Đại Nghĩa – Sưu tầm và hệ thống hóa
Chính quyền Trung Quốc người láng giềng tham lam và là tên đồng chí khốn nạn đang âm mưu thôn tính nước ta qua việc khống chế mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa và quốc phòng. Âm mưu thâm độc ấy ngày càng lộ rõ qua những hành động côn đồ và chiến lược xâm lấn được thể hiện cùng lúc trên nhiều mặt trận:
I- Mặt trận phía Bắc, biên giới.
Khi xưa tổ tiên ta đã biết lợi dụng rừng núi biên giới hiểm trở giặc khó chuyển quân sang đánh nước ta như ải Chi lăng..., làm những tuyến phòng ngự tuyệt vời. Vì thế nên ngày nay chúng cố tình mướn đất rừng đầu nguồn các tỉnh biên giới Lạng Sơn, Cao Bằng, Quảng Ninh, Nghệ An, Hà Tĩnh… để chúng phá đi những chướng ngại ấy và đồng thời làm chủ những cao điểm quân sự chiến lược của ta hầu dễ dàng cho chúng đưa quân sang xâm chiếm vào một ngày N nào đó. Đoán biết được âm mưu thâm độc của giặc nên Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên và Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh lên tiếng cảnh báo:
“Đây là một hiểm họa cực lớn liên quan đến an ninh nhiều mặt của quốc gia… Các tỉnh bán rừng là tự sát và làm hại cho đất nước. Còn các nước mua rừng của ta là cố tình phá hoại nước ta và gieo tai họa cho nhân dân ta một cách thâm độc và tàn bạo. Nếu chúng ta không có biện pháp hữu hiệu, họ có thể đưa người của họ vào khai phá, trồng trọt, làm nhà cửa trong 50 năm, sinh con đẻ cái, sẽ thành những làng “làng Đài Loan”, “làng Hồng Kông”, “làng Trung Quốc”. Thế là vô tình chúng ta mất đi một phần lãnh thổ và còn nguy hiểm cho quốc phòng”. (BauxiteVietNam.info ngày 12-2-2010 – trang này đã bị Hacker đánh phá)
Cái nguy hại là các công ty thuê mướn đã phá rừng và làm đường xẻ ngang xẻ dọc để tiện bề di chuyển (quân), phá đi những vị trí chiến lược quốc phòng của ta. Nếu một lần nữa, quân Trung Quốc kéo sang sẽ ồ ạt và dể dàng, nhanh chóng như vũ bão, nhanh hơn trận chiến 6 tỉnh biên giới năm 1979 nhiều. Đứng trước sự việc bất lợi này, nhóm phóng viên của VietNamNet đã thâm nhập vào khu vực biên giới tỉnh Lạng Sơn để làm phóng sự cảnh giác rằng:
“Trên đường vào khu vực rừng của InnovGreen ở Tân Minh chúng tôi được nghe nói đến cái tên“chốt quân sự 558” nằm sát biên giới. Theo lời ông Phó chủ tịch xã Tân Minh, chốt quân sự này có vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo an ninh quốc phòng. Là một lãnh đạo xã biên giới, ông Bào hiểu được sự phức tạp trong công cuộc bảo vệ biên cương, giữ từng tấc đất, cây rừng của cha ông để lại…
“Đứng trên đỉnh núi 558 có thể bao quát được cả xã Tân Minh, Trung Thành, Đội Cấn, Quốc Khánh và cả xã biên giới cạnh đó là Đào Viên nữa. Vì thế có vị trí rất quan trọng và nhạy cảm về quốc phòng an ninh, bảo vệ biên giới”. (VietNamNet online ngày 22-11-2010)
II - Mặt trận phía Tây, Cao Nguyên Trung phần.
Tây Nguyên là vùng hiểm địa rất quan trọng trong công cuộc bảo vệ quốc gia mà các chiến lược gia đánh giá cao về tầm vóc chiến lược quốc phòng. Việc Đảng CSVN để cho các nhà thầu Trung quốc khai thác bauxite trên Tây Nguyên là một hành động lóa mắt vì nhìn gần. Ngoài sự tác hại môi trường, phá hoại di sản văn hóa của dân tộc và nhất là địa thế chiến lược quốc phòng mà đã có biết bao vị lão thành cách mạng cũng như vị tướng khai quốc công thần Võ Nguyên Giáp và nguyên Phó chủ tịch nhà nước Nguyễn Thị Bình can ngăn nhưng vẫn không được. TBT Đảng CS Nông Đức Mạnh và TT Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng cương quyết cho rằng đó là “chủ trương lớn của đảng” vậy mà các đảng viên can ngăn vẫn như không. Đại tá Nguyễn Huy Toàn, chuyên gia lịch sử quân sự và Đại tá Quách Hải Lượng, chuyên viên cao cấp Viện Nghiên cứu Chiến lược Quân sự phân tích về chiến lược Tây Nguyên và những vấn đề đặt ra khi khai thác tài nguyên của khu vực trọng yếu này như sau:
“Cha ông ta từ xưa đã nhận định vùng Tây Nguyên quan trọng tới mức nếu ai chiếm được Tây Nguyên thì coi như đã làm chủ được Việt Nam và Đông Dương. Sau này người, người Pháp, người Mỹ và thế giới cũng nhận thức được vị trí yết hầu của khu vực này với câu nói nổi tiếng: Đây là “nóc nhà của Đông Dương”. Vùng đất này liền kề ngã ba Đông Dương, cho nên khi chiếm lĩnh được khu vực này thì cũng dể dàng chiếm lĩnh được toàn bộ Đông Dương”.(TuanVietNamNet online ngày 10-3-2009)
Thiếu tướng công an Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược và Khoa học Bộ Công an phân tích rõ về địa thế của Tây Nguyên như sau:
“Trung quốc vào Tây Nguyên là họ đã có điều kiện khống chế đối với cả ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia. Hiện nay Trung quốc đã thuê một vùng đất rộng lớn ở tỉnh Munbunkiri- sát biên giới tỉnh Dak Nông với thời gian 99 năm, và Trung quốc đã làm chủ các dự án kinh tế lớn ở tỉnh A-tô-pơ – tỉnh cực Nam của Lào, giáp với Việt Nam và Campuchia (tại ngã ba Đông Dương). Đây là hậu họa khôn lường đối với an ninh quốc gia. Không rõ những người quyết định cho Trung Quốc vào Tây Nguyên có biết điều này không?” (Đối Thoại online ngày 23-4-2009)
III - Mặt trận phía Đông, biển - đảo.
Về mặt biển Đông thì tham vọng của Trung Quốc đã quá rõ ràng, chúng mong nuốt trọn hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của ta. Ngoài ra, chúng còn muốn làm bá chủ trọn biển Đông với cái đường lưỡi bò ma quái. Hiện nay Trung Quốc đã dốc toàn lực về biển Đông để chiếm tài nguyên và giao thông trên tuyến thủy lộ này. Kỹ sư Đỗ Nam Hải - Phương Nam cho biết:
“…Trung quốc đã huy động nhiều loại tàu xâm phạm vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam và Phlippines: từ tàu đánh cá có tàu ngư chính yểm trợ đằng sau, cho đến các loại tàu hải giám và cả tàu quân sự. Ngoài việc ngang nhiên xâm phạm, những tàu này còn tiến hành những hoạt động phá hoại như đâm thẳng vào tàu đánh cá, cắt cáp thăm dò các tàu Bình Minh 2 và Viking 2 của Việt Nam, bắt ngư dân để đòi tiền chuộc…” (Dân Làm Báo online ngày 4-10-2011)
Trung Quốc đã bủa vây khống chế biển Đông, phong tỏa ngay cả vùng biển thuộc hải phận của Việt Nam và các nước lân cận. Mới gần đây hành động côn đồ của chúng còn đi xa hơn. Theo Thiếu tướng Lê Văn Cương kể thì:
“Ngày 26-5, tàu Bình Minh 2 bị tàu hải giám Trung Quốc cắt cáp rồi tới ngày 9-6, tàu Viking II tiếp tục bị tàu đánh cá có hai tàu ngư chính yểm trợ cắt cáp. Toàn bộ những việc này Trung quốc đã có tính toán và hành động của họ xuất phát từ hệ thống, mục đích rõ ràng chứ không phải vấn đề một tàu ngư chính hay hải giám.
“2 vụ việc liên tiếp thể hiện tính chất rất nghiêm trọng của vấn đề. Trung Quốc đã hết sức ngang nhiên xâm phạm chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam ngay trong vùng thuộc chủ quyền và quyền tài phán của chúng ta. Các sự việc nằm trong mưu đồ được hoạch định rất bài bản, chứ không phải những sự kiện đơn lẻ”. (Dân Trí online ngày 13-6-2011)
Miệng thì họ luôn nói giải quyết biển Đông qua hòa bình, thương lượng, nhưng trên thực tế họ luôn huy động tàu bè cấm đoán, hù dọa, bắn giết ngư dân ta và theo nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc thì:
“Khi đã có một Đặng Tiểu Bình tuyên bố biển Đông là‘ chủ quyền thuộc ngã’ và từ khi Trung quốc tuyên bố biển Đông là khu vực‘ lợi ích cốt lõi’ của họ, thì khó dùng tinh thần hiếu hòa của người Việt để ngăn chặn tham vọng của phương Bắc. Lịch sử Việt nam có nhiều bài để học. Vấn đề là học như thế nào và hành ra sao để ngăn chặn được nguy cơ không chỉ riêng cho dân tộc mà còn là nguy cơ đối với đảng cầm quyền và những người lãnh đạo đất nước”. (RFA online ngày-6-2011)
Theo nhà ngoại giao kỳ cựu và rất có kinh nghiệm với người đồng chí láng giềng này là ông Dương Danh Dy, khi trả lời phỏng vấn của đài RFI thì tham vọng của quân bành trướng Bắc Kinh không bao giờ từ bỏ:
“Cá nhân tôi cho rằng Trung Quốc không bao giờ từ bỏ biển Đông. 10 năm chưa xong thì 20, 30, 40 năm. Chắc chắn ý đồ của họ về biển Đông về thực chất không thay đổi, là phải thâu tóm”. (RFI online ngày 17-11-2010)
IV- Mặt trận nội địa.
Trung Quốc đã xâm nhập nội địa của ta bằng 90% các gói thầu EPC từ Bắc chí Nam và luôn bị chậm trễ tiến độ một vài năm một cách cố ý làm ảnh hưởng tới nền kinh tế và đời sống của nhân dân ta khi chúng ta đang căng thẳng về điện. Điện là thần kinh, là sự sống của dân tộc ấy thế mà nhà cầm quyền Việt Nam giao khoán cho Trung Quốc, nếu mai này “ răng cắn môi” thì đất nước ta sẽ ra sao?!
“Thông tin nói trên tuy không hẳn mới, nhưng nó một lần nữa cho thấy đang có quan ngại trước sự hiện diện ồ ạt của các công ty Trung quốc trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng, khai khoáng, năng lượng…thuộc loại tối quan trọng của quốc gia.
“Bộ Công thương được dẫn nguồn đưa ra con số vào tháng 7-2009 cho thấy, có 30 doanh nghiệp Trung Quốc đang tham gia tổng thầu EPC hoặc đối tác đầu tư trong 41 dự án ở Việt Nam. 41 dự án này là kinh tế trọng điểm, hoặc dự án thượng nguồn, liên quan mật thiết tới tài nguyên quốc gia hoặc an ninh năng lượng”. (BBC online ngày 2-8-2010)
Tầm quan trọng và nguy hiểm của những dự án do nhà thầu Trung Quốc thực hiện như thế nào được ông Dương Danh Dy, nguyên Tổng lãnh sự của Việt nam ở Quảng Châu viết về một bài báo của Trung Quốc như sau:
“Đáng chú ý bài báo đã trích đăng ý kiến của Giáo sư Bùi Huy Hùng, Viện Khoa học Năng lượng “Việc hiện 90% dự án nhiệt điện hiện nay do Trung Quốc thắng thầu sẽ dẫn tới sự phụ thuộc có nguy cơ mất an ninh năng lượng khi có sự cố xảy ra vì khi đó chúng ta có cái gì làm đối trọng”. (Bauxite Viet Nam online ngày 26-9-2010)
Ngoài sự an toàn về điện bọn tham nhũng còn mưu toan giao mạch máu xăng
dầu của dân tộc vào tay Trung quốc. Theo nhà giáo Hà Văn Thịnh cho biết thì:
“Tôi không biết dùng từ nào hơn khi nghe tin Petrolimex đang dự định ký hợp đồng với PetroChina để lắp đặt đường ống dẫn dầu từ Quảng Tây sang Quảng Ninh dài 200 km để mỗi năm“ được” mua từ Trung Quốc khoảng trên dưới 3 triệu tấn dầu…
“Chao ôi là buồn khi vận mệnh quốc gia, tương lai xã tắc được bỏ (bị cướp đoạt) vào tay Petrolimex và những người cùng phe phái chụp giựt của cải của đất nước theo cái “lý lẽ” ngu hết biết: Cứ làm giàu cho con cái đi, cứ thế gửi tiền ra nước ngoài, có việc gì thì…chạy! Còn đất nước Việt Nam đói khổ, nghèo hèn ra sao kệ xác cho lũ dân ngu khu đen lãnh đủ!?” (Dân Luận online ngày 14-7-2011)
Cái nhức nhối và nguy hiểm nhất là Trung Quốc đã cho người thâm nhập vào cùng khắp đất nước ta qua vai trò nhân công trong các công trường khai thác bauxite cũng như các gói thầu Trung Quốc thực hiện từ Bắc chí Nam mà ta không biết đây là tình báo, gián điệp hay là đặc công nằm vùng đợi thời cơ. Ông Lê Hiếu Đằng, nguyên Phó chủ tịch Mặt trận Tổ quốc VN tại TP Sài Gòn đã bức xúc và cảnh báo nguy cơ:
“Ngay vấn đề lao động Trung Quốc hiện nay sang đây không phép, thì tôi nghĩ là không phải chính quyền VN không biết, nhưng tại sao lại để tình trạng như vậy? Sẽ có những cái làng Trung Quốc, những vùng Trung Quốc mà người Việt Nam không thể vào được. Đó là những nhân viên dân sự hay là quân sự? Ai mà biết họ đang làm gì trong đó!
“ Thì vấn đề đấy không phải là vấn đề kinh tế mà còn là vấn đề an ninh chính trị, vấn đề quốc phòng, mà chúng ta lại lơi lỏng. Điều này rất là nguy hiểm cho an ninh quốc gia”. (Bauxite Việt Nam online ngày 19-9-2011)
Theo cụ Luật sư Trần Lâm thì nhà cầm quyền Việt Nam đã sai lầm cho Trung Quốc xây dựng hành lang kinh tế sông Mê Kông để thâm nhập kinh tế vào đất nước ta, thật vô cùng nguy hiểm.
“Trung Quốc đang giúp các nước làm cầu, làm đường nối tiếp. Trong 6 tuyến đường này thì 5 tuyến cuối cùng là Việt Nam: Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Vũng Tàu, Sài Gòn, toàn bộ là vị trí xung yếu trải rộng cả Việt Nam…Ta mới có 2 đường Lạng Sơn và Móng Cái đã thấy điêu đứng, nay có thêm 5 đường đi khắp nơi, sức đâu để bảo vệ kinh tế quốc phòng…“ Nhất thể hóa”, “ Lan tỏa”, với một nội dung mù mờ. Thế có phải là một thể chế cho phép các hành lang này như khu nhượng địa nằm khắp Việt Nam? Thế là như con ếch nằm trong cái rọ: Bắc là Trung Quốc, Nam là biển, Tây có hành lang này, có Myanma canh gác, Đông có cái lưỡi bò”. (Đàn Chim Việt online ngày 12-10-2010)
Giáo sư Vũ Cao Đàm nói rõ toàn cảnh áp lực của Trung Quốc khống chế Việt Nam trên lĩnh vực quốc phòng như sau:
“Bằng chiêu bài“ hợp tác khai thác bô-xit”, đế quốc Trung Cộng đã đóng chốt ở một vùng vô cùng hiểm yếu của bán đảo Đông Dương, cộng với những hợp đồng thuê 300.000 ha đất rừng đầu nguồn với các“đồng chí” của họ tại các địa phương trên suốt các vùng biên giới, Trung Cộng đã tạo ra một thế quân sự vô cùng nguy hiểm có khả năng làm tê liệt khả năng phản công bảo vệ Tổ quốc của Việt Nam khi bị Trung Cộng tấn công từ bốn phía. Chúng ta không quên cộng thêm một bầy nhung nhúc gồm trên 1,3 triệu người lao động Trung Cộng, gồm những tráng đinh (chắc chắn đã giải ngũ sau khi thực hiện nghĩa vụ quân sự). Bọn chúng được các“ đồng chí” sắp xếp đều khắp đủ mọi miền trên đất Việt Nam đã tạo ra một đạo quân dự bị khổng lồ, cầm súng bắn được ngay, đang mai phục khắp đất nước này”. (Bauxite việt Nam online ngày 31-8-2011)
Một nguy cơ đang rập rình chờ đợi và người dân Việt – những ai còn tỉnh táo – đành sống trong muôn nỗi phập phồng!
Đ.N.
Trung Quốc lại dọa đánh Việt Nam
-Nguyễn Trọng Vĩnh1. Trước hết phải nói ngay rằng Trung Quốc không có quyền gì ở Biển Đông
Việt Nam có đầy đủ tư liệu lịch sử và pháp lý về 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam. Ngay cả một số bản đồ Trung Quốc vẽ trước đây cũng coi Hoàng Sa là của Việt Nam. 200 hải lý trên biển Đông là vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam đúng theo công ước quốc tế về luật biển 1982 của L.H.Q còn Trung Quốc thì không đưa ra được cứ liệu lịch sử nào có giá trị đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Chỉ dựa vào cái “lưỡi bò” do chính quyền Tưởng Giới Thạch vẽ ra một cách phi pháp bị thế giới bác bỏ. Trung Quốc chỉ cậy thế nước lớn to mồm tuyên bố chủ quyền có tính chất ăn cướp đối với vùng biển và hải đảo của các nước Đông Nam Á trong đó có Việt Nam. Chính vì thế mà Trung Quốc rất sợ quốc tế hóa và đàm phán đa phương vì Trung Quốc sẽ không có lý lẽ gì để nói, một mực đòi đàm phán song phương để dễ bề ăn hiếp hoặc mua chuộc đối phương, Trung Quốc không có quyền gì ở Biển Đông thế mà những chuyên gia của Trung Quốc cũng như Long Tao lại nói ngược là Việt Nam, Philipin, Malaysia... “xâm chiếm” đảo của Trung Quốc. Kẻ cướp hung khí đầy mình xông vào nhà người ta ăn cướp lại đổ cho chủ nhà là cướp của!
2. Nhà cầm cuyền Trung Quốc thường xoen xoét nói hữu nghị với Việt Nam nhưng luôn đánh và uy hiếp Việt Nam, gần đây lại dọa đánh Việt Nam nữa
Đã có biết bao lời “hữu nghị”, “nghĩa tình” do các nhà cầm quyền Trung Quốc nêu ra: nào “cùng chung lợi ích”, “môi hở răng lạnh”, nào là phương châm “16 chữ”, tinh thần “4 tốt”, nào là “tinh thần đồng chí anh em”, v.v. Nhưng thực tế diễn biến từ trước đến nay như thế nào: năm 1974, Trung Quốc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam lúc đó do Chính phủ Việt Nam cộng hòa quản lý và đóng giữ; Năm 1979, Trung Quốc huy động hàng chục vạn quân bắn giết nhân dân và tàn phá các tỉnh biên giới của Việt Nam mà Đặng Tiểu Bình gọi là “dạy cho Việt Nam một bài học” (chính cuộc bắn giết và tàn phá này đã xóa hết món nợ Trung Quốc giúp Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến trước đây); 1984, Trung Quốc bắn giết hàng trăm binh sĩ của Việt Nam để chiếm cao điểm 1509 nằm trong huyện Vị Xuyên thuộc tỉnh Hà Giang của Việt Nam; Năm 1988 đánh đắm tàu tiếp tế, giết hại 64 binh sĩ Việt Nam ở rường Sa; Từ sau khi lập lại quan hệ bình thường, biết bao nhiêu lần tàu Trung Quốc đâm chìm tàu cá, bắn giết ngư dân Việt Nam, bắt tàu cá của ngư dân hoạt động trong vùng biển của mình, tịch thu ngư cụ, tài sản, đòi tiền chuộc, tàu “hải giám” Trung Quốc xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, cấm, đuổi ngư dân Việt Nam đánh cá, triệt đường làm ăn sinh sống của họ, cắt cáp tầu Bình Minh 2, phá cáp tàu Viking II, phá các cuộc liên doanh thăm dò dầu khí trong vùng biển và thềm lục địa của Việt Nam.
Báo Trung Quốc thường xuyên lăng mạ nói nào là bọn Việt Nam “vong ân bội nghĩa”, nào là “bọn tiểu nhân, ty tiện Việt Nam”, “Bọn lang sói Việt Nam”, v.v.
Ngày 17/6/2011, một tờ báo Trung Quốc vu cáo “Việt Nam khiêu khích Trung Quốc” , “Chiếm đóng đảo nhiều hơn”, “Bắt buộc” Việt Nam trả lại những đảo đã xâm chiếm, nếu không chịu thì sẽ tấn công xua đuổi, kẻ nào dám phản kháng sẽ “kiên quyết diệt trừ”... “Nếu Việt Nam làm đầu têu thì phải đánh cho chúng không kịp trở tay. Hãy giết hết bọn giặc Việt Nam để làm vật tế cờ cho trận chiến Nam Sa” (Báo điện tử Trung Quốc binh khí đại toàn). Gần đây nhất, tờ Thời báo Hoàn cầu, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đăng bài kêu gọi đánh Việt Nam và Philippin... trong đó có những đoạn: “Việt Nam “xâm phạm” đảo Nam Sa (Trường Sa) của Trung Quốc và đòi hỏi chủ quyền với đảo Tây Sa (Hoàng Sa), đã đến lúc sử dụng vũ lực ở biển Đông”...; “Biển Đông là nơi tốt nhất để tiến hành chiến tranh”...; “dạy cho Việt Nam và Philipin bài học đạo đức bằng vũ lực”...; “Cuộc chiến nên tập trung tấn công vào Philipin và Việt Nam, là 2 nước gây rối nhất để đạt được hiệu quả “giết những con gà để dọa bầy khỉ”.
Đấy, “hữu nghị” của Trung Quốc đối với Việt Nam là như thế đấy! Chỉ có những ai khờ khạo mới tin những lời đường mật, lừa bịp, đạo đức giả của những người nắm quyền ở Trung Quốc thôi.
3. Chưa phải là thời cơ để Trung Quốc gây chiến tranh đánh Việt Nam và Philipin
Lâu nay cũng như trong sách trắng Trung Quốc thường nêu “Trỗi dậy hòa bình”, “nước lớn có trách nhiệm”, v.v. Nay nếu Trung Quốc gây chiến tranh với Việt Nam và Philipin thì cái “mặt nạ hòa bình” sẽ rơi xuống trước mặt thế giới, bộ mặt đạo đức giả phơi ra. Trung Quốc thường nói: “Trung Quốc mạnh lên nhưng “không xưng bá” nhưng làm sao giấu được trên thực tế chủ nghĩa bành trướng, bá quyền diễn ra khắp nơi. Trong điều kiện toàn cầu hóa, vì lợi ích kinh tế, các nước phải làm ăn hoặc hợp tác với Trung Quốc, một thị trường hơn 1 tỷ dân, nhưng trong thâm tâm họ đều không ưa gì tư tưởng bá quyền của Trung Quốc, đều cảnh giác với “mối đe dọa từ Trung Quốc”, đều cảnh giác cao độ với “chủ nghĩa bành trướng Đại Hán”. Hơn nữa Trung Quốc hiện đương cô lập trước thế bao vây từ Hàn Quốc, Nhật Bản, qua Đài Loan xuống Đông Nam Á, Australia, sắp móc qua cả Ấn Độ.
Trên một số tờ báo Hồng Kông gần đây như Đại công báo, Văn hối, Đông phương nguyệt san, phòng vệ Hán Hòa dẫn lời của “các chuyên gia quân sự Trung Quốc cho rằng còn nhiều “rào cản” đối với Trung Quốc: rào cản chính trị, rào cản quân sự, rào cản địa lý, rào cản chiến thuật... nếu Trung Quốc áp dụng hành động quân sự tại biển Đông, cái giá phải trả sẽ rất đắt”.
Nội tình Trung Quốc hiện tại còn có biết bao nhiêu vấn đề: Tây Tạng, Tân Cương, Nội Mông vẫn tiềm ẩn yếu tố bất ổn, hàng vạn cuộc biểu tình đã xảy ra ở các tỉnh Tây Bắc Trung Quốc, không khí bất mãn xã hội bao trùm nhiều nơi. Cứ có việc gì xảy ra đụng đến người dân là hàng ngàn người tụ tập ngay lập tức phản đối các nhà chức trách, các cuộc đánh bom cơ quan hành chính cũng từng xảy ra.
Trong bối cảnh quốc tế và nội tình Trung Quốc như hiện nay, nếu giới cầm quyền Trung Quốc gây chiến tranh thì không biết điều gì sẽ xảy ra?
4. Hoàn cầu thời báo dọa đánh, chỉ người nhát gan mới sợ, nhân dân Việt Nam không sợ
Là nước nhỏ, từ trước đến nay Việt Nam chưa hề khiêu khích nước lớn Trung Quốc. Việt Nam cũng không muốn đối đầu quân sự với Trung Quốc. Nếu Trung Quốc cậy mạnh đánh Việt Nam thì toàn dân Việt Nam đoàn kết một lòng kiên quyết đánh trả. Biết rằng hải quân Trung Quốc mạnh hơn hải quân Việt Nam, vũ khí, phương tiện hiện đại Trung Quốc hơn Việt Nam nhưng ưu thế về lực lượng và vũ khí phương tiện không nhất định thắng. Thời thực dân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam, Pháp có đủ tàu chiến, máy bay, xe tăng, Việt Nam thì không hề có những thứ đó. Cuối cùng Pháp đã thất bại. Thời kháng chiến chống Mỹ, tuy Việt Nam cũng có xe tăng, máy bay, tên lửa, pháo phòng không, pháo mặt đất, v.v. nhưng so với Mỹ thì Mỹ có ưu thế gấp nhiều lần về số lượng và chất lượng vũ khí phương tiện hiện đại, cuối cùng Mỹ cũng chịu thất bại mà rút quân. Kết quả của chiến tranh không chỉ phụ thuộc vào vũ khí mà còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác. Thiên thời, địa lợi, nhân hòa, cả 3 điều này hiện tại Trung Quốc không có. Thắng, bại còn tùy thuộc vào chiến lược, chiến thuật, tùy thuộc ý chí bất khuất kiên cường của quân, dân và tính thần dũng cảm và sáng tạo của chỉ huy, tài thao lược của tướng lĩnh. Những điều này Việt Nam đã chứng minh từ xa xưa đến cận đại. Việt Nam đã có truyền thống và kinh nghiệm “lấy ít địch nhiều”, “lấy nhỏ thắng lớn”, lấy “chính nghĩa thắng hung tàn”. Ai dọa Việt Nam cũng không sợ !
N. T. V.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN