ngôi mộ trống không, vô ý nghĩa, chỉ là những cái hộp gỗ rỗng toét, không có một nắm xương thay linh hồn nào trong đó. Nhưng nhà cầm quyền Việt Nam vẫn kính ngưỡng tôn thờ khói hương, và hàng đoàn cán bộ có chức vụ kéo nhau đi thăm viếng… những cái "hộp ma" (?).
Nếu có ai nhìn thấy và biết ra, họ không ngại sẽ bị cho là lố bịch sao ? Chuyện thật tưởng như đùa. Những người đi viếng ắt hẳn là quan khách, chắc họ không dám xem là chuyện giởn chơi, ngược lại, phải tỏ ra lòng thành kính qua gương mặt buồn thảm như thật ! Nếu vậy, cần gì nhà nước bỏ công vất vả xin tiền "kẻ thù đế quốc Mỹ", hao tốn nhân lực, hành chánh, đi tìm những hài cốt binh sĩ bộ đội ? Trong khi, cũng có thể tưởng niệm họ qua những cái "hộp ma", khúc cây, hay hòn đá nào đó, dù thân xác, nắm xương họ còn trong khe hóc, rừng rậm, hay đầm lầy. Thế cũng là xong phần "lễ lộc" ! Mọi người cứ tha hồ viếng điếu những chiếc hộp trống không mang đủ tên khác nhau trong nghĩa trang, thì cũng chẳng hại gì ai ! Vì không nói ra, có ai biết; trong khi có ngàn cách khác để vẽ thêm những câu chuyện "huyền thoại" ru ngủ, mê hoặc lòng người. Có khó gì mấy ! Vì đó là những câu chuyện để nghe, để tin, chớ không phải để người dựa vào đi tìm bằng chứng. Với chỉ đạo đồng nhất từ Trung ương, thì dù có phóng đại câu chuyện Chú Cuội mới ghé chơi, thì chắc chắn cũng không ít người tin là thật.
Cũng có thể nghĩ, nhà cầm quyền Việt Nam muốn nói với thế giới rằng đảng không chỉ tôn trọng những tử sĩ, người quá cố, mà ngay cả những mộ phần… trống rỗng ! Đó là điều mà ngay cả những quốc gia tự cho là tiến bộ, văn minh cũng chưa thể hiện được "lòng nhân đạo" đến như thế ! Chỉ hơn đáng buồn là đảng luôn luôn "thích" đại diện dân. Điều nầy khiến người Việt đôi khi cũng e ngại khi nhìn thấy những hình ảnh tương phản trong những nghĩa trang lịch sử thế giới. Chúng không khoác áo vẽ nào trong sự tri ân, hay nhân đạo, như những nghĩa trang Trung-Việt, Triều Tiên, mà chỉ là đơn thuần trong ý nghĩa một nghĩa trang: nơi yên nghĩ cho những người quá cố, vì không còn biên giới phân biệt đối với người đã mất.
Hành Khất (danlambao) - "Vào ngày cuối cùng của tháng 4 năm 1975, tại nhà quàn của Nghĩa Trang còn lại hơn 60 xác chiến sĩ chưa kịp an táng. Một Chuẩn Úy vẫn ở lại, cùng với nhiều thân nhân tử sĩ có mặt, trong một hành động thật dũng cảm, thật anh hùng, nhưng đầy nước mắt, tất cả những xác ấy được chôn trong một mồ tập thể! Trong số những người có mặt và góp sức vào ngôi mộ bất đắc dĩ với vô vàn thương cảm của ngày thua trận, là một cô gái 19 tuổi đã khô cạn nước mắt, khi chôn chồng chưa cưới của cô là một Trung Úy Biệt Ðộng Quân trước đó 3 ngày. Những ngày sau đó cô vẫn ở lại bên mộ chồng với niềm thương tiếc vô biên, do vậy mà cô được góp sức vào ngôi mộ chung đó. Hiện Cô định cư ở San Jose, và cứ 2 năm 1 lần, cô về Việt Nam chăm sóc mộ chồng!..."
F. Vài hình ảnh về những nghĩa trang lịch sử thế giới :
Trở lại bài viết "Những sự thật về Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa", 9/01/2009, của Phong Thu, xin trích đoạn:
"… cuộc nội chiến của Hoa Kỳ kéo dài từ năm 1860 và kết thúc vào ngày 9 tháng 4 năm 1865. Người Mỹ vẫn còn nhớ sự tổn thất nhân mạng cao nhất là Battle of Antietam, MD, vào ngày 17/9/1862 đã khiến cho 2.700 chết, 17.000 bị thương và mất tích 1.700 người. Cuộc chiến thứ hai Battle of Gettysburg, Pennsylvania, kéo dài trong ba ngày từ ngày 1 đến ngày 3 tháng 7 năm 1863 đã làm cho 8.000 chết, 27.000 người bị thương, và 11.000 người mất tích.
Nhưng khi cuộc chiến chấm dứt, Araham Lincoln, vị tổng thống vĩ đại của Hoa Kỳ đã đọc bản tuyên ngôn xác nhận quyền bình đẳng cho mọi người không phân biệt màu da, sắc tộc và chôn cất tất cả nạn nhân cuộc chiến trong một nghĩa trang. Đến hôm nay, chính quyền Mỹ vẫn còn tìm kiếm xác của các nạn nhân trong cuộc nội chiến. Những nghĩa trang đó ở tất cả các tiểu bang có cuộc chiến xảy ra và họ rất tôn trọng người chết dù cho họ là chiến sĩ hay thường dân. Tất cả các nghiã trang đã trở thành di tích lịch sử nổi tiếng cuả Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ"
Nghĩa trang Quốc gia Arlington của Hoa Kỳ, tại tiểu bang Virginia, có tất cả 70 phân khu, trong đó có 1 phần dành riêng cho những chiến sĩ của Liên Minh miền Nam Hoa Kỳ (Confederate States), là quân đội đối kháng của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ (United States) trong cuộc nội chiến đẫm máu nổi tiếng của lịch sử Hoa Kỳ. Qua bài viết "Arlington National Cemetery" trên mạng wikipedia có đoạn :
"… Confederate soldiers buried at the Soldiers' Home and various locations within Arlington were reinterred in a Confederate section that was authorized by Congress in 1900."
"… All Confederate headstones in this section are peaked rather than rounded. More than 3,800 former slaves, called "Contrabands" during the Civil War, are buried in Section 27. Their headstones are designated with the word "Civilian" or "Citizen."
Tạm dịch : "… Những binh sĩ của Liên minh được chôn cất tại khu Gia Binh và các địa điểm khác nhau trong nghĩa trang Arlington được mai táng trong phân khu Liên minh qua ủy quyền của Quốc hội năm 1900."
"... Tất cả bia mộ của Liên minh trong phân khu này được làm đỉnh nhọn hơn là tròn. Hơn 3.800 người nô lệ trước đây, gọi là "Contrabands"("người trốn lậu") trong cuộc nội chiến, được chôn cất tại Khu 27. Bia mộ của họ được ghi khắc với chữ "Thường dân" hay "Công dân"."
Và tác giả Phong Thu viết tiếp :
"Trong thế chiến thứ 2, Đức Quốc Xã đi xâm lược khắp nơi và có 21,222 tử sĩ của quân đội Đức Quốc Xã bỏ mình trên đất Pháp. Người Mỹ và người Pháp đã đi thu lượm từng xác chết và đem chôn tại nghĩa trang La Combe ở Nomandie. Nghĩa trang đó rất uy nghi và xinh đẹp. Nó đã trở thành một di tích lịch sử của Pháp và thế giới."
"La Cambe" là một Nghĩa trang Quân đội dành cho những binh lính Đức Quốc Xã, ở gần Bayeux, Pháp. Vùng chung quanh Bayeaux được gọi là Bessin, là một địa hạt của tỉnh bang Normandy, cũng là thành phố đầu tiên được giải thoát khỏi quân đội Đức trong trận chiến Normandy lừng danh lịch sử thế giới, bước đầu cho cuộc phản công của Đồng minh. Nghĩa trang La Cambe hiện nay có hơn 21.000 tử sĩ Đức trong chiến tranh thế giới II. Và Nghĩa trang Quân đội Bayeux là nghĩa trang Anh quốc lớn nhất trong chiến tranh thế giới trên đất Pháp. Có 4.648 phần mộ, bao gồm 3.935 tử sĩ Anh và 466 Đức. Hầu hết những binh sĩ được chôn ở đó hy sinh trong cuộc tấn chiếm bờ biển Normandy (theo wikipedia, bản tiếng Anh).
Có lẽ không ai không biết nước Pháp gánh chịu hậu quả không nhỏ trong chiến tranh thế giới II, khi họ bị tấn công toàn diện và chiếm lấy bởi quân đội Đức, nhưng sau chiến tranh, dân Pháp vẫn không "hẹp lượng". Họ đi gom lại tất cả tử sĩ của hai phe đối kháng, rồi chôn cùng một nơi như trong Nghĩa trang Quân đội Bayeux. Đó là sự kiện mà người Việt Nam chúng ta cần ngẫm nghĩ ! Và nhất là nhà cầm quyền đương thời hãy tự hỏi lại giải pháp hòa hợp dân tộc của họ như thế nào mới gọi là đúng nghĩa với chính những người cùng dân tộc mình trong chế độ cũ, trong khi sự phân biệt những tử sĩ của hai miền Nam-Bắc còn mang nặng chữ "thù nghịch"? Dù rằng trong số những tử sĩ của miền Nam cũng có những người thân đã nằm xuống trong "sứ mạng giải phóng", hay đang phục vụ cho chính quyền đương thời, nhưng nhà nước vẫn cố tình làm ngơ trước những nỗi đau âm thầm đó. Có thể ước lượng không chỉ khoảng hơn 500.000 gia đình trong miền Nam phải phục vụ cho cả hai phía, theo lời của Võ Văn Sung, ở phần trên, là 90% gia đình Việt Nam có người cả hai bên; như vậy không sao tránh khỏi những viên đạn vô tình ghim vào chính người thân gần nhất của họ. Những hình ảnh nầy là có thật và sống động hơn cả trong cuộc nội chiến của Hoa Kỳ. Và đó cũng là nguyên nhân chính trong cuộc thảm sát Mỹ Lai đã xảy ra một cách đáng tiếc bởi quân đội Hoa Kỳ. Dù rằng từ bao năm mãi đến hôm nay (2011), những người lính đó đã bày tỏ lòng hối tiếc qua việc xây dựng khu tưởng niệm, trường học, nhà thương, đường xá, giúp đỡ hội từ thiện, viện mồ côi, v.v. và hàng năm trở lại viếng thăm, thắp nhang cầu xin được thứ lỗi nơi những người mà họ cũng có thể dẫn dụ binh lính Hoa Kỳ vào tử địa vì tin tưởng qua sự làm quen thân thiện với trẻ con, phụ nữ, người già.
Quân đội Đức gieo kinh hoàng khắp thế giới, hầu như ai ai cũng thù ghét, và sẵn sàng hy sinh để đánh đuổi họ ra khỏi những đất nước mà họ đang chiếm đóng. Nhưng sau khi kết thúc thế chiến, lại chính những người dân bản xứ đó tham gia giúp đỡ những công cuộc tìm kiếm xác binh lính Đức, và chôn cất tử tế trong những nghĩa trang theo tầm vóc quốc tế. Chính những người bị bức hại, từ thể chất đến tinh thần như thế, mà họ có thể tha thứ những tử sĩ "thù nghịch" không cùng giống nòi của họ, thì tại sao sự "thù hận" nào vẫn mãi chôn chặc trong chúng ta, Việt Nam (???).
Thêm một bằng chứng nữa là Nghĩa trang Quân đội Đức Sandweiler, ở phía Nam Luxembourg (một nước nhỏ nhất Châu Âu, nằm giửa Bỉ và Đức), chứa 10.913 ngôi mộ của binh sĩ Đức trong trận chiến Bulge vào mùa Đông 1944, và mùa Xuân 1945. Trong số đó có 5.599 tử sĩ Đức được chôn cất bởi Cơ quan phục vụ phần mộ của Hoa Kỳ trong thời gian chiến tranh (theo wikipedia, bản tiếng Anh).
Một lần nữa, xin nhìn lại những ngôi mộ tử sĩ trong Nghĩa trang Quân đội Biên Hoà (NtQdBH). Một nghĩa trang sơ xác, buồn thảm, hoang tàn với những đống lá mục, dù đã được một số thân nhân, bạn hữu, đồng đội hay nhóm người không không quen thuộc đã bỏ tiền ra mướn người làm cỏ, đấp đất, xây mộ, dựng bia. Hoàn toàn không có sự nhúng tay giúp đỡ của nhà cầm quyền. Thậm chí, họ luôn luôn bị theo dõi, dóm ngó mỗi khi có dịp ra vào NtQdBH. Đáng thương nhất là những thân nhân ở Việt Nam của người quá cố khi trên mặt họ dường như đã được "đánh dấu" là gia đình ngụy; họ luôn lo sợ bị xem là "có ý phản động" nên phải lén lút, âm thầm dựng lại tấm bia ngã đổ, hay bứt vội vài nắm cỏ trên mộ đến chảy máu tay; rồi cũng vội vàng lén lút ra về với gương mặt lem nhem đất cát trong mồ hôi và những tiếng nấc nghẹn.
Thỉnh thoảng, người ta thấy có vài nén hương lạnh tanh chưa được đốt, rải rác trên những ngôi mộ. Không như cảnh người rộn ràng bên cạnh những ngôi mồ tươm tất, khói hương nghi ngút, đèn thắp khắp nơi, hoa tươi trên bệ, ở Nghĩa trang Liệt sĩ Quốc gia Trường Sơn. Không biết có mấy ai chạnh lòng khi nhìn thấy điều nầy ? Không biết có mấy ai đỏ mắt cay trước hiện thực đau lòng ? Và không biết những người cầm quyền hôm nay có cảm thấy lòng mình ray rức chút nào không ?
Hoang phế càng thêm hoang phế, như "Thanh Gươm" của Nghĩa Dũng Đài (gồm 4 phần, cao 43m, diện tích đỉnh 3m50, diện tích chân 6m) bị phá mất phần trên khoảng 13m (dùng làm chòi canh, có thể trong khoảng năm 2004), rồi lại bị cắt bỏ thêm một đoạn 10m (sau khi bộ đội rút đi, có lẽ trong khoảng cuối năm 2006), trong "Vành Khăn Tang" (cao 5m, dày 1m2) lên mốc rêu đen vì mưa lệ của trời đất, của những anh linh tức tưởi cho thân phận người lính. Và có lẽ, họ cũng khóc cho quê hương, cho vận nước đang ngã nghiêng không người chèo chống, và cho dân tộc sắp gánh chịu nhục nô lệ ngàn năm lần nữa. Như một lời nguyền nào đó khi "Vành Khăn Tang" không còn thấm được lệ trời đất, khi "Thanh Gươm" bị nhổ bứng khỏi đất Nam, Thiên Linh sẽ biến mất, và đại họa bao trùm đất Việt ?
Tác giả Phong Thu cho biết thêm về sự phát hiện "ngôi mồ tập thể" qua sự hướng dẩn của chàng thanh niên địa phương chăm sóc mộ phần trong NtQdBH. Ngôi mồ tập thể đó là một gò đất cao đầy cỏ, nằm trong cuối dãy nhà nơi đóng quân của bộ đội quân khu 7 chiếm đóng mấy năm trước, lúc bấy giờ trở thành trường Cao đẳng địa phương. Những chiến sĩ của VNCH được đưa về ngôi nhà xác, nhưng đã bị phá hủy, gần NtQdBH sau ngày 30/04/1975, nên người ta chôn họ vào chung nấm mồ. Có thể trong số đó là những chiến sĩ còn lại sau cùng đã tuẫn tiết anh dũng khi biết rằng họ không còn cách lựa chọn nào khác, hay là những chiến binh can đảm đã tử thủ bên phòng tuyến công sự đơn sơ đến khi không còn cảm giác loạt đạn sau cùng đi qua, hay là những chiến sĩ thế cô trước hàng trăm, hàng ngàn nòng súng, để phải nhận lãnh phát "ân huệ" lạnh lùng.
Trong bài viết "Nghĩa Trang Quân Ðội Biên Hòa", 01/2003, trên tonghoithuduchaingoai.com, có phần nói về ngôi mồ tập thể nầy :
"Vào ngày cuối cùng của tháng 4 năm 1975, tại nhà quàn của Nghĩa Trang còn lại hơn 60 xác chiến sĩ chưa kịp an táng. Một Chuẩn Úy vẫn ở lại, cùng với nhiều thân nhân tử sĩ có mặt, trong một hành động thật dũng cảm, thật anh hùng, nhưng đầy nước mắt, tất cả những xác ấy được chôn trong một mồ tập thể! Trong số những người có mặt và góp sức vào ngôi mộ bất đắc dĩ với vô vàn thương cảm của ngày thua trận, là một cô gái 19 tuổi đã khô cạn nước mắt, khi chôn chồng chưa cưới của cô là một Trung Úy Biệt Ðộng Quân trước đó 3 ngày. Những ngày sau đó cô vẫn ở lại bên mộ chồng với niềm thương tiếc vô biên, do vậy mà cô được góp sức vào ngôi mộ chung đó. Hiện Cô định cư ở San Jose, và cứ 2 năm 1 lần, cô về Việt Nam chăm sóc mộ chồng! "
Qua đó, ngôi mồ tập thể mà tác gia Phong Thu nhắc đến, có thể là gò mộ 60-tử -sĩ nầy, và chính nhân viên trong Ban Quản Trang cũng xác nhận có ngôi mồ tập thể mà nhiều người không biết đến. Tuy nhiên, điều đáng lo ngại là ngôi mồ tập thể nằm ngoài vòng đai của NtQdBH, nhưng nằm… trong quy hoạch của huyện Dĩ An. Và Huyện Ủy chỉ cho phép sửa chữa nghĩa trang trong phạm vi gia đình, không chấp nhận việc cho xây toàn bộ nghĩa trang, vì người đại diện cho Uỷ Ban Huyện Uỷ Huyện Dĩ An, lấy cớ rằng :
"Huyện đã có phương án riêng nên không thể chấp nhận cho xây toàn bộ nghiã trang."
Những "phương án riêng" của huyện Dĩ An cũng là từ cấp tỉnh Bình Dương. Trong vấn đề NtQdBH, không phải đơn thuần là một nghĩa trang dân sự, dù nó đã được khoát lên lớp áo đó; và với cái nhìn của Trung ương, luôn mang một màu sắc chính trị, thì ngay cả cấp tỉnh cũng không dám giải quyết cho xây lại toàn bộ nghĩa trang. Tuy nhiên, nếu xét về mặt "kinh tế thị trường", với cấp tỉnh cũng có thể làm được việc dễ dàng. Đến lúc nào đó, do sự yêu cầu của tỉnh nhằm phát triển về kinh tế, trung ương co thể "nhất trí" về việc quy hoạch cả khu nghĩa trang, là chuyện rất bình thường trong xã hội Việt Nam hôm nay. Vì vậy, một nhóm Việt kiều với yêu cầu không thiết thực, và phù hợp với kinh tế của huyện, tỉnh, dĩ nhiên là bị từ chối trực tiếp. Trong khi đó là vùng đất "vàng" đang chờ nhà thầu tham gia khai thác, thì khó có thể thuyết phục bằng lý lẽ của lòng nhân đạo. Trừ khi có sự trao đổi lợi lộc cân xứng và thực tế hơn từ cấp Trung ương qua những chính sách trợ giúp của Hoa Kỳ trong vấn đề tìm xác chiến binh họ ở chiến trường miền Nam, mới may ra còn chút hy vọng khôi phục lại được phần nào vùng NtQdBH vốn đã bị thu hẹp từ 125 mẫu. Và cho đến hôm nay, trong giờ phút nầy, khó có ai biết rõ chính thức còn lại bao nhiêu hecta (20 hay 58 ha như Thủ Tướng Dũng đã nói).
Khó thể quên ‼! (Phần 5)
-Hành Khất (danlambao) - Còn lại gì sau cuộc chiến tương tàn nhau, và mãi thù hận nhau ? Tại sao chúng ta không đủ cam đảm cầm lấy tay nhau, xem lại vết thương bởi viên đạn vô tình nào đó ? Tại sao chúng ta cứ mãi chạy theo những mơ hồ của chủ thuyết nào đó, mà chính nó đã bị loại bỏ gần khoảng 20 năm qua bởi chính người sáng tạo ? Chúng ta không cần chủ nghĩa gì cả. Điều mà chúng ta cần nhất hôm nay là tình dân tộc, đúng nghĩa nhất ! Vâng, chúng ta chỉ cần tiếng nói đó, cũng đủ khiến cho vạn vạn giọt lệ rơi như mưa lệ trên "Vành Khăn Tang" hôm nay. Để tấm thân không toàn vẹn của chiến binh được rung cười theo từng mạch máu, dù đã già nua hơn trong chờ đợi âm thầm. Để sẽ không bao giờ lần nữa, anh em không muốn nhìn nhận lại nhau ! Để Diên Hồng luôn là sức mạnh xua đuổi ngoại bang. Để một lần nữa, chúng ta khóc với nhau trong mừng vui như thác đổ : Việt Nam Tự Do! ...
G. Khôi phục khu đất thiêng liêng :
Trong những năm qua, người Việt hải ngoại cũng đã cố gắng bằng cách nầy hay cách khác với hy vọng khôi phục khu đất thiêng liêng Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa (NtQdBH): qua thương lượng (đề nghị), hoặc trao đổi (mua bán bất động sản).
Vì qua những chính sách quy hoạch của nhà cầm quyền vào thời điểm năm 1980 đã biến Nghĩa Trang Quân đội Mạc Đĩnh Chi (7,5 hecta) thành công viên Lê Văn Tám, vào cuối tháng 04/1983, và san bằng Nghĩa Trang Quân Đội Gò Vấp để bán cho hai công ty Nhật : Toyota, và Honda. Cũng như hàng loạt những Nghĩa trang Quân Đội, hay dân sự khác cũng nằm trong quy hoạch (nghĩa trang Chí Hòa_25 hecta, nghĩa trang Bình Thới_30 hecta, nghĩa trang Phú Thọ_40 hecta, và nghĩa trang Quân đội Pháp ở gần ngã tư Bẩy Hiền). Tất cả những nghĩa trang này với hàng trăm ngàn ngôi mộ đã bị đào sới, di dời và san bằng, không còn vết tích gì là nghĩa trang (theo vietnamnet).
Bài viết "Nghĩa Trang Quân Đội VNCH", Đỗ Sơn, có nói đến 2 lá thư gởi ngày 30/4/2007, qua bộ ngoại giao Việt Nam, cho Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng về việc khôi phục NtQdBH : một là của cựu Đại tá VNCH Vũ Văn Lộc, Giám đốc cơ quan IRCC, và thư khác của
tổ chức Quốc Gia Nghĩa Tử Heritage (được thành lập ngày 15/4/2007, thoát thai từ tổ chức Quốc Gia Nghĩa Tử Foundation). Nhưng kết quả hoàn toàn thất bại !
Trong khoảng cuối tháng 9/2011, hàng loạt trang mạng xôn xao với bản tin về những lời tuyên bố của Thượng Nghị sĩ Hoa Kỳ Jim Webb về sự ủng hộ của ông trong vấn đề yêu cầu nhà cầm quyền đương thời cho phép khôi phục khu đất thiêng liêng, NtQdBH, ngoài ra tạo áp lực với nhà nước Việt Nam trong việc tìm binh lính Việt bị mất tích, không chỉ riêng với bộ đội mà cả những tử sĩ của VNCH qua chương trình viện trợ USAID của Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ. Cùng quan niệm với Thượng Nghị sĩ Jim Webb, Thượng Nghị sĩ Patrick Leahy cũng đồng lên tiếng ủng hộ (theo bbc.co.uk, 23/9/2011, "VN cần công bằng trong hòa giải")
Được biết Cơ quan nầy đã đóng góp hơn 330 triệu đô la cho những hoạt động phát triển kỷ thuật tìm quân nhân mất tích và trợ giúp Việt Nam trong 10 năm qua (tính đến năm 2010). Và chỉ riêng năm 2010, Hoa Kỳ đã trợ cấp khoảng 1 triệu đô la cho việc nâng cao kỷ thuật khoa học cho các cán bộ nhà nước (theo bbc.co.uk, 19/11/2010, "Mỹ giúp VN tìm quân nhân mất tích")
Với khoảng trợ cấp như trên, trung bình là 33 triệu đô la mỗi năm, bắt đầu từ năm 2000, đó là chưa kể những chi viện thêm về kỷ thuật khoa học. Trong suốt 10 năm qua, với sự trợ giúp của "kẻ thù đế quốc Mỹ" Việt Nam đã tìm được một số lớn những bộ đội bị mất tích, mà không phải từ đồng chí Bắc phương, hay từ những nhà "ngoại cảm" quốc doanh. Bằng chứng là gần đây, trong khoảng 5 năm trở lại, xuất hiện vài trang mạng thông tin về những liệt sĩ được chôn cất (như teacherho.vnweblogs.com) và những nghĩa trang liệt sĩ được xây dựng khắp nơi, từ xã đến huyện, tỉnh. Thậm chí, có vài nơi "dư giả" được nhận biết qua những nghĩa trang thật "hoành tráng", "mới cáo" , và "siêu đẹp" (như thị xã Bà Rịa, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Bình, tỉnh Tiền Giang v.v)
Ngoài ra, theo phong trào dồn dập về nghĩa trang liệt sĩ, người ta nghĩ đến một "Nghĩa trang Tiên Cảnh" hiện đại nhất Việt Nam, với số vốn đầu tư chỉ khoảng… 17 triệu đô la theo dự án ban đầu (cũng có nghĩa sẽ dần tăng thêm sai kém vài chục triệu, như những dự án khác đã từng xãy ra vì nhiều lý do… không thể hiểu hay hiểu mà không thể giải thích hay giải thích được nhưng cũng phải lặng câm), có cây cỏ, suối nước, non bộ, hàng tượng Phật "khủng" dát vàng, trải gạch bông, đá hoa, cùng hoa thơm cỏ dại "công nghiệp", v.v. (theo vietbao.vn, "Công viên nghĩa trang hiện đại nhất Việt Nam", 21/08/ 2011). Và :
"… Trong khuôn viên còn có những khu vườn bon sai, cây cảnh, hòn non bộ thiết kế theo mô hình Thủy Liêm động, Hoa Quả sơn, tượng Bát Tiên..." "…Tọa lạc tại xã Trường Hòa, huyện Hòa Thành (Tây Ninh) "Sơn trang Tiên cảnh" nằm cách TP HCM khoảng 100km. Công viên nghĩa trang này được khởi công từ tháng 7/2009, sẽ khai trương vào ngày 27/8."
Nhìn qua công trình thiết kế dự án cũng khiến người ta "thèm chết" hơn là sống, vì được bước ngay vào Tiên cảnh như một thiên đàng… chủ nghĩa xã hội ! Nhưng dường như cái thiên đàng nầy chỉ dành cho giai cấp riêng biệt nào đó, mà chắc chắn rằng giai cấp nông-công thì không đủ điều kiện "vô đàng" ("vàng đô"), dù chỉ mon men đến… ngắm đỡ thèm !
Cơn bão kinh tế thị trường ở Việt Nam hôm nay còn mạnh hơn tsunami, thì một mảnh đất chỉ là 58 ha (theo Thủ tướng Dũng nói, nhưng theo tác giả Phong Thu viết theo lời Ban Quản Trang Dĩ An là 20 ha) cũng không đủ xây dựng "Sơn trang Tiên cảnh", thì dù có bị quy hoạch cũng chỉ được dùng vào dự án khác như là xây dãy nhà lầu Trung quốc, hoặc công trình nhà máy nào đó như đang bao quanh khu vực hiện nay. Chắc chắn, hai ông Nghị sĩ Hoa Kỳ cũng nhìn thấy điều đó và am hiểu không ít về "kinh tế thị trường" ở Việt Nam, nên mượn USAID gây áp lực với nhà nước.
Thật ra, theo cách nhìn của nhà cầm quyền hôm nay, tất cả đất đai ở Việt Nam là thuộc về quyền tư hữu của nhà nước. Vì vậy, khó mà thuyết phục được nhà nước qua cách thương lượng, đưa đề nghị trùng tu NtQdBH như là một di tích lịch sử quốc gia hầu đem lại sự phát triển kinh tế cho huyện nhà qua những dịch vụ du lịch. Đó chỉ là số lợi được thu vào không đáng kể, dù giả sử có thuận tiện hơn so với những điểm du lịch khác ở khắp nơi. Không có điểm du lịch nầy, người Việt hải ngoại vẫn về Việt Nam thăm viếng bà con, gia đình, bạn bè, v.v. Còn qua cách trao đổi mua bán nhà đất, nhà nước cũng chẳng thu vào nhiều hơn là bán cho nhà đầu ngoại quốc, lại còn mang tiếng dị nghị, bị đưa ra bình luận trên khắp mấy trang mạng sau nầy.
Nếu có thêm hậu thuẩn từ Hoa Kỳ, qua sức ép ngoại giao về tài trợ cho Việt Nam, đồng thời kết hợp hai phương pháp trên một cách uyển chuyển, và tế nhị, thì mới mong có chút hy vọng ở bước đầu. Những đoàn thể người Việt hải ngoại, trong mắt nhà cầm quyền, không có thẩm quyền gì để ra đề nghị, và nhất là họ không phải là những nhà đầu tư mạnh mẽ, dồi dào về tiền bạc, nên sự khôi phục NtQdBH chỉ là ảo ảnh. Tự ái cá nhân hay cộng đồng nên dẹp bỏ hơn là mục đích không bao giờ đạt được như mọi người mong muốn !
Giả như được phép khôi phục, trùng tu, NtQdBH vẫn có thể sẽ bị mất đi ít nhất là 67 hecta trước đó. Tuy nhiên, đây cũng sẽ là điều đáng mừng, khó tưởng cho những thân nhân, bạn bè của người quá cố, và cả những người không quen biết hay chưa từng đặt chân lên vùng đất thiêng liêng lần nào. Và đó cũng sẽ là một bước đầu vụng về cho những bước tiếp theo trên con đường dân chủ đang mở rộng, luôn được sự nâng đỡ của đồng minh Âu Mỹ. Nếu Việt Nam thực sự muốn cất bước dù chỉ là rất nhỏ nhưng chắc chắn có cả dân tộc đang sẵn sàng phụ chống đỡ, họ sẽ vui lòng chịu bị đè bẹp để nâng đỡ cho những bước của thế hệ ngày mai.
H. Lời bình kết :
Chiến thắng nào cũng phải trả giá cho kẻ bại trận, dù đó là ai, không cùng dòng giống, nhưng họ vẫn là con người, không khác gì kẻ chiến thắng. Và thời thế cứ mãi xoay dần, không ai sẽ là kẻ chiến thắng mãi, hay vĩnh viễn là kẻ chiến bại. Trong thắng-bại chưa hẳn nói lên điều chính lẽ; nhưng thái độ, hành động, và cung cách cư xử mới đáng được mọi người khâm phục, mới nói lên tất cả ý nghĩa của cuộc chiến vì chính nghĩa, công bằng, và tự do. Đó mới thật sự là chiến thắng, là vinh quang, là niềm tự hào mà không một ai có thể phản biện. Cuộc nội chiến của Hoa Kỳ là một điển hình thích hợp nhất.
Có lúc, khối Liên Minh tưởng chừng nắm lấy hoàn toàn đại cuộc, qua những chiến thắng liên tục và quân đội được sự ủng hộ, cùng sự góp sức của hầu hết dân miền Nam. Đó là một đoàn quân đông đảo gấp hai lần quân đội Hiệp Chủng. Và không ai có thể ngờ rằng, khối Liên Minh đã bại trận trong cuộc chiến Gettysburg, để sau đó mau chóng tan rả. Có phải chăng vì họ thiếu chính nghĩa ? Điều nầy không hẳn đúng, vì nếu thiếu chính nghĩa, họ đã sẽ không là một quân đội đông như vậy, mà trong đó không ít là những thường dân tự cầm súng tham gia. Vậy vì lý do gì ?
Để trả lời câu hỏi đó, xin nhìn vào cách hành xử của Tổng Thống Abraham Lincoln sau khi nội chiến chấm đứt, để khỏi phải đánh giá tư cách đó trong thời chiến vì vấn đề chính trị. TT Lincoln đã không xem kẻ đối địch nguy hiểm nhất của mình là kẻ thù dân tộc, mà ngược lại họ được vinh danh qua tượng đài tưởng niệm, qua những nghĩa trang vào hàng quốc gia, qua chính sử ghi chép sự thật. Và kẻ bại trận cũng nhìn nhận, ký tên, và buông súng, để cuối cùng tất cả dân tộc họ cùng góp sức cho một Hoa Kỳ vững mạnh và trưởng thành trong thế chiến thứ hai.
Việt Nam hôm nay được thống nhất, không phải hoàn toàn do công sức của miền Bắc. Hay nói đúng hơn là do phần đóng góp lớn lao xương máu, gian nguy của khoảng 50% dân miền Nam. Để cuối cùng những kẻ đau khổ, mất mát nhiều nhất là dân miền Nam khi họ phải cầm súng bắn chính thân nhân họ ở phía bên kia trên ngay mảnh đất của tổ tiên mình. Tuy nhiên, vẫn có không ít dân miền Bắc rơi vào hoàn cảnh đó qua cuộc di tản 54, xuôi Nam ngược Bắc và dân miền Trung cũng phải chịu phân tán gia đình bởi hai thế lực.
Cuộc chiến thật vô cùng phi lý ! Chính chúng ta tận hưởng vinh quang trên chiến bại của chúng ta ! Chúng ta dường như chỉ là những chiến sĩ Vô Danh, rồi nằm xuống trong Vô Danh mộ !
Còn lại gì sau cuộc chiến tương tàn nhau, và mãi thù hận nhau ? Tại sao chúng ta không đủ cam đảm cầm lấy tay nhau, xem lại vết thương bởi viên đạn vô tình nào đó ? Tại sao chúng ta cứ mãi chạy theo những mơ hồ của chủ thuyết nào đó, mà chính nó đã bị loại bỏ gần khoảng 20 năm qua bởi chính người sáng tạo ? Chúng ta không cần chủ nghĩa gì cả. Điều mà chúng ta cần nhất hôm nay là tình dân tộc, đúng nghĩa nhất ! Vâng, chúng ta chỉ cần tiếng nói đó, cũng đủ khiến cho vạn vạn giọt lệ rơi như mưa lệ trên "Vành Khăn Tang" hôm nay. Để tấm thân không toàn vẹn của chiến binh được rung cười theo từng mạch máu, dù đã già nua hơn trong chờ đợi âm thầm. Để sẽ không bao giờ lần nữa, anh em không muốn nhìn nhận lại nhau ! Để Diên Hồng luôn là sức mạnh xua đuổi ngoại bang. Để một lần nữa, chúng ta khóc với nhau trong mừng vui như thác đổ : Việt Nam Tự Do!
Và những gì "khó thể quên" hôm nay sẽ nhường chổ cho những gì "nhớ mãi" tình dân tộc đó. Không có gì là không có thể, dù chúng ta phải bắt đầu lại từ bài học lịch sử Hồng Bàng !