Thứ Bảy, 24 tháng 12, 2011

Bác bỏ mấy nhận xét sai lầm về Đại tướng Võ Nguyên Giáp

Đại tướng Võ Nguyên Giáp có vai trò lớn trong lịch sử Việt Nam-Nguồn:Phản biện quan trọng: Bác bỏ mấy nhận xét sai lầm về Đại tướng Võ Nguyên Giáp (viet-studies 23-12-11) -- Trần Trọng Trung phản biện Phạm Cao Dương ◄◄◄

Ngày 14 tháng 7 năm 2010 đài BBC (Anh) đã truyền đi và mới đây, ngày 26 tháng 8 năm 2011 phát lại bài của giáo sư sử học Phạm Cao Dương – California, Hoa Kỳ – nhan đề Một vài câu hỏi về tướng Giáp[1]. Gọi là “câu hỏi”, nhưng thực ra nhiều điều đã được GS khẳng định. Tuy nhiên, sự khẳng định đó hoặc dựa trên suy luận và định kiến với cái gọi là “chính quyền cộng sản” nói chung, với cá nhân Võ Nguyên Giáp nói riêng, hoặc dựa vào tài liệu của những người đối lập với chính quyền cách mạng hồi đó (như Jean Sainteny, Nguyễn Xuân Chữ, Nguyễn Tường Bách…), cho nên rất nhiều trường hợp GS đã tỏ ra thiếu hẳn tính khách quan khi đánh giá một sự kiện hay một nhân vật lịch sử.
Chỉ xin nêu mấy ví dụ:

1. Về thời trẻ của ông Võ Nguyên Giáp, GS Dương đã dựa vào ý kiến “có người nói” và suy diễn rằng “do thi để ra làm tri huyện nhưng bị rớt, mộng làm quan không thành” nên ông Giáp “đã dứt khoát quyết định từ bỏ tất cả (để) theo cộng sản…cùng với Phạm Văn Đồng sang Trung Quốc vào năm 1940, mở đầu một giai đoạn mới trong đời mình”. Như vậy là GS không biết gì về những hoạt động của ông Giáp trước khi ra Hà Nội, từ những ngày còn là học sinh trường Quốc học Huế, việc tham gia thành lập Tân Việt cách mạng đảng đến những ngày bị giam cầm trong nhà lao Thừa Phủ v.v…
2. Về mặt học thuật, có đoạn GS viết: “Biến cố 19 tháng 8 hay Việt Minh cướp chính quyền, mà nhiều người thận trọng không muốn gọi là Cách mạng, sau ngày 2 tháng 9 đã chấm dứt và một cuộc cách mạng đã thật sự bắt đầu, qua sự bãi bỏ và thay thế trong tổ chức và trong mọi sinh hoạt thuộc phạm vi hành chính…”. Vậy sự kiện 19 tháng 8 có được GS Dương gọi là một cuộc cách mạng không? Chắc GS thừa hiểu, ngay những cuốn từ điển sơ đẳng nhất của nước ngoài cũng định nghĩa rõ nội dung từ “cách mạng” là gì. Ví dụ: Từ điển Chambers Pocket dictionary định nghĩa: Revolution: The complete overthrowing of a government. Từ điển Larousse des débutants định nghĩa: Révolution: Changement violent dans le gouvernement d’un Etat. Những nội dung được định nghĩa trên đây hoàn toàn phù hợp với những gì đã diễn ra trong cái mà GS gọi là “biến cố 19 tháng 8”: toàn dân nổi dậy dùng bạo lựclật đổ hoàn tòan chế độ cũ, lập chính quyền mới do mình làm chủ.
3. Người đọc rất đỗi ngạc nhiên trước những nhận định hết sức kỳ lạ của GS Dương về vai trò của Pháp ở Đông Dương sau Cách mạng tháng Tám. Ví dụ như ở Nam Kỳ (GS dùng từNam Kỳ thay vì Nam Bộ), ông viết: “Riêng ở Nam Kỳ, mặc dù cho tới thời điểm này (tức cuối năm 1946 – TG) vẫn còn là thuộc địa của Pháp và đương nhiên là vẫn do người Pháp quản trị và chịu trách nhiệm”Từ nhận định trên, dẫn đến phê phán mọi hoạt động kháng chiến của phía Việt Nam là những việc “không thể nói là không vi phạm trầm trọng chủ quyền của người Pháp ở Nam Kỳ”. Như vậy, phải chăng GS Dương không biết gì hoặc cố tình không công nhận những thực tế lịch sử về “vai trò của Pháp” trên bán đảo Đông Dương trong những năm 1940 – 1945, trong đó có những mốc quan trọng là tháng 9 năm 1940 -- Nhật vào Đông Dương, tháng 3 năm 1945 -- Nhật đảo chính lật đổ nền thống trị của Pháp và nhất là những sự kiện trong và sau tháng 8 năm 1945? Nếu Nam Kỳ vẫn còn là thuộc địa của Pháp” thì sao có chỗ GS lại viết rằng quân Pháp theo chân quân Anh trở lại (để tái chiếm) xứ Nam Kỳ, vì sao Jean Cédile (“ủy viên cộng hòa” vừa được máy bay Hoàng gia Anh lén lút ném xuống Tây Ninh) phải đến gặp đại diện chính quyền Nam Bộ là ông Trần Văn Giầu để “thương thuyết”, trong khi ở ngoài Bắc, phái viên của Pháp là Jean Sainteny (bám càng máy bay của thiếu tá Mỹ Archimedes Patti từ Côn Minh sang và hạ cánh xuống sân bay Gia Lâm) lại phải xin gặp đại diện Chính phủ Việt Nam ở Hà Nội? v.v…
Bỏ qua rất nhiều chi tiết bị đánh giá sai lệch như trên, người viết bài này chỉ tập trung nói lại một số vấn đề quan trọng liên quan đến ông Võ Nguyên Giáp trong 16 tháng đầu của chính quyền cách mạng (2 tháng 9.1945 – 19 tháng 12. 1946). Cụ thể là: (1) Là Bộ trưởng Nội vụ, tại sao ông Giáp lại “lấn sân” sang công tác đối ngoại? (2) Việc tiêu diệt các đảng phái chống đối chính quyền sau Cách mạng tháng Tám; (3) Cuộc kháng chiến bùng nổ cuối năm 1946 có phải là do tham vọng chủ chiến của cá nhân Võ Nguyên Giáp?

1. Về việc ông Võ Nguyên Giáp “lấn sân” sang công tác ngoại giao: 
Vấn đề GS Dương đặt ra là vì sao ông Giáp -- với tư cách là Bộ trưởng Nội vụ trong Chính phủ lâm thời lại đóng vai trò chính yếu trong việc đón tiếp các nhân vật quan trọng của các nước (Archimedes Patti của phái bộ OSS Mỹ, Jean Sainteny và đại tướng Leclerc) trước khi những nhân vật này được Hồ Chí Minh tiếp kiến,“thay vì công việc đó được giao cho các công chức cao cấp khác của Bộ ngoại giao dưới quyền trực tiếp của Cụ Hồ ở bộ này theo thủ tục thông thường”. Sau đó, trong việc điều đình với người Pháp ở Hà Nội, Đà Lạt và Hải Phòng, vì sao ông Giáp cũng đóng vai trò chủ chốt.
Rồi GS suy diễn:“Điều này dễ hiểu… vì những người làm ở Bộ Ngoại giao thời đó đều có gốc là những công chức cao cấp thời Pháp, giỏi tiếng Pháp hay có thể cả tiếng Anh, quen tiếp xúc với người Pháp nhưng không được tin cậy và không phải là đảng viên cộng sản”.
Một trong những câu hỏi vì sao của GS Dương đã được chính ông giải đáp, khi ông viết:“Trong những cuộc gặp gỡ này, tướng Giáp đã tỏ ra rất thông thạo tiếng Pháp, tự tin và có khả năng thuyết phục được các đối phương của mình. Điển hình là cuộc tiếp xúc đầu tiên với Sainteny có sự hiện diện của Patti và được Patti kể lại”. Như vậy là GS Dương đã công nhận một thực tế là: do lập trường, bản lĩnh và nghệ thuật đối ngoại của ông Giáp nên nhiều lần ông được Cụ Hồ tin cậy cử đi đại diện cho Chính phủ Việt Nam .
Nhưng ngay sau đó, một câu hỏi khác lại được GS Dương đặt ra:“Với khả năng và kinh nghiệm mới đạt được thêm như vậy, tại sao Võ Nguyên Giáp đã không lãnh hay không được cử hướng dẫn phái đoàn Việt Nam di đự hội nghị Fontainebleau mà lại là ông Phạm Văn Đồng”, một người mà – theo suy luận của GS Dương -- “cho đến thời điểm đó vẫn còn là một nhân vật vô danh, còn về khả năng thì thua ông Giáp.
Người viết thấy cần góp thêm một số ý kiến để cùng GS Dương làm sáng tỏ vấn đề hơn:
1. Không có cơ sở để nói ông Giáp “thích lấn sân” sang công tác ngoại giao. Một dẫn chứng là lần được Cụ Hồ giao nhiệm vụ đi gặp Philippe Leclerc khi viên tướng Tổng chỉ huy Pháp vừa ra Bắc sau Hiệp định sơ bộ và đề nghị được gặp đại diện Chính phủ Việt Nam. Khi nghe ông Giáp đề cử ông Hoàng Hữu Nam đi thay, Cụ Hồ trả lời: “Chú làm chính trị không phải việc nào thích mới làm. Đại diện Chính phủ ta, phải là chú”. 
2. GS Dương cho rằng những người trước đây là công chức của Pháp hoặc không phải là đảng viên cộng sản thì không được tin cậy trong công tác đối ngoại. Điều suy diễn đó không đúng với sự thật lịch sử. Một dẫn chứng rõ nét là thành phần phái đoàn Chính phủ đi hội nghị trù bị Đà Lạt. Trưởng phái đoàn là Nguyễn Tường Tam (thuộc đảng Đại Việt dân chính), lúc này là Bộ trưởng Ngoại giao. Một số thành viên khác của phái đoàn đi Đà Lạt như Vũ Hồng Khanh (một trong những người cầm đầu Việt Nam quốc dân đảng), hay các ông Hoàng Xuân Hãn (người đã từng có quan hệ với các tướng chỉ huy quân Pháp như Mordant, Aymé hồi trước Cách mạng tháng Tám), Nguyễn Mạnh Tường, Cù Huy Cận… Ngoài ra còn một số thành viên là cố vấn của phái đoàn Đà Lạt như các ông Phạm Khắc Hòe (nguyên Đổng lý văn phòng của Bảo Đại), Phan Phác (cựu sĩ quan trong quân đội Pháp), Tạ Quang Bửu, Hồ Hữu Tường v.v… Tất cả các vị này đâu phải là đảng viên cộng sản?
Trường hợp phái đoàn đi hội nghị Fontainebleau cũng vậy. Ban đầu, Chủ tịch Hồ Chí Minh cử Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Tường Tam làm Trưởng đoàn, Phạm Văn Đồng làm Phó trưởng đoàn. Nhưng do Nguyễn Tường Tam cáo bệnh nên mãi gần đến ngày lên đường – ngày 30 tháng 5 năm 1946 – Chủ tịch Hồ Chí Minh mới ký sắc lệnh cử ông Phạm Văn Đồng làm Trưởng đoàn. Thành phần phái đoàn đi Pháp không chỉ gồm rất nhiều thành viên không phải là đảng viên cộng sản (Phan Anh, Vũ Văn Hiền, Nguyễn Văn Huyên, Tạ Quang Bửu, Bửu Hội, Nguyễn Mạnh Hà, Phạm Khắc Hòe…) mà còn cả những đảng viên các đảng đối lập như Chu Bá Phượng, Vũ Trọng Khánh … 
3. GS Dương đã tự mâu thuẫn khi phê phán ông Giáp “lấn sân” ngoại giao, nhưng rồi lại hỏi vì sao ông Giáp không cầm đầu phái đoàn đi Pháp. Theo GS suy luận thì ông Giáp ở lại chuẩn bị chiến tranh với giấc mơ “trở thành Napoléon của châu Á”.
 Kết quả hội nghị Đà Lạt đã góp phần làm rõ thêm mưu đồ đen tối của thực dân Pháp. Bởi vậy, trong khi Bộ trưởng và Thứ trưởng Quốc phòng (Phan Anh và Tạ Quang Bửu) sang Pháp thì ông Giáp “ở nhà” để chỉ đạo chuẩn bị kháng chiến là đúng với cương vị Chủ tịch Kháng chiến ủy viên hội. Một lần nữa thực tế lại chứng minh lòng tin của Cụ Hồ đối với ông Giáp khi giao nhiệm vụ “ở nhà” cùng Cụ Huỳnh Thúc Kháng -- Quyền Chủ tịch -- quản lý đất nước. Chẳng thế mà khi máy bay đưa phái đoàn lên đường sang Pháp vừa cất cánh, Cụ Hồ gợi ý mọi người nhớ lại chuyến đi Đà Lạt vừa qua và nói: “Lên đường lần này, các chú có câu Kiều lẩy nào không?”, Bộ trưởng Phan Anh liền ứng khẩu: “Trời mây muôn dặm xa khơi / Sao cho trong ấm thì ngoài mới êm”. Cụ Hồ hiểu tâm tư các thành viên phái đoàn đi Pháp lo lắng cho tình hình “ở nhà” (phía Pháp có thể tiếp tục vi phạm Hiệp định sơ bộ, các đảng phái đối lập có thể tiếp tục chống phá…), nên Cụ nói ngay: “Các chú cứ yên tâm. Mọi việc ở nhà đã có Cụ Huỳnh với chú Giáp”.

2. Về việc ông Giáp chỉ đạo tiêu diệt các lực lượng chống đối cách mạng: 
Trước khi nói về cái mà GS Dương gọi là “diệt trừ đối lập đã đạt tới cao điểm của nó vào tháng 7 năm 1946”, cần khách quan phân tích những người cầm đầu hai tổ chức Việt Nam Quốc dân đảng (Việt quốc) và Việt Nam Cách mạng đồng minh hội (Việt cách) là ai, mục tiêu chính trị của họ khi theo quân Tưởng về nước là gì?
 Nghiên cứu các văn kiện của Quốc dân đảng Trung Hoa về chủ trương “Hoa quân nhập Việt” và thực tế những hành động chống phá của Việt quốc, Việt cách (nhất là ở thủ đô Hà Nội cả trước và sau khi họ tham gia Chính phủ liên hiệp), một điều có thể khẳng định: Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh, Chu Bá Phượng… chỉ là công cụ trong tay của Tưởng Giới Thạch trong mưu đồ “diệt Cộng – cầm Hồ”. Đó là mưu đồ lật đổ chính quyền cách mạng rồi dùng các “chính khách” này tổ chức ra một chính quyền thân Trung Hoa dân quốc. Sau khi mưu đồ đó bất thành và trên cơ sở đã ngã giá với tướng lĩnh Pháp, Tưởng Giới Thạch buộc phải rút quân về nước. Khi những người cầm đầu Việt quốc và Việt cách đã theo quân Tưởng chạy sang bên kia biên giới, một số tàn dư của các đảng phái này ở lại đã sớm thay thày đổi chủ, tiếp tay cho Pháp để chống phá chính quyền cách mạng.
 Trong bài viết của mình, dưới góc nhìn kỳ thị và thiên lệch, GS Dương đã dẫn ra sự kiện Ôn Như Hầu và xuyên tạc vai trò của Cụ Huỳnh Thúc Kháng và ông Võ Nguyên Giáp trong việc xử lý sự kiện này..
Thứ nhất, GS Dương chỉ nói về “tất cả các trụ sở chính của Việt Nam Quốc dân đảng ở Hà Nội đã bị công an bao vây, lục soát, đặc biệt là trụ sở ở đường Ôn Như Hầu. Tại những nơi đó tất cả các đảng viên của đảng này đã bị bắt và mang đi mất tích”. Sao GS không nói vì sao công an phải làm như vậy và những tang chứng (truyền đơn, vũ khí, dụng cụ tra tấn…) tìm thấy tại phố Ôn Như Hầu (và nhiều nơi khác trong thành phố Hà Nội) đã nói lên điều gì? Tang chứng và những lời thú tội của bọn bị bắt cho thấy một thực tế là, nhân lúc Cụ Hồ đang ở bên Pháp, tàn dư của Việt Nam quốc dân đảng gấp rút chuẩn bị tiếp tay cho quân Pháp thực hiện âm mưu đảo chính lật đổ chính quyền trung ương ở Hà Nội đúng vào ngày quốc khánh của Pháp. Đây là mưu đồ của Etienne Valluy định triển khai ngay sau khi y vừa thay thế Philippe Leclerc nắm quyền tổng chi huy quân viễn chinh Pháp. Sao GS không nói đến một thực tế khác là khi lực lượng an ninh đến khám trụ sở của Việt Nam quốc dân đảng ở đường Quán Thánh thì quân Pháp đưa xe bọc thép đến hòng giải thoát cho bọn này và Pháp chỉ chịu lui quân sau khi Ủy ban Liên kiểm đến can thiệp. Và một thực tế nữa là, trong những xác bị bọn Quốc dân đảng thủ tiêu và chôn ngay trong vườn trụ sở của chúng, có không ít xác binh lính Pháp. Qua những tài liệu mà an ninh tịch thu được, bọn chúng có cả một kế hoạch ám sát và bắt cóc sĩ quan và binh lính Pháp, trẻ con và phụ nữ Pháp kiều, hòng tạo thêm những chuyện rắc rối trong quan hệ giữa ta và Pháp, giúp quân Pháp có cớ để gây hấn.
Thứ hai, GS Dương nêu vấn đề: Câu hỏi được đặt ra là vào thời điểm này Chính phủ liên hiệp vẫn còn và Võ Nguyên Giáp không còn là bộ trưởng Nội vụ nữa, vậy với tư cách gì ông đã đến hiện trường (ý nói phố Ôn Như Hầu – TG) rồi lại còn mang theo cả Huỳnh Thúc Kháng nữa? Sự thật là trước khi cùng phái đoàn lên đường sang Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh (số  82, ngày 29 tháng 5 năm 1946) ủy nhiệm Cụ Huỳnh Thúc Kháng  -- Bộ trưởng Nội vụ -- thay Chủ tịch Chính phủ ký những công văn thường ngày và chủ tọa Hội đồng Chính phủ; ủy nhiệm các ông Võ Nguyên Giáp và Vũ Hồng Khanh (Chủ tịch và Phó chủ tịch Kháng chiến ủy viên hội) tạm thay các ông Phan Anh và Tạ Quang Bửu (Bộ trưởng và Thứ trưởng Quốc phòng) đi vắng, giúp Cụ Huỳnh quản lý đất nước, nhất là về mặt an ninh quốc phòng. Trước khi quyết định tiêu diệt sào huyệt của Quốc dân đảng ở phố Ôn Như Hầu, ông Giáp đã báo cáo Cụ Huỳnh và sau đó đã mời Cụ đến chứng kiến hiện trường.
Thứ basao GS không nói đến những ý kiến của Cụ Huỳnh trong cuộc họp báo mấy ngày sau đó để rõ nguyên nhân và bản chất của sự việc? Cụ Huỳnh nói: “Đoàn kết là cần… nhưng không thể vin vào “đoàn kết” mà làm những điều phi pháp…Những kẻ bắt cóc, tống tiền, ám sát thì phải bị pháp luật nghiêm trị… Đây không phải là vấn đề đảng phái mà là việc cần làm để bảo vệ trị an…”. Thêm nữa, sao GS không nói đến nội dung hai công điện của lãnh sự Mỹ James L. O’Sullivan gửi Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ các ngày 1 và 26 tháng 7 nói rằng, trong điều kiện chính trị - xã hội Việt Nam lúc này, việc làm đó của Chính phủ Việt Nam là tất yếu?
 Sau cái mà GS Dương gọi là “vụ Ôn Như Hầu”, ông còn lên án việc “quân đội của ông Giáp càn quét các căn cứ của Việt Nam quốc dân đảng ở miền đỉnh châu thổ sông Hồng, đặc biệt là vùng Việt Trì và tất nhiên là ở Hà Nội”. Vấn đề đặt ra là: trong bối cảnh cuộc đàm phán Fontainebleau đang đứng trước nguy cơ tan vỡ và trước những hành động lấn tới ngày càng trắng trợn của quân Pháp khiến cho khả năng hòa hoãn Việt - Pháp ngày càng giảm, trên cương vị Chủ tịch Kháng chiến ủy viên hội (từ 2.3.1946) rồi Bộ trưởng Quốc phòng kiêm Tổng chỉ huy quân đội (từ 30.11.1946), ông Võ Nguyên Giáp phải làm gì để chỉ đạo toàn quân toàn dân bước vào cuộc kháng chiến toàn quốc? Cùng với hàng loạt công tác chuẩn bị khác, việc tiêu diệt tàn dư các đảng phái đối lập (khi đó đã công khai trở thành tay sai của Pháp, mà điển hình là lực lượng vũ trang của Đỗ Đình Đạo ở Vính Yên - Việt Trì) là chuyện bình thường, tất yếu. Có diệt thù trong mới ổn định hậu phương để chống giặc ngoài. 

3. Về việc ông Giáp chỉ đạo chuẩn bị bước vào toàn quốc kháng chiến: 
Chung quanh vấn đề này, do nhận thức hạn chế về chế độ quyết định tập thể của bộ máy lãnh đạo kháng chiến, do không tiếp cận được thông tin nhiều chiều về thực tế tình hình đất nước trong những thời điểm nhậy cảm, nhất là vào những ngày nóng bỏng cuối năm 1946, lại do thiên kiến đối với cá nhân ông Võ Nguyên Giáp, cho nên GS Phạm Cao Dương đã không phản ánh đúng thực tế lịch sử..
  GS Dương đặt vấn đề: Liệu Võ Nguyên Giáp có phải là người gây ra chiến tranh Việt-Pháp khi mà “trong những ngày tháng cuối cùng trước khi cuộc chiến bùng nổ, Hồ Chí Minh đi Pháp, không có mặt ở nhà”.
GS Dương đã nhầm lẫn về thời gian: Chiến sự chỉ nổ ra toàn quốc sau khi Cụ Hồ đã từ Pháp về nước được hai tháng (20 tháng 10 – 19 tháng 12). Mặt khác, GS đã dựa vào sách của Sainteny để nói rằng khi từ Pháp về, Cụ Hồ bị đau ốm, nằm một chỗ, để rồi suy diễn:“Đây là một dịp rất tốt để ông (Võ Nguyên Giáp) từng bước thực hiện giấc mơ làm một Nã-Phá-Luân của châu Á, vì theo GS Dương, vào thời điểm này, “Võ Nguyên Giáp đã đóng vai trò chính yếu, quyết định tất cả. Huỳnh Thúc Kháng -- quyền Chủ tịch  -- chỉ là để ký giấy tờ”. 
Có vài chi tiết quan trọng liên quan đến Cụ Hồ và Cụ Huỳnh cần được làm rõ. Khi nổ ra kháng chiến toàn quốc, Cụ Huỳnh đi công cán Nam Trung Bộ, không có mặt ở Hà Nội. Về sức khỏe của Cụ Hồ lúc này – nội dung Sainteny viết trong Một nền hòa bình bị bỏ lỡ (Histoire d’une paix manquée) -- khác với những gì GS Dương viết lại. Sainteny kể rằng ngày 3 tháng 12 năm 1946, sau khi từ Pháp trở lại Đông Dương, ông ta đến thăm Cụ Hồ và “tôi (Sainteny) thấy ông Hồ Chí Minh nằm ở giường, mắt ông sáng, đôi tay ông hầm hập sốt nắm lấy tay tôi…”.Chính vì điều kiện sức khỏe cho phép, cho nên Cụ Hồ đã (với sự có mặt của các ông Hoàng Hữu Nam và Hoàng Minh Giám) cùng Sainteny trao đổi ý kiến về tình hình thời cuộc lúc này đang diễn biến hết sức khẩn trương. Và cũng chính vì điều kiện sức khỏe cho phép nên ngay chiều hôm đó (3.12.1946), Cụ đã chuyển chỗ ở và làm việc vào làng Vạn Phúc - Hà Đông.
Cần nói thêm rằng, nếu có điều kiện đọc Hồ Chí Minh -  Biên niên tiêủ sử thì GS Dương có thể thấy những hoạt động không mệt mỏi của Cụ Hồ trong suốt hai tháng từ khi ở Pháp về nước đến ngày toàn quốc kháng chiến, nhằm cố gắng gạn chắt và duy trì những khả năng hòa hoãn nhỏ nhất, không để nổ ra xung đột toàn cục. Sự cố gắng của Cụ Hồ chỉ dừng lại chiều ngày 19 tháng 12. Đó là thời điểm Cụ được ông Hoàng Minh Giám báo cáo rằng Sainteny từ chối không tiếp nhận bức thư của Cụ -- đề nghị cùng ông Giám trao đổi tìm biện pháp nhằm cứu vãn tình thế. Chỉ đến lúc đó, Cụ mới hạ quyết tâm cuối cùng: Hừ! Thì đánh!. Đó cũng là thời điểm mà Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh được tập thể Thường vụ Trung ương Đảng góp ý kiến và thông qua.
Thực tế đó đủ để trả lời câu hỏi của GS Dương nói rằng “Có phải Hồ Chí Minh lúc đó không muốn hay chưa muốn chiến tranh trong khi Võ Nguyên Giáp và phe nhóm của ông đang ở một tình thế vô cùng thuận lợi có thể giúp ông đạt được mong ước của mình, bó qua sẽ không bao giờ có được”.
Thực tế đó còn cho thấy quyết định phát động kháng chiến toàn quốc là kết quả thảo luận và thống nhất giữa tập thể cấp lãnh đạo cao nhất, chứ không phải do cá nhân Võ Nguyên Giáp quyết định. Và dù đã có quyết định của tập thể, sáng ngày 19 tháng 12, Cụ Hồ vẫn cử ông Hoàng Minh Giám đem thư đến gặp Sainteny, nhưng ông này đã từ chối và hẹn ngày hôm sau --tức 20 tháng 12 -- ngày mà (theo tối hậu thư) “quân Pháp sẽ chuyển sang hoạt động”.
Rõ ràng là, đối với cá nhân ông Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp, GS Phạm Cao Dương đã dựa vào (và thậm chí có chỗ xuyên tạc) sách của Sainteny để bao che cho hành động lấn tới của quân Pháp và cho rằng mọi chuyện xảy ra trong ngày 19 tháng 12 năm 1946 đều bắt nguồn từ“bản chất hiếu chiến” của Võ Nguyên Giáp. GS không nhận thức được rằng tình thế lúc này đòi hỏi phải khẩn trương chuẩn bị cho cả nước sẵn sàng chuyển sang thời chiến. Những việc làm của ông Giáp trong những ngày cuối năm 1946 đều thuộc chức năng nhiệm vụ mà người cầm quân phải triển khai sau khi có nghị quyết quân sự toàn quốc (19.10.1946), với kết luận có tính khẳng định: “Không sớm thì muộn, Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh Pháp”. Công việc chuẩn bị chiến đấu của Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp đâu phải nguồn từ “giấc mơ làm một Nã-phá-luân châu Á” như GS Dương nhận định.
Thiết nghĩ, với trình độ hiểu biết của một thày giáo dạy sử ở cấp Đại học, nếu có một phong cách khoa học, công tâm, khách quan, nếu đứng trên lập trường quốc gia dân tộc, ắt GS Phạm Cao Dương có thể tránh được những nhận xét thiếu chính xác, không có lợi cho yêu cầu hòa hợp dân tộc lúc này, khi mà cuộc chiến 30 năm đã lui sâu vào quá khứ./.

 


[1Theo giới thiệu của BBC, GS Dương nhận bằng tiến sĩ sử học ở Đại học Paris, trước năm 1975 đã từng dạy ở nhiều đại học Sài Gòn. Sau khi sang Mỹ, ông dạy môn lịch sử và ngôn ngữ Việt Nam ở một số trường tại Nam California, trước khi về hưu.
Các chữ in nghiêng trong bài này là nhắc lại lời của GS Phạm Cao Dương. Những từ in nghiêng đậm nét là do tác giả bài này nhấn mạnh ý của GS Dương.

 Tác giả gửi cho viet-studies ngày 23-12-11


--http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/2010/07/100714_vo_nguyen_giap_pcduong_forum.shtml?print=1

Một vài câu hỏi về Tướng Giáp


Đại tướng Võ Nguyên Giáp có vai trò lớn trong lịch sử Việt Nam
Tướng Giáp sinh năm 1911, năm nay 99 tuổi. Ông đã vượt xa tuổi cổ lai hy và sẽ đạt tuổi một trăm trong vòng một năm nữa, hay đã đạt rồi tùy theo cách tính tuổi ta hay tuổi tây, một tuổi rất hiếm người thường có thể đạt được.
Mục tiêu chính của tôi là nhân dịp này nhận định rõ hơn về vai trò và sự đóng góp vô cùng quan trọng của Võ Nguyên Giáp trong lịch sử Việt Nam thời giữa thế kỷ trước.
Đặc biệt là trong sự thiết lập và củng cố chính quyền Cộng Sản Việt Nam, trong những năm đầu của chính quyền này cũng như vai trò của ông trong việc diệt trừ các đảng phái đối lập và việc đưa đất nước và dân tộc Việt Nam đến cuộc chiến tranh kéo dài cả ba chục năm trời với hàng triệu người thương vong.
Tôi không đề cập ở đây tới sự nghiệp quân sự của Võ Nguyên Giáp như một danh tướng của Cộng Sản Việt Nam, mà còn là của thế giới, một đề tài đã được quá nhiều người, Việt Nam cũng như ngoại quốc viết, đồng thời chính ông cũng đã viết dù là tự tay hay qua các thuộc cấp.
Sự nghiệp quân sự này đã che lấp những công lao khác mà ông đã đóng góp cho Đảng Cộng Sản Việt Nam trong những năm bốn mươi của lịch sử đảng này.
Do đó, tôi sẽ chú trọng vào những năm đầu của thời kỳ cầm quyền của ông với tư cách là Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ trong Chính Phủ Lâm Thời của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa của Hồ Chí Minh.
Và sau đó là Chủ Tịch Quân Sự Ủy Viên Hội trong Chính Phủ Liên Hiệp Quốc Gia với Hồ Chí Minh làm Chủ Tịch và Nguyễn Hải Thần làm Phó Chủ Tịch sau đó là Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng trong Chính Phủ Cải Tổ tháng 11 năm 1946.
Đây là khoảng thời gian ít được người ta chú ý nhưng vô cùng quan trọng vì nó tương xứng với thời kỳ đầu của chế độ Cộng Sản ở Việt Nam trước và sau khi Việt Minh cướp được chính quyền.
Trong thời gian này Võ Nguyên Giáp đã đóng vai trò then chốt trong nhiều sinh hoạt khác nhau, từ chính trị, hành chánh đến an ninh, quân sự và luôn cả ngoại giao.
Không có ông, Việt Minh khó có thể giữ được chính quyền sau ngày 19 tháng 8 năm 1945 và không có ông chưa chắc cuộc chiến Đông Dương Lần Thứ Nhất đã xảy ra.

Tên tuổi tướng Giáp gắn liền với chiến thắng Điện Biên Phủ
'Những cuộn dây thừng'
Trước hết là thời gian trước khi Việt Minh cướp chính quyền, theo ngôn ngữ của người Việt Quốc Gia, hay trước ngày khởi nghĩa, theo ngôn ngữ của người Cộng Sản.
Võ Nguyên Giáp là người đã xây dựng nên những đội tự vệ ở các xã miền núi hay những đội võ trang tuyên truyền đầu tiên của Việt Minh sau đó.
Câu hỏi được đặt ra là tại sao lại võ trang? Võ trang để chống Nhật hay chống Pháp hay võ trang để khủng bố tinh thần của những người Việt Nam, đối tượng chính của công tác tuyên truyền, để bắt buộc họ phải theo Việt Minh, nếu không thì sẽ bị bắt trói và “beng đầu”?
Mục tiêu thứ ba đã được nhiều người coi là chính vì chuyện dọa dẫm, ám sát, bắt cóc, thủ tiêu… đã xảy ra rất nhiều và đã được Bác Sĩ Nguyễn Xuân Chữ, người được coi là đã thay thế Khâm Sai Phan Kế Toại ngày Việt Minh cướp chính quyền ở Hà Nội, nói tới như là một trong những nguyên nhân của sự thành công của Việt Minh trong biến cố 19 tháng 8 năm 1945.
Nó cũng được Nguyễn Tường Bách kể lại trong hồi ký của ông này qua lời đe dọa mà Dương Đức Hiền thuộc Đảng Đân Chủ nói với ông Bách và nhà văn Khái Hưng.
Điều này phù hợp với những gì Tướng Giáp viết trong hồi ký của ông, trong đó ông nói tới “những cuộn dây thừng” mà mỗi đội viên tự vệ bắt buộc phải có để “bắt Việt gian”.
Phải chăng chính sách khủng bố ở Việt Nam bằng cách gán cho nạn nhân hai tiếng Việt gian và sau này là phản động, đã bắt đầu ngay từ những năm này và Võ Nguyên Giáp là người đầu tiên thực hiện theo những kinh nghiệm của Nga hay của Tàu qua những cuốn sách nhỏ in li-tô mà tác giả hay dịch giả là Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng và chính Võ Nguyên Giáp?
Điều nên nhớ là sau này, trong những năm đầu của Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam, thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm, chủ trương thủ tiêu, ám sát lại được những người Cộng Sản tiếp tục thực hiện hướng vào những người đứng đầu các xã ấp với hơn 800 viên chức bị sát hại trong năm 1957.
Sau đó chỉ riêng trong năm 1961, con số này đã tăng lên tới trên 4.000. Sau nông thôn là các thành thị và ngay ở thủ đô Sai Gòn và Tết Mậu Thân ở Huế.
“Sát nhất nhân vạn nhân cụ” tới một mức nào đó đã được Việt Minh áp dụng để cướp chính quyền năm 1945 vì nó đã làm tê liệt rồi tan rã guồng máy hành chính và an ninh của chính phủ Bảo Đại-Trần Trọng Kim ở khắp nơi trong nước, đồng thời giúp cho Việt Minh dùng đám đông học hành kém cỏi và tính tình nông nổi để diệt trừ đối lập.
'Thiếu minh bạch'
Cũng thuộc giai đoạn khởi đầu cho sự nghiệp của Tướng Giáp này, gia thế của ông cũng như những chi tiết liên hệ tới ông hồi ông còn đi học, kể cả việc ông học luật ở Hà Nội, đối với một người bình thường là những gì thân yêu luôn luôn được tưởng nhớ hay nhắc đến, đã bị ông ít khi hay hầu như tránh né không đề cập.
Một thí dụ điển hình là ông đã học tới đâu ở trường luật. Các tác giả viết về ông đã nói khác nhau. Người nói ông đã đậu tiến sĩ kinh tế, người nói ông đậu cử nhân luật năm 1937, rồi tiến sĩ năm 1938, người nói ông chưa học xong cử nhân, người nói ông mới học xong năm thứ hai, sau đó thi chứng chỉ luật hành chính để sửa soạn ra làm tri huyện nhưng bị rớt.
Và vì mộng làm quan của ông không thành nên ông đã dứt khoát, quyết định từ bỏ tất cả theo Cộng Sản qua đại diện của đảng này là Hoàng Văn Thụ để cùng với Phạm Văn Đồng sang Trung Quốc vào năm 1940, mở đầu một giai đoạn mới trong đời mình.
Cũng nên để ý là trong thời gian ở Hà Nội này, Võ Nguyên Giáp chưa có một nghề chuyên môn và một việc làm nhất định. Việc dạy ở trường Thăng Long của ông chỉ là tạm thời và bán thời gian.
Ông đã phải nương nhờ rất nhiều vào Đặng Thai Mai, kể cả ở nhà ông này để sống qua ngày. Trong hoàn cảnh như vậy, chuyện ông học luật rồi lựa thi luật hành chính để ra làm tri huyện có lý do của nó và nếu ông đậu thì cuộc đời của ông đã đổi khác và lịch sử Việt Nam cũng đã có thể đổi khác.
Người ta sẽ có một ông Huyện Giáp vô danh của đầu thập niên 1940 thay vì một Bộ Trưởng Nội Vụ Võ Nguyên Giáp trong Chính Phủ Lâm Thời Hồ Chí Minh hay một Đại Tướng Võ Nguyên Giáp về sau này, y hệt trường hợp của Hồ Chí Minh khi ông này làm đơn xin vô học trường Thuộc Địa của Pháp non ba chục năm trước, năm 1911.
Điều nên biết thêm là, theo một vài tác giả, sinh viên Võ Nguyên Giáp thích môn kinh tế học và không thích luật hành chính. Sau này các thầy dạy hay giám khảo về kinh tế học của ông như Grégoire Khérian, Gaeton Pirou… đều cho biết là ông rất xuất sắc về môn này.
Phải chăng lối ăn mặc này, cộng thêm với những căn bản giáo dục đại học và cuộc sống trí thức, tiểu tư sản bên cạnh sự thành công quá lớn của ông đã khiến cho ông bị những thành phần lãnh đạo khác không ưa và đã cản bước tiến của ông trong vai trò lãnh đạo Đảng Cộng Sản.
Tuy nhiên, khác với nhiều người khác, đặc biệt là Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, luôn luôn ăn mặc chỉnh tề, lúc nào cũng sơ-mi trắng, cổ thắt ca-vát, mình mặc veston và quần mầu nhạt, đầu đội mũ dạ, chân đi giầy… như một công chức cao cấp, kể cả khi ở chiến khu, lúc gặp các sĩ quan Mỹ của cơ quan OSS, bên cạnh Hồ Chí Minh mặc quần soọc, áo sơ-mi nhầu nát, chân đi dép có quai.
Lối ăn mặc này đã được những người ngoại quốc gặp ông chú ý và miêu tả và đã được ông giữ rất lâu về sau này, ít ra là cho đến khi ông được phong quân hàm đại tướng.
Sau bộ đồ Tây là bộ quân phục đại tướng, buổi đầu là kaki màu cứt ngựa của bộ đội và cuối cùng là lễ phục màu trắng, thật trắng là thẳng nếp với đầy đủ phù hiệu và huy chương mỗi khi xuất hiện hay in trên bìa sách, kể cả khi chỉ là để được phỏng vấn.
Phải chăng lối ăn mặc này, cộng thêm với những căn bản giáo dục đại học và cuộc sống trí thức, tiểu tư sản bên cạnh sự thành công quá lớn của ông đã khiến cho ông bị những thành phần lãnh đạo khác không ưa và đã cản bước tiến của ông trong vai trò lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam, dù cho ông là người có khả năng nhất và ngay từ đầu đã đóng góp nhiều nhất cho đảng này.
Phải chăng cũng vì vậy mà ông đã ít khi, nếu không nói là không bao giờ đề cập tới thời còn đi học của ông, chưa kể tới mối liên hệ giữa ông và Louis Marty, trùm mật thám Pháp.
Người này đã đỡ đầu ông và giúp ông hoàn tất bằng tú tài I, rồi vô Trung Học Albert Sarraut để lấy nốt bằng tú tài Tây II, thay vì học trường bảo hộ và đỗ tú tài bản xứ, rồi vào trường Luật như đa số các thanh niên Việt Nam khác.
'Diệt trừ đối lập'
Sau ngày 19 tháng 8 năm 1945, Võ Nguyên Giáp được cử làm Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ trong Chính Phủ Lâm Thời do Việt Minh thành lập với Hồ Chí Minh làm Chủ tịch kiêm Bộ trưởng ngoại giao.
Ở địa vị này ông đã giúp chính quyền mới củng cố được vị thế của mình từ trung ương đế địa phương bằng cách qui tất cả về một mối, vào lúc từ Hồ Chí Minh đến các bộ trưởng và các nhà lãnh đạo Cộng Sản khác mới chân ướt chân ráo về Hà Nội, sau khi cướp được chính quyền trong tình trạng tất cả đều “chưa quen với kỹ thuật hành chính”, theo nhận định của chính Hồ Chí Minh.
Võ Nguyên Giáp, với kiến thức của một giáo sư sử - địa được học từ các cuộc cách mạng khác nhau trên thế giới trước đó, nhất là Cách mạng Pháp, về luật hành chính mà ông học được ở trường luật để ra làm tri huyện, với trí thông minh, lòng cương quyết và nhiệt thành đến độ tàn bạo của ông, đã hoàn thành được trách nhiệm của mình.
Một trách nhiệm không phải chỉ là của một bộ trưởng bộ nội vụ mà là của một phó thủ tướng đặc nhiệm nhiều bộ khác nhau, chưa kể vai trò ngoại giao với người Mỹ, nguời Pháp và luôn cả các tướng Tàu, một cách toàn hảo.
Dưới sự điều động của ông và của hai cộng sự viên thân cận nhất của ông là Hoàng Minh Giám và Hoàng Hữu Nam, hệ thống hành chính thời quân chủ cũ với các tổng đốc, tuần phủ, bố chánh, án sát, tri phủ, tri huyện, chánh phó tổng, lý trưởng, xã trưởng… đã chính thức bị bãi bỏ.
Chúng được thay thế bằng các ủy ban hành chính, ủy ban nhân dân, sau đó uỷ ban hành chính, kháng chiến với các chủ tịch, các tỉnh ủy, huyện ủy, xã ủy v.v…
Biến cố 19 tháng 8 hay Việt Minh Cướp Chính Quyền, mà nhiều người thận trọng không muốn gọi là Cách mạng sau ngày 2 tháng 9 đã chấm dứt và một cuộc cách mạng đã thực sự bắt đầu, qua sự bãi bỏ và thay thế trong tổ chức và trong mọi sinh hoạt thuộc phạm vi hành chính này.
Tất cả đã không còn đảo ngược được nữa, kể cả về sau trong các vùng Quốc Gia dưới thời Quốc Trưởng Bảo Đại hay ở miền Nam dưới chế độ Cộng Hòa.
Hệ thống quan lại với guồng máy vận hành và lối sống của thời quân chủ của nó mà nhiều người đã sai lầm gọi là thời phong kiến cho phù hợp với luận thuyết về lịch sử của chủ nghĩa Mác-xít, đã hoàn toàn trở thành của quá khứ.
Tuy nhiên, sự thay thế hệ thống hành chính cũ bằng một hệ thống hành chính mới qua tổ chức kể trên chưa đủ. Nó cần phải có một nguồn nhân sự mới có đủ khả năng về kiến thức, về tư cách và đạo đức đi kèm.
Nguồn nhân sự này hoàn toàn không có hay không đủ nhất là ở cấp cơ bản để thay thế cho các tri phủ, tri huyện và các tổng lý thời xưa ở các địa phương.
'Hỗn quân, hỗn quan'
Lợi dụng lúc hỗn quân, hỗn quan người ta đã tìm cách để trả tư thù, sách nhiễu của cải, tiền bạc, cướp vợ, cướp con của nhau, vu nhau là Việt gian để giết hại bằng cách này hay cách khác v.v...
Điều này đã xảy ra rất nhiều đến độ Hồ Chí Minh, trong Thư gửi cho Ủy Ban Nhân Dân các Kỳ, Tỉnh, Huyện và Làng đề ngày 17 tháng 10 năm 1945, phải nêu ra sáu điều sai phạm trầm trọng mà các cán bộ Việt Minh đã phạm phải nhằm sửa sai.
Đó là trái phépcậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ và kiêu ngạo trong đó trái phép được ghi lên đầu và được chỉ rõ là “vì tư thù, tư oán mà bắt bớ và tịch thu tài sản của dân làm cho dân oán than”.
Câu hỏi được đặt ra là có bao nhiêu người đã bị hàm oan và chết oan trong thời gian mấy tháng sau ngày 19 tháng 8 và trong thời gian chiến tranh sau này ngoài những nhân vật tên tuổi như Phạm Quỳnh, cha con Ngô Đình Khôi, Tạ Thu Thâu, Giáo Chủ Huỳnh Phú Sổ của Phật Giáo Hòa Hảo…?
Chỉ cần trước đó nạn nhân đã từng làm việc cho Tây, cho Nhật, làm quan lại hay tổng lý cho Chánh Phủ Nam Triều và có người tố cáo là đủ để bị bắt và bị mang đi mất tích hay bị giết một cách dễ dàng.
Lẽ tất nhiên sau một cuộc cách mạng rất khó cho những người mới lên cầm quyền làm chủ được hoàn toàn tình hình an ninh ở trong nước.
Hoàn cảnh của người Cộng Sản Việt Nam từ sau ngày 19 tháng 8 năm 1945 và kéo dài cho đến ít ra là ngày 19 tháng 12 năm 1946 còn khó khăn gấp bội vì ngoài những khó khăn về kinh tế, tài chánh… họ còn phải đối phó các đảng phái Quốc Gia đối lập, với các đồng minh.
Đặc biệt họ phải đối phỏ với sự hiện diện của trên 180.000 quân đội Tàu của Tưởng Giới Thạch với chủ trương ủng hộ Việt Nam Quốc Dân Đảng và Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội chống lại Việt Minh đang cầm quyền và quân Pháp theo chân quân Anh trở lại xứ Nam Kỳ và sau đó tiến ra Bắc.
'Mười người chết chín'
Vô cùng phức tạp nhưng vấn đề không phải chỉ đơn giản có thế vì dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản, chủ trương của Việt Minh không phải chỉ là để chia sẻ hay cướp chính quyền mà là để xây dựng một xã hội khác mà họ cho là tốt đẹp hơn dù cho mười người chết chín, như lời của đại diện Việt Minh nói với Thủ Tướng Trần Trọng Kim trong một cuộc gặp gỡ không lâu trước ngày 19 tháng 8.
Võ Nguyên Giáp qua vai trò Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ lúc đầu và Chủ Tịch Quân Sự Ủy Viên Hội rồi sau Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng, về sau đã đóng vai trò then chốt trong việc tiêu diệt các thành phần đối lập, những “thù trong, giặc ngoài” và giữ vững chế độ.
Từ rất sớm, Bộ Trưởng Nội Vụ Võ Nguyên Giáp, trước khi các lãnh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng và Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội từ Trung Quốc trở về và một cách hoàn toàn hợp pháp với những phương tiện do người Pháp để lại, đã cho bắt rất đông những đảng viên Quốc Dân Đảng từ trước vẫn hoạt động ở trong nước.
Những người này đa số là những giáo viên tiểu học, những thừa phái, lục sự, những nhân sĩ địa phương, những tổng lý…, hay những người có ảnh hưởng lớn ở các địa phương, nói cách khác là những thành phần được cho là nguy hiểm vì có thực lực và trực tiếp đe dọa sự tồn vong của chế độ mới, giam họ ở các ty liêm phóng tại các tỉnh hay thủ tiêu họ.
Chiến dịch này nhằm triệt hạ các hạ tầng cơ sở của các đảng khác và những người không bị giết đã bị giam giữ cho mãi đến khi có chính phủ liên hiệp mới được thả…
Ngay tại Hà Nội và giữa Đại Học Xá Đông Dương, Chủ Tịch Sinh Viên Đại Học này là Phan Thanh Hòa cũng đã bị bắt cùng với một sinh viên khác là Đặng Vũ Trứ mang đi mất tích với tin đồn là sau đó hai ông đã bị đưa sang một căn nhà ở Gia Lâm và bị ném lựu đạn giết chết.
Công tác diệt trừ đối lập này đã đạt tới cao điểm của nó vào tháng 7 năm 1946, sau khi quân đội Trung Hoa Quốc Gia của Tưởng Giới Thạch rút khỏi Việt Nam và trong thời gian Hồ Chí Minh sang Pháp.

Vị trí của Hồ Chí Minh thời gian sau 1945 còn có nhiều bí ẩn
Tất cả các trụ sở chính của Việt Nam Quốc Dân Đảng ở Hà Nội đã bị công an bao vây, lục soát, đặc biệt là trụ sở ở đường Ôn Như Hầu. Tại những nơi đó tất cả các đảng viên của đảng này đã bị bắt và mang đi mất tích.
Tên tuổi của nhiều người sau này đã được ghi rõ. Riêng ở trụ sở Ôn Như Hầu, Võ Nguyên Giáp không những đã đích thân có mặt mà còn đưa cả Xử Lý Thường Vụ chủ tịch kiêm Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ Huỳnh Thúc Kháng đến chứng kiến.
Câu hỏi được đặt ra là vào thời điểm này Chính Phủ Liên Hiệp vẫn còn và Võ Nguyên Giáp không còn là bộ trưởng bộ nội vụ nữa, vậy với tư cách gì ông đã đến hiện trường rồi lại còn mang theo cả Huỳnh Thúc Kháng nữa?
Sự kiện này, kèm theo với nhiều dữ kiện khác như thời điểm xảy ra biến cố, với sự vắng mặt của Hồ Chí Minh, với lệnh thi hành đến từ Thường Vụ Đảng Cộng Sản thay vì từ Bộ Nội Vụ mà chính Huỳnh Thúc Kháng, giữ chức Bộ Trưởng bộ này, mãi đến khi được Võ Nguyên Giáp dẫn đến hiện trường sau khi mọi chuyện đã xảy ra, mới được biết.
Những gì sau đó được trưng bày cho dân chúng vào xem cũng như những lời buộc tội… cho thấy những gì Tướng Giáp ghi trong hồi ký của ông có nhiều điều không ổn nếu không nói là quá sơ đẳng so với trình độ học vấn của ông.
Đó là chưa cần nói tới những bằng chứng được phía người Việt Quốc Gia đưa ra để bác bỏ hai công điện của Lãnh Sự Mỹ James L. O’Sullivan gửi Bộ Ngoại Giao Mỹ đề ngày 01 và 26 tháng 7 năm 1946.
Tức là chỉ hơn mười ngày sau đó, với nội dung về sự kiện quân đội của ông Giáp càn quét các căn cứ của Việt Nam Quốc Dân Đảng ở miền đỉnh châu thổ Sông Hồng, đặc biệt ở vùng Việt Trì và tất nhiên ở Hà Nội.
Con số những nạn nhân của đợt càn quét này được ước lượng lên tới 15 ngàn người.
'Nhà Ngoại Giao'
Như đã đề cập, trong chính phủ lâm thời của Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh là Chủ Tịch và kiêm nhiệm Bộ Ngoại Giao, Võ Nguyên Giáp là Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ. Nhưng trong những ngày đầu Tướng Giáp đã làm luôn công việc ngoại giao.
Ông đã đóng vai trò chính yếu trong việc đón tiếp các nhân vật quan trọng của các nước trong đó có Archimedes Patti của phái bộ OSS Mỹ ở Trung Quốc, Jean Sainteny và Đại Tướng Leclerc của Pháp v.v... với tư cách là một bộ trưởng trong chính phủ và đại diện cho Chủ Tịch Hồ Chí Minh trước khi những nhân vật này chính thức được Hồ Chí Minh tiếp kiến, thay vì các công chức cao cấp khác của Bộ Ngoại Giao dưới quyền trực tiếp của ông Hồ ở bộ này theo thủ tục thông thường.
Sau này trong việc điều đình với người Pháp ở Hải Phòng, Hà Nội hay Đà Lạt, ông cũng đóng vai trò chủ chốt với sự trợ giúp của Hoàng Minh Giám và Hoàng Hữu Nam.
Điều này dễ hiểu vì ngoài hai người bạn thân thiết này của ông, những người làm ở Bộ Ngoại Giao thời đó đều có gốc là những công chức cao cấp thời Pháp, giỏi tiếng Pháp hay có thể cả tiếng Anh, quen tiếp xúc với người Pháp nhưng không được tin cậy và không phải là đảng viên Cộng Sản.
Còn những đảng viên cao cấp khác của đảng này như Trường Chinh, Trần Huy Liệu, ngay cả Phạm Văn Đồng… không hội đủ những điều kiện cần thiết mà Võ Nguyên Giáp có.
Tướng Giáp trong những cuộc gặp gỡ này đã tỏ ra rất thông thạo tiếng Pháp, tự tin và có khả năng thuyết phục được các đối phương của mình. Điển hình là cuộc tiếp xúc đầu tiên với Sainteny có sự hiện diện của Patti và được Patti kể lại.
Riêng về cách trình diễn bề ngoài, cách ăn mặc với cái mũ phớt đặc biệt của ông đã gây ấn tượng cho đối thủ của ông không ít, bên cạnh một bộ mặt ít khi mỉm cười của ông.
Cũng trong buổi gặp Sainteny này, theo Patti, Võ Nguyên Giáp đã đến bằng một công xa đen bóng, có vệ sĩ mặc quân phục đeo tiểu liên Sten xuống mở cửa và một vệ sĩ khác nghiêm chào. Chiếc công xa này được biết là của Toàn Quyền Đông Dương cũ.
Câu hỏi đặt ra là với những khả năng và kinh nghiệm mới đạt được thêm như vậy, tại sao Võ Nguyên Giáp đã không lãnh hay không được cử hướng dẫn phái đoàn Việt Nam đi dự Hội Nghị Fontainebleau mà thay vì lại là ông Phạm Văn Đồng.
Ông Đồng cho đến thời điểm đó vẫn còn là một nhân vật vô danh đối với các giới chức ngoại quốc ở Hà Nội thời bấy giờ và chưa có chút kinh nghiệm đàm phán nào, còn về khả năng cá nhân thì thua Tướng Giáp.
'Gây ra chiến tranh?'
Câu hỏi "liệu Võ Nguyên Giáp có phải là người đã gây ra chiến tranh Việt - Pháp" được đặt ra vì trong những ngày tháng cuối cùng trước khi cuộc chiến bùng nổ, Hồ Chí Minh đi Pháp, không có mặt ở nhà.
Sau đó khi về nước ông lại bị đau ốm (?) theo lời Sainteny, nằm một chỗ. Võ Nguyên Giáp đã đóng vai trò chính yếu, quyết định tất cả, Huỳnh Thúc Kháng, Quyền Chủ Tịch, chỉ là để ký giấy tờ.
Trong việc giao thiệp với người Pháp, tướng Giáp, với Hoàng Minh Giám và Hoàng Hữu Nam phụ giúp đã làm và quyết định mọi việc.
Câu hỏi "liệu Võ Nguyên Giáp có phải là người đã gây ra chiến tranh Việt - Pháp" được đặt ra vì trong những ngày tháng cuối cùng trước khi cuộc chiến bùng nổ, Hồ Chí Minh đi Pháp, không có mặt ở nhà.
Đây là một dịp rất tốt để ông từng bước thực hiện giấc mơ làm một Nã Phá Luân của Á Châu và cũng là lý do tại sao ông đã chọn ở lại Việt Nam thay vì đi Pháp làm 'phó hội'.
Những gì ông thực hiện gồm có diệt trừ đối lập, đặc biệt là Việt Nam Quốc Dân Đảng như đã nói ở trên, phát triển quân đội và các lực lượng tự vệ, củng cố, xây dựng và phát triển tổ chức của Việt Minh ở những vùng từ trước chưa kiểm soát được.
Đặc biệt ở Nam Kỳ, còn thực hiện tuyên truyền tố cáo người Pháp gây chiến để xách động quần chúng và sửa soạn chiến tranh bằng cách cho đục tường nhà nọ thông với nhà kia, đặt chướng ngại vật trên các đường chính để ngăn quân Pháp…
Những hành động này cho người ta thấy sự vi phạm các thoả hiệp đã ký không phải chỉ đơn phương đến từ phía người Pháp.
Riêng ở Hà Nội, Sainteny với những con số được liệt kê, đã phản đối những hành động của tự vệ hướng vào các thường dân Pháp khiến cho họ và luôn cả quân nhân Pháp luôn luôn bị đe dọa và cô lập mà chính quyền Việt Nam không những mặc kệ mà còn khuyến khích.
Riêng ở Nam Kỳ, mặc dầu cho tới thời điểm này vẫn còn là thuộc địa của Pháp và đương nhiên là vẫn do người Pháp quản trị và chịu trách nhiệm, sự vi phạm cũng xảy ra một cách trầm trọng.
Theo chính Tướng Giáp, ở đây “lực lượng vũ trang của ta (Việt Minh) phát triển rất nhanh ”và “ngày 13 tháng Chín, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa ban hành sắc lệnh số 182 cải tổ Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam để lãnh đạo cuộc kháng chiến tại Nam bộ.
Hơn một tuần sau, ngày 22 tháng Chín, Ủy ban kháng chiến lâm thời miền Nam Việt Nam tuyên bố thành lập và là chính quyền hợp pháp duy nhất tại miền Nam Việt Nam.
Những quyết định này xuất xứ từ Hà Nội với những nhân vật cầm đầu, điển hình là Tướng Nguyễn Bình, gốc từ Hà Nội hay từ miền Trung mới vào không thể nói là không vi phạm chủ quyền của người Pháp ở Nam Kỳ nhưng Tướng Giáp vẫn làm.
'Tham vọng chủ chiến'
Đó là một chiến thuật mà sau này người Cộng Sản luôn luôn áp dụng, chiến thuật giành dân chiếm đất và vừa đánh vừa đàm, không cần phải chờ mọi chuyện được ngã ngũ.
Khi Hồ Chí Minh về tới Hà Nội và Sainteny muốn gặp nhưng được cho biết ông Hồ bị bệnh. Sainteny phải chờ, đến khi được đến thăm thì thấy Hồ Chí Minh nằm trên giường có Hoàng Minh Giám và Hoàng Hữu Nam túc trực bên cạnh.
Hai người này đã không bị Hồ Chí Minh yêu cầu ra khỏi phòng như thường lệ và câu chuyện chỉ là bình thường giữa hai người bạn cũ. Tại sao vậy? Có phải là họ Hồ đã bị phe của Giáp bao vây không cho nói những gì họ không muốn ông nói?
Nếu như vậy, thì có phải Hồ Chí Minh lúc đó không muốn hay chưa muốn chiến tranh trong khi Võ Nguyên Giáp và phe nhóm của ông đang ở một tình thế vô cùng thuận lợi có thể giúp ông đạt được mong ước của mình, bỏ qua sẽ không bao giờ có được.
Cũng cần phải nói thêm là trong thời gian này Sainteny có nhận được một văn thư của Hồ Chí Minh gửi Quốc Hội và Chính Phủ Pháp đề ngày 11 tháng 12 tức 8 ngày trước ngày nổ súng, nhưng không mang chữ ký của họ Hồ.
Thư bị Sainteny trả lại và phải nhiều ngày sau mới có chữ ký. Tại sao lại có chuyện lạ như vậy? Không lẽ một văn thư của Chủ Tịch Chính Phủ lại có thể được gửi đi một cách cẩu thả như vậy sao?
Sainteny cho là có một cái gì bí mật bao quanh tình trạng “vị Chủ Tịch của nưóc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.”
Nghi ngờ cũng phải vì Sainteny là người biết rõ những nỗ lực cuối cùng của Hồ Chí Minh khi ông này lưu lại Paris và làm tất cả để ký cho được Tạm ước 14 tháng 9, không lẽ để không làm gì.
Cũng theo Sainteny, phe chủ chiến của Việt Nam đã phải hành động gấp vì Chính Phủ mới của Pháp do Léon Blum làm Thủ Tướng đã quyết định cử Marius Moutet, lúc đó đã là Bộ Trưởng Pháp Quốc Hải Ngoại sang Đông Dương và tin này đã làm tình hình biến chuyển mạnh hơn.
Lý do là phe chủ chiến e ngại một cuộc điều đình mới sẽ được thực hiện nên phải ra tay trước. Tất nhiên đây chỉ là một giả thuyết nhưng nếu nhìn qua tham vọng cá nhân của Võ Nguyên Giáp, đây phải là một yếu tố người ta cần phải xét tới, cũng như khi người ta xét tới mối liên hệ riêng tư giữa Hồ Chí Minh và Bảo Đại.
Quan hệ Võ - Hồ
Ngoài những lý do chính trị, Hồ Chí Minh khi đưa Bảo Đại từ Huế ra Hà Nội làm Cố vấn Tối Cao rất có thể là để phòng ngừa vị vua cũ này có thể bị những phần tử quá khích ở địa phương làm bậy.
Cũng vậy, lời nhắn của họ Hồ gửi cho Bảo Đại mà ông này nhận được ở phi trường lúc sắp sửa lên phi cơ từ Trung Hoa về nước, biết đâu cũng có một mục đích tương tự và lần này những phần tử quá khích không còn là địa phương nữa mà ở ngay Hà Nội và Hồ Chí Minh là người hiểu rõ hơn ai hết.
Điều quan trọng là sự thực nằm ở đâu, Hồ Chí Minh ngay từ cuối năm 1946 này có còn có đủ uy thế như người ta thường nghĩ hay không hay đã bắt đầu ở thế yếu và đã bị những phụ tá trẻ của ông lấn át.
Đó là những câu hỏi cần được đặt ra, đồng thời người ta cũng không nên quên rằng Hồ Chí Minh là một người rất khôn ngoan, nhiều thủ đoạn, giỏi tính toán, biết phải làm gì theo từng giai đoạn và dày kinh nghiệm. Đại Tướng Võ Nguyên Giáp có thể biết và trả lời một phần.
'Đáng tiếc!'
Với tư cách là Chủ Tịch Danh Dự của Hội Khoa Học Lịch Sử Việt Nam, đồng thời ở tuối 100 của ông, ông có thể nói ra cho mọi người được biết.
Tiếc rằng mọi chuyện đã quá trễ. Sức khoẻ của ông vào lúc tôi viết xong bài này, theo tôi được biết, chắc chắn không cho phép.
Một đồng nghiệp trong Hội Sử Học, đồng thời cũng là một sử gia đã viết nhiều tác phẩm, Giáo Sư Trần Văn Giàu, cũng đã nhiều lần được người ta trực tiếp đề nghị hay gợi ý cho hay sự thật về những gì ông Giàu đã làm ở Miền Nam, nhất là về sự mất tích của Giáo Chủ Huỳnh Phú Sổ của Đạo Hòa Hảo.
Nhưng Giáo Sư Giàu đã từ chối, lấy cớ mọi chuyện đã qua rồi, theo như một giáo sư đại học Việt Nam ở Pháp có dịp gặp ông. Thật vô cùng đáng tiếc! Nó cũng đáng tiếc như câu trả lời của Tướng Giáp cho câu hỏi của một phóng viên đài truyền hình Mỹ năm 1995.
Khi đó phóng viên đặt vấn đề: 20 năm sau khi Cuộc Chiến Ba Mươi Năm đã chấm dứt, mà bây giờ người ta vẫn có thể phối kiểm được, là qua hai cuộc chiến vừa qua có từ 3 triệu rưỡi đến 4 triệu người chết, ông (Tướng Giáp) có hối tiếc hay không?
Tướng Giáp vẫn trong bộ quân phục cố hữu đã trả lời bằng tiếng Pháp là “Không chút nào! Tôi không hối tiếc chút nào!”
Quả là đáng tiếc!
Bài viết phản ánh quan điểm và cách hành văn riêng của tác giả. Ông Phạm Cao Dương lấy bằng tiến sĩ sử học ở Đại học Paris, và dạy ở nhiều đại học tại Sài Gòn trước 1975. Sau khi sang Mỹ, ông dạy về lịch sử, ngôn ngữ Việt Nam ở một số trường tại Nam California trước khi về hưu.
--

Tổng số lượt xem trang