Thứ Bảy, 24 tháng 12, 2011

Việt Nam và Trung Quốc qua cảm nhận của Đại sứ Mỹ


Đại sứ David Shear phát biểu tại Hội thảo kỷ niệm 10 năm thực thi BTA, 9.12.2011- -Nguồn:- Việt Nam và Trung Quốc qua cảm nhận của Đại sứ Mỹ
HUỲNH PHAN
Mỹ và Trung Quốc vẫn duy trì quan hệ tốt, và chúng tôi vẫn tiếp tục trao đổi đoàn các quan chức cấp cao. Tất nhiên, tôi nói điều này trong bối cảnh mối quan hệ giữa Mỹ với Việt Nam, và phần còn lại của Đông Nam Á, đang tiếp tục được củng cố và phát triển, cũng như sự hiện diện và can dự của Mỹ vào khu vực Đông Nam Á, ngày càng rõ nét và sâu sắc hơn. Tất cả là nhằm đảm bảo cho một tương lai hoà bình ổn định và thịnh vượng của khu vực này. - Đại sứ Mỹ David Shear.

"Chúng ta sẽ hiểu nhau nếu thực sự muốn hiểu nhau"
Ông có gặp trưởng đoàn đàm phán TPP của Việt Nam không?
Có. Tôi có tới chỗ ông ta chỉ ít lâu sau khi tôi tới Hà Nội nhận nhiệm vụ. Nhưng người mà ông ta phải giữ mối quan hệ thường xuyên và chặt chẽ là Trưởng đoàn đàm phán phía Mỹ.
Barbara Weisel? Tôi gặp bà lần đầu vào đầu năm 2006, khi bà tham gia đoàn của trưởng đoàn Barbara Dwoskin đàm phán với về việc Việt Nam gia nhập WTO. Sau họp báo, tôi hỏi bà được một câu.
Còn tôi gặp bà Weisel hồi tôi còn ở Kuala-Lumpur. Lúc đó, chúng tôi đang đàm phán hiệp định thương mại tự do (FTA) với Malaysia. Nhưng khi TPP hình thành, nó đã trùm lên FTA đó, nên chúng tôi dừng lại, và Malaysia tham gia TPP.
Và lần thứ hai là mùa hè năm ngoái khi bà cũng với Phó Đại diện Thương mại Demetrios Marantis vào Việt Nam, để thuyết phục lãnh đạo Việt Nam tham gia đàm phán TPP như một thành viên đầy đủ. Hôm đó, sau buổi họp báo, bà đã ghi vào sổ tay của tôi địa chỉ email của bà.
Còn ông Marantis hôm đó đã xác nhận với tôi rằng chính ông là người viết bài phát biểu cho TNS Max Baucus đọc tại Hội Châu Á, đã gây tiếng vang rất lớn trong quá trình vận động PNTR (qui chế thương mại bình thường vĩnh viễn) cho Việt Nam. Bởi ông Marantins đã có thời gian hai năm ở Việt Nam, làm luật sư cho Hội đồng Thương mại Mỹ - Việt của bà Ginny Foote.
Ồ, anh cũng tìm hiểu nhiều về đàm phán Việt - Mỹ nhỉ? Anh có dự Gala Dinner sau hội thảo 10 năm BTA không? Không à?
Marantis là người đã tham gia tích cực vào BTA Mỹ - Việt. Tại buổi Gala Dinner sau hội thảo 10 năm BTA, họ chiếu cái video clip, trong đó có phát biểu của ông Marantis.
Điểm thú vị nhất của Gala Dinner tối hôm đó là họ đã tạo cơ hội gặp gỡ cho hầu như tất cả những người đã tham gia vào quá trình BTA từ cả hai phía. Họ đã gặp lại nhau một cách hoàn toàn cởi mở và thân thiện. Hôm đó vui lắm.
Tôi nghĩ rằng lễ kỷ niệm BTA không chỉ có ý nghĩa là nhớ lại một kỷ niệm, dù là một kỷ niệm mang tính lịch sử. Tôi nghĩ rằng những người tổ chức sự kiện này, cũng như những người tham gia, đều mong muốn thúc đẩy Việt Nam trên con đường TPP.
Đó là một quan điểm hay. Tôi cũng cho rằng các lễ kỷ niệm nói chung không chỉ là để nhớ lại quá khứ, mà còn hướng sự quan tâm của người ta đến tương lai.
BTA tất nhiên là một thoả thuận rất tốt. Nhưng hai bên chúng ta không nên dừng lại ở đó, mà cần tiếp tục xây dựng một mối quan hệ kinh tế vững chắc hơn, chiến lược hơn, và TPP là cách tốt nhất để thực hiện điều đó.
Có lẽ thúc đẩy quan hệ kinh tế giữa hai nước là ưu tiên hàng đầu của ông trong nhiệm kỳ của mình? Ông còn có những mục tiêu ưu tiên nào khác không?
Đúng vậy. Ưu tiên về kinh tế bao gồm thúc đẩy quá trình đàm phán TPP, thúc đẩy xuất khẩu từ Mỹ sang Việt Nam. Thương mại hai chiều của chúng ta dự kiến sẽ vượt quá ngưỡng 20 tỷ USD trong năm 2011 này.
Tôi cũng muốn thúc đẩy đầu tư của Mỹ vào Việt Nam. Tôi đã đi thăm một số nhà máy của Mỹ tại Việt Nam, mỗi nhà máy có hàng trăm công nhân Việt Nam làm việc.
Ưu tiên thứ hai của tôi là thúc đẩy việc thiết lập quan hệ đối tác chiến lược giữa hai nước.
Ưu tiên thứ ba của tôi là xây dựng mối quan hệ tốt đẹp hơn giữa nhân dân hai nước, với trọng tâm là giáo dục, y tế và môi trường.
Tất nhiên một ưu tiên khác không thể bỏ qua là đối thoại nhân quyền, khi chúng ta vẫn còn những bất đồng trong lĩnh vực này. Nhưng tôi nghĩ chúng tôi với các đối tác Việt Nam vẫn có thể tiếp tục thảo luận với nhau để giảm dần những bất đồng đó.
Theo ông, có sự khác biệt lớn giữa cách nghĩ của người Phương Đông và người Phương Tây không?
Họ khác nhau trước hết ở lối sống, rồi đến cách tư duy. Nhưng nếu chúng ta thực sự muốn hiểu nhau, chúng ta thực sự cố gắng để hiểu nhau, chúng ta sẽ hiểu nhau. Vì vậy, theo tôi nghĩ, bất chấp sự khác biệt có hiển hiện ra bên ngoài thế nào, từ trong sâu thẳm con người chúng ta vẫn có những cái chung để chúng ta có thể giao tiếp được với nhau, và cuối cùng cũng sẽ hiểu nhau.
Mỗi đại sứ khi nhận nhiệm vụ đều xác định những mục tiêu ưu tiên, và cách tiếp cận để đạt được những mục tiêu đói. Vậy cách tiếp cận của ông như thế nào?
Tôi nghĩ cách tốt nhất để đạt được mục tiêu đó là xây dựng sự tin cậy lẫn nhau ở mức cao nhất giữa tôi với những quan chức Việt Nam mà tôi hay phải làm việc. Bởi một nhà ngoại giao không thể hoàn thành nhiệm vụ nếu chủ nhà không tin cậy anh, và ngược lại anh cũng không tin cậy nơi chủ nhà.
Và tôi nghĩ rằng đó là cách duy nhất.
Việc đi tỉnh thế này cũng là một cách xây dựng sự tin cậy lẫn nhau, bởi người ta sẽ cho rằng đối với một đại sứ Mỹ cả đất nước này đều quan trọng. Chứ không phải chỉ là Thủ Đô, hay những thành phố lớn, mới quan trọng.
Đại sứ David Shear bắt tay chào tạm biệt Giám đốc Trung tâm Y tế Dự phòng Thái Bình
Tôi thực sự tò mò là không hiểu việc lựa chọn hai địa điểm viếng thăm hôm nay, trừ cuộc làm việc với Chủ tịch tỉnh Thái Bình, là tình cờ hay có chủ ý? Một nơi là trung tâm phòng chống HIV/AIDS - một mối quan tâm đương đại vì tương lai, và bảo tàng - một biểu tượng của quá khứ.
(Cười) Chúng tôi có dự án giúp phát hiện và phòng ngừa HIV/AIDS ở khắp Việt Nam, mà mỗi năm chúng tôi bỏ ra khoảng 6 triệu USD. Cho nên, khi đến Thái Bình dứt khoát phải tìm đến thăm cơ sở đang thực hiện dự án này. Có một điều quan trọng nữa là chứng tỏ cho mọi người ở đây thấy rằng chúng tôi thực sự quan tâm đến vấn đề này như thế nào.
Còn câu chuyện bảo tàng thì liên quan đến Quỹ Đại sứ về Bảo tồn di sản văn hoá, một chương trình của Bộ Ngoại giao Mỹ trên khắp thế giới. Tôi tham gia nhiều dự án khác nhau ở Việt Nam, và tôi đang chờ đợi xem kết quả ra sao khi dự án kết thúc.
Khi chào tạm biệt ông, bà giám đốc Trung tâm Y tế Cộng đồng đã nói rằng cuộc viếng thăm của ông đã khích lệ họ rất nhiều trong việc chăm lo sức khoẻ cho cộng đồng, và họ sẽ cố gắng làm tốt hơn nữa. Ông nghĩ gì?
Tôi rất vui. Tôi luôn cố gắng động viên khích lệ những người làm những công việc phục vụ cộng đồng.
Việt Nam, Trung Quốc...qua cảm nhận của Đại sứ Hoa Kỳ
Ông đã đi một số tỉnh thành, tuy chưa nhiều. Ông có cảm thấy sự khác biệt nhiều không?
Càng đi tôi càng thấy sự đa dạng sắc tộc, đa dạng văn hoá và đa dạng vùng miền ở Việt Nam. Vì vậy tôi luôn có cảm giác thú vị trong mỗi chuyến đi. Chẳng hạn, tôi đã tới Sơn La ở miền núi phía Tây Bắc, tôi đã đến Bạc Liêu của Đồng bằng sông Mê Công, và hôm nay tôi đến Thái Bình của Đồng Bằng Sông Hồng, để thấy sự tương phản về lối sống, văn hoá...
Tôi nghĩ rằng chính sự đa dạng đó đã tạo nên gương mặt của Việt Nam đương đại.
Cảm giác của ông như thế nào, khi ở bảo tàng người ta coi ông như một minh tinh màn bạc, và chờ đợi để được chụp ảnh chung với ông?
(Cười) Người Việt Nam rất thân thiện, ấm áp và cực kỳ mến khách. Đó là lý do vì sao tôi đã nói với anh rằng tôi luôn luôn thích những chuyến đi tỉnh như thế này.
Và tôi coi tầm quan trọng của việc chúng tôi có mặt ở những nơi này và giao lưu với mọi người ở đây, chứ không chỉ gặp gỡ những gương mặt ở Hà Nội.
Cảm giác đó giống hệt với cảm giác của những người sống ở Hà Nội, như tôi, khi đi về các tỉnh.
Thế à?
Ấn tượng của ông sau khi tham quan bảo tàng (Thái Bình)?
Đó là một bộ sưu tập các di vật lịch sử phong phú. Và tôi rất vui được cộng tác với Bảo tàng Thái Bình để bảo tồn những di sản văn hoá đó. Đó là một dự án tốt, và tôi sẽ theo dõi xem kết quả thế nào.
Ông nghĩ gì về mối quan hệ giữa bảo tồn di sản văn hoá và những dự án phát triển?
Tất nhiên. Tôi đã mục kích được niềm tự hào của người Thái Bình đối với các di sản văn hoá của họ, với quá khứ lâu đời của họ, với truyền thống văn hoá của họ. Nhưng họ cũng hãnh diện vì những gì họ đang làm để phát triển tỉnh mình về kinh tế, và họ theo đuổi mục đích này một cách rất tâm huyết.
Quay lại câu chuyện nghề nghiệp của ông. Nhật Bản là nước ngoài đầu tiên ông công tác với tư cách một nhân viên ngoại giao?
Đúng. Sau đó tôi quay về Washington. Cuối những năm '80 tôi sang Đại sứ quán Mỹ ở Bắc Kinh. Về lại Washington, rồi tiếp tục sang Tokyo, và ngay sau đó đến Malaysia...
Ông chưa bao giờ đến làm nhân viên ngoại giao ở Seoul?
Không. Tôi chỉ phụ trách về mảng Triều Tiên ở Washington. Nên khi chúng ta nói về thảm hoạ đối với BTA ở Aukland trong lúc uống cà phê, và tôi nói lúc đó tôi ở Seoul là trong chuyến công tác, khi hai bên Nam Bắc Triều Tiên đàm phán với nhau.
Vậy ông nhận thấy cái nét đặc trưng gì ở từng nền văn hoá mà ông đã sống và làm việc với tư cách là một nhà ngoại giao? Từ Nhật Bản, Trung Quốc, Malaysia đến Việt Nam?
Khó đấy. Tuy các nước này đều thuộc châu Á, thậm chí Đông Á, nhưng có những đặc điểm rất khác nhau.
Chẳng hạn, Nhật Bản có truyền thống lâu đời là một cường quốc biển. Họ là một dân tộc cực kỳ siêng năng.
Hay, Trung Quốc suốt một thời gian dài là thuộc địa, và cũng có một thời gian dài làm cách mạng liên tục. Điều đó giải thích tại sao mấy thập kỷ gần đây họ lại quá quan tâm đến phát triển kinh tế như vậy.
Tất nhiên, người Trung Hoa có tham vọng rất lớn cho dân tộc của họ, cũng như ấp ủ một niềm kiêu hãnh dân tộc rất lớn.
Người Việt Nam cũng rất siêng năng, chịu khó, và rất đề cao giáo dục. Đó là người Mỹ đánh giá người Việt Nam qua hình ảnh những sinh viên Việt Nam đang học tập ở Mỹ. Chính vì vậy, tôi đã nói rằng Việt Nam đã cử sang Mỹ rất nhiều đại sứ tốt.
Còn những người Mỹ sang đây đều không nghĩ rằng kinh tế Việt Nam đã phát triển như vậy. Nói chung, họ hài lòng.
Ông có nghĩ là niềm kiêu hãnh dân tộc của người Trung Hoa hiện nay có hơi quá không?
Tôi nghĩ họ tự hào là có cơ sở, bởi họ đã đi qua một chặng đường dài, kể từ khi cải cách và mở cửa vào cuối những năm '70. Tôi không nghi ngờ rằng kinh tế, và đặc biệt là xã hội, của Trung Quốc sẽ tiếp tục phát triển.
Mỹ và Trung Quốc vẫn duy trì quan hệ tốt. Chúng tôi vẫn tiếp tục trao đổi đoàn các quan chức cấp cao.
Tất nhiên, tôi nói điều này trong bối cảnh mối quan hệ giữa Mỹ với Việt Nam, và phần còn lại của Đông Nam Á, đang tiếp tục được củng cố và phát triển, cũng như sự hiện diện và can dự của Mỹ vào khu vực Đông Nam Á, ngày càng rõ nét và sâu sắc hơn.
Tất cả là nhằm đảm bảo cho một tương lai hoà bình ổn định và thịnh vượng của khu vực này.
Hôm nay, ông nghĩ là nhà ngoại giao nhà nước hay nhà ngoại giao nhân dân?
Cả hai. Khi tôi gặp lãnh đạo Thái Bình, hay ký khoản tài trợ cho bảo tàng, tôi là nhà ngoại giao nhà nước. Còn lúc nói chuyện hay chụp ảnh với nhân viên bảo tàng, hay khi chúng ta ngồi ở quán cà phê, tôi là đại diện của "nhân dân" chứ, "nhân dân Mỹ".
Một lý do quan trọng khiến tôi quyết định theo nghề ngoại giao là tôi thích học ngoại ngữ, thích gặp gỡ và nói chuyện với nhiều người khác nhau, thuộc các nền văn hoá và ngôn ngữ khác nhau. Tôi muốn hiểu suy nghĩ của họ, và lý giải tại sao họ lại ứng xử thế này, hành động thế kia, mà không phải ngược lại.
Tôi nói với anh là tôi sẽ học lại tiếng Việt vào tháng tới là vì lý do như vậy đấy.
Ông sang Việt Nam mới có bốn tháng, mà tôi có cảm giác ông rất hiểu Việt Nam. Vậy trước khi sang Việt Nam, ông có nói chuyện với các chuyên gia về Việt Nam không?
Ồ, có chứ. Tôi đã có một cuộc gặp thú vị.
Vào cuối tháng 7 năm nay, sau khi tôi được phê chuẩn làm Đại sứ tại Việt Nam, Đại sứ Việt Nam tại Mỹ Lê Quốc Cường đã mời tôi đến Đại sứ quán Việt Nam để nghe chuyên gia của ông nói chuyện và trao đổi cả buổi sáng về tình hình quan hệ Việt - Mỹ. Tôi rất biết ơn Đại sứ Cường vì buổi hôm đó, vì tôi nghe được rất nhiều thông tin bổ ích. Chúng tôi vẫn giao lưu định kỳ, và ông Cường giúp tôi rất nhiều.
Ông vẫn còn giữ liên lạc với ông giáo sư tiếng Việt của ông chứ?
Ai cơ?
TNS Jim Webb.
(Cười lớn) TNS Jim Webb đến thăm Việt Nam một ngày sau khi tôi tới Hà Nội nhận nhiệm vụ. Nhiệm vụ quan trọng đầu tiên trên cương vị Đại sứ là tháp tùng ông suốt ba ngày trong những cuộc gặp quan trọng. Nhưng đó cũng là cách tốt nhất để tôi được giới thiệu với các đồng nghiệp Việt Nam, cũng như tôi hiểu thêm về TNS Jim Webb. Đó là ba ngày đáng nhớ trong đời tôi.
Các đồng nghiệp Việt Nam ở Washington mà ông đã gặp trước khi sang đây đánh giá thế nào về triển vọng quan hệ Việt -Mỹ?
Thì tôi đã nói rồi mà.
Ý tôi là phía Việt Nam đánh giá thế nào? Họ có chia sẻ cách nhìn nhận của ông không?
Có chứ. Các nhà ngoại giao cả hai phía đồng ý rằng quan hệ giữa hai nước trong 2-3 năm trở lại đây đã có những bước phát triển khó tin, và hiện cả hai bên đều nhiệt tình với việc tiếp tục thúc đẩy nó. Nhiệm vụ của cả hai bên chúng tôi là biến lòng nhiệt tình đó thành những kết quả cụ thể.
(Còn tiếp...)


-

"Nghị quyết Năm Mới" của Đại sứ Hoa Kỳ (phần 1)

Chúng tôi muốn thế giới biết rằng hai nước có quan hệ song phương rất tốt, có những lợi ích chung, và cả hai phía đều có thể hưởng lợi rất nhiều từ mối quan hệ này, không chỉ kinh tế, giáo dục, y tế, môi trường, mà cả ngoại giao và quốc phòng. Quan hệ đối tác chiến lược là cách tốt nhất để điều hành và điều chỉnh mối quan hệ đang phát triển mà chúng ta đang có. Điều thú vị là những người Việt Nam tôi gặp rất quan tâm tới mối quan hệ này - Đại sứ Mỹ David Shear

Mục Gặp gỡ & Đối thoại tuần này xin trân trọng giới thiệu cuộc trò chuyện khá đặc biệt giữa phóng viên Huỳnh Phan và Đại sứ Mỹ David Shear.
Thứ nhất, cuộc trò chuyện được thực hiện trên xe hơi riêng của Đại sứ David Shear, trong chuyến đi Thái Bình ngày 16.12 vừa rồi của ông.
Thứ hai, đây không hẳn là cuộc phỏng vấn, mà là cuộc trò chuyện thoải mái giữa hai người lần đầu làm quen với nhau trong một chuyến đi. Mặc dù, tất nhiên, để có cuộc gặp đó hoàn toàn không phải do sự tình cờ.
Có điều, phóng viên cũng không cần phải mặt mày căng thẳng, với những câu hỏi "hóc búa" chuẩn bị sẵn, mà tiện đâu hỏi đấy, thích gì hỏi nấy. Còn vị đại sứ cũng không cần "thủ thế", "giữ kẽ", với tư cách là một nhà ngoại giao.
Đại sứ David Shear tự giới thiệu: "Trong nhiệm kỳ làm Phó Đại sứ Mỹ ở Kuala- Lumpur (Malaysia), hai vợ chồng tôi đã đi du lịch Việt Nam vào năm 2007. Chúng tôi rất thích Hà Nội, và Việt Nam nói chung. Lúc đó, tôi không hề nghĩ rằng sẽ có ngày mình sẽ quay trở lại Hà Nội với tư cách Đại sứ Mỹ tại Việt Nam. Tôi nghĩ tôi đã gặp may."
Đại sứ Hoa Kỳ tại  Việt Nam David Shear. Ảnh: Huỳnh Phan
Tôi tò mò không hiểu trải nghiệm về Việt Nam với tư cách một du khách có chút liên quan nào tới việc ông sang đây làm đại sứ không?
Rời Malaysia, tôi trở về Washington làm việc trong ba năm, làm mảng Trung Quốc. Những người ở cấp của tôi bắt đầu tìm chỗ để đi làm đại sứ. Việt Nam chuẩn bị có chỗ trống, và thực sự tôi cũng không hy vọng là mình sẽ được cử sang Việt Nam.
Thế nhưng, vào một ngày đẹp trời, Sếp gọi tôi lên và hỏi tôi có đi Việt Nam không. Ký ức về khoảng thời gian ngắn ngủi đi du lịch Việt Nam đã khiến tôi nghĩ rằng sẽ chẳng có lựa chọn nào tốt hơn. Con người thân thiện, đồ ăn ngon lành, và phong cảnh rất đẹp... Vậy, tại sao lại không đi Việt Nam?
Tôi biết ơn Sếp tôi, và Ngoại trưởng Hillary Clinton đã ủng hộ sự đề cử của tôi. Bởi một khi Bộ Ngoại giao đề cử, Nhà Trắng và Thượng viện phải phê chuẩn. Vì vậy, tôi cũng phải chờ một thời gian, và chỉ sang đây vào tháng 8 năm nay.
Vợ tôi tìm được một thầy dạy làm đồ gốm ngay gần nhà, thế là suốt ngày bà ấy vui thú với việc nặn lọ gốm.
Anh học tiếng Anh ở đâu?
Tôi tự học. Ngoại ngữ tôi được học ở trường lớp là tiếng Nga.
Anh còn nói tiếng Nga tốt chứ.
Cũng lâu không nói, do ít cơ hội giao tiếp.
Anh đã đến Moscow chưa?
Có, tôi học ở đó gần 2 năm, vào cuối những năm '70. Ông đã đến Moscow chưa?
Chưa. Nghề nghiệp của tôi chủ yếu dính dáng đến Nhật Bản, Triều Tiên, Trung Quốc và Đông Nam Á. Tôi đến châu Âu chỉ trong những chuyến công tác ngắn.
Có một lần tôi đã đến Berlin để đàm phán với Bắc Triều Tiên. Một cảm giác rất buồn cười khi đàm phán với người Bắc Triều Tiên ở Berlin.
Trước hay sau khi bức tường Berlin sụp đổ?
Tất nhiên là sau. Vào cuối những năm '90.
Người Mỹ muốn nhìn thấy một điều gì đó tương tự như nước Đức ở bán đảo Triều Tiên?
Có thể là vào một ngày nào đó. Nhưng tôi không hy vọng là sớm đâu.
Vâng, tôi cũng nghĩ vậy. Bắc Triều Tiên rất khác so với Đông Đức.
Trước khi sang đây, ông biết gì về Việt Nam? Về thời chiến nhiều hơn, hay thời bình nhiều hơn?
Nhiều người già ở Mỹ nghĩ tới Việt Nam là nghĩ tới cuộc chiến nhiều hơn. Nhưng cách nhìn đó đang thay đổi, do sự thay đổi thế hệ.
Còn tôi thì tìm hiểu cả hai, quá khứ lẫn hiện tại của Việt Nam. Tôi hiểu Việt Nam có vị trí địa chiến lược quan trọng.
Trước khi sang đây, tôi còn kịp học hai tháng tiếng Việt nữa. Tôi định tháng Một tới sẽ lại tiếp tục học tiếng Việt. Đó là Nghị quyết Năm Mới (New Year Resolution) của tôi. (Cười)
Tôi hy vọng là trước khi hết nhiệm kỳ ở đây, tôi sẽ có thể nói chuyện dễ dàng hơn với người Việt Nam. Chứ không ngớ ngẩn như lần tôi phải điều trần để Thượng Viện phê chuẩn.
Chuyện đó thế nào?
Khi đi dọc hành lang để vào cuộc điều trần trước Uỷ ban Đối ngoại Thượng viện về việc phê chuẩn tôi làm đại sứ, tôi gặp TNS Jim Webb, người sẽ chủ toạ buổi điều trần đó. Tôi biết ông rất giỏi tiếng Việt, nên quyết định nói một câu tiếng Việt, với hy vọng lấy được thiện cảm của ông. Lúc đó, tôi mới học tiếng Việt được một tuần.
Khi bắt tay ông tôi trịnh trọng nói: "Rất hân hạnh được gặp chị."
Ông nhướn mắt nhìn tôi, rồi nói" Rất hân hạnh được gặp anh chứ."
Ông có cảm thấy thoải mái trong thời gian vừa qua ở Hà Nội không?
Rất thú vị. Tôi có một thời gian biểu rất bận rộn.
Không biết anh đã xem đoạn video khoảng hai phút tôi làm và đưa lên youtube nhiều tuần trước khi tôi sang đây. Trong đó tôi nói rằng một trong những nhiệm vụ của tôi là đại diện cho nước Mỹ trước chính phủ Việt Nam, và một nhiệm vụ khác là đại diện cho nước Mỹ trước nhân dân Việt Nam.
Để thực hiện được điều đó, tôi phải ra khỏi Hà Nội, tới thăm những tỉnh thành khác.
Trong lúc chờ cơm trưa ở nhà hàng “Cây Trầu”, người lái xe đã mời Đại sứ Shear thử uống nước vối. Trên đường về, ông hỏi liệu có thể tìm được “nước vối” ở Hà Nội không.
Ông đã kịp đi những tỉnh thành nào rồi?
Tôi đến Đà Nẵng hai lần, TP Hồ Chí Minh ba lần, Hội An, Bạc Liêu, Sơn La và Ninh Bình. Tôi cố gắng làm sao đến trước khi về, có thể đi đủ hết các tỉnh thành của Việt Nam, để gặp gỡ người dân những nơi đó và có một hiểu biết đầy đủ về đất nước các bạn.
Vậy chuyến đi này cũng để thực hiện điều đó?
Đúng. Nhưng tôi thực hiện với sự thích thú.
Hai nhiệm vụ với chính phủ và nhân dân khác nhau thế nào?
Tôi nghĩ nếu tôi kết hợp tốt giữa ngoại giao nhà nước và ngoại giao nhân dân, công việc của tôi ở đây sẽ hiệu quả hơn nhiều.
Thế những người ông gặp ở địa phương có thái độ thế nào với ông?
Họ rất thân thiện và mến khách. Tôi luôn cảm thấy dễ chịu khi gặp họ.
Ông có cảm giác tương tự khi gặp các quan chức chính phủ không?
Có chứ. Trong ba năm trở lại đây, quan hệ hai nước đã được cải thiện nhiều. Hai bên đều cảm thấy dễ lĩnh hội quan điểm của nhau hơn, và dễ hợp tác hơn, so với trước đó.
Chúng ta đã nhận ra rằng chúng ta có nhiều lợi ích chung. Và nhiệm vụ của một đại sứ như tôi là giúp làm sao cả hai bên có thể theo đuổi những lợi ích chung đó.
Tôi đã gặp một số quan chức cao cấp trong chính phủ Việt Nam, và các cuộc trao đổi đều diễn ra khá thân thiện. Thứ trưởng Ngoại giao của chúng tôi William Burns đã thăm Việt Nam cách đây vài ngày, gặp gỡ với Thủ tướng, Ngoại trưởng và một loạt các quan chức cao cấp của chính phủ Việt Nam. Tôi đánh giá các cuộc gặp đó đều thú vị và hiệu quả.
Tôi nghĩ chúng ta có một tiềm năng rất lớn để phát triển quan hệ song phương. Cả ở cấp độ chính phủ và giữa nhân dân hai nước.
Anh nên nhớ rằng hiện có khoảng 15 ngàn sinh viên Việt Nam đang học tập ở khắp nơi trên đất nước Mỹ. Họ là những vị đại sứ tuyệt vời của Việt Nam trên đất Mỹ. Còn khi trở về nước, họ sẽ có những đóng góp quan trọng giúp Việt Nam trở nên giàu mạnh hơn.
Tôi nhắc tới điều đó để nhấn mạnh rằng đối ngoại nhân dân quan trọng như thế nào.
Quả thực là số sinh viên Việt Nam ở Mỹ bây giờ nhiều hơn so với số sinh viên Việt Nam cử sang Liên Xô học ở thời của tôi. Đó là một chỉ dấu rất quan trọng.
Và cũng dễ hiểu thôi, nền giáo dục đại học của Mỹ hấp dẫn không chỉ với giới trẻ Việt Nam, mà hầu như giới trẻ trên toàn thế giới. Con trai tôi chẳng hạn, vừa tốt nghiệp Đại học Ngoại thương được nửa năm và hiện đang làm Công ty Kiểm toán Delotte, cũng đang chuẩn bị để tìm học bổng sang Mỹ học cao học.
Ở sứ quán chúng tôi có một chuyên gia tư vấn về giáo dục. Hãy bảo cậu ấy đến đó để nhận được những chỉ dẫn và lời khuyên hữu ích cho việc tìm kiếm học bổng ở các trường đại học của Mỹ.
Xin cám ơn ông.
(Xe quay đầu trên đường Giải phóng)
Ồ, tôi biết chỗ ngoặt này để chuyển sang đường cao tốc. Tuần trước, tôi đi Ninh Bình, cũng hướng này.
Tôi đã đến Nhà thờ Phát Diệm. Và sau đó, vào bữa trưa chúng tôi ăn thịt dê, dê núi. Tuyệt vời. Sau đó, chúng tôi đi thuyền vào động Trang An.
Ông có uống rượu không?
Ồ, có. Cũng tuyệt.
Rượu tiết dê?
Ồ, không. Tôi chưa dám uống.
Ông có biết rằng tác giả của cuốn "Một người Mỹ trầm lặng" cũng đã từng nằm trên tháp chuông của của Nhà thờ Phát Diệm không?
Graham Green? Hay nhỉ?
Năm 1993, tôi đã dẫn một nhà văn Mỹ, người đang viết sách tiểu sử về Graham Green (tập 2) đến Nhà thờ Phát Diệm. Ông đòi lên Tháp chuông xem và chụp ảnh vì Graham Green đã từng nằm ở đó.
Đó là thông tin bây giờ tôi mới biết.
Ông thích cuộc sống ở đô thị, hay nông thôn, hơn?
Tôi mong rằng, sau khi nghỉ hưu, tôi sẽ có hai ngôi nhà, một ở thành phố, một ở thôn quê. Tôi sẽ để ý tiết kiệm tiền hơn để thực hiện được ý định đó.
Anh đã tới Thái Bình lần nào chưa?
Rồi. Lần trước, cách đây hơn 3 năm, tôi đã đi theo những người làm dự án về sự tham gia của người dân vào việc điều hành ở thôn xã.
Cách đây hơn 10 năm, ở Thái Bình đã xảy ra bất ổn lớn. Sau đó, cả chính quyền và một tổ chức NGO đã vào cuộc để xây dựng cơ chế dân chủ cơ sở, tức là tổ chức do người dân lập ra tự giải quyết một phần các mối quan hệ trong đời sống cộng đồng.
Kết quả ra sao?
Rất tốt, ít nhất là tốt hơn nhiều so với trước đó. Chính quyền thôn xã cũng thừa nhận rằng công việc của họ cũng đỡ phức tạp đi nhiều.
Ông nói là ông có lên Sơn La. Vậy ông nhìn nhận như thế nào về sự chênh lệch về trình độ phát triển ở đó với dưới này?
Quả thật là tôi có nhận thấy sự chênh lệch đó. Nhưng tôi cũng nhìn thấy cố gắng của Sơn La. Bằng chứng là tôi nhìn thấy rất nhiều xe máy trên đó, và việc canh tác trong những thung lũng ở Sơn La tỏ ra khá có hiệu quả.
Tôi rất muốn quay trở lại Tây Bắc để tìm hiểu thêm, và lưu lại lâu hơn, bởi tôi đã ở Sơn La chỉ có một ngày. Và tôi cũng muốn đến thăm Điện Biên Phủ.
Đúng vậy. Và lần tới, ông nên đi sâu hơn nữa vào vùng núi, nơi ông sẽ nhìn thấy ít xe máy hơn, và cuộc sống của người dân khó khăn hơn nhiều.
Con gái tôi hiện sống và làm việc ở New York. Cô bé sẽ sang Việt Nam chơi vào tháng Một, hay tháng Hai tới. Cô bé muốn đi du lịch Sa Pa. Có lẽ, chúng tôi sẽ đi tàu hoả lên đó, và chơi ở đó khoảng đôi ba ngày. Con gái tôi đã đi cùng chúng tôi trong chuyến du lịch Việt Nam năm 2007.
Kết hợp giữa ngoại giao nhà nước và ngoại giao nhân dân là triết lý ngoại giao riêng của ông?
Không. Các đại sứ quán của Mỹ trên khắp thế giới đều làm như vậy.
Và đại sứ quán Việt Nam tại Washington, cũng như các lãnh sự quán ở vài bang khác, cũng làm điều tương tự.
Tất nhiên, ở cương vị đại sứ, tôi xuất hiện nhiều hơn trước những người dân Việt Nam, ở những sự kiện khác nhau, như tôi sắp làm trong chuyến đi này.
Nhưng không chỉ có tôi. Mọi nhân viên đại sứ quán đều phải ra ngoài làm nhiệm vụ này ở các sự kiện khác nhau.
Họ có phải xin phép khi phát biểu ở đâu đó không?
Tôi nghĩ là chúng tôi phải được sự cho phép của chính quyền phía Việt Nam để đi thăm một nơi nào đó. Nhưng, theo tôi biết, chúng tôi không cần xin phép khi phát biểu.
Điều mà tôi thấy thú vị là người Việt Nam rất tò mò về mọi khía cạnh trong quan hệ giữa hai nước chúng ta. Và tôi cũng rất thích thú khi hỏi họ về những điều họ suy nghĩ, họ quan tâm. Cứ mỗi lần đi tỉnh trở về, là lại một lần kiến thức của tôi về Việt Nam, về công việc của mình, lại dày dặn thêm.
Người dân thường hỏi ông những gì? Hay loại câu hỏi nào mà ông thường phải trả lời nhất?
Chẳng hạn, khi tôi gặp gỡ những người trẻ tuổi, tôi thường hay phải trả lời về việc làm thế nào để một thanh niên Việt Nam có thể qua Mỹ học, làm cách nào để tìm trường phù hợp, xin được visa, hay kiếm học bổng... Và chúng tôi cố gắng đáp ứng nguyện vọng của họ thông qua website của sứ quán, thông qua Văn phòng Education USA ở Hà Nội và Tp Hồ Chí Minh.
Nhưng tôi nghĩ đó là mối quan tâm của giới trẻ ở đô thị, nơi có điều kiện tiếp cận giáo dục tốt hơn. Còn ở nông thôn, chắc giới trẻ quan tâm đến chuyện khác nhiều hơn, bởi chuyện đi học ở Mỹ với họ, theo tôi nghĩ, có vẻ hơi xa xỉ?
Ngay cả ở Bạc Liêu, tôi cũng gặp những thanh niên muốn sang Mỹ học. Tất nhiên, ở đó họ cũng quan tâm nhiều tới việc thu hút đầu tư từ Mỹ đến địa phương của họ.
Một mối quan tâm nữa của những người Việt tôi gặp là làm sao cải thiện hệ thống giáo dục của Việt Nam. Vì vậy, một trong những ưu tiên của tôi là tìm cách cải thiện hạ tầng giáo dục, và cả hạ tầng y tế, ở đây.
Tôi tò mò, không hiểu người dân thường ở Việt Nam mà ông gặp có quan tâm tới mối quan hệ đối tác chiến lược mà hai chính phủ chúng ta đang hướng tới không?
Có chứ, họ cũng rất quan tâm. Tuyên bố của Ngoại trưởng Hillary Clinton vào tháng 10 năm ngoái tại Hà Nội, rằng hai nước mong muốn xây dựng quan hệ đối tác chiến lược, chính là một cách báo hiệu tốt nhất cho thế giới về quan hệ ngày càng được cải thiện giữa hai nước. Chúng tôi muốn thế giới biết rằng hai nước có quan hệ song phương rất tốt, có những lợi ích chung, và cả hai phía đều có thể hưởng lợi rất nhiều từ mối quan hệ này, không chỉ kinh tế, giáo dục, y tế, môi trường, mà cả ngoại giao và quốc phòng.
Quan hệ đối tác chiến lược có một nội hàm rất rộng, rất toàn diện, và là cách tốt nhất để điều hành và điều chỉnh mối quan hệ đang phát triển mà chúng ta đang có.
Điều thú vị là những người Việt Nam tôi gặp rất quan tâm tới mối quan hệ này, và tôi luôn nhấn mạnh tới những lợi ích chung của Việt Nam và Mỹ.
Tôi muốn khẳng định lại là những người Việt Nam bình thường khi nói chuyện với ông hỏi ông về quan hệ đó, chứ không phải ông chủ động nói với họ. Bởi dường như vế đầu tiên thực sự có ý nghĩa hơn?
Đúng, họ luôn hỏi tôi về mối quan hệ đối tác chiến lược. Và, anh nói đúng, điều đó thực sự có ý nghĩa quan trọng.
Tôi có đọc thông cáo báo chí của Đại sứ quán Mỹ liên quan đến chuyến đi của Thứ trưởng William Burns sang Việt Nam. Trong đó có nói rằng hai bên đang xác định nội hàm của khái niệm đối tác chiến lược. Ông có nghĩ rằng cả phía Việt Nam cũng hiểu khái niệm như phía Mỹ hiểu không? Xin lỗi vì câu hỏi hơi ngớ ngẩn của tôi, nhưng trên thực tế Việt Nam đã có quan hệ đối tác chiến lược với một loạt quốc gia, thậm chí cả Tây Ban Nha nữa.
(Cười lớn) Tôi nghĩ, riêng về mối quan hệ đối tác chiến lược Việt - Mỹ, cả hai bên đều hiểu rõ điều đó thực sự có ý nghĩa gì. Trong những tháng tới cả hai bên sẽ làm việc để xác định những lĩnh vực cụ thể. Nhưng tôi muốn khẳng định lại rằng đây là một mối quan hệ toàn diện, bao gồm tất cả các lĩnh vực. Đây là cách để hình thành một lối tư duy mới cả từ hai phía để làm sao đưa mối quan hệ lên một tầm cao mới.
Ông có cho rằng hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) sẽ là một bộ phận cấu thành quan trọng của quan hệ đối tác chiến lược Mỹ - Việt?
Theo tôi hiểu, Việt Nam mong muốn hội nhập sâu hơn nữa vào nền kinh tế toàn cầu. Việc tham gia TPP sẽ giúp Việt Nam có thể giúp Việt Nam thực hiện mong muốn đó, và còn hơn nữa - hội nhập đầy đủ vào nền kinh tế toàn cầu.
Ông nghĩ thế nào về triển vọng ký TPP trong vòng một năm nữa?
Các nguyên thủ của các quốc gia đang đàm phán TPP đã gặp nhau hồi tháng 10 ở Honolulu trong cuộc gặp thượng đỉnh (lần thứ hai). Họ đã cam kết sẽ hoàn tất đàm phán TPP trong năm 2012. Đó là một quá trình phức tạp, với những cam kết mở cửa rất rộng, nên sẽ phải có nhiều việc phải làm. Các nhà đàm phán Việt Nam là những nhà đàm phán giỏi, cứng rắn, nhưng cũng có nét thú vị riêng, và quan trọng, là họ hiểu được tất cả những lợi ích của Việt Nam khi ký hiệp định này.
Tôi tin là cuối cùng mọi chuyện sẽ ổn thoả, bởi các nguyên thủ đã cam kết sẽ thúc đẩy mạnh trong năm tới.
(Còn tiếp...)

------

Tổng số lượt xem trang