Thứ Ba, 25 tháng 10, 2011

Vai trò lúa gạo trong đời sống kinh tế và chính trị ở Saigon-Chợ Lớn đầu thế kỷ 20

-

Nguyễn Đức Hiệp




Gạo là sản phẩm xuất khẩu chính và là nguồn thu lớn nhất cho nền kinh tế ở Nam Kỳ trong suốt thời kỳ Pháp thuộc. Từ tư liệu thống kê có được trong một số Tập san Phòng thương mại Saigon (Bulletin de la Chambre de commerce de Saigon) còn sót lại ở thư viện quốc gia Pháp từ năm 1881 đến 1933, cho thấy lúa gạo là sản phẩm đứng đầu và được thống kê tỉ mỉ qua số lượng, giá trị xuất khẩu từ cảng Saigon-Chợ Lớn đến các thị trường khác nhau trên thế giới. Có thể nói sự giàu có ở Đông Dương thuộc Pháp là dựa vào lúa gạo.

Tác giả dùng tư liệu trong Niên giám Đông Dương, Phòng Thương mại Saigon, báo chí ở Singapore, các nghiên cứu của các học giả nước ngoài đầu thế kỷ 20 như Passerat de la Chapelle, Albert Naud và gần đây như Li Tana, Julia Martinez, Thomas Engelberg và Geoffrey Gunn để làm rõ chi tiết về sự hình thành của kỹ nghệ và thương mại lúa gạo ở Nam Kỳ nói chung và Saigon-Chợ Lớn nói riêng và sự hoạt động đầu tư của người Hoa ở Chợ Lớn, từ vùng Cư trú Eo biển (Straits Settlements gồm Singapore, Penang và Malacca), Java và Hồng Kông trong lãnh vực này.
Bài biên khảo này cũng sẽ cho thấy thương mại lúa gạo có lợi nhuận rất lớn từ cuối thế kỷ 19 cho đến thập niên 1930, mà phần lớn là xuất khẩu đến các vùng khác ở Đông Nam Á, nằm trong tay người Hoa. Họ hầu như khống chế toàn diện ở Saigon-Chợ Lớn, mà người Pháp hầu như bất lực không cạnh tranh nổi. Nhưng từ cuối thập niên 1930 thì thời hoàng kim của người Hoa nói chung và từ Singapore nói riêng bắt đầu lu mờ và đến 1940 trở đi thì không còn nữa. Nhưng dấu ấn của họ vẫn còn để lại mà ta có thể thấy (còn rất ít hiện nay) dọc trên kênh Tàu hủ (quai de Mytho, quai des Jonques), rạch Chợ Lớn (quai Gaudot) nơi có các trụ sở thương mại, nhà máy ; và nhiều nơi trong Chợ Lớn (đặc biệt rue de Paris tức đường Phùng Hưng và rue de Canton tức đường Triệu Quang Phục) là các kiến trúc nhà cổ kết hợp đông tây của thời thuộc địa như ở Hồng Kông, Singapore, Penang, Quảng Châu, Sán Đầu.
Người Baba (Peranakan) gốc Hoa sinh ra ở vùng Cư trú Eo biển (Straits Settlements) đã đến Saigon-Chợ Lớn, trung tâm thương mại lúa gạo, từ hậu bán thế kỷ 19 (27) . Các thương gia người Baba nổi tiếng ở Nam kỳ là Ban-Hop (Vạn Hòa), anh em Trần Khánh Hòa, Trần Khánh Vân, Trần Khánh Tinh và ông Vương Thái (Hồng Kông). Bắt đầu từ thế kỷ 20 cho đến 1930, qua các nguồn tư liệu lưu trữ, ta được biết thêm là các đại thương gia khác nổi lên không kém là Tạ Mã Điền (Tja Ma Yeng, gốc Phúc Kiến từ Java), Quách Đàm (Triều Châu, Chợ Lớn), Trương Bật Sĩ (Phúc Kiến, Penang).

Sự hình thành của kỹ nghệ lúa gạo ở Saigon-Chợ Lớn


Lúc ban đầu do vị trí thuận tiện liên lạc qua đường sông với các tỉnh miền Tây, nên Chợ Lớn là trung tâm buôn bán nông sản và đồ tiêu dùng giữa miền Tây và thế giới bên ngoài. Đầu thế kỷ 19 trước khi người Pháp đến, Chợ Lớn được gọi là Tai Ngon hay Saigon, Saigon được gọi là Bến Nghé. Gạo là sản phẩm quan trọng nhất, các thương gia người Hoa ở Chợ Lớn nắm vai trò hầu như độc quyền thu mua từ cuối thế kỷ 19 cho đến giữa thế kỷ 20 khi vận tải qua sông rạch là phương tiện giao thông chính.
Dưới thời nhà Nguyễn, xuất khẩu ra các nước ngoài được kiểm soát ngặt nghèo và nghiêm cấm. Triều đình thu thuế và thâu mua lúa gạo vào kho dự trữ và cung cấp cho nhiều vùng trong nước. Vì thế miền nam là vựa lúa quan trọng cho cả nước. Các tàu ngoại quốc đến buôn bán, mua nông sản (gạo, đường,..) bán đồ tiêu dùng, phải xin phép triều đình trước khi cặp bến và chịu nhiều thuế. Cảng Saigon rất hạn chế và các tàu nước ngoài ít viếng vì rất khó khăn được phép, nhất là từ khi có chính sách bế quan tỏa cảng của vua Minh Mạng.
Từ khi Pháp đánh chiếm Saigon năm 1861, cảng Saigon trở thành cảng mở, buôn bán tự do. Thương mại của người Hoa bộc phát, và sau khi các tỉnh miền Đông và Tây hoàn toàn thuộc Pháp, tư bản Pháp và thương gia người Hoa cạnh tranh và nắm hầu như toàn bộ kinh tế Nam kỳ. Với dân số gia tăng ở Trung quốc, Hồng Kông, Nhật và sự di dân từ nam Trung quốc, Ấn Độ đến Singapore, Mã Lai thành lập phát triển các đô thị mới vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, tất cả các nơi này đều có nhu cầu lương thực nhất là gạo để đáp ứng nhân sự gia tăng. Gạo xuất khẩu từ Siam (Thái Lan), Miến Điện (Burma nay gọi là Myanmar) và Nam Kỳ đã đáp ứng được nhu cầu này. Điều này cho thấy sự phát triển kinh tế ở nhiều nơi ở Đông Nam Á trong thời kỳ này một phần cũng nhờ vào kho vựa lúa ở Nam Kỳ.
Phá rừng, lập rẫy và đào kinh, rach dẫn nước canh tác ruộng của những di dân đến nhũng vùng mới ít người đã nâng diện tích trồng lúa ở các tỉnh Rạch Giá, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Cần Thơ, Long An, Gò Công, Long Xuyên, Sa Đéc, Châu Đốc...
Các kênh rạch cũng làm thuận tiện sự lưu thông hàng hóa. Từ khi kênh Duperré (canal Duperré, nay là kênh Chợ Gạo) được hoàn tất vào năm 1877 nối sông Tiền Giang gần Mỹ Tho với sông Vàm Cỏ (qua ngã Chợ Gạo, rạch Gò Công) rồi từ đó đổ về Saigon-Chợ Lớn qua kênh Nước Mặn (đào năm 1879, gọi là canal Mirador), Cần Giuộc và sông Rạch Cát, lúa từ các tỉnh miền Tây có thể dễ dàng chở về Chợ Lớn qua sông rạch mà không còn phải đi đường biển khó khăn và xa theo cửa sông Đồng Nai ở Cần Giờ để vào đến cảng Saigon và thành phố Chợ Lớn. Đây là con đường thủy huyết mạch giữa miền Tây và Saigon-Chợ Lớn và từ đó đến miền Đông Nam bộ và thế giới.
Không như ngày nay, hệ thống đường bộ và phương tiện xe di chuyển rất hạn chế và ít hiệu quả kinh tế trong những thập niên đầu thế kỷ 20 cho đến gần cuối thế kỷ 20, so với đường thủy qua sông rạch. Vì thế Chợ Lớn là nơi thuận lợi hội tụ lúa gạo và các nhà máy xay lúa để xuất khẩu từ cảng Saigon. Năm 1877, nhà máy xay lúa đầu tiên ở vùng Saigon-Chợ Lớn được xây dựng.
Trong cuối thập niên 1920, diện tích canh tác lúa ở Nam kỳ là 1,500,000 hếc-ta, Đông Dương xuất khẩu (16) trung bình trong các năm 1921-1926 là 1,449,000 tấn gạo, đứng hàng thứ hai trên thế giới, chỉ sau Miến Điện nhưng trước Siam (Thái Lan). Tổng trị giá xuất khẩu là 68% của tất cả giá trị xuất khẩu (2,629,000,000 Fr trên 3,855,000,000 Fr vào năm 1926).Giá gạo trên thị trường thế giới (10) tăng vọt từ năm 1900 khi giá gạo hạng 1 là 3.25$ (piastres) đến tháng 1 năm 1924 là 10.10$ mang lại lợi tức lớn cho điền chủ, nhà nông, thương gia và kỹ nghệ gia Pháp, Việt và Hoa.
Dưới thời cựu trào nhà Nguyễn trước khi Pháp đến, gạo bị nghiêm cấm xuất khẩu do tư nhân hay chở mang ra ngoài khỏi Nam kỳ. Nông dân chỉ làm đủ ăn, hay dư chút để lại của cải cho con cháu. Khi cảng và thương mại mở rộng, lợi nhuận từ buôn bán tự do và xuất khẩu làm năng xuất sản xuất lúa gạo ở các tỉnh Nam kỳ tăng vọt trong thời tân trào.
Năm 1885, ở Saigon-Chợ Lớn có các nhà máy xay lúa do người Pháp làm chủ dọc rạch bến Nghé và kênh Tàu Hủ: nhà máy Khánh Hội, nhà máy Chợ Lớn của công ty Rizerie à vapeur (ông Calhuzac đại diện quản lý) và nhà máy của công ty Rizerie Saigonnaise (do công ty anh em Denis, Denis frères làm quản lý). Ngoài ra còn có rất nhiều cơ sở nhỏ buôn bán lúa gạo và xay lúa do người Hoa và người Việt làm chủ trong vùng Saigon-Chợ Lớn, mà chủ yếu là tập trung dọc trên các bến Quai de Gaudot (nay là đường Hải thượng Lãn Ông), quai de commerce (bến Bạch Đằng, Chương Dương), quai de My Tho (bến Trần Văn Kiểu), quai de Jonques (bến Bình Đông) (9) và người Ấn Độ thì đa số chuyên làm nghề dịch vụ đổi tiền, may mặc, sản xuất và buôn bán sữa.
Nhưng không bao lâu sau, vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, người Hoa ở Chợ Lớn và các thương gia gốc Hoa từ Singapore, Penang, Batavia đến Saigon đã vượt hẳn và cạnh tranh với người Pháp trên thị trường lúa gạo. Họ lần lần chiếm ưu thế, xây cất thêm và mua lại các nhà máy xay lúa của người Pháp. Để điều hành các nhà máy, họ mướn các chuyên gia kỹ thuật người Pháp, Anh, Đức để quản lý và bảo hành các máy xay lúa chạy bằng hơi nước.
Các thương gia người Hoa đến Saigon-Chợ Lớn từ Hồng Kông, Singapore, Batavia (Java), Malacca lập cơ sở thương mại trong đó gạo đóng vai trò quan trọng như ông Vương Thái, Tạ Mã Điền. Ông Vương Thái, thương gia từ Hồng Kông, có một dãy nhà mà người Pháp gọi là Wang-Tai cité để cho các di dân người Hoa mới đến Chợ Lớn có chỗ cư ngụ và làm ăn gây dựng cuộc sống mới. Khu này gần kênh Tàu Hủ, ngày nay là ở đường Phan Huy Chú gần Quai Gaudot (đường Hải Thượng Lãn Ông ngày nay). Công ty của ông Vương Thái đặt văn phòng chính ở đường Charner (Wang-tai père et fils, 1985) (9)
Theo Louis Imbert (11), vào cuối thế kỷ 19, thì vùng Saigon-Chợ Lớn có 7 nhà máy xay lúa chạy bằng hơi nước ở Chợ Lớn và một ở Saigon. Những máy xay lúa chạy bằng hơi nước mua với giá hơn 1800000 Francs, các máy này được chế tạo dựa vào máy đã dùng có hiệu quả bởi người Anh ở Miến Điện (1) và Siam. Nhà máy xay lúa chạy bằng hơi nước đầu tiên ở Saigon-Chợ Lớn là nhà máy của ông Andrew Spooner(2) lập ra vào năm 1874 (12). Ông Spooner cũng là người đầu tiên xây xưởng xay lúa đầu tiên vào năm 1869, chỉ 8 năm sau khi Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông Nam kỳ. Hầu hết các máy xay lúa chạy bằng hơi nước là mua từ Anh, trong đó có 2 nhà máy dùng máy xay Barley Mill (12) mặc dầu ở Pháp cũng có các nhà sản xuất máy xay chạy bằng hơi nước. Điều này cho thấy các thương gia và kỹ nghệ người Hoa từ Singapore, Mã Lai, Miến Điện… thuộc địa của người Anh, đã có ảnh hưởng, và là chủ các nhà máy ở Chợ Lớn, họ đã không ngần ngại dùng các máy từ Anh giống như ở các nơi họ xuất phát.
Công suất của các máy này là từ 600 đến 900 mã lực, nhiên liệu dùng đốt để tạo hơi nước là trấu (vỏ hạt lúa sau khi đã xay thành gạo). Tùy theo cách sử dụng và cách thức làm việc, các máy sản xuất từ 500 đến 700 tấn gạo nhà máy từ 700 đến 900 tấn lúa được xay trong 24 tiếng mỗi ngày, các máy khác thì sản xuất từ 250 đến 400 tấn gạo từ 400 đến 500 tấn lúa. Nước dùng cho máy hơi nước được lấy từ kênh rạch (kênh Tàu Hủ) cạnh nhà máy, nước được chứa trong các hồ chứa khi thủy triều lên cao và dùng cho máy xay suốt ngày.
Lúa được xay thành gạo qua ba giai đoạn: xay bỏ vỏ, làm trắng và làm láng. Khi lúa đến nhà máy, lúa được đổ vào máy gạn lọc để loại ra các vật hạt sạn trộn lẫn trong lúa như gỗ, đá, bụi, rơm… Sau đó chúng được nâng lên trong các cốc chứa lớn để đổ vào máy xay. Máy xay tách vỏ lúa ra khỏi hạt và vỏ được gạt ra hay thổi ra. Lúa sau khi tách vỏ được gọi là gạo đóng hàng (riz cargo). Gạo này được đóng thành hàng cargo và xuất khẩu với khối lượng lớn qua Âu châu hay Trung quốc dưới nhãn hiệu "cargo 5, 15, 20, 30 %" tùy theo chúng còn chứa ít hay nhiều phần trăm hạt lúa còn lẫn trong gạo đã xay.
Sau khi gạo đã xay, chúng được máy kéo đưa qua nhà máy bên cạnh máy xay để làm trắng gạo (blanchissage). Những máy này được gọi là cone-mills hay barley-mills, có các mặt nhám chà và làm gạo trắng đi khi chúng quay trong các thùng lớn có mái che ở trên làm bằng kim loại. Qua giai đoạn này thì ta có gạo trắng.
Qua giai đoạn thứ ba gọi là chà láng (glacage), gạo trắng được chà láng bởi các da cừu được đặt trong các trống lớn xoay vòng. Sau giai đoạn này là gạo được dùng để cho dân chúng tiêu thụ như ta đã biết.


Hình 1 - Sơ đồ máy xay lúa (12) ở Saigon-Chợ Lớn cuối
thế kỷ 19.Lúa được đổ vào thùng (A). Giai đoạn từ B đến F
là sạn lọc các hạt đất, đá, gỗ… ra khỏi lúa, giai đoạn
K đến T là bóc lúa ra hạt gạo vào thùng U.

Vì thế gạo xay ra từ lúa được chia ra làm nhiều hạng khác nhau, đóng vào các bao và cân trước khi được xuất ra khỏi nhà máy:
(1) Gạo cargo 2 đến 30 % lúa
(2) Gạo trắng số 1, 2, 3
(3) Gạo tấm đủ cỡ
(4) bột gạo cargo (từ gạo cargo)
(4) bột gạo trắng
Có ba loại gạo chính trong thời kỳ này: gạo Bai Xau (Bãi Xào, Sóc Trăng), hột dài và thon, được coi là gạo ngon nhất, gạo Vĩnh Long (Long Hồ), hột dài và lớn, và gạo Gò Công, hạt lớn và ngắn (12).
Ở Bình Dương, Biên Hòa sau này cũng có các nhà máy xay lúa, chủ yếu lúa từ các tỉnh miền Đông Nam Bộ, tuy vậy số lượng lúa gạo không đáng kể so với các tỉnh miền Tây và Cam Bốt mang đến Chợ Lớn và cảng Saigon để xuất khẩu. Các nhà máy xay lúa thường có các hợp đồng với các thương gia ở Chợ Lớn để được cung cấp lúa trước khi xay. Hầu như tất cả các hợp đồng cung cấp lúa là trong tay người Hoa ở Chợ Lớn. Họ có hệ thống đại lý mua lúa từ các điền chủ, nông dân ở các tỉnh miền Tây và Cam Bốt mang về Chợ Lớn trên các ghe thuyền.
Chất lượng gạo xuất khẩu từ Nam kỳ không phải là chất lượng cao và thuộc loại hạng 2 trên thị trường thế giới. Gạo Miến Điện (Burma) và Siam (Thái Lan) rất có giá, nhất là ở thị trường Âu châu, các gạo này thuộc loại hạng nhất. Lý do gạo từ Nam kỳ không có giá cao là vì thiếu tiêu chuẩn và do tình trạng chuyên chở, bảo quản không tốt. Những lý do này đã được biết đến từ năm 1868, sau cuộc triển lãm Hội chợ thế giới (Expo) năm 1867. Ông Mettle, hội viên của Ủy ban Canh nông và kỹ nghệ Nam kỳ (Comité Agricole et Industriel de Cochinchine) đã nói: hình dáng bên ngoài của hạt gạo không trắng, đẹp, bền và trong gạo có nhiều hạt gạo bị bể do phương pháp xay hay giã gạo không tốt của người bản xứ, và do vậy nên chỉ bán được với giá rẻ so với gạo chất lượng tốt hạng nhất của Miến Điện (13). Thị trường chứng khoán Luân Đôn cho thấy giá gạo Saigon chỉ là 30% so với gạo Rangoon (Miến Điện), vì thế mất đi 15 triệu francs trong tổng số 600000 tấn gạo xuất khẩu (13).
Từ khi Pháp đến cho đến năm 1873, Chợ Lớn chỉ được coi là một quận (arrondisement) của thành phố Saigon. Vào năm 1873, một Ủy ban thành phố được thành lập nhưng chỉ hoạt động trong 3 năm cho đến 1876. Ngày 20 tháng 10 1879, thì Chợ Lớn mới chính thức là thành phố mà thị trưởng đầu tiên là nhà nghiên cứu văn hóa Landes. Thành phố Chợ Lớn phát triển mạnh mẽ là nhờ kinh tế qua lúa gạo, mang lại lợi nhuận lớn, tạo công ăn việc làm cho nhiều người như thương gia, lái buôn, công nhân, chủ ghe, tiểu thương…
Do các nhà các nhà máy xay lúa hầu như chạy suốt ngày, nên ô nhiễm qua bụi thóc, lúa và tro khói đốt từ trấu để đun hơi nước cho máy xay rất nặng nề, nhất là các khu dân cư sống chung quanh gần nhà máy. Pierre Passerat de la Chapelle (12) cho biết bụi và khói qua gió tỏa lan qua các vùng chung quanh các nhà máy làm dân cư rất khó sống nổi: chúng xông vào mắt làm khó chịu và gây ra các bệnh đường phổi. Bụi và khói tro xuyên đi khắp nơi và bám đầy các nhà. Trẻ em là chịu khổ nhiều nhất. Ở bót cảnh sát Bình Tây, hội đồng thành phố Chợ Lớn không điều cảnh sát đến đó trong thời hạn hơn sáu tháng, không thì nhân viên sẽ bị tác hại nguy hiểm đến sức khỏe.
Thị trưởng thành phố Chợ Lớn vào đầu thế kỷ 20 là ông F. Drouhet. Ông là người thành lập ra bệnh viện phụ sản Chợ Lớn ngày 10 tháng 5 1901. Bệnh viện này trực thuộc bệnh viện thành phố Chợ Lớn và sau đó di chuyển qua một nhà kế cạnh ngày 1 tháng 7 1901. Đây là bệnh viện phụ sản đầu tiên ở Đông Dương và ở Viễn Đông (6).
Người Pháp đã biết lý do chất lượng gạo xuất khẩu không đồng đều nên được ít giá. Họ đã cố gắng thiết lập cơ xưởng nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu, nhưng họ không đạt được hoàn toàn điều mong muốn, mặc dầu Nam kỳ là trung tâm sản xuất gạo lớn ở Đông Nam Á. Lý do chủ yếu là do sự trộn lẫn các loại lúa mà người Hoa mua thâu trước khi được đưa tới giao cho các nhà máy. Điều này làm chất lượng gạo xay ra không được đồng đều và tốt. So với sản xuất gạo ở Miến Điện, họ để máy chạy liên tục, lúa không được lẫn lộn, vì mỗi loại lúa cho mỗi máy khác nhau. Quan trọng hơn là mua bán lúa được tiêu chuẩn hóa qua trọng lượng (chứ không dựa vào thể tích) trong "giỏ tiêu chuẩn" (standard basket) và vì thế gián tiếp làm người mua phân biệt các loại gạo có trọng lượng hạt khác nhau.
Theo Niên giám Đông Dương năm 1905 (6) thì các nhà máy quan trọng ở Saigon-Chợ Lớn được liệt kê (chủ yếu) như sau:
(1) Rizerie "Ban-joo-Guan"
Ban-soon-An et Cie gerants,
Directeur: Tran-ho-Seng
Chef mecanicien: Richardson, Ismael et White, mecaniciens
(2) Rizerie "Kan-Hong-Sen"
quai des Jonques
Tres de patente: Khoa Teck-Pye et Khuu-Tuyet
Mecaniciens: Bandwin et Encarnocoa
(3) Rizerie "Ban-teck-Guan et Cie",
122 quai des Jonques,
Directeur: Ngo-chung-Hoan
Mecaniciens: Scheidel-Splied-Brader
(4) Rizerie "Man-aeck-Yuen ou Ban-aick-Guan"
1, route de Choquan
Van-ich-Nguyen
(5) Rizerie "Union", quai des Jonques
M. Bennecke, Directeur
Bader, Mecanicien Chef
(6) Rizerie "Orient", quai des Jonques,
M. Bennecke, Directeur
Rickenmann, Mecanicien Chef
(7) Rizerie "Di-Xuong" dit Yeo-Cheong (5), quai des Jonques
Directeur: Ly-truong
Waston et Salltam, mecaniciens
(8) Rizerie "Nam-long", 345 quai de Mytho
Société Man-cheong-Yuen
Administrateur-directeur M. Luu-luc
Chef Mecanicien, Lassen,
(9) Rizerie "Van-phong-Nguyen" a Binh-dong en construction
Tập trung nhiều nhất những cơ sở buôn bán lúa gạo là trên bến “quai de My Tho” (bến Trần Văn Kiểu). Các ông Khuu-Tuyet, giám đốc nhà máy xay xát lúa “Kan-Hong-Sen” (Kiến Phương Thành) ở bến Bình Đông (quai des Jonques), có cửa hàng Long Nang (375 quai de Mytho), ông Khuu-Hac (386 quai de Mytho), ông Khuu-Te, (273 quai de Mytho). Ông Ngo-Chung-Hoan, giám đốc nhà máy xay xát lúa “Ban-teck-Guan et Cie" (122 quai des Jonques) có cửa hàng Vinh-Nguyen-Long (359 quai de Mytho) và ở 13-14 bến Xóm Củi (quai Xom-cui). Ông Luu-Luc (giám đốc quản lý nhà máy xay lúa Nam Long) và ông Ly-phuoc có cửa hàng lớn Quach-vinh-xuong (308, 309 và 310 quai de Mytho). Ngoài ra còn có các ông Lam-Tham (184 quai de Mytho), Le-Ky (264 quai de Mytho), Lac-Viem (248 quai de Mytho), Kha-tu-phuong (383 quai de Mytho)… đều là thương gia buốn bán lúa gạo. Hầu hết là người Hoa từ Straits Settlements (Singapore, Penang, Malacca) và Hồng Kông.
Thống kê các nhà máy xay lúa chạy bằng hơi nước vào năm 1907 (6) cho thấy có sự thay đổi nhân sự ở một số nhà máy. Các nhà máy “Di-xuong” (Di Xương), Ban-Joo-Guan (Vạn Dụ Nguyên) hay Ban Soon An (Vạn Thuận An), Ban-teck Guan et Cie (công ty Vạn Đức Nguyên), Kan-hong Sen (Kiến Phương Thành) hay Kim-hong Sen là của người Hoa Baba ở vùng Cư trú Eo biển (Straits Settlements gồm Singapore, Penang, Malacca).
  1. Rizerie “Union”, Quai des Jonques, Giám đốc: M. Bennecke, comptable O. Schmidt
  2. Rizerie “Orient”, Quai des Jonques, Giám đốc: M. Bennecke, Comptable Stoekemann, mecaniciens Rickenmann, Muller-Munster-Fame…
  3. “Nam Long”, 315 Quai de My Tho, Société Man-cheong-Yuen (công ty Vạn Xương Nguyên), Quản lý (administrateur): Luu Luc, giám đốc: Ly Lap, Kỷ thuật cơ khí (mecaniciens): Lassen, Helmich Richter et Card Caertner
  4. “Di-Xuong” (Yee-cheong), Quai des Jonques, giám đốc: Quach Dam, comprador: Waston et Salltam, mecaniciens
  5. Rizerie “Ban-joo-Guan” (Vạn Dụ Nguyên), 34 Quai de Mytho, Ban-soan An et Cie gerants (công ty Vạn Thuận An quản lý), giám đốc: Tran Ho Seng, Tan-vu Wee (sous-directeur), comprador: Lim Keng, mecanicien: Richardson, Ismael et White
  6. Rizerie “Kan-hong Sen” (8) (Kiến Phương Thành), Quai des Jonques, Khoa Teck Pye et Khuu Tuyet, giám đốc: Khuu Tuyet
  7. Rizerie “Ban-teck Guan et Cie” (công ty Vạn Đức Nguyên), 122 Quai des Jonques, directeur: Tran Ho Seng, mecaniciens: Scheidel-Splied-Brader
  8. Rizerie “Man-aeck-Yuen ou Ban-aaick-Guan” (Vạn Ích Nguyên), 1 Route de Cho Quan Basse, Van Ich Nguyen
Rizerie “Van phong Nguyen” (Vạn Phong Nguyên), Binh Dong

Người Hoa chiếm ưu thế trong nền kinh tế lúa gạo


Người Pháp không kiểm soát và cạnh tranh được với người Hoa trong khâu thu mua lúa. Các thương gia người Hoa và hệ thống đại lý của họ đi thâu mua lúa từ các nông dân và điền chủ ở khắp nông thôn Nam Kỳ và Cam Bốt, và phần lớn họ không tách ra các loại lúa khác nhau. Vì nhà máy xay trả cùng giá dựa trên chất lượng trung binh của các loại lúa nên họ không có lợi gì mà phân loại lúa mà chỉ cần trộn lẫn một phần lúa tốt với lúa kém chất lượng để bán cho nhà máy theo hợp đồng. Lúa Gò Công là tốt nhất vì chúng không dễ bị bể khi xay lúa, gạo Vĩnh Long (Long Hồ) cứng trung bình hơn gạo Bãi Xau (Bãi Xào) hay dễ bị bể khi xay. Ở thị trường Âu châu, chất lượng loại gạo hạt tròn Gò Công là tốt ít bể nhưng cũng luôn luôn bị lẫn với các loại gạo hạt dài nên làm gạo từ Nam kỳ kém phẩm chất và không được giá (13).
Theo Capus (13) thì ông Paris, cựu chủ tịch Phòng Canh nông Nam Kỳ (Chambre d'Agriculture de Cochinchine) kết luận cho là những nguyên do chính làm khó khăn cho việc nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu từ Nam Kỳ:
  1. sự trộn lẫn lúa chất lượng khác nhau
  2. các nhà máy trả cùng giá cho các lúa thâu mua dựa vào chất lượng trung bình của các loại lúa trộn lẫn
  3. đại lý mua lúa theo dung tích thay vì trọng lượng,
và các nhà máy không đầu tư vào các loại máy xay khác nhau cho mỗi loại lúa, mà chỉ cần là giá gạo thấp đủ làm hài lòng những nhà xuất khẩu gạo đến các thị trường Trung quốc và Viễn Đông cho đa số các loại gạo này là đủ. Họ không cần để ý đến thị trường Châu Âu mặc dầu thị trường này được giá cao cho gạo có chất lượng nhưng họ cho là khó khăn không dễ ăn như các thị trường khác.
Vì đa số nhà máy là của người Hoa và thầu cung cấp lúa nằm trong tay họ nên ông Paris đề nghị chỉ có cách ra khỏi vòng oan nghiệt này là người Pháp phải đầu tư có những đồn điền trồng lúa riêng (chỉ có một số người Pháp, như các ông Jourdan, Abalaine, Dugos, Remy Gressier(3), Bernard Labaste ở Sóc Trăng). Ở tỉnh Sóc Trăng, năm 1933 (14) trong số 16 điền chủ có ruộng lớn là các ông: Bernard Labaste (Rizière de Hélèneville) 6500 mẫu, Gressier 4088 mẫu, Huỳnh Thị Ngọ 2271 mẫu, Lê Văn Trước 1939 mẫu, Nguyễn Hữu Trinh 2500 mẫu, Lam Quang Chiêu 1870 mẫu, Trương Chánh Viên 1200 mẫu... Nhà máy xay lúa của ông Gressier ở Phú Lộc (Sóc Trăng) sản xuất khoảng 4000 tấn gạo từ vụ lúa của ông và những nông dân, điền chủ trong tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu. Ở Chợ Lớn, các nhà máy do người Pháp làm chủ (Distilleries d’ Indochine, Rizeries d’Extrême-Orient, Société des riz d’Indochine) có máy tối tân hơn và họ mua lúa theo tiêu chuẩn chọn sẵn với giá cao từ nông dân hay thương gia, để nâng chất lượng gạo xay ra. Mỗi tháng các nhà máy này sản xuất từ 35000 đến 40000 tấn gạo chất lượng cao (16).
Ngày nay sau hơn 100 năm, gạo xuất khẩu Việt Nam ở cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21 vẫn không được cao giá như gạo Thái Lan. Lý do cũng không khác bao nhiêu thời Pháp thuộc ở cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, tựu trung là vì tiêu chuẩn không cao và không đồng đều và chỉ nhắm vào thị trường không cao cấp. Ngược lại vào đầu thế kỷ 20, Nhật lại xuất khẩu gạo tốt của họ có chất lượng cao có tiếng cùng với gạo Miến Điện ở thị trường Âu châu với giá cao hẳn so với gạo từ Saigon và họ lại nhập gạo giá thấp từ Nam Kỳ để đáp ứng nhu cầu người dân. Họ nhìn xa, đầu tư vào thương hiệu ở thị trường cao cấp với lợi nhuận nhiều cho sự siêng năng chăm chỉ đã bỏ ra và tiết kiệm được nhiều.
Theo Niên giám Đông Pháp (Annuaire général de l'Indo-Chine française) vào năm 1914 (6) thì có 9 nhà máy xay lúa chạy bằng hơi nước
  1. Bang-aik-Guan (Vạn Ích Nguyên), trước là nhà máy Spooner của ông Andrew Spooner.
  2. Ban-teck-Guan (Vạn Đức Nguyên), của người Hoa (Baba hay Peranakan) từ Singapore, trước đây cho đến năm 1886 chỉ thu thập lúa gạo để đóng hàng cargo, sau 1886 thì xay lúa thành gạo trắng
  3. Union, nhà máy có cổ phần hùn của người Pháp, Đức và Hoa, được điều hành bởi công ty Société Speidel (4) của Đức, nhà máy xay lúa thành gạo và đóng cargo gạo để xuất khẩu.
  4. Van-de-Nguyen (Vạn Dụ Nguyên), còn gọi là Bon-soan-An, hoàn toàn của người Hoa (Baba) từ Singapore, xây năm 1893, hoạt động năm 1895, xay lúa gạo và đóng cargo hàng
  5. Kian-hong-Seng(8) (Kiến Phương Thành), của người Hoa từ Singapore, xây năm 1886, xay lúa làm gạo trắng và đóng cargo; bị cháy đầu năm 1907;
  6. Van-xuong-Nguyen (Vạn Xương Nguyên), còn gọi là Nam-Long(7), hoàn toàn của người Hoa, Société Man-cheong-Yuen (công ty Vạn Xương Nguyên) từ Hồng Kông. Xây năm 1893, hoạt động 1895; làm gạo trắng và đóng hàng cargo.
  7. Rizerie Orient, cùng các chủ hùn hùn vốn và điều hành như ở nhà máy Union; bị cháy ngày 21 tháng 4 1896 lúc bắt đầu hoạt động, được xây trở lại.
  8. Ýée-Cheong(5) (Di Xương), hoàn toàn của người Hoa (Baba gốc Phúc Kiến) từ Penang
Bang-hong-Guan, hoàn toàn của người Hoa (Baba gốc Phúc Kiến) từ Java

Hình 2 – Nhà máy xay lúa Orient (Rizerie Orient),
trên Bến Bình Đông (Quai des Jonques)

Tất cả các nhà máy trên nằm ở dọc theo bến sông và kênh để dễ dàng nhận các giạ lúa (paddy) từ các tàu bè mang lúa từ miền Tây, Cam Bốt. Sau khi xay xong, gạo được đóng chất vào các bao gạo và mang xuống tàu chở ra cảng Saigon để xuất khẩu đến các thị trường như Trung Quốc, Singapore, Java và Manila... hoặc mang đi phân phối bán trong toàn Đông Dương. Dọc bến ở các nhà máy này lúc ban đêm có đèn điện thắp sáng để làm việc đêm. Chợ Lớn bắt đầu có điện vào cuối năm 1906 trên các trục giao thông chính (6) và có ba trạm điện tín (bureaux telegraphiques), một trạm trung tâm ở bến Hội Hiệp (quai Hoi-Hiep tức Quai Gaudot nay là đường Hải Thượng Lãn Ông), một ở Bình Tây và một ở Chợ Quán và hệ thống điện thoại nối hai thành phố Saigon và Chợ Lớn được thành lập.
Khi thế chiến thứ nhất xảy ra, các cơ sở thương mại của người Đức ở Đông Dương bị chế tài, công ty Speidel coi như bị phá sản. Theo báo “The Straits Times” ở Singapore thì ngày 20 tháng 8 năm 1915, hai nhà máy “Orient” và “Union et Progress” của công ty Speidel được bán đấu giá ở Saigon. Nhà máy “Union et Progres” được bán cho ông Lim Kim với giá $570,000 và nhà máy “Orient” cho ông Ly-Cho Chung với giá $785,000 (24).

Nguyễn Đức Hiệp




Chú thích


(1) Hiện nay (2011) ở Miến Điện (Myanmar), một số nhà máy xay lúa vẫn còn dùng máy xay lúa chạy bằng hơi nước
(2) Andrew Spooner là người Mỹ đầu tiên sống tại Nam kỳ, ông là nhà báo, thương gia đi cùng với đoàn quân viễn chinh Pháp đánh các tỉnh miền Đông Nam kỳ lúc ban đầu.
(3) Ông Gressier có ruộng lúa ở Sóc Trăng, Vĩnh Hưng (Rạch Giá) và nhà máy xay lúa ngay tại Phú Lộc, tỉnh Sóc Trăng. Ông còn có các tàu chở lúa gạo đi Saigon-Chợ Lớn để bán và xuất khẩu. Ông mướn nhiều người Việt hay Pháp làm việc cho cơ sở thương mại lúa gạo của ông. Người Việt gọi cơ sở của ông là “điền ông kho Gressier”. Sau 1945, một số tàu chuyên chở của ông được Hải quân Pháp trưng dụng và tái thiết làm tàu tuần tiễu trên sông rạch.
(4) Công ty Speidel là do ông Theodore Speidel, người Đức, lập ra ở Saigon năm 1868.. Ông Speidel cũng là lãnh sự đại diện cho Đức và Hòa Lan ở Nam Kỳ. Công ty Speidel có chi nhánh ở Hà Nội, Hải Phòng, Phnom Penh. Ông Speidel xây dựng hai nhà máy xay lúa Orient va Union ở Saigon, ông hợp tác buôn bán lúa gạo với người Hoa ở Saigon-Chợ Lớn. Công ty cũng có các tàu chở hàng và hợp tác chặt chẽ với người Hoa ở Đông Nam Á. Trong hồi ký “Vãng An Nam nhật ký” của một thương gia người Hoa từ Java (thuộc Hòa Lan) đi thăm Saigon năm 1890 thì khi đến Saigon, ông Speidel đã tiếp đón ông và dẫn ông đến cửa tiệm nhà của một người Baba quốc tịch Anh tên là Chan Eng Bok (Zeng Yingmu) ở đường rue des Baba, Chợ Lớn (đường Phùng Hưng hay Phúc Kiến ngày nay) để tá túc (25). Ở Chợ Lớn, ông là hội viên của Association Hospitalière de Cochinchine (6) (thành lập 11/9/1905). Ông Speidel mất năm 1909 ở Paris. Công ty sau đó được điều hành bởi F.W Speidel (22). Sau khi thế chiến thứ nhất xảy ra (1914), công ty hoàn toàn bị hạn chế hoạt động ở Đông Dương. Một người Hòa Lan, Jan Mulder, nhân viên của công ty Speidel ở chi nhánh Hải Phòng là người đầu tiên chụp những ảnh ba chiều ở Hải Phòng trong các năm 1904-1908.
(5) Đây có thể là nhà máy của ông Trương Bật Sĩ (Cheong Fatt Tze (1840-1916), 張弼士), một thương gia giàu có người Hoa gốc Hẹ ở Penang (Malaysia), được mênh danh là ‘Rockfeller of the East’. Biệt thự to lớn xây theo kiến trúc cổ truyền Trung Hoa của ông ở Penang nay là di tích được bảo tồn và được nhiều du khách đến viếng thăm của thành phố Penang sau khi được đưa vào danh sách Di sản Thế giới. Theo Niên giám 1933 (7), thì có ghi công ty tàu biển Yee-Cheong mỗi tuần 2 lần đi từ Singapore đến Sán Đầu (Swatow, Quảng Đông), đều ghé Saigon. Năm 1903, trên bố cáo trang 1 trên tờ báo “The Straits Times” (23 December 1903) ở Singapore, ông Chan Ban (con của ông Chan Choon, một thương gia ở vùng Straits Settlements) đang làm ở nhà máy xay xát gạo Yee-Chong ở Chợ Lớn đăng tìm tin tức thân nhân đã mất liên lạc của một người Hoa Singapore quen của cha ông lúc làm việc ở Hồng Kông, Macao (20). Điều này chứng tỏ những người Hoa từ Straits Settlements (Singapore, Penang, Malacca) vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 đã đến Chợ Lớn buôn bán, sản xuất lúa gạo. Và chủ nhà máy Yee-Cheong là người Hoa từ vùng này, rất có thể là của ông Trương Bật Sĩ.
(6) Nhà máy Guan-Hong-Sen, ở bến Bình Đông (quai des Jonques) còn có thể có tên là nhà máy Seng Guan (Thành Nguyên). Li Tana (21) có liệt kê Seng Guan Rice Mill cùng với nhà máy Kim Hong Seng. Nhà máy này của người Baba (Peranakan) có kỷ sư người Anh làm việc. Đây có thể là nhà máy của công ty Thành Hạnh (Chin Seng) của ông Trần Kim Chung (Tan Kim Ching), một đại thương gia (“Kapitan Cina”) ở Singapore lập ra vào cuối thế kỷ 19.
(7) Nhà máy xay lúa Nam Long có lẽ là của người Hoa từ Hồng Kông. Báo South China Morning Post ở Hồng Kông năm 1921 có đăng về vụ tranh chấp qua ngân hàng HSBC (HongKong Shanghai Banking Corporation) giữa Kung Yuen và người quản lý kế nhiệm của nhà máy Nam Long sau khi ông quản lý Lau Luk (Lau Tse Tsun) mất (21). Theo tạp chí “Bulletin la Société des études indochinoises de Saigon” (1915, No. 67) thì người thành lập “Maison” Nam Long là To-duong-San.
(8) Kan-Hong Seng (Kiến Phương Thành) hay Kim-Hong Seng còn có tên là Ngy-Cheong Seng (21). Đây cũng có thể là nhà máy ông Trần Kim Chung (Singapore) xây vào năm 1886.


Tham khảo


  1. La revue du Pacifique, 1923/07(A2,N7)-1923/12(A2,N12), pp. 501-502
  2. Thomas Engelbert, Chinese Politics in Colonial Saigon (1919–1936): The Case of the Guomindang, Chinese Southern Diaspora Studies, Volume 4, 2010.
  3. Geoffrey Gunn, The Great Vietnamese Famine of 1944-45 Revisited, The Asia-Pacific Journal,http://japanfocus.org/-Geoffrey-Gunn/3483
  4. Annuaire administratif de l'Indochine. 1937, Impr. d'Extrême-Orient (Hanoï), 1937, pp. 244
  5. Li Tana, The Tomb Inscription of Tjia Mah Yen, a Hokkien Businessman of French Cochinchina, Chinese Southern Diaspora Studies, Volume 4, 2010.
  6. Annuaire général de l'Indo-Chine française ["puis" de l'Indochine], Publisher : Hanoi, 1905, 1906, 1907, 1910 (pp. 583), 1914 (pp. 453-455), 1918.
  7. Annuaire complet (européen et indigène) de toute l'Indochine, commerce, industrie, plantations, mines, adresses particulières... : Indochine, adresses, 1ère année 1933-1934 / éditeurs madame L. Lacroix-Sommé, messieurs R. J. Dickson et A. J. Burtschy, impr. A. Portail (Saigon), 1933.
  8. Recueil des procès-verbaux des séances plénières du Grand Conseil des intérêts économiques et financiers de l'Indochine: session ordinaire de 1938, Grand conseil économique et financier de l'Indochine, Impr. de Le-Van-Tan (Hanoï), 1929-1939, pp. 242-244.
  9. Annuaire de la Cochinchine française 1865, Saigon,1865-1888.
  10. Bulletin bi-mensuel (de la Chambre de commerce de Saïgon), 20 Juin 1881, 25 Janvier 1890, 5 Juillet 1900, 19 Fevrier 1918, 21 Mai 1924, 2 Janvier 1923, 15 Fevrier 1928, 15 Janvier 1933, Saigon
  11. Louis Imbert, La Cochinchine au seuil du XXe siècle, Impr. de J. Durand (Bordeaux), 1900.
  12. Pierre Passerat de la Chapelle, L’industrie du decorticage du riz en basse-cochinchine, Bulletin de la Société des études indochinoises de Saigon, Imprimerie L. Ménard, 1901, pp. 49-85.
  13. Guillaume Capus, Le riz d’indochine, Annales de Geographie, 1918, Vol. 27, No. 145, pp.25-42.
  14. Annuaire complet (européen et indigène) de toute l'Indochine, commerce, industrie, plantations, mines, adresses particulières: Indochine, adresses, 1ère année 1933-1934 / éditeurs madame L. Lacroix-Sommé, messieurs R. J. Dickson et A. J. Burtschy, impr. A. Portail (Saigon), 1933
  15. Le Khuong Ninh, Investment of Rice Mills in Vietnam, The Role of Financial Market Imperfections and Uncertainty,http://www.economicswebinstitute.org/essays/investviet.pdf
  16. Albert Naud, L'exportation des grands produits agricoles indochinois, Annales de Géographie, 1930, Volume 39, Numéro 217, pp. 50-60.
  17. Annuaire général de l'Indo-Chine française, 1901, 1923.
  18. Sơn Nam, Lịch sử khẩn hoang miền Nam,
  19. Vương Hồng Sển, Saigon năm xưa, Nxb Tp Hồ Chí Minh, 1991.
  20. Li Tana, 尋找法屬越南南方的華人米商 (Tầm trào Pháp thuộc Việt Nam nam phương đích Hoa nhân mễ thương), Chinese Southern Diaspora Studies, Vol. 4, 2010, http://csds.anu.edu.au/volume_4_2010/20-5C_CSDS_2010_Tana_Li.pdf
  21. Julia Martinez, Chinese rice trade and shipping from the North Vietnamese port of Hai Phong, Chinese Southern Diaspora Studies, Vol. 1, 2007, http://csds.anu.edu.au/volume_1_2007/Martinez.pdf
  22. Rajeswary Ampalavanar Brown, Bank archives and research on Chinese business communities in Indo-China, South China Research Resource Station Newsletter, 15/7/2001, http://ihome.ust.hk/~schina/PDF/news24.pdf
  23. The Strats Times, 3 September 1915, ‘Sagon Rice Mills Sold”, trang 6,http://newspapers.nl.sg/Digitised/Article/straitstimes19150903.2.36.aspx
  24. Claudine Salmon, Tạ Trọng Hiệp, De Batavia à Saigon: notes de voyage d’un marchand chinois (1890), Archipel, 1994, Vol. 47, pp. 155-191
  25. Nguyễn Đức Hiệp, Singapore-Saigon-Hong Kong: Quan hệ thương mại người Hoa từ thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20, http://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/singapore-saigon-hong-kong/
  26. Rapports au Conseil de gouvernement, session ordinaire 1927, 1928, 1929 / Gouvernement général de l'Indo-Chine, Impr. d'Extrême-Orient (Hanoï), 1927, 1928, 1929

Vai trò lúa gạo trong đời sống kinh tế và chính trị ở Saigon-Chợ Lớn đầu thế kỷ 20 

--
Vai trò lúa gạo trong đời sống kinh tế và chính trị ở Saigon-Chợ Lớn đầu thế kỷ 20 – Phần 2  —  (Diễn đàn).  

Sự vận hành và quản lý các nhà máy xay lúa


Vào năm 1923, trọng lượng lúa xay trong 24 tiếng chạy trong các nhà máy xay lúa ở Chợ Lớn như sau:
Sản xuất gạo (tấn) từ các nhà máy xay lúa của Pháp ở Chợ Lớn (1)
Rizeries d'Extrême-Orient:
Usine Orient                     650
Rizerie des Jonques          500
Rizeries Tong-Wo            1200
Rizerie Ban-Hong-Guan   1000
Distilleries de l'Indochine         640
Tổng cộng                             3990 tấn
(trong vài tháng sau có thêm nhà máy của Société des Rizeries du Pacifique với công xuất 600 tấn, nâng tổng số gạo là 4550 tấn).

hinh-3
Hình 3 – Nhà máy xay lúa Tong Wo có công xuất lớn nhất của công ty Société des rizeries d’Extrême-Orient ở bến Bình Đông (quai des Jonques, bến Bình Đông, không phải Canal des Poteries tức rạch Lò Gốm như chú thích trong hình).

Nếu cộng với sản lượng (tấn) của cả nhà máy Pháp, Hoa kiều và Việt thì như sau
Nhà máy Pháp                3990
Nhà máy Hoa:
Ban-Aik-Guan                  500
Guan-Hong-Sen (6)           400
Ngy-Cheong-Seng            550
Yée-Chéong(5)                1000
Quach Dam (Lo-Gom)       250
Ban-Sooan-An                  750
Nam Loong (7)                  700
Sam-Hing                        250
Quach-Dam (Chanh Hung) 250
Cộng với tất cả các nhà máy nhỏ khác của người Hoa và Việt 2500
Tổng cộng 11140 tấn
(chú thích: Quai des Jonques ngày nay là Bến Bình Đông)
Như vậy vào năm 1923, số lượng lúa xay mỗi ngày (chạy 24 tiếng) là 11140 tấn và dự tính đầu năm 1924, với số nhà máy đang xây dựng vào hoạt động, thì mỗi ngày sẽ xay được 11700 tấn chạy trong 24 tiếng. Dĩ nhiên không phải ngày nào trong năm cũng đều chạy. Trung bình thì 200 ngày mỗi năm hoạt động xay lúa, còn lại là lúc để bảo trì máy và nghỉ khi không có lúa xay.
Theo danh sách các nhà máy ở trên vào năm 1923, ta có thể thấy nhà máy Orient và nhà máy Ban-Hong-Guan ở thời điểm này nằm trong 4 nhà máy của công ty Pháp Rizeries d'Extrême-Orient. Nhà máy “Rizerie des Jonques” ở số 203 bến Bình Đông (quai des Jonques) trước là nhà máy Ban-Teck Guan (Vạn Đức Nguyên) của Singapore cũng thuộc về cùng công ty Pháp như trên ít nhất là từ năm 1918 hay trước đó vì trong Niên giám 1918 có ghi “Rizerie des Jonques” có tên trước là Ban-teck Guan (6). Các nhà thương gia Singapore cũng còn một nhà máy Ban-Teck Guan khác ở bến Bình Đông, số 122 quai des Jonques.
Nhà máy Sam Hing là của ông Sam Hing. Ông là bang trưởng của Bang Quảng Đông ở Chợ Lớn, năm 1881 ông được cấp giấy phép xây cất nhà trên đường Cây Mai (Nguyễn Trãi ngày nay), xem Bulletin Oficiel de la Cochinchine Francaise, Sept. 1881, no. 9, pp. 379). Ông Sam Hing và Quách Đàm là người Hoa sinh trưởng trong Chợ Lớn. Nhà máy của ông Sam Hing và hai nhà máy của ông Quách Đàm có công xuất bằng phân nửa hay một phần tư công xuất các nhà máy khác.
Nhà máy xay lúa Bang-aik-Guan (Vạn Ích Nguyên) và Ban-Hong-Guan là của ông Tja Ma Yeng (Tạ Mã Điền) tục danh là Má Chín Dảnh (19) (alias Ta Ma Diên), Ông sinh năm 1862 ở Batavia (Java) và mất năm 1940 ở đường Mai Sơn (trên đường này có chùa Mai Sơn tự), Chợ Lớn và được chôn ở nghĩa địa Minh Đức ở Phú Thọ (5). Ông là người Peranakan (Baba) gốc Phúc Kiến từ Java đến Chợ Lớn làm ăn vào năm 1885.
Trong giai đoạn đầu ông lập công ty buôn bán gạo “Ban Guan” (Vạn Nguyên), gia nhập quốc tịch Pháp năm 1905 và sau đó mua lại một nhà máy xay lúa chạy bằng hơi nước của một công ty Pháp (của ông Andrew Spooner trước kia) sắp sửa phải đóng cửa. Ông đặt lại tên nhà máy là Ban Aik Guan Steam Rice Mill Co. Ltd. Ông xuất khẩu gạo qua công ty của ông là “Hock Guan Hong”. Ngoài ra ông còn sở hữu hai tàu vận tải hơi nước và rất nhiều nhà cửa ở Saigon và Chợ Lớn (2). Bốn người con trai của ông, theo Tây học, Tạ Thanh Thuyền, Ta Thanh Tông, Tạ Thanh Hảo và Tạ Thanh Tri cũng đều tham gia vào lãnh vực thương mại.
Sau đó Tạ Mã Điền thấy nhà máy Ban Aik Guan Steam Rice Mill vẫn còn nhỏ. Để phát triển thêm, ông mua đất ở dọc bến Bình Đông và xây một nhà máy lớn hơn trang bị với máy xay lúa mới và đặt tên nhà máy mới này là “Ban Hong Guan”. Ông còn có cơ sở mua bán lúa và nhà máy xay lúa nhỏ ở 231 quai de Mytho (6).
Ông là người thành lập trường tiểu học Min-Zhang (Minh Dương) ở Chợ Lớn và trường trung học Pháp Hoa (Lycée Franco-Chinois), sau này gọi là trường Bác Ái (ngày nay là Cao đẳng Sư Phạm). Ông là bang trưởng bang Phúc Kiến, hội viên của Hội Đồng thành phố Chợ Lớn và “La Maison Retraite” (Asile des vieilards et des infirmes, thành lập ngày 27/11/1902 với F. Drouhet, thị trưởng Chợ Lớn, là chủ tịch). Ngoài ra ông còn là hội viên của “Association Nguyen Van Chi Pour la protection des aveugles asiatiques de cochinchine” (thành lập ngày 12/4/1905) mà trong Hội đồng quản trị của hội này có ông Rodier (Phó soái Nam kỳ) là chủ tịch danh dự, F. Drouhet, thị trưởng Chợ Lớn là chủ tịch và ông Quách Đàm, nghị viên thành phố Chợ Lớn là phó chủ tịch (6).
Nhà máy xay xát lúa Ban-Soon-An (Vạn Thuận An) hay Ban Joo Guan (Vạn dụ-nguyên) (21) ở bến Trần Văn Kiểu (quai de Mytho) là của người Hoa từ Singapore, Penang và Malacca (còn gọi là người Baba hay Peranakan). Năm 1905 quản lý nhà máy là ông Tan Ho Seng (gốc Phúc Kiến) (21), và theo niên giám Đông Dương năm 1907 (4), ông Tan Ho Seng vẫn còn là quản lý nhà máy này và luôn cả nhà máy xay lúa Ban-teck Guan et Cie (công ty Vạn Đức Nguyên) ở bến Bình Đông (quai des Jonques).
Theo tư liệu của “Bulletin de la société des études indochinoises” năm 1915 (số 67) thì ông Tan-Kiong-Hong, của nhà máy Ban-teck Guan (Vạn Đức Nguyên) là hội viên của hội. Báo “The Straits Times” ở Singapore ngày 22 tháng 5 1931 (26) cho biết ông Tan Kiong Hong là người sanh ra ở Singapore và gởi từ Saigon tiền đóng góp giúp quỹ cho những người thất nghiệp ở Singapore. Như vậy có thể khẳng định nhà máy Ban-teck Guan (Vạn Đức Nguyên) là do người Baba ở Singapore thành lập và điều hành. Hai ông họ Trần này (Tan Ho Seng và Tan Kiong Song) cũng có thể có liên hệ họ hàng với nhau.
Engelberg (2) cho rằng mặc dầu Saigon là cảng lớn nhất ở Đông Dương nhưng Chợ Lớn là “thủ đô lúa gạo”, là cơ sở tạo ra sự thịnh vượng cho cả Đông Dương. Vào năm 1913, có 10 nhà máy xay lúa hoạt động ở Chợ Lớn, trong đó có 8 nhà máy là của người Hoa và 2 nhà máy là của công ty Đức-Pháp Speidel Cie. Đến năm 1931, thì có khoảng 75 nhà máy xay lúa ở Chợ Lớn, trong đó có 3 nhà máy là của người Âu, số còn lại là của người Hoa; 8 trong số các nhà máy này có sản lượng mỗi ngày là 1800 tấn. Những trung tâm khác có nhà máy xay lúa là Long Xuyên, Cần Thơ, Rạch Giá và Sóc Trăng. Trong khi đó ở Hải Phòng năm 1913 chỉ có hai nhà máy xay lúa do người Âu làm chủ nhưng đến năm 1931 thì thuộc vào công ty người Hoa, và hai nhà máy này cung cấp cho toàn Bắc kỳ.

hinh-4
Hình 4 – Lúa được thuyền chở từ các tỉnh miền Tây đến Chợ Lớn, đổ vào bao và chất trước nhà máy trước khi được xay ra gạo.

Vào năm 1921, gạo và các sản phẩm từ gạo chiếm 62% giá trị xuất khẩu từ Đông Dương, kế đó là cá (6.8%), cao su (4.4%) và than đá (3.4%). Năm 1928, trước khi có khủng hoảng kinh tế năm 1929, giá trị xuất khẩu gạo tăng lên 68%, cá giảm xuống 4.6%; than đá vẫn ở mức 3.4% và cao su giảm xuống còn 3.5%. Trong thập niên 1920, giá trị xuất khẩu của lúa gạo dao động từ mức thấp 56.6% năm 1923 đến cao 68.2% năm 1926 (2) (Xem Niên giám thống kê, Annuaire statistique de l'Indochine (1913 à 1922) (Hanoi: Imperimerie d'Extrême-Orient 1927), vol. 1, pp. 13–22; vol. 2 (1931), pp. 23–29; and vol 4 (1933), pp. 115–201.
Theo bảng báo cáo lên Hội đồng chính phủ, toàn quyền Đông Dương năm 1927 (28) cho biết trong vòng hai năm trước (1925-1926) số lượng máy xay lúa ở thành phố Chợ Lớn gần như tăng gấp đôi. Tổng cộng cho đến năm 1927, công xuất hơn 13000 CV (mã lực) và có thể sản xuất mỗi năm 2900000 tấn, tuy nhiên con số xuất khẩu trung bình mỗi năm trong các năm trước đó không vượt quá 1300000 tấn. Rất nhiều nhu cầu mở nhà máy mới đang được chú ý đến.
Người Hoa đã xây bảy nhà máy nhỏ trong năm 1925 và ba (trong đó có một nhà máy lớn) trong năm 1926, Tuy vậy có ba nhà máy khác đã phá sản. Người Việt Nam cuối cùng cũng đã có bốn nhà máy nhỏ năm 1925 và ba nhà máy năm 1926. Ngoài ra có nhu cầu rất lớn mở các nhà máy xay lúa mới chạy bằng động cơ điện hay bằng gas đã được nhận thấy trong vài năm trước đó.
Trừ hai nhà máy "Ban-hong-Guan" (Vạn hồng nguyên) và “Ban-teck-guan" (Vạn Đức Nguyên) đã không hoạt động trong năm 1926, tổng số ngày hoạt động trong năm của các nhà máy khác không đạt quá trung bình trong các năm trước. Thống kê số ngày hoạt động trong năm 1926 và 1927 (từ 1 tháng 1 đến 31 tháng 12) như sau (28)

Nhà máy
Số ngày hoạt động trong năm 1926
Số ngày hoạt động trong năm 1927
Ban-aik-Guan (Vạn Ích Nguyên)
269
260
Man-chéong-Guan (Vạn Xương Nguyên) hay Nam Long
269
260
Ban-soan-An (Vạn Thuận An) hay Ban-joo-Guan (Vạn Dụ Nguyên)
160
177
Distilleries francaise
294
287
Truong-hiệp
117
186
Thông-Mau
134
257
Sing-hinh-Tai
26
150
Thanh-Hue
116
95
Tong-Wo
198
172
Yée-Chéong (Di Xương)
283
287
Orient
283
276
Guan-hong-Seng
192
205
Tan-lanh-Dong
138

Nhuan-Duc
176
280
Vuong-Xuong
176

Tay-Nam
168
267

Cũng nên chú ý là các nhà máy chỉ chạy mạnh nhất trong mùa xuất khẩu gạo vào các tháng ba, tư, năm, sáu, bảy và tám. Trong những tháng khác thì các nhà máy hoạt động không thường trực, đây là cũng lúc mà các nhà máy ngừng nghỉ để có thể dùng các nhà máy nhỏ chạy bằng động cơ điện, vì chi phí thiết lập và vận hành chúng không cao nên giá gạo thành rẻ hơn. Năm 1928 thì đã có quá nhiều nhà máy hơn nhu cầu. Năm 1928 cũng là năm chợ mới (Bình Tây) được khánh thành mở rộng hoạt động thương mại của thành phố Chợ Lớn.
Nguồn lúa từ Cam Bốt qua thành phố Phnom Penh cũng là nguồn quan trọng cho các nhà máy xay lúa ở Chợ Lớn và xuất khẩu qua cảng Saigon. Năm 1921, Cam Bốt thâu gặt được 650000 tấn lúa. Trong đó có khoảng 214000 tấn lúa và 6000 tấn gạo được xuất khẩu qua Nam kỳ mà 190000 tấn là được chuyên chở qua đường sông nằm hầu hết trong tay người Hoa.
Trong khoảng thời gian này, người Hoa là những người đóng thuế nhiều nhất ở Nam Kỳ. Năm 1911, ngân sách Nam kỳ là khoảng 5.3 triệu đồng (piastres), trong đó 1.4 triệu đồng (hơn một phần tư) là tiền thuế cá nhân từ những người Hoa, mặc dầu họ chiếm chỉ có 4% dân số ở Nam kỳ.
Trong xã hội người Hoa, một nhóm nhỏ nhà buôn giàu có và mại bản đứng đầu. Đa số họ là những người Hoa đã định cư lâu và thành công như gia đình Phúc Kiến Hui Bon Hoa (chú Hỏa), Quách Đàm (Triều Châu), Vĩnh Sanh Chung (Triều Châu), Vương Thái (Quảng Đông) và Tạ Mã Điền (Tja Ma Yeng, nguời Hoa từ Java gốc Phúc Kiến). Một số trong họ đã hợp tác với người Pháp từ những năm đầu, làm thầu xây dựng hay tiếp tế cho chính quyền và quân đội Pháp, hay sau đó làm đại diện thương mại cho các ngân hàng Pháp hay nước ngoài và phát triển trong lãnh vực thương mại có nhiều lợi nhuận như lúa gạo qua hệ thống thâu mua lúa ở các tỉnh miền Nam và Cam Bốt (2). Năm 1927, Quách Đàm là một trong hai thương gia gạo có thế lực nhất ở Chợ Lớn. Ông là chủ công ty buôn bán gạo và xay lúa Thông Hiệp và bốn tàu biển chạy bằng hơi nước. Ông xây dựng chợ Bình Tây, vào quốc tịch Pháp và được huy chương “Chevalier de la Légion d’Honneur”. Khi ông mất (1927), con của ông là Quách Khôi thay thế ông quản lý công ty. Vĩnh Sanh Chung ở Saigon làm chủ hai tàu chuyên chở hàng hóa giữa Saigon và thương cảng Sán Đầu (Swatow) ở Quảng Đông, Trung Quốc.
Ngoài ra còn có các đại diện thương mại người Hoa trong vùng Đông Nam Á. Hai đại diện thương mại Hoa kiều gốc Hồng Kông quan trọng ở Saigon trong năm 1927 là Hoàng Lâm Hing (Wong Lam Hing) và Diệp Bách Hành (Yip Pak Heng (葉栢行) (2). Họ là giám đốc chi nhánh Saigon của ngân hàng Bank of East Asia Ltd. Diệp Bách Hành cũng là đại diện thương mại cho ngân hàng Banque de l’Indochine. Ban giám đốc điều hành chi nhánh Saigon của Bank of East China gồm có Tank Ke (đại diện thương mại của ngân hàng Chartered Bank of India and Australia Ltd), Tang Tang Huan (đại diện thương mại ngân hàng Banque Franco-chinoise), Ngo Khon hay Ngo Chi Hung (đại diện Banque de Saigon), Du Xuong (đại diện ngân hàng Nhật Yokohama Specie Bank) và Chuan Le (đại diện ngân hàng Hongkong and Shanghai Banking Corporation).
Theo tư liệu tài chánh của ngân hàng HSBC (Hong Kong Shanghai Banking Corporation) có chi nhánh ở Hải Phòng và Saigon thì các công ty gia đình Ban Hong Guan, Guan Hong Whatt, Ngy Cheong Seng, và Yeu Cheong Yam trong giai đoạn từ 1897 đến 1929 sở hữu khoảng ba phần tư các nhà máy xay xát lúa ở Saigon và hầu như hoàn toàn hệ thống chuyên chở lúa trên sông rạch (24).

Phản ứng của người Việt về vị trí thương mại
người Hoa và Pháp trong nền kinh tế


Qua sự thành công của người Hoa ở thương trường và công nghệ đầu thế kỷ 20, ông Gilbert Trần Chánh Chiếu người cùng sáng lập tờ báo “Nông Cổ Mín Đàm” năm 1901 và tờ “Lục Tỉnh Tân Văn” (1907) phát động phong trào Cuộc Minh Tân (cuộc là công cuộc, Minh Tân là minh đức, tân dân) cổ xúy người Việt Nam tham gia thương mại, kỹ nghệ cạnh tranh với người Hoa, Pháp và Ấn từ năm 1905 (29).
Năm 1908 ông cùng nhiều người Việt giàu có và khá giả đa số là điền chủ và công chức ở khắp Nam kỳ Lục tỉnh lập ra công ty Nam kỳ Minh Tân Công nghệ tại Saigon với điều lệ gần giống như các công ty Pháp. Nam kỳ Minh Tân công nghệ lập ra các xưởng dệt, da, xà bông, khách sạn (Minh Tân ở Mỹ Tho, Nam Trung ở Saigon) mướn và dạy các người Việt trẻ làm công nghệ, thương mại. Nhiều tổ chức khác hưởng ứng phong trào, trong đó có ông Nguyễn An Khương (cha của Nguyễn An Ninh) mở Chiêu Nam lầu ở đường Charner (đường Kinh lấp nay là Nguyễn Huệ) cho người Việt Nam, hai lầu dưới là tiệm ăn, ở trên là khách sạn. Tờ “Lục Tỉnh Tân Văn” kêu gọi cạnh tranh thương mại và công nghệ và luôn cả phong trào tẩy chay hàng quán, hàng hóa người Hoa gọi là “tẩy chay Chi-noa”. Minh Tân cổ vũ người Việt bỏ thói hư tật xấu hay quan liêu không kiên nhẫn trong thương trường (29):
Người Huê kiều rất nhẫn nại, tiết kiệm từng xu, lúc đi bổ hàng (mua hàng hóa) thì đích thân bơi xuồng, đạp xe máy, tới chợ thì ít ăn uống, lúc ở tiệm gặp khách vào mua một hai xu, người chủ vẫn sẵn sàng buông đũa để bán. Người Việt ít tiết kiệm, ăn xài to khi ra chợ, tánh tình lại quan liêu”
Và diễn tả cảnh sinh hoạt của người Hoa ở Chợ Lớn như sau (29):
Người Thanh ở đó dư muôn
Làm ăn nghề nghiệp như nguồn nước sung
Kẻ nghèo lãnh việc làm công,
Người giàu giúp sức không lòng ghét nghi.
Trước sau tin cậy phải nghì,
Chẳng hề tham lạm, chẳng khi ngại tình.
Hùn nhau thương mãi kinh dinh,
Thường niên tính sổ phân minh vốn lời.
Nước Nam nhơn tánh ở đời,
Ghét người thắng kỷ, sợ người hóa nghi.
Vậy nên các hãng công ty,
Nhát gan nhỏ bụng, ít khi lập thành.”
(Nam kỳ phong tục… tr. 42)
Sau thế chiến thứ nhất, hai sự kiện chính trị có ảnh hưởng đến người Hoa ở Nam kỳ: phong trào tẩy chay hàng quán người Hoa lần hai năm 1919 và sự kiện Candelier (‘Affaire Candelier’) năm 1924 (2).
Phong trào lần hai tẩy chay mua hàng ở các cửa tiệm, hàng quán do người Hoa làm chủ ở Saigon - Chợ Lớn giống như các cuộc tẩy chay chống Nhật và chống Anh xảy ra ở Trung quốc vào cùng thời gian. Những người Việt Nam lãnh đạo phong trào tẩy chay này và trước đó đa số cũng là những người có học thuộc gia đình khá giả hoặc giàu có như điền chủ, thương gia lúa gạo, chủ khách sạn… Các ông Nguyễn Phan Long, Bùi Quang Chiêu… đều là có ruộng đất lớn hay xuất thân từ gia đình địa chủ giàu lên qua sự phát hưng của nền kinh tế dựa vào lúa gạo ở Nam Kỳ. Như Sơn Nam đã viết (18) rất nhiều gia đình chủ ruộng lúa giàu có ở miền Nam đã gởi các con đi du học ở Pháp, tất cả họ sau đó hoặc là thành tài trở thành kỹ sư, bác sĩ, luật sư, những nhà yêu nước hay trở thành những “công tử” ăn chơi như trong dân gian thường biết.
Nguyên do khởi đầu của phong trào tẩy chay là qua một sự kiện xảy ra ở một quán cà phê ở Saigon. Chủ tiệm là một người Hoa tăng giá cà phê từ 2 centimes (xu) lên 3 centimes (xu). Các tờ báo, nhất là tờ “Tribune Indigène” (Diễn đàn bản xứ) của Nguyễn Phú Khai, một kỹ sư học ở Pháp về nước năm 1915, khởi động phong trào tẩy chay thương mại người Hoa. Trước đó ông Nguyễn Phú Khai đã không thành công trong sự cạnh tranh với các nhà máy xay lúa của người Hoa ở Mỹ Tho. Tờ báo tiếng Pháp “Tribune Indigène” là tờ báo lập ra qua sự hợp tác của Nguyễn Phú Khai với ông Bùi Quang Chiêu, một điền chủ khá giả có vợ là con gái của một gia đình người Hoa giàu có ở Chợ Lớn (sau này hai ông Nguyễn Phú Khai và Bùi Quang Chiêu cũng là những người trụ cột thành lập ra Đảng Lập Hiến, Parti Constitutionalist). Sau khi một nhóm người Hoa biểu tình trước trụ sở tờ báo “Tribune Indigène” và đập phá, thì phong trào tẩy chay lan từ Nam kỳ đi khắp Đông Dương, nhất là ở Hà Nội, trước khi toàn quyền Monguillet cuối cùng phải có biện pháp hạn chế lại.
Phong trào tẩy chay này không có ích và không đạt được kết quả quan trọng gì, là một bài học cho tất cả mọi người, kể cả người Việt và Hoa, mà sau này qua sự kiện Candelier (”Affaire Candelier”) họ đều thấm nhuần và do đó đã xử lý khác đi. Năm 1924, Văn phòng cảng Saigon, một bộ phận của chính quyền thống đốc Nam kỳ Maurice Cognacq, muốn cho thuê trong hai mươi năm lợi nhuận thuế cảng, cộng với sự độc quyền chuyên chở gạo và ngô ở cảng Saigon cho tổ hợp thương mại Pháp Homberg-Candelier. Ông Cognacq đưa ra hai lý do: thu hút vốn để phát triển cảng và phá vỡ được sự độc quyền của các thương gia lúa gạo người Hoa ở cảng Saigon.
Khi được đưa ra biểu quyết ở Hội đồng Quản hạt (Conseil Colonial), đa số các đại biểu Pháp ủng hộ, chỉ có bốn đại biểu Pháp (những hội viện cạnh tranh của Phòng Thương mại Saigon) và ba đại biểu người Việt chống lại. Hai trong số ba đại biểu người Việt này là ông Nguyễn Tấn Dược và Nguyễn Phan Long, sau đó mở ra chiến dịch vận động chống lại sự độc quyền này, nhất là trong hai tờ báo tiếng Pháp của Đảng lập Hiến, là tờ “Tribune Indigène” (Diễn đàn bản xứ) và tờ “Echo Annamite” (Tiếng vọng An Nam).
Hai tờ báo này phản đối quyết định của Cognacq cho Homberg-Candelier thuê độc quyền này là tham nhũng, không phải có mục đích tốt đẹp phá vỡ độc quyền thương mại của người Hoa chi hết, bằng cách vạch rõ ra là sự độc quyền chuyên chở gạo và ngô ở cảng Saigon là thực sự không có. Thêm nữa ông Nguyễn Phan Long cũng cho rằng người Việt nên học và bắt chước người Hoa trong thương trường thay vì chống lại họ. Điều này cho thấy một số người Việt đã học hỏi được kinh nghiệm sau cuộc tẩy chay người Hoa vào năm 1919.
Ủy ban Cộng hòa Cấp tiến và Xã hội ở Nam kỳ có ra tờ báo “Bulletin du Comité Republicain radical et radical soialiste de Cochinchine”. Họ là nhóm người Pháp cấp tiến theo lý tưởng cộng hòa và xã hội (6). Chiến dịch chống độc quyền của Candelier-Homberg kết hợp bốn nhóm lợi ích khác nhau. Phía Pháp có hai nhóm: các thương kỹ nghệ gia tranh nhau; và nhóm đối lập chính trị với chính quyền, nhất là các luật sư và hội viên của nhóm Xã hội cánh tả hay Cộng hòa Saigon, chống lại chính sách thiên vị đặc quyền và các phương pháp cai trị cứng rắn của Cognacq, và cũng nhân dịp này dùng chiến dịch để có thể chiếm được các ghế trong Hội đồng quản hạt và Hội đồng thành phố Saigon.
Về phía người Việt là những người yêu nước thế hệ đầu, bất bạo động và đối lập xây dựng cải tiến chế độ thực dân. Họ phát khởi chiến dịch để tranh đấu cho quyền con người và xã hội, đặc biệt là thúc đẩy Pháp hoàn thành các lời hứa trong thế chiến thứ nhất là cho người Việt có nhiều trách nhiệm hơn trong điều hành trong chính quyền liên quan đến quyền lợi người bản xứ. Và cuối cùng là phía người Hoa gồm cộng đồng thương gia và Quốc Dân đảng đại diện cho Trung Quốc đã dùng chiến dịch chống độc quyền Homberg-Candelier cho mục đích thương mại và chính trị riêng của họ.
Chiến dịch được khởi đầu khi tất cả các đại diện chính của đảng Lập hiến được mời đến dự một bữa tiệc ở Chợ Lớn. Tại đây nghiệp đoàn buôn bán lúa gạo không chính thức ở Nam kỳ và một ủy ban của những thương gia lúa gạo và mễ cốc (Comité des Céréales) thuộc Phòng thương mại Trung quốc (Chinese Chamber of Commerce), hứa sẽ tài trợ tài chính cho chiến dịch. Khi chiến dịch vận động chống Candelier xảy ra. Phòng Thương mại Trung quốc không ra mặt, đứng sau nhưng đã bỏ ra một số tiền lớn 80000 đồng (piastres) để gởi luật sư tiến bộ người Pháp và người tranh đấu cho nhân quyền, ông Paul Monin, đi sang Paris để tiếp xúc với các chính trị gia ở chính quốc và tranh đấu hủy bỏ sắc luật của Cognacq. Hội viên của Phòng thương mại cũng đã bỏ ra 20000 piastres trợ cấp cho các tờ báo của người Việt Nam để tiếp tục đấu tranh.
Trong cuộc vận động chống sắc luật cho nhóm Homberg-Candelier độc quyền, ngày 11 tháng 12 năm 1923, Saigon chứng kiến một buổi mít-tinh chính trị công khai đầu tiên khi 380 người Pháp và Việt gặp gỡ để thiết lập một Ủy ban để phối hợp cuộc tranh đấu, dưới sự lãnh đạo của ba luật sư Pháp (Monin, Dubreulin, và Bazié) và ông Nguyễn Phan Long. Sau cuộc hội thảo chính trị đầu tiên này là nhiều họp mặt kế tiếp và ngay cả các cuộc biểu tình trong nhiều tháng sau đó. Khi luật sư Monin trở về sau chuyến đi Paris thành công, 200 người, kể cả các học trò trung học và thư ký người Việt, biểu tình ở Saigon, phản đối và la ó trước trụ sở của sở an ninh mật vụ, La Sûreté mà nhiều người rất thù ghét.
Đây là cuộc biểu tình chính trị đầu tiên được biết ở Saigon, sau đó có nhiều phản đối, biểu tình và ngay cả kêu gọi đình công đã xảy ra. Điều này cho ta thấy chiến dịch Candelier, được hỗ trợ tài chính từ thương gia lúa gạo người Hoa, là chất xúc tác biến sự bất bình rất phổ thông lúc bấy giờ trong quần chúng về sự hạn chế trong cải tổ của chính quyền thuộc địa sau chiến tranh thế giới thứ nhất, và sự thất vọng vào sự thay đổi hòa bình, thành những hành động yêu nước ra mặt.
Sau cuộc vận động chống Candelier này, những người Việt Nam trẻ tiến bộ đã đi vào một hướng khác mà ít người Hoa muốn đi theo, bởi vì khi hoạt động ra mặt chống thực dân thì chính quyền Pháp sẽ bắt và đuổi họ dễ dàng ra khỏi xứ, vì họ là những người ngoại quốc. Tuy vậy không có nghĩa là họ hoàn toàn không hoạt động chính trị. Khi Pháp bắt đầu cởi mở ít đàn áp lại sau thế chiến thứ nhất, hoạt động chính trị của người Hoa lại bắt đầu, dưới sự hỗ trợ và khuyến khích của đại diện chính phủ Quốc Dân Đảng Trung quốc ở Saigon-Chợ Lớn.
Trong một cuộc đàn áp những nhà ái quốc Việt Nam ở Saigon năm 1926, trong đó các ông Nguyễn An Ninh và ông Lâm Hiệp Châu bị bắt vào ngày 24 tháng 3 1926 (cùng ngày cụ Phan Chu Trinh mất ở khách sạn Chiêu Nam lầu, Saigon), một số người Hoa hoạt động chính trị cũng bị bắt cùng lúc vì có liên hệ hỗ trợ lẫn nhau giữa họ và các nhà ái quốc Việt Nam. Nguyễn An Ninh vào tù nhưng bốn đảng viên Quốc Dân đảng người Hoa đã từng hoạt động với luật sư Monin trong chiến dịch Candelier bị trục xuất ra khỏi Đông Dương, một người không bị trục xuất là vì có gốc Minh hương.
Cùng ngày 4 tháng 4 1926, ngày đám tang lớn nhất Saigon tiễn cụ Phan Chu Trinh thì cũng là ngày bốn người Hoa bị trục xuất cũng được cộng đồng người Hoa ra tiễn đưa long trọng ở trước trụ sở Messageries Maritimes (bến Nhà Rồng). Hơn một ngàn người Hoa có mặt trong đó có đại diện của nhiều công đoàn (thợ mộc, thợ máy, nhân viên nhà hàng, người giúp việc nhà, nghệ sĩ ca hát, cu li và thư ký thương mại) và một đoàn đại biểu học sinh người Hoa, cả trai lẫn gái.
Như vậy là ngày 4 tháng 4 năm 1926, khi cả Saigon tê liệt, công chức người Việt tự nghĩ làm, cửa tiệm hàng quán tự đóng cửa để tỏ thương tiếc và nhiều người đi tiễn nhà chí sĩ Phan Chu Trinh, ngày mà báo chí Pháp ngữ ở Saigon gọi là ngày người Việt nam thức tỉnh thì ở Chợ Lớn hầu như cũng đóng cửa, mọi giới xôn xao đi tiễn bốn nhà hoạt động chính trị người Hoa bị Pháp trục xuất ở bến Nhà Rồng. Đây là cuộc biểu tình chính trị đầu tiên của người Hoa ở Nam kỳ. Như vậy cuộc tranh đấu lúa gạo qua sự kiện Candelier đã nối kết sự liên hệ cách mạng chính trị đầu tiên giữa người Việt và người Hoa ở Saigon-Chợ Lớn.

Kinh tế lúa gạo trong giai đoạn
sau khủng hoảng kinh tế: 1930-1945


Dưới thời nhà Nguyễn, để giải quyết vấn đề an ninh lương thực tránh nạn đói có thể xảy ra ở các miền đất nước, triều đình cho thiết lập các kho dự trữ lúa, gạo ở mỗi tỉnh để phòng những năm thất mùa đói kém. Thất mùa thường là do hạn hán hay bão lụt gây ra.
Để giải quyết vấn đề an ninh thực phẩm, dưới thời Pháp thuộc, người Pháp cho là các kho dự trữ lương thực thường kém hiệu quả kinh tế, không giữ lương thực được lâu. Theo họ chỉ những vùng mật độ quá đông dân, nhất là vùng bắc Trung kỳ và Bắc kỳ như Thanh Hóa, Nghệ An mới thường dễ bị nạn đói, và vì thế nên cần có hệ thống giao thông đường sắt và đường bộ hữu hiệu để chuyên chở lương thực từ những nơi khác đến khi cần, tăng cường biện pháp thông nước qua kinh đào để tăng diện tích canh tác, và dùng hệ thống đa canh. Tuy vậy nạn đói vẫn xảy ra ở các tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh vào các năm 1930-1931, một phần là do hệ quả của cuộc khủng hoảng kinh tế sau năm 1929.

hinh-5
Hình 5 – Gạo trong bao (sau khi lúa đã được xay) được phu khuân vác mang xuống ghe đến cảng Saigon để xuất khẩu hay phân phối các nơi khác.

Khủng hoảng kinh tế bắt đầu từ năm 1929 cho đến năm 1933 làm giá gạo xuống thấp, sản xuất và xuất khẩu gạo giảm mạnh. Không chỉ nhiều nhà nông, thương gia lúa gạo bị phá sản mà đời sống của mọi tầng lớp trong xã hội bị ảnh hưởng nặng nề. Đời sống đều cơ cực. Nạn đói xảy ra ở hai tỉnh miền Trung, Nghệ An và Hà Tĩnh năm 1930-1931.
Giá gạo ở thị trường gạo vào tháng 1/1933 so sánh với giá tháng 2/1928 như sau (đồng piastres/mỗi 100kg):
                                                     Năm 1933                 năm 1928
Gạo loại 1 (25% tấm):                            4.30                       9.96
Gạo loại 2 (qualité japon, 40% tấm):        4.14                       9.31
Gạo loại 3 (qualité java, 50/55% tấm):     3.92                       8.65
Gạo cargo                                               3.63                        7.00
(nguồn (10): Chambre de Commerce de Saigon, Bulletin Bi-mensuel, 19 Fevrier 1918, 15 Fevrier 1928 61e Année và 15 Janvier, 1933, 66e Année)

hinh-6
hinh-6b
Hình 6 – Lượng xuất khẩu gạo từ cảng Saigon
(theo thống kê của Chambre de Commerce de Saigon (10))

Thị trường chính xuất khẩu gạo từ Saigon-Chợ Lớn theo thứ tự (1913-1923) là Pháp, Trung quốc, Hồng Kông, Indonesia (Hà Lan), Mã Lai, Singapore (Strait Settlements), Nhật, Châu Âu, Mỹ. Hệ quả ở các năm sau của sự khủng hoảng kinh tế (1929) là nhiều thương gia người Hoa buôn bán lúa gạo và chủ nhà máy bị phá sản và sau thập niên 1930, vị trí người Hoa trên thị trường kinh tế lúa gạo không còn hoàn toàn chi phối như trước nữa. Ông Vương Hồng Sển nói về tình hình của ông Quách Đàm như sau (19):
Về sau, Đàm giàu quá, xoay qua đứng bảo lãnh (avaliser) cho con nợ nhà băng "Đông Dương Ngân Hàng". Mỗi lần xin chữ ký bảo chứng, phải chịu cho Đàm một huê hồng đã quy định trước. Dè đâu gặp năm kinh tế khủng hoảng, các nhà buôn vỡ nợ không đủ sức trả bạc vay, nhà băng phát mãi sự sản, lôi kéo nhà họ Quách sụp đổ theo luôn.”
Với giá gạo giảm mạnh và thuế má nặng nề, hệ quả là sự biểu tình nổi loạn của nông dân và sự tấn công vào chế độ Pháp thuộc do đảng cộng sản khuyến khích hay tổ chức trong các năm 1931-1932. Đúng thực rằng người Pháp đã mở mang trồng các loại cây trồng hay nông sản xuất khẩu như cao su, thuốc lá, cà phê, ... nhưng họ cũng không quên sự cần thiết của các loại thực phẩm cho trường hợp khẩn trương như các năm 1931-1932, bằng các biện pháp thích hợp trong cách thức đa canh của nông dân thay vì độc canh như trước để tránh nạn đói và an ninh lương thực được bảo đảm (3). Tuy vậy vẫn không tránh được những tình huống như hệ quả của cuộc khủng hoảng kinh tế gây ra.

hinh-7
Hình 7 - Thuyền chở lúa xuống nhà máy ở Chợ Lớn – ô nhiễm không khí là do đốt vỏ trấu để chạy máy hơi nước xay lúa.

Hồi phục sau cuộc khủng hoảng kinh tế, từ năm 1932 đến 1935, xuất khẩu từ cảng Saigon tăng dần từ 961209 tấn năm 1931 đến 1718013 tấn năm 1935. Thị trường chính là Pháp, các thuộc địa Pháp, Hồng Kông, Trung Quốc, châu Âu, Singapore, Java trong khi thị trường Nhật không hồi phục được như trước lúc khủng hoảng (109810 tấn năm 1928 nhưng chỉ 2137 tấn năm 1935 và 46252 tấn năm 1936). Năm 1934, trị giá gạo xuất khẩu là 36% tổng giá trị xuất khẩu của toàn Đông Dương (3).
Năm 1937, lượng gạo xuất khẩu từ Đông Dương giảm do hạn hán ở nhiều nơi (bắc kỳ, Trung, Lào), chính phủ Leon Blum của Mặt trận Bình dân (Front Populaire) nghiêm cấm xuất khẩu từ Lào và giới hạn xuất khẩu từ cảng Saigon để dùng gạo cho các vùng khác ở Đông Dương.
Tuy nhiên từ tháng 10, 1938, giá gạo bắt đầu xuống. Từ tháng 9 đến tháng 12 1938, giá gạo ở Saigon giảm 30% và giá lúa giảm 40%. Những nguyên nhân gây sự sụt giá này là lúa từ vụ trúng mùa năm 1938 đổ nhiều vào Saigon-Chợ Lớn khi mà Pháp và các nước sản xuất lúa gạo cũng trúng mùa và nhu cầu từ thị trường Trung quốc giảm do chiến tranh Trung-Nhật xảy ra. Đồng thời giá cả sinh hoạt tăng nhiều trong quí 4 năm 1938, ảnh hưởng mọi tầng lớp, nhất là giai cấp công nhân không kể sự phá giá đồng tiền piastres (Đông Dương) vào tháng 9 năm 1936 (3).

hinh-8
Hình 8 – Giá gạo xuất khẩu hạng 1 trên mỗi 100kg (10).
Giá gạo cao nhấtsau thế chiến thứ 1 (1919)
và tụt mạnh sau khủng hoảng kinh tế thế giới (1929-1930).

Trong buổi họp của Hội đồng Kinh lý tài Đông Dương tháng 11 năm 1938, do giá gạo lên xuống bất thường và có lúc quá thấp, ông Trương Văn Bền đưa ra đề nghị thành lập một quỹ bồi thường giá gạo cho nông dân và những nhà sản xuất lúa gạo (giống như quỹ bồi thường giá cao su) khi giá gạo xuống quá thấp. Quỹ lấy từ tiền thuế bội thu trên giá xuất khẩu gạo khi giá gạo cao (trên 1 đồng mỗi giạ lúa). Đề nghị của ông được mang ra biểu quyết với sự hỗ trợ của ông Bùi Quang Chiêu và được chấp đa số trong Hội đồng chấp thuận (8).
Sau cuộc khủng hoảng xáo động thị trường gạo năm 1937, lượng gạo sản xuất ở Đông Dương (kể cả xuất khẩu, tiêu thụ trong Đông Dương và dự trữ) tăng lên 1,650,000 tấn vào năm 1939, và giảm còn 1,500,000 tấn năm 1940. Năm 1940 cũng đánh dấu sự gián đoạn của các thị trường xuất khẩu truyền thống từ Saigon-Chợ Lớn.
Do chiến tranh xảy ra ở Trung Quốc và Âu châu, thị trường Hồng Kông, Trung quốc (Thượng Hải) bị mất. Đường thủy nối Pháp và các thuộc địa với Việt Nam biến mất. Năm 1940, Nhật nhảy vào thị trường lúa gạo ở Đông Dương, thu thập xuất khẩu hầu hết lúa gạo chở đi trên tàu của họ 500000 tấn về Nhật và các lãnh thổ Nhật chiếm đóng. Nhật cũng hưởng lợi qua sự thôn tính sáp nhập vào Thái Lan vào tháng ba năm 1941 tỉnh Battambang của Cam Bốt, một tỉnh sản xuất nhiều lúa gạo, làm cho Đông Dương thuộc Pháp mất đi khoảng 500000 tấn lúa trong các năm 1941-1946, đó là chưa kể số lượng gạo mà quân đội chiếm đóng Nhật đến Đông Dương tiêu thụ hay lấy đi.
Thêm nữa vào ngày 6 tháng năm 1941, qua thỏa thuận thương mại với chính quyền Vichy, Nhật được nhận qua hợp đồng hơn một triệu tấn gạo mỗi năm từ Đông Dương. Số lượng này càng tăng khi chiến tranh thế giới thứ hai mở rộng, đó cũng là lúc mà gạo bị trưng dụng dưới áp lực kể cả bắt buộc phải giao gạo bằng vũ lực không cần đến tình hình của thị trường hay nhu cầu của dân chúng địa phương (3). Đây cũng là nguyên nhân chính xảy ra nạn đói năm Ất dậu 1945 ở miền Bắc Việt Nam.

Nguyễn Đức Hiệp




Chú thích


(5) Đây có thể là nhà máy của ông Trương Bật Sĩ (Cheong Fatt Tze (1840-1916), 張弼士), một thương gia giàu có người Hoa gốc Hẹ ở Penang (Malaysia), được mệnh danh là ‘Rockfeller of the East’. Biệt thự to lớn xây theo kiến trúc cổ truyền Trung Hoa của ông ở Penang nay là di tích được bảo tồn và được nhiều du khách đến viếng thăm của thành phố Penang sau khi được đưa vào danh sách Di sản Thế giới. Theo Niên giám 1933 (7), công ty tàu biển Yee-Cheong mỗi tuần 2 lần đi từ Singapore đến Sán Đầu (Swatow, Quảng Đông), đều ghé Saigon. Năm 1903, trên bố cáo trang 1 tờ báo “The Straits Times” (23 December 1903) ở Singapore, ông Chan Ban (con của ông Chan Choon, một thương gia ở vùng Straits Settlements) đang làm ở nhà máy xay xát gạo Yee-Chong ở Chợ Lớn đăng tìm tin tức thân nhân đã mất liên lạc của một người Hoa Singapore quen của cha ông lúc làm việc ở Hồng Kông, Macao (20). Điều này chứng tỏ những người Hoa từ Straits Settlements (Singapore, Penang, Malacca) vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 đã đến Chợ Lớn buôn bán, sản xuất lúa gạo. Và chủ nhà máy Yee-Cheong là người Hoa từ vùng này, rất có thể là của ông Trương Bật Sĩ.
(6) Nhà máy Guan-Hong-Sen, ở bến Bình Đông (quai des Jonques) còn có thể có tên là nhà máy Seng Guan (Thành Nguyên). Li Tana (21) có liệt kê Seng Guan Rice Mill cùng với nhà máy Kim Hong Seng. Nhà máy này của người Baba (Peranakan) có kỷ sư người Anh làm việc. Đây có thể là nhà máy của công ty Thành Hạnh (Chin Seng) của ông Trần Kim Chung (Tan Kim Ching), một đại thương gia (“Kapitan Cina”) ở Singapore lập ra vào cuối thế kỷ 19.
(7) Nhà máy xay lúa Nam Long có lẽ là của người Hoa từ Hồng Kông. Báo South China Morning Post ở Hồng Kông năm 1921 có đăng về vụ tranh chấp qua ngân hàng HSBC (HongKong Shanghai Banking Corporation) giữa Kung Yuen và người quản lý kế nhiệm của nhà máy Nam Long sau khi ông quản lý Lau Luk (Lau Tse Tsun) mất (21). Theo tạp chí “Bulletin la Société des études indochinoises de Saigon” (1915, No. 67) thì người thành lập “Maison” Nam Long là To-duong-San.
(8) Kan-Hong Seng (Kiến Phương Thành) hay Kim-Hong Seng còn có tên là Ngy-Cheong Seng (21). Đây cũng có thể là nhà máy ông Trần Kim Chung (Singapore) xây vào năm 1886.



Tham khảo


  1. La revue du Pacifique, 1923/07(A2,N7)-1923/12(A2,N12), pp. 501-502
  2. Thomas Engelbert, Chinese Politics in Colonial Saigon (1919–1936): The Case of the Guomindang, Chinese Southern Diaspora Studies, Volume 4, 2010.
  3. Geoffrey Gunn, The Great Vietnamese Famine of 1944-45 Revisited, The Asia-Pacific Journal, http://japanfocus.org/-Geoffrey-Gunn/3483
  4. Annuaire administratif de l'Indochine. 1937, Impr. d'Extrême-Orient (Hanoï), 1937, pp. 244
  5. Li Tana, The Tomb Inscription of Tjia Mah Yen, a Hokkien Businessman of French Cochinchina, Chinese Southern Diaspora Studies, Volume 4, 2010.
  6. Annuaire général de l'Indo-Chine française ["puis" de l'Indochine], Publisher : Hanoi, 1905, 1906, 1907, 1910 (pp. 583), 1914 (pp. 453-455), 1918.
  7. Annuaire complet (européen et indigène) de toute l'Indochine, commerce, industrie, plantations, mines, adresses particulières... : Indochine, adresses, 1ère année 1933-1934 / éditeurs madame L. Lacroix-Sommé, messieurs R. J. Dickson et A. J. Burtschy, impr. A. Portail (Saigon), 1933.
  8. Recueil des procès-verbaux des séances plénières du Grand Conseil des intérêts économiques et financiers de l'Indochine: session ordinaire de 1938, Grand conseil économique et financier de l'Indochine, Impr. de Le-Van-Tan (Hanoï), 1929-1939, pp. 242-244.
  9. Annuaire de la Cochinchine française 1865, Saigon,1865-1888.
  10. Bulletin bi-mensuel (de la Chambre de commerce de Saïgon), 20 Juin 1881, 25 Janvier 1890, 5 Juillet 1900, 19 Fevrier 1918, 21 Mai 1924, 2 Janvier 1923, 15 Fevrier 1928, 15 Janvier 1933, Saigon
  11. Louis Imbert, La Cochinchine au seuil du XXe siècle, Impr. de J. Durand (Bordeaux), 1900.
  12. Pierre Passerat de la Chapelle, L’industrie du decorticage du riz en basse-cochinchine, Bulletin de la Société des études indochinoises de Saigon, Imprimerie L. Ménard, 1901, pp. 49-85.
  13. Guillaume Capus, Le riz d’indochine, Annales de Geographie, 1918, Vol. 27, No. 145, pp.25-42.
  14. Annuaire complet (européen et indigène) de toute l'Indochine, commerce, industrie, plantations, mines, adresses particulières: Indochine, adresses, 1ère année 1933-1934 / éditeurs madame L. Lacroix-Sommé, messieurs R. J. Dickson et A. J. Burtschy, impr. A. Portail (Saigon), 1933
  15. Le Khuong Ninh, Investment of Rice Mills in Vietnam, The Role of Financial Market Imperfections and Uncertainty,http://www.economicswebinstitute.org/essays/investviet.pdf
  16. Albert Naud, L'exportation des grands produits agricoles indochinois, Annales de Géographie, 1930, Volume 39, Numéro 217, pp. 50-60.
  17. Annuaire général de l'Indo-Chine française, 1901, 1923.
  18. Sơn Nam, Lịch sử khẩn hoang miền Nam, Nxb Trẻ 1997
  19. Vương Hồng Sển, Saigon năm xưa, Nxb Tp Hồ Chí Minh, 1991.
  20. Li Tana, 尋找法屬越南南方的華人米商 (Tầm trào Pháp thuộc Việt Nam nam phương đích Hoa nhân mễ thương), Chinese Southern Diaspora Studies, Vol. 4, 2010, http://csds.anu.edu.au/volume_4_2010/20-5C_CSDS_2010_Tana_Li.pdf
  21. Julia Martinez, Chinese rice trade and shipping from the North Vietnamese port of Hai Phong, Chinese Southern Diaspora Studies, Vol. 1, 2007, http://csds.anu.edu.au/volume_1_2007/Martinez.pdf
  22. Rajeswary Ampalavanar Brown, Bank archives and research on Chinese business communities in Indo-China, South China Research Resource Station Newsletter, 15/7/2001, http://ihome.ust.hk/~schina/PDF/news24.pdf
  23. The Strats Times, 3 September 1915, ‘Sagon Rice Mills Sold”, trang 6, http://newspapers.nl.sg/Digitised/Article/straitstimes19150903.2.36.aspx
  24. Claudine Salmon, Tạ Trọng Hiệp, De Batavia à Saigon: notes de voyage d’un marchand chinois (1890), Archipel, 1994, Vol. 47, pp. 155-191
  25. Nguyễn Đức Hiệp, Singapore-Saigon-Hong Kong: Quan hệ thương mại người Hoa từ thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20, http://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/singapore-saigon-hong-kong/
  26. Rapports au Conseil de gouvernement, session ordinaire 1927, 1928, 1929 / Gouvernement général de l'Indo-Chine, Impr. d'Extrême-Orient (Hanoï), 1927, 1928, 1929
  27. Sơn Nam, Phong trào Duy Tân ở Bắc Trung Nam, Miền Nam đầu thế kỷ 20 – Thiên Địa Hội và Cuộc Minh Tân, Nxb Trẻ 2003.


-

Vai trò lúa gạo trong đời sống kinh tế và chính trị ở Saigon-Chợ Lớn đầu thế kỷ 20


– Phần 3


Nguyễn Đức Hiệp



So sánh kinh tế lúa gạo thời Pháp thuộc và ngày nay


Từ năm 1989 khi lượng xuất khẩu gạo trở lại bằng với giai đoạn trong thập niên 1930 cho đến nay là hơn gấp bốn lần, thì riêng về chất lượng ngày nay kết quả không tiến triển bao nhiêu so với thời Pháp thuộc. Chỉ khác là tình trạng về sự liên hệ giữa người sản xuất (nông dân), thương gia buôn gạo, công ty tư nhân chủ các nhà máy xay, và chính quyền rất khác nhau.
Dưới thời Pháp thuộc, các công ty tư nhân chủ các nhà máy gạo không phải chỉ có dịch vụ xay lúa lấy lãi mà tham gia trực tiếp bán gạo trên thị trường. Các công ty này rất lớn, mạnh và trực tiếp xuất khẩu hay bán ra trên thị trường nội địa.
Thương gia trung gian mua lúa cung cấp lúa cho nhà máy hay mua gạo lại ở vị trí thế yếu nên không có lợi nhuận lớn. Còn chính quyền thì hoàn toàn không tham gia vào thương mại trên thị trường gạo mà chỉ lấy thuế. Mô hình thương mại gạo dưới thời Pháp thuộc như sau:
31
Ngày nay có thêm các công ty quốc doanh của chính phủ là trung gian quan trọng nhất bán xuất khẩu ra thị trường quốc tế, và các công ty nhà máy xay rất nhỏ rải rác khắp nơi trên các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, không còn tập trung như các nhà máy lớn có vốn lớn ở Saigon-Chợ Lớn. Các nhà máy xay lúa tư nhân nhỏ này chỉ xuất hiện sau năm 1989 hoàn toàn ở vị trí yếu thế. Họ không tham gia vào thị trường mua bán hay xuất khẩu lúa gạo mà chỉ làm dịch vụ xay lúa cho nông dân, cho thương gia trung gian mua bán gạo và cho các công ty quốc doanh mua bán, xuất khẩu gạo.
Vì quá nhỏ, vốn đầu tư vào các máy xay rất khiêm tốn, nên những máy này kém hiệu quả và không có kỹ thuật hiện đại cao và vì thế năng xuất gạo xay từ 100 kg lúa chỉ là 60-70% gạo. Nếu tính tổng số gạo xuất khẩu trên 3 triệu tấn trung bình cho thập niên 1990 thì sự mất mát rất lớn. Có hơn 200 nhà máy xay lúa nhỏ ở các tỉnh miền Tây đầu thập niên 2000 (15) và những cơ sở tư nhân này hoàn toàn bị chi phối bởi thương gia buôn lúa gạo và các công ty quốc doanh. Họ không dám đòi hỏi tăng hay xác định giá mà chính các thương gia buôn lúa đặt điều kiện ép giá nếu không họ sẽ không đưa lúa đến xay. Các công ty quốc doanh cũng vậy, các công ty này xác định giá gạo mua từ nhà máy và sau đó xuất khẩu độc quyền hầu như không có ai cạnh tranh mua gạo từ nhà máy để xuất khẩu. Vì thế nông dân và các cơ sở tư nhân là hai nguồn sản xuất nhưng lại bị thiệt thòi nhất vì có quá nhiều trung gian giữa họ và thị trường. Hơn nữa, ngày nay đất canh tác lúa thâu hẹp dần và ruộng lúa chia nhỏ với nhiều chủ khác nhau, không tập trung lớn như trước kia, nên chất lượng lúa không đồng bộ. Cơ cấu này là nguyên nhân cho sự kém hiệu quả và kém chất lượng về kỹ nghệ lúa gạo ở Việt nam hiện nay. Mô hình thương mại gạo hiện nay như sau (15):
32
Hiện nay không còn có những nông dân sung túc, điền chủ giàu, các công ty lớn vốn cao có thế lực như ngày xưa. Đây là một sự kiện đòi hỏi ta nên xem xét lại về mô hình về quá trình trong kinh tế lúa gạo ở Việt Nam.

Lời kết


Ngày nay bến Trần Văn Kiểu (quai de Mytho) và khu cửa hàng, nhà ở, chùa chiền với kiến trúc cổ và đông-tây dọc bến đã biến mất không còn nữa. Thay vào đó là Đại lộ Đông Tây thênh thang khánh thánh năm 2009. Một phần lớn lịch sử thương mại và văn hóa của thành phố đã bị xóa sổ. Tác giả đã đi dọc theo đại lộ Đông Tây từ rạch Bến Nghé theo kênh Tàu hủ đến rạch Lò gốm và bên kia kênh là bến Bình Đông (quai des Jonques), ngoài bến Trần Văn Kiểu đã bị phá hủy hoàn toàn, các bến Chương Dương (quai de Belgique) và bến Bình Đông một phần bị hủy một phần bị biến dạng rất nhiều chỉ còn sót lại một số nhà cổ người Hoa và chùa; cuối cùng là bến Hàm Tử (quai le Marne) không còn lại vết tích đặc thù kiến trúc đông-tây đầu thế kỷ 20.
Không như các thành phố trong vùng như Quảng Châu, Singapore, Malacca, Penang, Hồng Kông, Sán Đầu vẫn còn trân trọng bảo tồn các khu phố có kiến trúc đặc thù đông-tây có giá trị lịch sử tạo nên nét đặc trưng biểu tượng cho thành phố (trong đó một số hiện nay là Di sản thế giới) thu hút khách du lịch, thì thành phố Chợ Lớn trong các năm qua đã phá hủy các di tích đặc thù liên hệ đặc biệt đến lịch sử thương mại lúa gạo và nông sản qua sông rạch. Thời hoàng kim của Chợ Lớn trong lĩnh vực kinh tế không còn, và thành phố này chỉ còn có thể phát triển theo hướng kỹ nghệ dịch vụ tất yếu, nhưng tiếc thay chính những vốn liếng văn hóa lịch sử cần thiết để tạo hướng đi mới lại bị xao lãng hao mòn và mất dần.

Nguyễn Đức Hiệp





Phụ lục (theo (6), (7), (17)):


Danh sách và địa chỉ các cơ sở thương mại và nhà máy dọc theo kênh rạch từ bến Bạch Đằng vào Chợ Lớn mà người Pháp gọi là Arroyo de Chinois (gồm rạch Bến Nghé, kênh Tàu Hủ, kênh Đôi. “Arroyo” là từ tiếng Tây Ban Nha chỉ kênh rạch có từ khi liên quân Pháp - Tây Ban Nha đánh Saigon năm 1859). Ngày nay tất cả các bến này cùng nhiều cơ sở thương mại, văn hóa và dân cư không còn sau khi Đại lộ Đông Tây được xây dựng năm 2009.

Bến Chương Dương (Quai de Belgique)
Bến Trần Văn Kiểu (Quai de Mytho, trước 1975 gọi là bến Lê Quang Liêm)
Bến Bình Đông (Quai des Jonques) và các khu vực chung quanh
Société commerciale francaise de l’Indochine
Exportation du riz
15 quai de Belgique
Administrateurs: P. Rauzy, P. Ville
Tia-lang-Heang
Marchand de graines, sucres et divers (thương gia lúa gạo, đường và thập cẩm)
63 quai de Mytho
Pho Hong
Rizerie
75 quai des Jonques
Société Ban Joo Guan
Rizerie, Cholon
Adminsitrateur (Quản lý): Ông Ong-Yu-Joo
Van-Suong-Long
Rizerie
156 quai de Mytho
Rizerie "Ban-teck-Guan et Cie"
(công ty Vạn Đức nguyen)
122 quai des Jonques,
Société Anonyme nouvelle Ban Soon An
17 quai de Belgique
Directeur (Giám đốc): Ông Ong-Yu-Joo
Binh Dong Rizerie
164 Quai de Mytho
Propietaire: Truong hiep Ky

Rizerie Guan-Hong-Seng
277 quai des Jonques


Rizeries d’Extrême-Orient
15 quai de Belgique et
301 quai des Jonques
Administrateurs: P. Rauzy, P. Ville,
Directeur-general (Tổng giám đốc): E. Ville,
Rizerie Phuong-Hung
166 quai de Mytho

Speidel et Cie,
166 quai des Jonques, Cho Lon

Société des rizeries du Pacifique
Usine à Binh Dong
Siège social 74 rue d’Ormay (Mạc Thị Bưởi ngày nay), Saigon
Administrateur (Quản lý): Ông A. Capdeville
Société des riz d'indochine (Denis-freres)
Rizerie
216 Quai de Mytho

Speidel (C.)
“Rizeries de l’Orient”
(sau này nhà máy này thuộc công ty Société des rizeries d’Extrême-Orient)
quai des Jonques

Société des rizeries d’Extrême-Orient
Rizeries Bang-hong-Guan et rizeries Tong-Wo
a Binh Dong
Administrateur: Ông E. Ville
Ban-Guan (Société Anonyme) Rizerie
Tjia-Mah-Yen (Tạ Mã Điền)
221-222 quai de MyTho

Ngy-Cheong-Seng
Rizerie
289 quai des Jonques

Rizeries saigonaise,
Khanh Hoi
Tjah-Mah-yen (Tạ Mã Điền)
Rizerie
231 quai de Mytho
Rizerie d'Extrême-Orient
R.C Saigon No. 84
301 quai des Jonques
Directeur (Giám đốc): J. Joly

Yue-Tai
Marchand du riz (thương gia gạo)
233 quai de Mytho

Rizerie des Jonques Rauzy et Ville
203 quai des Jonques (6)
(Société des rizeries d’Extrême-Orient)
Administrateur (Quản lý): E. Ville

Société Sam-Hing
Riz et paddy en gros (Mua bán sỉ lúa gạo)
243 à 253 quai de Mytho
Thung-Mau Rizerie
Quai de Doublement (Binh Dong)
Proprietaire (chủ nhà máy): Julio-Chang-Ping

Cam Thuan (Maison)
Rizerie
262 quai de Mytho
Proprietaire: Cahu Tru dit Kim-Soon
Ban-Guan Rizerie,
Rue de Cay-mai (ngày nay là đường Nguyễn Trãi)
Propietaire: Tja-Mah-Yan (Tạ Mã Điền)

Ban-soan-an (Vạn Thuận An)
Tang-ho-Seng, 269 quai de Mytho
Du-hung
Soa-a-Pan, 16 quai Yunnam

Huu Man
Rizerie
270 quai de Mytho

Quach Dam (maison) Rizerie
45 Boulevard Gaudot (nay là đuờng Hải Thượng Lãn Ông)
(“Thông Hiệp” làm chủ)

Tchao-Lung
Marchand de paddy (thương gia lúa)
283 quai de Mytho

Kwong-Choon-Thai
Rizerie
Canal de Doublement (Kênh đôi)
Proprietaire: Choon-lie-E

Lee-How-Cheong
Rizerie
289 quai de Mytho
Rizerie Gressier
153 rue de Paris (ngày nay là đường Phùng Hưng)

Kwong-Chung-Hing
Marchand Paddy et Riz (thương gia mua bán lúa gạo)
293 quai de Mytho
Truong Văn Công
Rizerie
6 rue de Binh Tay


Colonial Commercial and Engineering Cie
Enterprise industriel
311 quai de Mytho
Zigo Hsuishing
Proprietaire
2 rue de Mothe (Lê Đại Hành)

Rizerie Ban-Aik-Guan (Vạn Ích Nguyên)
Société anonyme au capital de 157500$
R.C Saigon No. 780
320 quai de ChoQuan
(địa chỉ trước: 1 route de Choquan)
Nam-long-chan
Luu-Luc, 10 quai Xom-cui

Nam Long Rizerie
334 à 361 Quai de Mytho
Proprietaire: Man-Chéong-Yuen (Vạn Xương Nguyên)
Phuoc-du
Ly-Souan, 9 quai Xom-cui



Tham khảo


  1. La revue du Pacifique, 1923/07(A2,N7)-1923/12(A2,N12), pp. 501-502
  2. Thomas Engelbert, Chinese Politics in Colonial Saigon (1919–1936): The Case of the Guomindang,
    Chinese Southern Diaspora Studies, Volume 4, 2010.
  3. Geoffrey Gunn, The Great Vietnamese Famine of 1944-45 Revisited, The Asia-Pacific Journal,
    http://japanfocus.org/-Geoffrey-Gunn/3483
  4. Annuaire administratif de l'Indochine. 1937, Impr. d'Extrême-Orient (Hanoï), 1937, pp. 244
  5. Li Tana, The Tomb Inscription of Tjia Mah Yen, a Hokkien Businessman of French Cochinchina, Chinese Southern Diaspora Studies, Volume 4, 2010.
  6. Annuaire général de l'Indo-Chine française ["puis" de l'Indochine], Publisher : Hanoi, 1905, 1906, 1907, 1910 (pp. 583), 1914 (pp. 453-455), 1918.
  7. Annuaire complet (européen et indigène) de toute l'Indochine, commerce, industrie, plantations, mines, adresses particulières... : Indochine, adresses, 1ère année 1933-1934 / éditeurs madame L. Lacroix-Sommé, messieurs R. J. Dickson et A. J. Burtschy, impr. A. Portail (Saigon), 1933.
  8. Recueil des procès-verbaux des séances plénières du Grand Conseil des intérêts économiques et financiers de l'Indochine: session ordinaire de 1938, Grand conseil économique et financier de l'Indochine, Impr. de Le-Van-Tan (Hanoï), 1929-1939, pp. 242-244.
  9. Annuaire de la Cochinchine française 1865, Saigon,1865-1888.
  10. Bulletin bi-mensuel (de la Chambre de commerce de Saïgon), 20 Juin 1881, 25 Janvier 1890, 5 Juillet 1900, 19 Fevrier 1918, 21 Mai 1924, 2 Janvier 1923, 15 Fevrier 1928, 15 Janvier 1933, Saigon
  11. Louis Imbert, La Cochinchine au seuil du XXe siècle, Impr. de J. Durand (Bordeaux), 1900.
  12. Pierre Passerat de la Chapelle, L’industrie du decorticage du riz en basse-cochinchine, Bulletin de la Société des études indochinoises de Saigon, Imprimerie L. Ménard, 1901, pp. 49-85.
  13. Guillaume Capus, Le riz d’indochine, Annales de Geographie, 1918, Vol. 27, No. 145, pp.25-42.
  14. Annuaire complet (européen et indigène) de toute l'Indochine, commerce, industrie, plantations, mines, adresses particulières: Indochine, adresses, 1ère année 1933-1934 / éditeurs madame L. Lacroix-Sommé, messieurs R. J. Dickson et A. J. Burtschy, impr. A. Portail (Saigon), 1933
  15. Le Khuong Ninh, Investment of Rice Mills in Vietnam, The Role of Financial Market Imperfections and Uncertainty,http://www.economicswebinstitute.org/essays/investviet.pdf
  16. Albert Naud, L'exportation des grands produits agricoles indochinois, Annales de Géographie, 1930, Volume 39, Numéro 217, pp. 50-60.
  17. Annuaire général de l'Indo-Chine française, 1901, 1923.
  18. Sơn Nam, Lịch sử khẩn hoang miền Nam, Nxb Trẻ 1997.
  19. Vương Hồng Sển, Saigon năm xưa, Nxb Tp Hồ Chí Minh, 1991.
  20. Li Tana, 尋找法屬越南南方的華人米商 (Tầm trào Pháp thuộc Việt Nam nam phương đích Hoa nhân mễ thương), Chinese Southern Diaspora Studies, Vol. 4, 2010,
    http://csds.anu.edu.au/volume_4_2010/20-5C_CSDS_2010_Tana_Li.pdf
  21. Julia Martinez, Chinese rice trade and shipping from the North Vietnamese port of Hai Phong, Chinese Southern Diaspora Studies, Vol. 1, 2007, http://csds.anu.edu.au/volume_1_2007/Martinez.pdf
  22. Rajeswary Ampalavanar Brown, Bank archives and research on Chinese business communities in Indo-China, South China Research Resource Station Newsletter, 15/7/2001,
    http://ihome.ust.hk/~schina/PDF/news24.pdf
  23. The Strats Times, 3 September 1915, ‘Sagon Rice Mills Sold”, trang 6,
    http://newspapers.nl.sg/Digitised/Article/straitstimes19150903.2.36.aspx
  24. Claudine Salmon, Tạ Trọng Hiệp, De Batavia à Saigon: notes de voyage d’un marchand chinois (1890),
    Archipel, 1994, Vol. 47, pp. 155-191
  25. Nguyễn Đức Hiệp, Singapore-Saigon-Hong Kong: Quan hệ thương mại người Hoa từ thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20, 
    http://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/singapore-saigon-hong-kong/
  26. Rapports au Conseil de gouvernement, session ordinaire 1927, 1928, 1929 / Gouvernement général de l'Indo-Chine, Impr. d'Extrême-Orient (Hanoï), 1927, 1928, 1929
  27. Sơn Nam, Phong trào Duy Tân ở Bắc Trung Nam, Miền Nam đầu thế kỷ 20 – Thiên Địa Hội và Cuộc Minh Tân, Nxb Trẻ 2003

Tổng số lượt xem trang