Thứ Năm, 1 tháng 12, 2011

Mạnh Kim - Nguyên nhân cái chết lâm sàng của EU

Mạnh Kim -
Tác giả gửi đến Dân Luận
Bài 1: Ngôi nhà chung không có tiếng nói chung

Hai ông thủ tướng (Hy Lạp và Ý) đã phải “tháo chạy” trong tình huống “bỏ của chạy lấy người” và cuộc khủng hoảng nợ công EU càng lúc càng rơi vào hố sâu tuyệt vọng. Người ta bắt đầu bàn đến khả năng giải tán khối Eurozone hoặc thậm chí rút ra khỏi tư cách thành viên EU. Đâu là nguyên nhân ê chề của tấn bi kịch thảm não đối với số phận EU? EU với một lá cờ chung ít ai ngã mũ chào và một “quốc ca” gần như không ai thuộc đã cho thấy ý tưởng hòa nhập tất cả thực thể – từ xã hội, kinh tế đến chính trị – thành một khối thống nhất, một mô hình “xã hội chủ nghĩa”, vẫn chưa thành hiện thực và thậm chí hoang tưởng!


Một đại gia đình quanh năm cãi nhau như mổ bò!

Đâu phải cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới mới làm EU “sụm bà chè”. Ngay từ những năm đầu thế kỷ 21, mô hình chung EU đã lộ ra nhiều khuyết điểm mang tính hệ thống. Còn nhớ, trên tờNewsweek (26-3-2007), tác giả Andrew Moravcsik (giám đốc Chương trình EU thuộc Đại học Princeton) từng viết một cách chua chát rằng EU trông như “một viện bảo tàng kích cỡ to bằng châu lục đang rơi vào sọt rác lịch sử”. Năm 2007, nhân dịp EU cắt bánh sinh nhật lần thứ 50, hãng FT-Harris đã thực hiện cuộc thăm dò tại 5 nước lớn nhất EU, cho thấy có đến 44% công dân than rằng cuộc sống ngày càng tệ hơn từ khi quốc gia họ gia nhập EU. Trước đó một năm, tháng 5-2006, Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) đã bắt đầu miêu tả bức tranh kinh tế Ý với những gam màu ảm đạm và u ám đến mức tờ La Repubblica gọi đó là một “sự thật phũ phàng đáng thương”. Kinh tế gia Giuseppe Turani nói rằng nhiệm vụ của Thủ tướng (lúc đó) Romano Prodi và Bộ trưởng Tài chính Tommaso Padoa-Schioppa “giống như việc cố thay động cơ của một máy bay khi nó còn trên không trung. Nếu giá nhiên liệu tiếp tục tăng, điều đó cũng giống như việc thay động cơ máy bay khi nó đang phóng vào tâm bão”. Tất nhiên tình cảnh tồi tệ lúc đó không chỉ với Ý…
Nguyên chủ tịch Ủy ban châu Âu Romano Prodi từng nói chủ trương thành lập cũng như việc mở rộng EU không phải để tạo ra một “siêu quốc gia” (superstate) mà là một “siêu cường” (superpower). Tuy nhiên, một châu Âu như Winston Churchill từng mong mỏi (thống nhất tuyệt đối, đến mức chỉ còn khái niệm “người châu Âu” chứ không còn khái niệm quốc gia) đã không bao giờ hình thành. Và nội bộ cộng đồng chung này luôn tồn tại nhiều suy tư riêng rẽ, nếu không nói là gần như luôn lục đục cắng đắng nhau. Chẳng hạn mậu dịch, các quốc gia nông nghiệp trong EU vẫn đòi hưởng chính sách mở cửa thị trường và cắt trợ cấp tại các nước giàu. Trong khi đó, dân nước giàu tỏ ra bất bình trước việc tiền thuế của họ được dùng chi cho viện trợ thành viên nghèo. “Có một sự bất đối xứng giữa thực tế hành xử kinh tế và bản chất nội tại chính trị giữa các chính phủ châu Âu” – nhận xét của Loukas Tsoukalis, chủ tịch tổ chức nghiên cứu ELIAMEP (Hy Lạp) kiêm cố vấn kinh tế cho nguyên chủ tịch Ủy ban châu Âu Jose Manuel Barroso.
Một trong những sự kiện điển hình nhất cho thấy khoảng cách bất đồng luôn hiển hiện trong ngôi nhà chung EU chính là vụ nước Pháp nói “NON” với Hiến pháp châu Âu gồm 458 điều khoản (trong cuộc trưng cầu dân ý năm 2005), dù Pháp là một trong 6 thành viên sáng lập EU và cựu Tổng thống Pháp Valery Giscard d'Estaing là một trong những kiến trúc sư chính soạn bản hiến pháp chung này. Dân Pháp tin rằng – hoặc ít nhất được nghe nhiều ý kiến như vậy từ thành phần phản đối Hiến pháp châu Âu – một Hiến pháp châu Âu với nội dung mở rộng kinh tế tự do sẽ làm tăng nguy cơ thất nghiệp bởi lực lượng nhân công rẻ từ các thành viên Đông Âu. Trong thực tế, người Pháp cho rằng từ khi EU được mở rộng (với các thành viên mới chủ yếu từ các nước nghèo Đông Âu) đã làm đời sống kinh tế Pháp thêm nhanh suy kiệt và họ nghĩ mình chỉ là nạn nhân của những tham vọng thuần túy chính trị của chính giới.
Hình thành ban đầu với 6 thành viên trong Cộng đồng kinh tế châu Âu vào thập niên 1950 như một cách hợp sức vực dậy nền kinh tế tan nát sau Thế chiến thứ hai, EU với 27 thành viên trở thành một trong những khối kinh tế lớn nhất thế giới. Với những người ủng hộ chính sách kết nạp thêm thành viên mới, một châu Âu lớn hơn giúp nới rộng vùng hòa bình, ổn định và thịnh vượng. Chất lượng cuộc sống tốt và đồng đều hơn cho công dân khắp châu Âu, môi trường cũng được bảo vệ và nạn tội phạm được đẩy lùi. Ngoài ra, sự mở rộng EU giúp tiếng nói châu Âu nặng ký hơn trong chính trường thế giới, ở những vấn đề ngoại giao, chính sách an ninh, chính sách mậu dịch và trong các lĩnh vực mang tính toàn cầu. Với việc mở rộng, EU trở thành thị trường có 450 triệu người tiêu dùng, một thị trường thống nhất lớn nhất thế giới về mậu dịch, dịch vụ và đầu tư (lớn hơn Mỹ và Nhật hợp lại). Tuy nhiên, đó là lý thuyết. Trong thực tế, từ ngày “hộ khẩu” EU có thêm “miệng ăn”, một số thành viên cũ đã bắt đầu bực dọc bởi những ảnh hưởng trực tiếp liên quan miếng cơm manh áo. Lá phiếu “Non” của người Pháp trong cuộc trưng cầu dân ý về Hiến pháp châu Âu ngày 29-5-2005 là thể hiện cụ thể của “lòng dân bất mãn” như vậy – một điềm gở cho sự bất toàn của mô hình EU.

Tinh thần đồng đội – một khái niệm chỉ mang tính lý thuyết

Nếu xem EU là một đội bóng mà tinh thần đồng đội là yếu tố sống còn thì điều này đã không bao giờ xảy ra. Cách đây vài năm, đã bắt đầu xuất hiện những dấu hiệu ngán ngẩm kiểu chơi tập thể trong “quần thể EU” và nảy sinh tâm lý chơi “cá nhân” tách riêng, chẳng hạn Tây Ban Nha từng cố ngăn tập đoàn năng lượng khổng lồ Đức E.on mua công ty năng lượng Tây Ban Nha Endesa. Trường hợp Airbus càng cho thấy rõ hơn. Việc Airbus sử dụng 12.000 nhân công tại Đức (10 trong 16 nhà máy Airbus nằm ở Đức) là một trong những nguyên nhân khiến trong suốt thời gian dài chính trị gia Đức đụng độ tóe lửa với Pháp trong cuộc chiến bảo vệ quyền lợi công nhân nước mình. Trong khi đó, Airbus lâu nay vẫn được Pháp tự hào xem là nhà sản xuất máy bay thương mại “riêng” của họ trong cuộc chiến cạnh tranh đối thủ Mỹ Boeing.
Nhà phân tích công nghiệp hàng không Ulrich Horstmann (Bayerische Landesbank, Munich) nhận định: “Thật khó cho Airbus cởi trói khỏi sự giằng co chính trị”. Giovanni Federico – giáo sư Viện đại học châu Âu tại Florence (Ý) – nói: “Bởi yếu tố chính trị, Airbus không thể xử lý được việc cắt giảm chi phí theo cách như công ty Mỹ. Yếu tố chính trị ở đây là sự giành quyền kiểm soát giữa Đức-Pháp và cấu trúc “một rừng hai cọp” này là “vấn đề cơ bản trong va chạm văn hóa doanh nghiệp” – như nhận xét Isabelle Bourgeois, nhà phân tích thuộc Trung tâm thông tin và nghiên cứu nước Đức đương đại. Với người Đức, cạnh tranh là quan trọng nhất – theo Bourgeois – trong khi đó, với người Pháp, sự gần gũi chính trường được ưu tiên nhiều hơn. Sự tiếp cận khác nhau ở nhiều vấn đề, từ tư duy chiến lược cạnh tranh đến cơ chế quản trị, đã có lúc khiến Airbus lâm vào khủng hoảng quản lý, dù công ty có một thứ “tiếng nói chung” là tiếng Anh (qui định về sử dụng ngôn ngữ trong Airbus)! Tình trạng “năm cha ba mẹ” trong Airbus khiến việc quản lý đã khó càng trở nên vất vả. Sự “cấu véo” trong nội bộ EADS (công ty mẹ của Airbus) thể hiện ở các vị trí điều hành (về nguyên tắc được phân bổ theo tỉ lệ cổ phần). Tuy nhiên, sự ghìm nhau giữa Pháp và Đức luôn xảy ra. Với bất kỳ giám đốc điều hành Đức nào, ông cũng có một “anh” Pháp theo sát; và ngược lại. Vấn đề quốc tịch, chứ không phải khả năng quản lý, lại là yếu tố quan trọng trong EADS! Vụ Airbus chỉ là một trong vô số trường hợp tương tự cho thấy yếu tố tinh thần đồng đội của đội tuyển EU lỏng lẻo như thế nào cũng như làm lộ ra những lỗ hổng toang hoác trong bản thân cơ chế “hợp tác phát triển” của EU (năm 2008, ban giám đốc Nokia từng bị giới chính trị Đức chỉ trích kịch liệt khi quyết định đóng cửa một nhà máy sản xuất điện thoại di động tại Bochum-Đức và dời sang Cluj-Romania).
Nói cách khác, một EU chung với quá nhiều bất đồng đã khiến thực thể này chẳng bao giờ chịu chơi “chung sức” đúng nghĩa. Cần nhắc lại, tại cuộc họp thượng đỉnh EU tháng 12-2005, Thủ tướng Áo Wolfgang Schussel (lúc đó là chủ tịch Hội đồng châu Âu) đã phải thốt lên: “Lần tới, chúng ta sẽ giết nhau cho coi”, khi chứng kiến cảnh loạn cào cào trong bàn thảo chính sách tài chính cho các thành viên EU!
Mạnh Kim
________________
* Ngày 25-3-1957, nhóm nguyên thủ 6 nước châu Âu (Pháp, Tây Đức, Ý và bộ tam Benelux – gồm Bỉ, Hà Lan và Luxembourg) gặp nhau tại Rome và ký hiệp ước thành lập Cộng đồng chung kinh tế châu Âu (EEC). Ý tưởng thành lập một liên minh hiện đại tại châu Âu bắt đầu từ sau Thế chiến thứ hai. Vài tài liệu ghi, năm 1952, Cộng đồng thép-than châu Âu (European Coal & Steel Community) trở thành hình ảnh đầu tiên của một châu Âu gắn kết và mô hình này phát triển thành EEC. Tuy nhiên, ý tưởng giúp thai nghén EEC thật ra bắt đầu từ hai sự kiện: Quốc hội Pháp bác bỏ đề xuất Cộng đồng chung về quốc phòng châu Âu năm 1954; và vụ khủng hoảng kênh đào Suez năm 1956. Sự kiện thứ nhất liên quan đến việc đánh giá lại các quốc gia nằm ở trung tâm châu Âu; sự kiện thứ hai khiến Pháp kết luận rằng một cộng đồng chung châu Âu sẽ là vì lợi ích chung. Năm 1957, Hiệp ước Rome dẫn đến thành lập một thị trường chung cho các thành viên trong EEC. Hai năm sau khi Hiệp ước Rome có hiệu lực, 7 nước (Áo, Anh, Đan Mạch, Na Uy, Bồ Đào Nha, Thụy Điển và Thụy Sĩ) thành lập Hiệp hội mậu dịch tự do châu Âu (EFTA). Năm 1992, Liên minh châu Âu (EU) ra đời, đưa đến việc thành lập một thị trường đơn nhất bằng việc hủy bỏ mọi rào cản cho dòng chảy tài chính và thương mại. Ý tưởng dùng chung một đồng tiền ra đời cuối thập niên 1960. Năm 1969, các nhà lãnh đạo Pháp, CHLB Đức, Ý, Bỉ, Hà Lan và Luxembourg (6 thành viên ban đầu của EEC) gặp nhau tại The Hague và đưa ra sáng kiến thành lập một liên minh kinh tế-tiền tệ (EMU). Năm 1991, các nhà lãnh đạo châu Âu ký Hiệp ước Maastricht để thành lập EU. Năm 1994, EMU thành lập Viện tiền tệ châu Âu. Năm 1995, đồng tiền chung mang tên euro được thống nhất chọn. Năm 1998, Ngân hàng trung ương châu Âu được thành lập, trụ sở tại Frankfurt...
* 27 quốc gia EU: Áo, Bỉ, Cyprus, Estonia, Phần Lan, Pháp, Đức, Hy Lạp, Ý, Luxembourg, Malta, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Slovakia, Slovenia, Tây Ban Nha, Ireland (17 quốc gia thuộc khối Eurozone); và Bulgaria, CH Czech, Đan Mạch, Hungary, Latvia, Lithuania, Ba Lan, Romania, Thụy Điển, Anh.
Mạnh Kim - Nguyên nhân cái chết lâm sàng của EU (2) (30/11/2011)

Bài 2: Một ngôi nhà không móng

Việc sống với nhau với thái độ bằng mặt không bằng lòng không chỉ là vấn đề duy nhất khiến EU “cất đầu lên không nổi”. Nói đến sự suy sụp của EU, còn phải nhắc đến một nguyên nhân sâu xa nữa. Đó là một cơ chế bất toàn đối với giáo dục và sử dụng nguồn nhân lực. Không có nhân tài, làm sao phát triển?

Nhân tài gạt nước mắt ra đi!

Hồi còn ở Pháp, Hamid Senni và Edouard Jozan như sống ở hai hành tinh khác nhau. Senni, gốc Morocco, trưởng thành tại khu qui hoạch “vô hồn” gần Valence và chật vật lắm mới có thể đến trường. Không chỉ một lần, Senni đối mặt câu trả lời chua chát rằng anh không thể tìm được việc. Trong khi đó, Jozan từng học tại một trong những trường trung học tốt nhất Paris. Sau khi tốt nghiệp đại học, Jozan làm trong lĩnh vực tài chính quốc tế. Tuy nhiên, cả hai đều có điểm chung: mang quốc tịch Pháp, ở độ tuổi chớm 30 và nhiều tham vọng. Và cả hai cũng đều rời nước Pháp trong tâm trạng chẳng biết bao giờ hồi hương. Bị “uất ức” bởi tình trạng phân biệt đối xử tại Pháp, Senni thoạt đầu sang Thụy Sĩ và sống ở Luân Đôn, nơi anh lập hãng tư vấn chuyên giúp các công ty đa quốc gia của Pháp. Phần mình, Jozan ở Đức 5 năm sau khi tốt nghiệp rồi trở về Pháp trong sự ngỡ ngàng rằng nơi mình từng làm việc bây giờ hoang tàn u ám. Lập tức rời Pháp lần thứ hai, Jozan sang Anh học thạc sĩ tại Trường kinh thương Luân Đôn, nơi tình cờ cách không xa văn phòng Senni… Như văn hào Ernest Hemingway từng viết, Paris đúng là thành phố của lễ hội. Sống ở đó hẳn nhiên nhiều vui thú nhưng để kiếm tiền và vươn lên trong sự nghiệp thì đừng hòng.
Tại sao giới trẻ Pháp đành lòng bỏ quê hương? Lý do thật đơn giản. Pháp ngày càng hiếm những “chùm khế ngọt” và hiện là một trong những quốc gia khó tìm việc nhất thế giới. Càng tham vọng bao nhiêu càng đối mặt thất vọng bấy nhiêu. Khả năng tìm được việc thường nhờ vào quan hệ hơn là tài năng. Hơn nữa, bộ máy hành chính sự nghiệp Pháp là một trong những bộ máy công quyền nặng nề và cổ lỗ sĩ nhất thế giới. Đó là chưa kể tình trạng phân biệt chủng tộc (từng trở thành nguyên nhân khiến nước Pháp sống trong bạo loạn kinh hoàng vào năm 2005). “Tôi chỉ trở về khi cơ hội tại Pháp có nhiều hơn” – phát biểu của chuyên gia nghiên cứu thị trường Florence Cellot 32 tuổi, buộc phải dọn đến Luân Đôn sau khi sống 5 năm tại Tokyo – “Pháp giống như một mụ già bị bán thân bất toại bởi nỗi sợ những gì mình có thể mất” (trong khi Pháp đang mất rất nhiều, kể cả sinh khí quốc gia). Jacques Deguest (đến Tokyo năm 2001 sau khi công ty trực tuyến mà anh thành lập tại Pháp sụp đổ) bổ sung: “Pháp như một nhà hàng nơi thức ăn luôn tuyệt hảo nhưng sự tiện nghi và dịch vụ là zero, zero, zero và hóa đơn thanh toán lại cắt cổ mổ họng. Tôi yêu nước Pháp nhưng ở liều lượng ít thôi”... Với nhiều người Pháp, trong đó có nhà văn nổi tiếng Nicolas Baverez, hiện tượng chảy máu chất xám là bản tuyên ngôn mới nhất về sự xuống dốc không phanh của nước Pháp. Và thảm cảnh bỏ nhà mà đi không chỉ xảy ra với nước Pháp.
Giữa thập niên đầu thế kỷ 21, giới lãnh đạo châu Âu từng thề rằng EU sẽ là nền kinh tế tri thức (knowledge-based economy) năng động và có tính cạnh tranh cao nhất thế giới vào trước năm 2010. Tuy nhiên, viễn tưởng trên đã trở thành ảo tưởng, bởi hiện tượng chảy máu chất xám đã và tiếp tục bùng nổ tại châu Âu. Hàng ngàn bộ não tinh túy của châu Âu đang được sử dụng tại Mỹ. Time cho biết khoảng 400.000 sinh viên ngành khoa học-kỹ thuật mới tốt nghiệp tại châu Âu hiện sống tại Mỹ và mỗi năm có hàng ngàn người khác tiếp tục cuốn gói lên đường ra nước ngoài. Điều mỉa mai ở chỗ, châu Âu không phải không có những trung tâm nghiên cứu đẳng cấp thế giới, chẳng hạn Tổ chức nghiên cứu hạt nhân châu Âu (CERN) tại Geneva, nơi khai sinh Mạng mở rộng toàn cầu (World Wide Web) hoặc Phòng thí nghiệm sinh học phân tử châu Âu (EMBL) tại Heidelberg, nơi hồi năm 1995, hai khoa học gia đoạt Nobel Eric Wieschaus và Christiane Nusslein-Volhard từng nghiên cứu bộ gien của nhặng. Tuy nhiên, vấn đề ở chỗ hệ thống quản trị khoa học châu Âu tiếp tục nặng thủ tục hành chính và quan liêu – như nhận xét của Claude Allègre, nguyên Bộ trưởng giáo dục Pháp. Có thể kể một trường hợp điển hình của hiện tượng quan liêu và kinh phí yếu trong làng khoa học châu Âu. Năm 2000, sau ba năm đóng góp lớn cho hãng dược phẩm khổng lồ Mỹ Eli Lilly, Matthias Tschop trở về quê nhà Đức và thành lập Viện dinh dưỡng con người Đức (DIfE) tại Potsdam. Dù Matthias Tschop nhanh chóng quyên được 11,7 triệu euro cho nghiên cứu hợp tác về bệnh béo phì nhưng khoản tiền ít ỏi không đủ để DIfE theo đuổi dự án đến cùng. Cuối cùng, Matthias Tschop lại sang Mỹ, làm giáo sư trợ giảng tại Đại học Cincinnati và lập tức được cấp 750.000 USD để thành lập phòng thí nghiệm riêng tại Đại học Cincinnati.
Đúng vậy, tiền là vấn đề muôn thuở của giới khoa học châu Âu – như nhận xét Luciano Maiani, giám đốc CERN. “Châu Âu ngày càng yếu vì chúng tôi không được đầu tư đủ” - Luciano Maiani nói. Chỉ Phần Lan và Thụy Điển là đạt tiêu chuẩn châu Âu với ngân sách 3% GDP cho nghiên cứu. Với mục tiêu “đứng đầu thế giới về kinh tế tri thức” trước năm 2010, đầu tư cho R&D của châu Âu phải tăng 8%/năm nhưng điều này đã không xảy ra. Tại Ý, ngân sách cho nghiên cứu công cộng đã giảm một thập niên qua. Ngân sách nghiên cứu khoa học 2004 của Pháp chỉ khoảng 0,9%, không bằng ½ kinh phí cần có. Và để sống, nhiều nhà khoa học đã xé rào bước vào lằn ranh mờ ám mà tính đạo đức không cho phép. Giáo sư Michael Krausz (khoa tâm lý Đại học Hamburg) đã nhận quỹ nghiên cứu từ một hãng dược phẩm vô danh và cuối cùng bị cáo buộc tội bán rẻ lương tâm trong việc giúp tung ra các sản phẩm thuốc tào lao. Ngành công nghiệp châu Âu cũng thiếu kinh phí R&D nghiêm trọng. Cuối cùng, nguyên nhân nữa dẫn đến trào lưu “trốn” sang Mỹ của giới khoa học châu Âu là tình trạng phân biệt đối xử. Tại châu Âu thế kỷ 21, người ta vẫn còn phổ biến hiện tượng trọng nam khinh nữ trong giới khoa học, trong khi ranh giới nam-nữ trong làng khoa học Mỹ ngày càng xóa mờ. Tại châu Âu, đồng nghiệp nữ thường bị trả lương thấp hơn đồng nghiệp nam (trong lĩnh vực nghiên cứu lẫn giảng dạy đại học). Ngoài ra, Mỹ cũng ưu ái cho giới khoa học trẻ – điều hiếm khi xảy ra tại châu Âu. “Ở Đức, nguyên tắc tưởng thưởng không tồn tại” – phát biểu của Michael Alexander Rubhausen, 32 tuổi, trưởng nhóm nghiên cứu vật lý hóa sinh Đại học Hamburg…

Một cơ chế giáo dục kỳ quặc

Thật khó tưởng tượng cái nôi của những Sorbonne bây giờ lại bệ rạc đến như vậy. Nghe cứ như chuyện xảy ra tại các nước thế giới thứ ba chứ không phải xã hội văn minh và hiện đại như châu Âu. Giáo viên không sống nổi phải còng lưng làm thêm và học sinh-sinh viên bỏ trường bỏ lớp với đủ lý do… Tại viện đại học lớn nhất châu Âu La Sapienza (Đại học Rome) với 150.000 sinh viên, lớp học được dựng trong những căn lều xiếc bởi không có tiền sửa phòng học đổ nát. Thông tin liên quan giáo dục châu Âu bây giờ không phải là những khám phá sáng chói mà là những xìcăngđan chẳng hạn vụ một số giáo sư bán điểm để đổi lấy quan hệ tình dục với sinh viên. Tệ chưa! Immacolata Curinga 27 tuổi, người có bằng thạc sĩ giáo dục và tâm lý học, phải kiếm thêm bằng nghề giữ trẻ với 6 euro/giờ. Tình cảnh tương tự xảy ra khắp châu Âu, từ hệ thống giáo dục phổ thông đến giáo dục đại học. Tại Trường Rtli (Berlin), nằm tại một trong những khu Arab-Thổ Nhĩ Kỳ với 83% học sinh không biết tiếng Đức, các bức tường gần như muốn sập. Tại hauptschule (trung học dạy nghề) này, học sinh ra trường ít có cơ hội tìm được việc làm. Cựu hiệu trưởng Brigitte Pick cho biết, năm 2005, không học sinh nào tốt nghiệp Rtli có thể tìm được việc. Tháng 3-2006, tập thể giáo viên Rtli đã nhất trí ký đơn xin giải thể trường!
Trong thế giới “đi chậm là chết” – theo ngôn ngữ nhà báo-nhà toàn cầu học Thomas Friedman, châu Âu đã không bắt kịp nhịp kết nối sự chuyển dịch toàn diện xảy ra trong nền kinh tế thị trường được thúc đẩy bằng chất xám và cạnh tranh sáng tạo. Trong khi đó, hệ thống giáo dục châu Âu tiếp tục “nổi tiếng” với ngân sách khiêm tốn và bộ máy quản trị cồng kềnh. Hơn nữa, tình trạng bất bình đẳng cũng tồn tại như một nhức nhối xã hội. Tháng 2-2006, cao ủy nhân quyền Liên Hiệp Quốc Vernor Muđoz Villalobos đã chỉ trích Đức tống học sinh thuộc thành phần nhập cư vào những trường “cấp ba” (hạng bét) và tình trạng tương tự cũng hiện diện tại Pháp, Tây Ban Nha, Hà Lan, nơi trường dành cho dân da màu luôn đồng nghĩa với hình ảnh học sinh nhếch nhác cá biệt, quậy có đẳng cấp và tất nhiên biếng học (năm 2005, giáo sư Georges Felouzis tại Bordeaux từng nói đến nạn “apartheid” trong học đường Pháp). Trong khảo sát gần đây của Tổ chức phát triển và hợp tác kinh tế (OECD), thành phần nhập cư thế hệ thứ ba tại Đức cũng như một số nước khác có học bạ “bê bối” hơn thế hệ thứ hai (Newsweek).
Hiện trạng trên khiến châu Âu đang đối mặt nguy cơ tụt hậu, không chỉ với Mỹ mà thậm chí với châu Á. Hệ thống đại học châu Âu vẫn sản xuất đều đặn và cung cấp xã hội tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp nhất định nhưng lực lượng này nhanh chóng trở thành đối tượng sống nhờ trợ cấp chính phủ. Ở cả ba cấp độ – giáo dục tiểu học, trung học và đại học – Mỹ và Nhật đều tiến xa hơn châu Âu. Mỹ đầu tư 2,6% GDP vào riêng hệ thống đại học, so với 1,1% tại Đức, Ý và Pháp. Năm 2005, Thổ Nhĩ Kỳ thậm chí cũng qua mặt ba cụ trí thức cựu trào trên. Theo xếp hạng thường niên mới nhất của hai chuyên san uy tín là US News & World Report (Mỹ) và Times Higher Education (Anh), trong top 10 đại học hàng đầu thế giới, chẳng hề có một mống đại học châu Âu lục địa nào (chỉ có các đại học thuộc Vương quốc Anh). Một trong những nỗi khổ triền miên của hệ thống giáo dục châu Âu là tình trạng quan liêu. Tại Pháp và Đức, các vị đáng kính thuộc bộ ngành trung ương nhúng tay vào đủ tiểu tiết, từ ngân sách đến bổ nhiệm nhân sự. Áo, Bỉ, Đức và Hà Lan bây giờ vẫn duy trì hệ thống trường học thế kỷ 19, phân chia học sinh từ độ tuổi rất sớm (10 tuổi) thành các cấp khác nhau. Và hệ thống hauptschule tại Đức chỉ cung cấp trình độ sơ đẳng (đây là vết tích của thời phong kiến, khi xã hội chỉ cần một đại học tinh hoa nhưng cần một lượng lớn nhân công).
Chính sách giáo dục châu Âu còn có nhiều bất cập. Với học sinh tiểu học gốc Thổ Nhĩ Kỳ tại Đức, khoảng 2/3 sẽ được chuyển trường sau lớp bốn, đến hauptschule hoặc trường dành cho người khuyết tật! Trong nhiều trường hợp, bọn trẻ thường chọn con đường dẫn ra “trường đời”. Số học sinh thuộc thành phần nhập cư tại hệ thống dạy nghề Đức đã giảm từ 9,4% năm 1994 xuống còn 5,6% năm 2004, dù tỉ lệ đầu vào tăng 27%. Nếu số học sinh thuộc thành phần nhập cư chiếm 1/3 tổng học sinh Đức vào trước năm 2020 như dự báo, Đức chắc chắn khốn đốn về quả bom nổ chậm này đối với nền kinh tế quốc gia. Sự lãng phí tài năng, tiền của và nguồn đào tạo cũng là vấn đề đáng kinh ngạc. Tỉ lệ học sinh-sinh viên bỏ học tại hệ thống hauptschuleĐức là 10% và tại hệ thống đại học Ý là 60%! Và tất nhiên chúng trở thành “tầm gửi” của chế độ trợ cấp. Văn phòng lao động liên bang Đức hiện có 960.000 “khách hàng” dưới 25 tuổi và họ phải chi 6 tỉ euro chỉ riêng cho chương trình tái đào tạo những kỹ năng cơ bản chẳng hạn toán sơ cấp hoặc cách sử dụng Microsoft Word. Và dù tỉ lệ thất nghiệp chính thức tại Đức hiện là 6% (tính đến tháng 8-2011 - so với 9,9% tại Pháp; 7,9% tại Ý…) nhưng các công ty vẫn “bói” không ra nhân công có tay nghề chứ đừng nói kỹ sư và chuyên gia. Nỗi khổ tâm của giáo dục Đức có nguy cơ làm thiệt hại 0,9% trong tỉ lệ phát triển hàng năm.
Đúng là cơ chế quan liêu mang lại ảnh hưởng tiêu cực nghiêm trọng cho giáo dục châu Âu. Trong 25 năm, các bộ trưởng giáo dục Đức luôn cấm học sinh dự bất kỳ cuộc thi quốc tế nào, từ sau một nghiên cứu 1970 cho biết học sinh Đức ngày càng có học lực kém. Trong khi Mỹ tạo ra mạng kết nối cực tốt giữa hệ thống giáo dục và hệ thống doanh nghiệp để tìm tài trợ cho nghiên cứu, giới quản lý giáo dục châu Âu vẫn không cho phép nhà nghiên cứu tiếp cận những dữ liệu mới nhất. Chẳng phải tự nhiên mà giới khoa học châu Âu kéo nhau sang Mỹ và thậm chí nhiều nước châu Á trong đó có Hàn Quốc để tìm kiếm một “cuộc sống chất lượng hơn”. Trong toàn khối EU, Anh có lẽ là quốc gia duy nhất không bị ảnh hưởng bởi không khí bảo thủ trong giáo dục đại học châu Âu nói chung. Toàn cảnh, có lẽ vấn đề lớn nhất của hệ thống giáo dục châu Âu là sự hạn chế của xã hội hóa, theo mô hình kinh tế thị trường, như thành công không thể không thừa nhận của hệ thống giáo dục Mỹ…
Với những khiếm khuyết mang tính hệ thống trong bộ máy giáo dục như vậy, thử hỏi làm sao châu Âu có thể trở thành một “siêu cường”, như bày tỏ mong muốn của cụ Romano Prodi (nguyên chủ tịch Ủy ban châu Âu)?
Mạnh Kim
____________________
Báo cáo UNESCO Science Report 2010 (công bố tháng 11-2010 - mới nhất, tính đến thời điểm hiện tại) cho biết, năm 2007, Mỹ có 81.811 bằng sáng chế (chiếm 52,2% - cao nhất thế giới), so với 33.572 của Nhật (21,4%). Đức chỉ có 9.713 bằng (6,2%) nhưng cũng còn đỡ hơn Pháp với chỉ 3.631 bằng (2,3%), tệ hơn cả Trung Quốc với 7.362 bằng (4,7%). Về các công trình nghiên cứu khoa học được công bố, năm 2008, Mỹ có 272.879 bài viết (chiếm 27,7% - nhiều nhất thế giới), Nhật có 74.618 bài (7,6%); Đức có 76.368 bài (7,7%) và Pháp có 57.133 bài (5,8%)…


-Nguồn:
Mạnh Kim - Nguyên nhân cái chết lâm sàng của EU 


-Kinh tế Âu - Mỹ hỗn loạn: Việt Nam sẽ ra sao? (VEF 29-11-11) -- Đọc hết bài, nhiều lần, tôi vẫn không hiểu ông này muốn nói gì.
Tp.Hà Nội tung gói 'kích cầu' hỗ trợ lãi suất 2,4%/năm Stockbiz- Phó Chủ tịch UBND TP.Hà Nội Nguyễn Văn Sửu vừa ký quyết định về hỗ trợ lãi suất sau đầu tư cho các doanh nghiệp của Thành phố năm 2011...

picture(NLĐ) - Công an TP Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang vừa khởi tố bị can, phát lệnh truy nã bà Phạm Thị Ngọc Ánh và ông Phạm Hữu Tiến (cùng ngụ xã Trung An, TP Mỹ Tho) về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Bà Ánh và ông Tiến đã lừa đảo của 37 bị hại với chiêu mua một lô đất nhưng chỉ đặt cọc một ít tiền rồi phân lô bán cho nhiều người để chiếm đoạt 3,7 tỉ đồng.
------


Clinton tells developing world to be wary of donors-BUSAN, South Korea (Reuters) - Secretary of State Hillary Clinton urged developing nations on Wednesday to be "smart shoppers" on foreign aid, warning that powerful emerging economies such as China may be more interested in exploiting natural resources than promoting real development.
- Phỏng vấn chuyên gia kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa: Lo ngại của ngành tài chính, ngân hàng Trung Quốc  —  (RFI).
  - Giang LeJohn Maynard Keynes:"The Class war will find me on the side of the educated bourgeoisie."The Demand Doctor
 - Giang Le Just replace American Airlines with Vinashin, a "legacy corporation" in VN."Bankruptcy is a messy and painful process, particularly for a company's employees. But for legacy airlines like American, it might just be exactly what they need. It will allow them restructure their business and to cut costs where they need to. They'll be able to renegotiate their debts and also rewrite employee contracts. "Why Do Airlines Keep Going Bankrupt? : NPR
Philippines chăm sóc khách hàng cả thế giới (VEF).
-

Chính phủ Việt Nam có nguy cơ bị kiện ra tòa án WTO 

Ngày 20/11/2011, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng ban hành nghị định 95/2011/NĐ-CP để sửa đổi, bổ sung lại một số điều trong Nghị định 202/2004/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
Trong đó, điều 1 của nghị định này quy định như sau:
1. Sửa đổi, bổ sung khoản 3, khoản 5, khoản 7 Điều 18 như sau:
“3. Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau:
a) Cho vay, cho thuê tài chính hoặc trả nợ trong nước bằng ngoại tệ không đúng quy định của pháp luật;
b) Chuyển, mang ngoại tệ ra nước ngoài và vào Việt Nam không đúng quy định của pháp luật, trừ trường hợp quy định tại khoản 6 Điều này;
c) Thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ bằng ngoại tệ với người nước ngoài không đúng quy định của pháp luật;
d) Mua, bán, thanh toán ngoại tệ không đúng quy định của pháp luật;
đ) Thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ bằng vàng với nhau không đúng quy định của pháp luật;
e) Kinh doanh, mua, bán vàng không đúng quy định của pháp luật.”
 “7. Áp dụng hình thức xử phạt bổ sung:
a) Tịch thu tang vật là số ngoại tệ, đồng Việt Nam (VND) hoặc vàng đối với hành vi vi phạm quy định tại điểm b, điểm d, điểm đ, điểm e khoản 3 Điều này;
b) Tước quyền sử dụng Giấy chứng nhận đăng ký Đại lý đổi ngoại tệ trong thời hạn 12 tháng khi vi phạm lần đầu và tước không thời hạn khi tái phạm đối với các Đại lý đổi ngoại tệ vi phạm quy định tại điểm d khoản 3;
c) Tước Giấy phép hoạt động kinh doanh vàng trong thời hạn 12 tháng khi vi phạm lần đầu và tước không thời hạn khi tái phạm đối với các tổ chức kinh doanh vàng vi phạm quy định tại điểm e khoản 3 Điều này.”
Điểm đặc biệt của nghị định này cho phép các cơ quan chức năng liên quan quyền TỊCH THU ngoại tệ, vàng và tiền đồng trong hành vi mua bán ngoại tệ trái phép ngoài các địa điểm được quy định như ngân hàng và các đại lý thu đổi ngoại tệ. Người sống ở Việt Nam chỉ được quyền mua bán ngoại tệ tại ngân hàng và đại lý đổi ngoại tệ theo tỷ giá cố định. Nhưng thực tế là việc mua ngoại tệ theo tỷ giá cố định của NHNN Việt Nam là cực kỳ khó khăn. Nói cách khác thì nghị định này đã cấm triệt để việc mua bán trao đổi ngoại tệ theo giá thị trường.
Vì vậy, nghị định 95/2011/NĐ-CP đã vi phạm Hiệp định Thương mại song phương Hoa Kỳ – Việt Nam, cụ thể hơn là vi phạm mục B khoản 2, điều 1, chương VII của Hiệp định thương mại song phương Hoa Kỳ – Việt Nam (US-VN BTA, 2000).
CHƯƠNG VII: NHỮNG ĐIỀU KHOẢN CHUNG
Điều 1: Giao dịch và chuyển tiền qua biên giới
1. Trừ phi các bên trong những giao dịch này thoả thuận khác đi, tất cả mọi giao dịch thương mại qua biên giới, và tất cả việc chuyển tiền liên quan tới một đầu tư theo Hiệp định này sẽ được tiến hành bằng đồng Đô la Mỹ hoặc bất kỳ đồng tiền nào khác có thể được Quỹ Tiền tệ Quốc tế chỉ định là đồng tiền tự do sử dụng ở từng thời điểm
2. Liên quan đến thương mại hàng hoá và dịch vụ, mỗi Bên dành sự đối xử tối huệ quốc hay sự đối xử quốc gia, tuỳ theo sự đối xử nào tốt hơn, cho các công ty và công dân của Bên kia đối với:
A. việc mở và duy trì tài khoản bằng cả bản tệ và ngoại tệ và được tiếp cận tới tiền gửi của mình trong các định chế tài chính nằm trên lãnh thổ của một Bên;
B. các khoản thanh toán, chuyển trả tiền [nguyên văn: REMITTANCES tức là KIỀU HỐI] và việc chuyển các đồng tiền có khả năng chuyển đổi sang đồng tiền tự do sử dụng theo tỷ giá hối đoái trên thị trường hoặc những chứng từ tài chính liên quan giữa lãnh thổ của hai Bên, cũng như giữa lãnh thổ của một Bên và lãnh thổ của một nước thứ ba;
Đối với các hiệp định Thương mại ký kết với nước khác, luật pháp Việt Nam quy định rằng nếu luật Việt Nam có điểm khác với các điều thuộc hiệp định Thương mại đó thì phải áp dụng theo điều ước quốc tế đã ký kết.
Khoản 1 điều 6 luật ký kết gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế quy định (Quốc hội Việt Nam, 2005):
Điều 6. Điều ước quốc tế và quy định của pháp luật trong nước
1. Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế.
Như vậy, CP VN không thể buộc thân nhân VK Mỹ (người dân VN) hoặc công dân Mỹ phải bán USD lại cho NHNN hoặc cấm họ bán USD theo giá thị trường.
Bằng không, người dân có thể khởi kiện Chính phủ Việt Nam tại tòa án WTO và các tổ chức phân xử tranh chấp thương mại quốc tế khác.
Bảo vệ an ninh quốc gia
Tuy nhiên có một ngoại lệ cho chính phủ Việt Nam trong trường hợp này bằng cách áp dụng điều 2 chương VII của Hiệp định Thương mại song phương Hoa Kỳ – Việt Nam.
Điều 2: An ninh Quốc gia
Hiệp định này không ngăn cản một Bên áp dụng các biện pháp mà Bên đó coi là cần thiết để bảo vệ các lợi ích an ninh thiết yếu của mình. Không có quy định nào trong Hiệp định này được hiểu là yêu cầu Bên nào cung cấp bất kỳ thông tin gì, mà việc tiết lộ thông tin đó được Bên đó coi là trái với lợi ích an ninh thiết yếu của mình.
CP VN có thể tuyên bố vì lý do “an ninh quốc gia bị đe dọa”, họ phải cấm thân nhân VK Mỹ nhận đô la, bán ra ngoài theo giá thị trường.
Nhưng như vậy sẽ làm trò cười cho cả thế giới, vì nếu “an ninh quốc gia bị đe dọa” thì sao lại không cấm luôn kiều hối.
Mà khi kiều hối bán cho NHNN, theo giá chính thức, thì là “lợi ích quốc gia”. Để xem phen này CP VN hành xử ra sao.
Không cấm gia đình VK Mỹ bán kiều hối (BTA GHI RÕ: REMITTANCES), thì làm sao ém giá USD chợ đen, khi hàng năm có 5-6 tỉ USD bán ra như thế này.
Mà cấm REMITTANCES bán ra theo GIÁ THỊ TRƯỜNG, thì vi phạm BTA.
Giải pháp của chính phủ Việt Nam
Vậy còn cửa nào thoát cho họ không? Tôi nghĩ họ đang suy tính và có thể làm theo kịch bản sau: Vài tuần nữa, khi có KẾT HỐI, KẾT KIM, CP VN có thể sẽ dàn dựng 1 vụ đụng độ tàu ngoài biển với TQ, có thể có bắn nhau, thương vong, chết chóc, để dân VN tại VN và hải ngoại không còn quan tâm đến KẾT HỐI, KẾT KIM, tung tiền ra kinh hoàng cứu KT, gây SIÊU LẠM PHÁT.
PopoutÔng Dũng sớm không nói, trễ không nói, nhè ngay lúc sắp sửa phải kết hối kết kim thì nói rần rần về Hoàng Sa, Trường Sa. Ông ta làm như Trung Quốc vừa mới xâm lăng Hoàng Sa tuần vừa rồi.
PopoutVN không nhờ căng thẳng HS, TS, thì đã bị Mỹ bỏ lại vào danh sách CPC từ lâu, và đừng hòng Mỹ cho vay hàng năm 3 tỉ USD qua ngã WB, đừng hòng Mỹ cho VK gởi tiền về VN tự do, giá phí rẻ nhất thế giới. Nguyên nhân chính Mỹ vẫn còn o bế Việt Nam hiện nay là để lập phòng tuyến chống Trung Quốc xuống phía dưới Đông Nam Á.
Vì vậy VN phải giả vờ có vụ này, để trước là đoàn kết dân chúng, sau là ve vãn Mỹ.
TQ cũng vậy, để tránh 1 vụ Thiên An Môn khác, khi cần, sẽ bảo CP VN bắn giùm 1 tàu TQ, để dân TQ “đoàn kết chống ngoại xâm”, và quên đi các sự đàn áp dân chủ trong nước. Thực tế cho thấy TQ đã lợi dụng cái gọi là tinh thần dân tộc, bôi nhọ Việt Nam trên mạng Internet, đe dọa tung tin chiến dịch quân sự chống Việt Nam để đoàn kết dân họ trong nước.
CSVN từng bị thất bại KT sau 1954, phải xâm lăng miền Nam rồi đổ thừa “vì chi viện cho đồng bào ruột thịt miền Nam nên miền Bắc nghèo”, trong khi THẬT SỰ thì họ chẳng chi viện gì ráo, mà còn nhờ đó nhận viện trợ rất lớn từ khối CS Đông Âu, LX, TQ. Sau chiến tranh, hết viện trợ thì kinh tế lại đi xuống kinh hoàng do áp dụng các chính sách kinh tế sai lầm.
Nay, có thể CP VN gây ra 1 vụ đụng độ, thậm chí chiến tranh cục bộ, để đổ thừa rằng vì đó mà sụp đổ KT, CP phải tịch thu vàng, đô la, dùng để “chống ngoại xâm”.
————————————-
Chương VII, Hiệp định Thương mại Song phương Hoa Kỳ – Việt Nam (2000),http://vietnamese.vietnam.usembassy.gov/bta_fulltext_vii.html
Chính phủ Việt Nam (2011). Nghị định 95/2011/NĐ-CP,http://vanban.chinhphu.vn/vanbanpq/lawdocs/QD95CP.PDF?id=109622
Quốc Hội Việt Nam (2005). Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế,http://www.dncustoms.gov.vn/Data/Luat/Luat_ky_GN_cac_dieu_uoc_2005.htm

-Mạnh Kim - Nguyên nhân cái chết lâm sàng của EU (3)

Bài 3: Một cái áo sao có thể mặc vừa cho tất cả?!

Chỉ mới cách đây không lâu, đồng euro vẫn còn được xem là “sự chọn lựa thông minh” với tư cách ứng cử viên số một thay thế đồng đôla Mỹ (USD). Từ năm 1999-2003, nhiều ngân hàng quốc tế bắt đầu phát hành trái phiếu bằng euro chứ bằng USD. Ấy thế mà vận mạng euro đang trên bờ vực, với mức độ nghiêm trọng đến nỗi không ít nhà bình luận cho rằng nó sẽ chết, dẫn đến sự sập tiệm của Eurozone (khu vực dùng euro) nói riêng và Liên minh châu Âu (EU) nói chung!

Cái chết đã được báo trước

Được tung ra năm 1999 như một trong những sự kiện thời sự “cực hot” thời điểm đó, đồng euro bây giờ chẳng khác nào cái của nợ “bỏ thì thương vương thì tội” đối với những người đang tìm lối thoát cho cuộc khủng hoảng kinh tế toàn diện tại EU. Trên bề mặt, 17 nước thành viên Eurozone cùng Liên minh kinh tế tiền tệ (EMU) lẫn Ngân hàng trung ương châu Âu (ECB) là một thực thể chung tạo ra sức mạnh kinh tế với khả năng cạnh tranh khó có thể so bì, phá vỡ các rào cản giữa quốc gia với quốc gia, giữa công ty với công ty và thị trường với thị trường, một kết thúc thật sự giữa lằn ranh tư bản và cộng sản tại châu Âu lục địa sau Thế chiến thứ hai. Khu vực euro chiếm 1/5 kinh tế toàn cầu với sức cạnh tranh được miêu tả là ngang ngửa Mỹ. ECB lại nổi tiếng là ngân hàng làm ăn chỉn chu đàng hoàng. Tính về lượng tiền mặt giữa các thị trường tài chính cũng như mức độ dự trữ tại hệ thống ngân hàng trung ương thế giới cũng như tại các quỹ hưu và công ty chứng khoán…, euro thậm chí nhỉnh hơn USD từ 15-20%, xét về mật độ lưu hành toàn cầu – theo David Marsh, tác giả quyển The Euro: The Battle for the New Global Currency (NXB Yale, 8-2011) trong bài viết trên Foreign Policy (7-9-2011). Ấy thế mà euro lại (đang) chết. Sao lại như thế được?
Trong bài báo trên Forbes cách đây hơn ba năm (đề ngày 21-4-2008), tác giả Avi Tiomkin đã viết: “Vấn đề chỉ là thời gian, có lẽ không đến ba năm, cho đến khi cuộc thử nghiệm euro đi đến điểm kết thúc…”. Tiomkin đã dự báo không sai, khi mổ xẻ nguyên nhân khiến Eurozone sụp đổ là chẳng gì khác hơn là cơ chế của nó. “Đây là cuộc khủng hoảng cực sâu đối với euro và tất cả Liên minh châu Âu, bởi những gì chúng ta đang thấy là một tình trạng nợ kinh khủng và vấn đề thâm hụt ngân sách nghiêm trọng mà tất cả các quốc gia châu Âu phải cùng chia sẻ trong khi họ không có cấu trúc chung nào để giải quyết bất kỳ khó khăn tương tự nào” – phát biểu tiếp theo của Philippe Moreau Defarge, chuyên gia các vấn đề châu Âu thuộc Viện quan hệ quốc tế Pháp – “Châu Âu đang buộc phải thừa nhận họ không giàu và được tổ chức quản lý tốt như được tưởng và họ đang đối mặt những năm tháng khó khăn dài trước mắt trong việc tìm ra con đường ổn định”. Nói cách khác, chính cơ chế cấu trúc là nguyên nhân làm cho ngôi nhà chung châu Âu không có nền móng lẫn trụ đỡ vững chắc. Lỗ hổng của châu Âu là gì?
Sai lầm căn bản chính là cái “biên bản” của Hiệp ước Maastricht ký năm 1992 tạo khung sườn pháp lý cho sự vận hành kinh tế EU. Lỗ hổng gây chết người trong khung sườn pháp lý Maastricht là qui định chung về chính sách tiền tệ cho các nước thành viên EU, đặc biệt các nước trong Eurozone, trong đó tỉ lệ lãi suất phải được ấn định chung. Nói cách khác, Maastricht là một cái áo được thiết kế để ép mọi người “buộc phải” mặc vừa. Làm sao có thể có chuyện cùng tiến lên đồng đều, khi mà mỗi thành viên, với khả năng và mức độ phát triển riêng (phụ thuộc cơ sở hạ tầng kinh tế), với đặc thù nền kinh tế riêng (Hy Lạp là nước nông nghiệp trong khi Đức là quốc gia công nghiệp), với tư duy nếp nghĩ riêng, với thói quen sinh hoạt riêng? Làm sao có thể khống chế đưa tất cả nằm dưới một mẫu số chung trong công thức chính sách phát triển kinh tế?! Đó thật sự là một ý nghĩ hoang tưởng, hình thành bởi tư duy chính trị chủ quan, mà bây giờ EU phải trả giá.
Cần biết, không như các quốc gia đơn lẻ khác, thành viên EU có quyền lập chương trình tài khóa riêng nhưng họ lại không có những quyền liên quan đến điều phối tiền tệ. Khi đối mặt khó khăn và khủng hoảng tài chính, hầu hết các nước có ba chọn lựa: nâng thuế, giảm chi hoặc in tiền. Hai khả năng đầu thường được giới chính trị tránh (chẳng ai ra tranh cử với tuyên bố nâng thuế và cắt chi tiêu chính phủ). In tiền là chọn lựa tốt nhất (như Mỹ đã làm trong cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu từ năm 2008). Tuy nhiên, thành viên EU, đặc biệt với những nước thuộc Eurozone, lại bị bó tay trong vấn đề in tiền. Đó là đồng tiền “chung” nên chẳng lẽ thành viên nào cứ muốn in là in được sao! Sự lỏng lẻo trong chính sách tài khóa là vấn đề nữa. Về nguyên tắc, thành viên EU phải tuân thủ qui định không được để thâm hụt ngân sách vượt quá 3% GDP quốc gia; nợ công không vượt quá 60%; và lạm phát không được phép vượt quá 1,5%/năm. Tuy nhiên, EU lại không có cơ chế kiểm soát những qui định trên, khiến không ít thành viên cứ báo cáo láo cho yên chuyện và cho đến khi cuộc khủng hoảng nợ phình to đến mức chẳng còn có thể bưng bít được (không lâu sau khi George Papandreou nhậm chức thủ tướng vào tháng 10-2009, người Hy Lạp mới té ngửa khi biết rằng đất nước họ bị ngập trong nợ như thế nào; thâm hụt ngân sách 2009 lên đến gần 13%). Chưa hết, ECB lại bị cấm cho vay trực tiếp đến chính phủ một quốc gia bị khủng hoảng nợ (chỉ cho vay gián tiếp qua hệ thống ngân hàng nước sở tại); trong khi EU không có cơ chế cho phép một quốc gia thành viên bị lún trong nợ được phép thoát khỏi liên minh tiền tệ để có thể tự giải quyết vấn đề tài chính theo cách riêng (chẳng hạn bằng việc in tiền). Kinh tế gia lỗi lạc Martin Feldstein (Đại học Harvard) từng nhìn thấy sự lỏng lẻo trong cấu trúc như vậy và dự báo rằng một đơn vị tiền tệ duy nhất với châu Âu sẽ không mang lại sự hợp nhất tốt hơn mà chỉ là xung đột. Người ta đã thấy sự xung đột đó thể hiện như thế nào khi EU lừng khừng trong việc cứu Hy Lạp. “Liên minh châu Âu luôn chạy sau sự kiện” – nhận xét tóm tắt của Anne-Marie Le Gloannec, nhà khoa học chính trị thuộc Institut d’Études Politiques (Paris)…

Euro sẽ biến mất?

Số phận euro rồi như thế nào? “Tôi cho rằng sẽ có khả năng chúng ta thấy đồng euro biến mất trong vài năm nữa, hay ít nhất nó sẽ được sử dụng giới hạn ở Pháp, Đức và vài nước khác” – đánh giá (cách đây ba năm!) của Bob Hancké, chuyên gia kinh tế chính trị châu Âu thuộc Trường kinh tế London – “Cốt lõi vấn đề ở chỗ, liên minh tiền tệ chưa bao giờ hòa nhịp với liên minh chính trị để tạo ra sự liên kết ăn ý với các vấn đề liên quan ngân sách và thuế má, cũng như tạo ra các thể chế tài chính cho Eurozone, cùng khả năng giúp các nền kinh tế thành viên thích ứng với những thay đổi và xáo trộn”. Lấy ví dụ trường hợp Hy Lạp. Gốc rễ của vấn đề khủng hoảng nợ Hy Lạp nằm ở chỗ hệ thống thuế và khu vực công. Tại một quốc gia có 11 triệu người như nước này, có đến gần 850.000 người làm tại các cơ quan nhà nước – có nghĩa họ được hưởng 14 tháng lương chứ không phải 12 – và nhiều người trong số đó cứ đủng đỉnh đi làm “cho vui” từ 7g30 sáng đến 2g30 chiều. Cho nên, không thay đổi cấu trúc với công thức định dạng lại chi tiết mô hình cho phát triển từng quốc gia, việc bơm tiền cho Hy Lạp hay Eurozone nói chung cũng chỉ là giải pháp nhất thời. Chuyên gia kinh tế Albert Edwards (thuộc Société Générale) nhấn mạnh: “Bất kỳ sự trợ giúp nào cho Hy Lạp cũng chỉ là động thái câu giờ nhằm trì hoãn sự tan vỡ không thể tránh khỏi của Eurozone”. Lời cảnh báo trên cũng được lập lại từ Mats Persson, giám đốc tổ chức nghiên cứu độc lập Open Europe, với nhận định: “Eurozone đang đối mặt một cuộc khủng hoảng toàn diện. Tấn tuồng Hy Lạp đã cho thấy rõ một cách đau đớn rằng dự án euro đã được tung ra với nhiều sai sót như thế nào ngay từ ban đầu”.
Vài ý kiến cho rằng việc “đào thoát” khỏi Eurozone (17 thành viên) là một chọn lựa thực tế đối với bất kỳ nước nào lỡ “dính chân” vào khu vực này, tất nhiên trong đó có Hy Lạp. Justin Urquhart Stewart, giám đốc kiêm đồng sáng lập doanh nghiệp quản lý đầu tư Seven Investment Management (Anh), đề xuất ý tưởng một sự phối hợp gồm “euro nòng cốt” và “euro hạng nhẹ”. “Euro nòng cốt” được duy trì tại các nước chẳng hạn Đức và Pháp trong khi “euro hạng nhẹ” có thể được sử dụng như là sự chọn lựa thứ hai bên cạnh đồng tiền riêng của quốc gia đó… Câu chuyện euro cho thấy thêm rằng việc tìm một đơn vị tiền tệ đủ mạnh để thay thế đôla Mỹ vẫn còn là điều không tưởng, ít nhất ở thời điểm hiện tại; và bất kỳ ý tưởng nào nghĩ đến việc phế truất USD cũng cho thấy đó chỉ là một thể hiện của sự suy nghĩ không chín chắn, thiếu thận trọng, không cơ sở và hoàn toàn mang tính duy ý chí hoặc chỉ cho thấy tham vọng chính trị cá nhân của một số nhà lãnh đạo!
Cùng đồng nghiệp Arnab Das, Nouriel Roubini – một trong những kinh tế gia dự báo cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới hiện tại – đã viết trên Financial Times rằng, trừ phi châu Âu thống nhất được những điều luật chính thức để giải quyết các vấn đề nội bộ liên quan tài chính của từng thành viên, sự ổn định của liên minh tiền tệ sẽ tiếp tục bị đe dọa và sức mạnh kinh tế EU tiếp tục bị ăn mòn. Tuy nhiên, trước mắt, một tiếng nói chung vẫn còn chưa được nghe ở một liên minh chung EU. Trong diễn văn đầu tiên với tư cách chủ tịch Ngân hàng trung ương châu Âu vào ngày 18-11-2011, Mario Draghi (nguyên chủ tịch Ngân hàng trung ương Ý) đã chỉ trích sự chậm chạp của giới lãnh đạo chính trị trong việc đưa ra kịch bản thoát nợ, rằng ECB sẽ không dại dột và liều lĩnh chi tiền để cứu các nước đang lún nợ, rằng Đức và Pháp cứ tranh thủ choảng nhau để giành giật quyền lợi chính trị hơn là cùng bắt tay nhau để cứu EU (Đức phản đối đề nghị Pháp dùng ECB làm “căn cứ hậu phương” cuối cùng để hỗ trợ chiến dịch giải cứu cho một tình huống khẩn cấp). Trong khi đó, nhận định về tương lai euro cũng như EU, Thủ tướng Phần Lan Jyrki Katainen nói rằng châu Âu đã cạn sạch ý tưởng điều chỉnh vụ khủng hoảng nợ; bây giờ tất cả chỉ còn tùy thuộc khả năng Ý và Hy Lạp thuyết phục được thị trường rằng họ có thể thực hiện tốt chính sách “ăn mắm mút giòi” để vượt qua thời khắc đầy cam go...
Mạnh Kim
________________
* Không lâu sau khi đắc cử, Thủ tướng Đức Gerhard Schröder (nhiệm kỳ 1998-2005) từng cảnh báo, rằng đồng euro chỉ là một đứa bé “sinh non èo uột”. Trước đó, năm 1992, 62 giáo sư Đức cũng cùng đưa ra một nhắc nhở, nhấn mạnh rằng liên minh tiền tệ chung theo cách như nó được cấu trúc sẽ dẫn đến những “xáo trộn kinh tế cho các nước Tây Âu mà trong tương lai gần sẽ đưa đến một thử thách hắc ám về mặt chính trị”.
* 12 quốc gia đầu tiên trong Eurozone bị nợ tổng cộng hơn 600 tỉ euro trong 5 năm chuẩn bị cho sự ra mắt đồng euro. Đến cuối năm 2002, họ nợ tổng cộng 4,9 ngàn tỉ euro với chỉ riêng Ý là 1,3 ngàn tỉ euro! (Der Spiegel, 5-10-2011)


Tổng số lượt xem trang