Bạn biến thành thù
Trong thiên ký sự nổi tiếng “Đường vào Phnom Penh”, thiếu tướng Bùi Cát Vũ đã kể lại chuyện ông đọc được một bản nghị quyết của tập đoàn Pol Pot với nội dung coi Việt Nam là kẻ thù số 1. Bản nghị quyết đó đến tay thiếu tướng Bùi Cát Vũ qua một sĩ quan Campuchia, trước kia từng là người của Khmer Đỏ nhưng đã nhận ra bản chất sô-vanh của bọn chúng và chạy sang với quân đội Việt Nam.
Bản đồ các mũi tiến công của QĐND Việt Nam tiêu diệt tập đoàn Pol Pot. |
Về quân sự, Duôl (An-nam) có quân đội mạnh, có kinh nghiệm chiến đấu, trang bị phương tiện nhiều, song sau khi thống nhất thì tinh thần quân đội sút kém ...
Tuy mạnh về quân sự nhưng yếu về chính trị, đang gặp nhiều khó khăn nên không đủ sức mạnh đánh lại chúng ta ... Về chiến lược thì bị kềm chế, không dám tấn công sâu qua đất nước Kampuchia ...
Ta phải lấy tư tưởng tấn công là chính, và đưa chiến tranh sang Việt Nam. Phải tấn công trước, tấn công dồn dập để Duôl (An-nam) không kịp trở tay ...”.
”Việt Nam quá yếu”!
Ngoài nghị quyết trên, Pol Pot còn hàng ngày ra rả tuyên truyền cho các thuộc cấp rằng Việt Nam rất yếu, không thể chống lại một cuộc tấn công của quân Khmer Đỏ. Nhận định của tên trùm phản động hầu như chỉ dựa trên cảm tính chứ không hề có căn cứ gì.
Tội ác diệt chủng của Pol Pot |
Tôi, Sihanouk, đã tìm cách để không xảy ra tai hoạ đó trong việc làm cho những người hàng xóm láng giềng của chúng ta tôn trọng nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của chúng ta sau khi họ đã rõ ràng chiến thắng đạo quân viễn chinh của Mỹ và lũ tay sai. Khmer Đỏ lại nghĩ khác. Họ muốn đánh phủ đầu Việt Nam mà họ gọi là “kẻ thù truyền kiếp”. Quả là Khmer Đỏ cứ tưởng mình vô địch, muốn làm gì cũng được.
Khmer Đỏ là những kẻ sùng bái Mussolini (Benito Amilcare Andrea Mussolini (29 tháng 7, 1883 – 28 tháng 4, 1945) là thủ tướng độc tài cai trị phát xít Ý - NV) và Hitler (Adolf Hitler (20/4/1889 – 30/4/1945) là nguyên thủ quốc gia nắm quyền Đế quốc Đức kể từ năm 1934. Hitler đã gây ra Đệ nhị thế chiến, thúc đẩy một cách có hệ thống quá trình tước đoạt quyền lợi và sát hại khoảng sáu triệu người Do Thái châu Âu cùng một số nhóm chủng tộc, tôn giáo, chính trị khác - NV). Khmer Đỏ cứ tưởng mình khỏe hơn phát xít. Chính Pol Pot đã tuyên bố rất nghiêm túc, không chút khôi hài: “Việt Nam quá yếu. Một mình Việt Nam không dám đọ sức với ta đâu?”. Chính vì vậy, Khmer Đỏ đã tự chui mình vào cạm bẫy của chính họ”.
Cũng còn những lý do khác để Pol Pot yên chí khiêu khích quân đội Việt Nam. Theo phân tích của thiếu tướng Bùi Cát Vũ: “Thật ra trong thâm tâm, chúng nhận định rằng lực lượng cách mạng không đủ sức và cũng không dám tấn công toàn diện. Mà nếu chỉ giải phóng đến bờ đông sông Mêkông để lập căn cứ cho Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia thì lực lượng cách mạng sẽ sa lầy đến ngực, vì vùng này toàn là rừng ít dân. Nếu chúng lùa dân đi nữa, thì là vùng không dân, kinh tế không có gì, đường xá rất ít, phạm vi rộng, hậu phương xa.
Ta sẽ tiêu tốn rất nhiều sức người, sức của, không thể nào chịu nổi trong cuộc chiến tranh lâu dài. Chừng ấy chúng tha hồ giành chủ động ở biên giới phía Bắc, phá hoại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta”.
Kế hoạch “gài bẫy” Việt Nam
Trong thực tế cuộc phản công biên giới Tây Nam, quân đội Việt Nam đã giành chiến thắng một cách chớp nhoáng. Ngày 23.12.1978 bắt đầu tổng tiến công từ biên giới vào đất Campuchia thì đến 7.1.1979 đã chiếm được Phnom Penh. Trong lịch sử quân sự, hiếm có quân đội nào tiến được mau chóng đến thế.
Lính Khmer Đỏ bị thương trong các cuộc giao tranh ở biên giới. |
Pol Pot tính toán rằng nếu đóng quân ở Campuchia thì Việt Nam phải duy trì quân đội từ trên 1 triệu tới 2 triệu người, mỗi quân nhân tiêu tốn 20 đô la một ngày thì chẳng mấy chốc nước Việt Nam sẽ kiệt sức.
Ý tưởng đó của Pol Pot được thể hiện rõ trong khi thuyết trình trước ông hoàng Sihanouk vào ngày 3.1.1979 (Lúc này ông Sihanouk đã xin nghỉ hưu và bị Pol Pot giam lỏng nhưng trước sự sụp đổ do sức tấn công của Việt Nam, Pol Pot phải viện đến Sihanouk công cán nước ngoài để tuyên truyền rằng Việt Nam xâm lược Campuchia).
Y nói: “Hiện nay, tình hình chiến sự ở Campuchia là rất tốt đối với quân đội ta. Chúng ta đang giương một cái bẫy, nhử cho địch vào sâu để tiêu diệt luôn toàn bộ sức mạnh quân sự của chúng. Đứng trước kẻ địch, chúng ta phải lựa chọn một trong hai chiến lược, hoặc là chặn đứng sức tiến quân của đối phương trên suốt tuyến biên giới. Nhưng làm như vậy thì quân Việt sẽ không bị tiêu diệt toàn bộ và vẫn có thê tiếp tục phát triển trong nội địa của chúng.
Hoặc là ta mở toang biên giới làm cho chúng tưởng ta rất yếu, khi đại bộ phận quân địch đã lọt vào trong đất nước ta, chúng ta sẽ bao vây chúng, chia cắt chúng, tiêu diệt chúng. Chúng sẽ bị chìm nghỉm và tan rã như muối gặp nước, trong đại dương hung dữ của cuộc kháng chiến toàn dân và các lực lượng vũ trang vô địch của chúng ta.
Hoặc là ta mở toang biên giới làm cho chúng tưởng ta rất yếu, khi đại bộ phận quân địch đã lọt vào trong đất nước ta, chúng ta sẽ bao vây chúng, chia cắt chúng, tiêu diệt chúng. Chúng sẽ bị chìm nghỉm và tan rã như muối gặp nước, trong đại dương hung dữ của cuộc kháng chiến toàn dân và các lực lượng vũ trang vô địch của chúng ta.
Bộ Tổng tư lệnh đã chọn chiến lược thứ hai này. Chỉ trong vòng hai tháng, ba tháng nữa là cùng ta sẽ tiêu diệt, thanh toán toàn bộ sinh lực địch. Tôi hi vọng lúc đó sẽ có vinh dự được đón Thái tử trở về nước, khoảng ba tháng nữa là chậm nhất. Trong lúc chờ đợi, Thái tử sẽ được cử đi làm những nhiệm vụ to lớn cho nhân dân, cho dân tộc cho đất nước tại Liên Hợp Quốc và các nước bạn”.
Cũng chính trong đoạn hồi ký này, Sihanouk đã bình luận: “Tôi chỉ còn biết cảm tạ và ca ngợi nhà chiến lược thiên tài, rất xứng đáng so sánh với Hitler trong những ước vọng ngông cuồng nhất, và cũng rất điên dại và ngu dốt như Lon Nol”.
Sự thực chỉ mấy ngày sau Phnom Penh thất thủ nhưng 3 tháng sau, quân đội Việt Nam không hề bị tiêu diệt mà còn phát triển ra chốt giữ toàn bộ lãnh thổ Campuchia và đẩy tập đoàn diệt chủng Pol Pot sang sát biên giới Thái Lan. Và nếu như lực lượng Pol Pot không được các thế lực bên ngoài hà hơi tiếp sức thì nó không thể trụ được đến hết năm 1979.
(Còn nữa)
Trường Sơn.--Kỳ 1: Chiến trường K: Cuộc chiến bắt buộc
(ĐVO) Chiến tranh biên giới Tây Nam là một cuộc chiến tranh vệ quốc mà cũng là một hành động nghĩa hiệp của nhân dân và quân đội Việt Nam giúp đỡ nước láng giềng Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng
Bí mật cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam
Chiến tranh biên giới Tây Nam là một cuộc chiến tranh vệ quốc mà cũng là một hành động nghĩa hiệp của nhân dân và quân đội Việt Nam giúp đỡ nước láng giềng Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng. Mặc dù vậy, cuộc chiến này còn nhiều góc khuất chưa có nhiều người biết.
Việt Nam từng bị lên án oan là xâm lược Campuchia, nhưng sự thực cuộc chiến đó là người Việt bị ép phải tiến hành để tự vệ trước hành động xâm lấn lãnh thổ và tàn sát người Việt ở biên giới Tây Nam của Pol Pot.
Sự phản bội của Khmer Đỏ
Ngay sau khi Việt Nam thống nhất đất nước, ngày 4.5.1975, chính quyền Khmer Đỏ đã xua quân đánh chiếm đảo Phú Quốc của nước ta. 6 ngày sau, chúng lại tấn công đảo Thổ Chu và giết hại hơn 500 dân thường ở đảo này. Ngay sau đó, quân đội Việt Nam đã phản công chiếm lại được đảo nhưng sự kiện này đã mở đầu cho sự trở mặt của tập đoàn Khmer Đỏ đối với Việt Nam.
Tấm bia ghi tội ác bọn Pol Pot thảm sát nhân dân Việt Nam ở Ba Chúc (huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang) tháng 4.1978.
Cho đến tháng 4.1977, Khmer Đỏ huy động quân chính quy đánh sang An Giang, Tây Ninh của Việt Nam vượt qua biên giới đến hơn 10 km. Quân đội Khmer Đỏ đi đến đâu là đốt phá làng mạc và tàn sát người Việt vì lệnh từ trung ương Khmer Đỏ đã ghi rõ: “Chỉ cần mỗi ngày diệt vài chục, mỗi tháng diệt vài ngàn, mỗi năm diệt vài ba vạn thì có thể đánh 10, 15, đến 20 năm. Thực hiện 1 diệt 30, hy sinh 2 triệu người Campuchia để tiêu diệt 50 triệu người Việt Nam”.
Trong một góc độ khác, Khmer Đỏ đã có dấu hiệu chống đối và phá hoại Việt Nam khi từ năm 1973. Chúng bắt giết người gốc Việt sinh sống trên đất Campuchia và thậm chí giết cả những người Campuchia có cảm tình với Việt Nam.
Những sự thực này được chính cựu hoàng Sihanouk đề cập trong hồi ký của ông: “Từ năm 1973 Khmer Đỏ đã tàn sát hàng vạn kiều dân Việt Nam, tố cáo họ là “gián điệp”. Khmer Đỏ còn giết hại cả những đảng viên cộng sản có thiện cảm với Việt Nam. Trước khi Mỹ và Việt Nam ký Hiệp định Paris năm 1973, Khmer Đỏ đã trục xuất những đơn vị quân đội Việt Nam (giúp Campuchia đánh Lon Nol) đóng trên đất Campuchia về nước. Sau chiến thắng ngày 17.4.1975, Khmer Đỏ còn mưu toan đánh chiếm những vùng có người Khơme Khom trên lãnh thổ Việt Nam, phạm nhiều tội ác kinh tởm đối với dân thường, kể cả phụ nữ, trẻ em”.
Cuộc chiến bị bắt buộc
Sau những vụ khiêu khích của Khmer Đỏ, tháng 12.1977, 6 sư đoàn quân đội nhân dân Việt Nam đánh sang đất Campuchia đến tận Niek Luong. Cuộc tấn công này được Việt Nam xem là lời "cảnh cáo" cho Khmer Đỏ. Ngay sau đó, phía Việt Nam đề nghị một giải pháp ngoại giao nhằm thiết lập một vùng phi quân sự dọc biên giới, nhưng Pol Pot từ chối, và giao tranh tiếp diễn.
Biên đội trực thăng UH-1A của QĐND Việt Nam chi viện chiến trường Campuchia
Sự kiện này cũng được cựu hoàng Sihanouk thừa nhận. Ông viết: “Khmer Đỏ khước từ mọi đề nghị thương lượng, đàm phán hoà bình của Việt Nam. Vì vậy, đến cuối năm 1977, những người Việt Nam quá bực tức vì Khmer Đỏ tiến công khiêu khích đã đánh lại bọn Pol Pot trên nhiều mặt trận suốt dọc biên giới hai nước. Xe tăng Việt Nam có lần chỉ cách Phnom Penh 50 kilômét nhưng đến hôm sau lại rút ngay về phía bên kia biên giới.
Chính phủ Việt Nam đề nghị dàn hoà, đồng thời đề nghị thiết lập một khu phi quân sự dọc theo biên giới hai nước có chiều rộng 10 kilômét (ăn sâu vào lãnh thổ mỗi bên 5 kilômét). Một đội giám sát quốc tế do hai nước cử ra sẽ tuần tiễu trong khu phi quân sự đó để bảo đảm hoà bình lâu dài giữa hai nước.
Suốt mấy tháng liền, Đài Hà Nội liên tục nhắc đi nhắc lại đề nghị này. Nhưng các thủ lĩnh Khmer Đỏ, thông qua Pol Pot, đã bác bỏ mọi đề nghị của Việt Nam. Những cuộc tàn sát người Việt Nam do hằn thù dân tộc, bắt đầu diễn ra từ thời kỳ ngự trị của Lon Nol, nay lại tiếp tục dưới thời Pol Pot.
Do kiêu ngạo và quá ngu dốt, Pol Pot đã cố tình gạt cái sào mà Hà Nội đã chìa ra, do đó Pol Pot đã chuốc lấy sự sụp đổ của chính bản thân cùng với sự sụp đổ của chế độ Pol Pot”.
Không thể nói chuyện hòa bình với Pol Pot, ngày 23.12.1978, quân đội Việt Nam phản công trên toàn tuyến biên giới. Ở tất cả các phòng tuyến, quân đội Khmer Đỏ đều vỡ trận và bỏ chạy trước sức tấn công mãnh liệt của bộ đội Việt Nam.
Chỉ 2 tuần sau khi chiến dịch phản công bắt đầu, ngày 7.1.1979, quân đội Việt Nam đã vào được Phnom Penh, tập đoàn Khmer Đỏ bỏ chạy khỏi thủ đô lên vùng rừng núi tây bắc giáp với Thái Lan. Cho đến tháng 4.1979 khi quân đội Việt Nam tỏa ra khắp lãnh thổ Campuchia thì người dân nước này chính thức thoát khỏi chế độ Khmer Đỏ.
Những người chiến thắng cao thượng
Khác với nhiều cuộc chiến tranh, trong cuộc chiến tranh này những người chiến thắng lại là những người thiệt thòi nhất. Từ chỗ đấu tranh tự vệ để bảo vệ lãnh thổ và nhân dân, quân đội Việt Nam quyết định tiêu diệt chế độ diệt chủng Pol Pot để vừa bảo vệ mình vừa giải phóng nhân dân Campuchia. Trong toàn bộ cuộc chiến ấy, hàng chục ngàn bộ đội Việt Nam đã bị thiệt mạng, bị thương tật.
Bộ đội Việt Nam tiến vào giải phóng Phnom Penh ngày 7.1.1979
Trong bối cảnh đất nước vừa trải qua 2 cuộc kháng chiến mấy chục năm vừa được hòa bình thì lại phải tiếp tục ném nhân tài vật lực vào cuộc chiến này. Không kể những tài sản mất đi trong chiến tranh thì chỉ riêng nguồn nhân lực là thanh niên trai tráng khi hết chiến tranh bị hy sinh, thương tật cũng đã là một tổn thất rất lớn cho công cuộc xây dựng kinh tế đất nước. Thêm vào đó, 10 năm quân đội Việt Nam phải đồn trú trên đất Campuchia để bảo đảm an ninh cho chính quyền nước bạn còn non trẻ. Với hàng chục ngàn quân phải duy trì ở đất bạn khiến cho kinh tế trong nước gặp khó khăn rất lớn.
Một điều thiệt thòi hơn nữa là vì cuộc chiến tranh này, nhiều nước đã lớn tiếng vu oan cho Việt Nam là xâm lược Campuchia khiến một thời gian Việt Nam bị cô lập trên trường quốc tế. Nhưng sự thực là người Campuchia cần bộ đội Việt Nam ở lại đất nước họ để giữ gìn an ninh.
Chính thủ tướng Hun Sen bộc lộ trong cuốn sách “Hun Sen – Nhân vật xuất chúng của Campuchia” rằng: “Chính phủ Việt Nam không muốn để quân lại, phía chúng tôi đã yêu cầu họ như thế. Không có sự giúp đỡ của Việt Nam, chúng tôi sẽ chết. Không có Pol Pot sẽ không có lực lượng vũ trang nào của Việt Nam trên đất Campuchia”.
Cho đến nay, khi những xấu xa của tập đoàn Pol Pot bị phơi bày ra thế giới và Tòa án quốc tế đưa ra xét xử tội phạm diệt chủng của chúng thì chẳng mấy ai nhắc tới Việt Nam với công lao ngăn chặn nạn diệt chủng ấy, ngoài chính quyền và nhân dân Campuchia.
Bí mật cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam
Chiến tranh biên giới Tây Nam là một cuộc chiến tranh vệ quốc mà cũng là một hành động nghĩa hiệp của nhân dân và quân đội Việt Nam giúp đỡ nước láng giềng Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng. Mặc dù vậy, cuộc chiến này còn nhiều góc khuất chưa có nhiều người biết.
Việt Nam từng bị lên án oan là xâm lược Campuchia, nhưng sự thực cuộc chiến đó là người Việt bị ép phải tiến hành để tự vệ trước hành động xâm lấn lãnh thổ và tàn sát người Việt ở biên giới Tây Nam của Pol Pot.
Sự phản bội của Khmer Đỏ
Ngay sau khi Việt Nam thống nhất đất nước, ngày 4.5.1975, chính quyền Khmer Đỏ đã xua quân đánh chiếm đảo Phú Quốc của nước ta. 6 ngày sau, chúng lại tấn công đảo Thổ Chu và giết hại hơn 500 dân thường ở đảo này. Ngay sau đó, quân đội Việt Nam đã phản công chiếm lại được đảo nhưng sự kiện này đã mở đầu cho sự trở mặt của tập đoàn Khmer Đỏ đối với Việt Nam.
Tấm bia ghi tội ác bọn Pol Pot thảm sát nhân dân Việt Nam ở Ba Chúc (huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang) tháng 4.1978.
Cho đến tháng 4.1977, Khmer Đỏ huy động quân chính quy đánh sang An Giang, Tây Ninh của Việt Nam vượt qua biên giới đến hơn 10 km. Quân đội Khmer Đỏ đi đến đâu là đốt phá làng mạc và tàn sát người Việt vì lệnh từ trung ương Khmer Đỏ đã ghi rõ: “Chỉ cần mỗi ngày diệt vài chục, mỗi tháng diệt vài ngàn, mỗi năm diệt vài ba vạn thì có thể đánh 10, 15, đến 20 năm. Thực hiện 1 diệt 30, hy sinh 2 triệu người Campuchia để tiêu diệt 50 triệu người Việt Nam”.
Trong một góc độ khác, Khmer Đỏ đã có dấu hiệu chống đối và phá hoại Việt Nam khi từ năm 1973. Chúng bắt giết người gốc Việt sinh sống trên đất Campuchia và thậm chí giết cả những người Campuchia có cảm tình với Việt Nam.
Những sự thực này được chính cựu hoàng Sihanouk đề cập trong hồi ký của ông: “Từ năm 1973 Khmer Đỏ đã tàn sát hàng vạn kiều dân Việt Nam, tố cáo họ là “gián điệp”. Khmer Đỏ còn giết hại cả những đảng viên cộng sản có thiện cảm với Việt Nam. Trước khi Mỹ và Việt Nam ký Hiệp định Paris năm 1973, Khmer Đỏ đã trục xuất những đơn vị quân đội Việt Nam (giúp Campuchia đánh Lon Nol) đóng trên đất Campuchia về nước. Sau chiến thắng ngày 17.4.1975, Khmer Đỏ còn mưu toan đánh chiếm những vùng có người Khơme Khom trên lãnh thổ Việt Nam, phạm nhiều tội ác kinh tởm đối với dân thường, kể cả phụ nữ, trẻ em”.
Cuộc chiến bị bắt buộc
Sau những vụ khiêu khích của Khmer Đỏ, tháng 12.1977, 6 sư đoàn quân đội nhân dân Việt Nam đánh sang đất Campuchia đến tận Niek Luong. Cuộc tấn công này được Việt Nam xem là lời "cảnh cáo" cho Khmer Đỏ. Ngay sau đó, phía Việt Nam đề nghị một giải pháp ngoại giao nhằm thiết lập một vùng phi quân sự dọc biên giới, nhưng Pol Pot từ chối, và giao tranh tiếp diễn.
Biên đội trực thăng UH-1A của QĐND Việt Nam chi viện chiến trường Campuchia
Sự kiện này cũng được cựu hoàng Sihanouk thừa nhận. Ông viết: “Khmer Đỏ khước từ mọi đề nghị thương lượng, đàm phán hoà bình của Việt Nam. Vì vậy, đến cuối năm 1977, những người Việt Nam quá bực tức vì Khmer Đỏ tiến công khiêu khích đã đánh lại bọn Pol Pot trên nhiều mặt trận suốt dọc biên giới hai nước. Xe tăng Việt Nam có lần chỉ cách Phnom Penh 50 kilômét nhưng đến hôm sau lại rút ngay về phía bên kia biên giới.
Chính phủ Việt Nam đề nghị dàn hoà, đồng thời đề nghị thiết lập một khu phi quân sự dọc theo biên giới hai nước có chiều rộng 10 kilômét (ăn sâu vào lãnh thổ mỗi bên 5 kilômét). Một đội giám sát quốc tế do hai nước cử ra sẽ tuần tiễu trong khu phi quân sự đó để bảo đảm hoà bình lâu dài giữa hai nước.
Suốt mấy tháng liền, Đài Hà Nội liên tục nhắc đi nhắc lại đề nghị này. Nhưng các thủ lĩnh Khmer Đỏ, thông qua Pol Pot, đã bác bỏ mọi đề nghị của Việt Nam. Những cuộc tàn sát người Việt Nam do hằn thù dân tộc, bắt đầu diễn ra từ thời kỳ ngự trị của Lon Nol, nay lại tiếp tục dưới thời Pol Pot.
Do kiêu ngạo và quá ngu dốt, Pol Pot đã cố tình gạt cái sào mà Hà Nội đã chìa ra, do đó Pol Pot đã chuốc lấy sự sụp đổ của chính bản thân cùng với sự sụp đổ của chế độ Pol Pot”.
Không thể nói chuyện hòa bình với Pol Pot, ngày 23.12.1978, quân đội Việt Nam phản công trên toàn tuyến biên giới. Ở tất cả các phòng tuyến, quân đội Khmer Đỏ đều vỡ trận và bỏ chạy trước sức tấn công mãnh liệt của bộ đội Việt Nam.
Chỉ 2 tuần sau khi chiến dịch phản công bắt đầu, ngày 7.1.1979, quân đội Việt Nam đã vào được Phnom Penh, tập đoàn Khmer Đỏ bỏ chạy khỏi thủ đô lên vùng rừng núi tây bắc giáp với Thái Lan. Cho đến tháng 4.1979 khi quân đội Việt Nam tỏa ra khắp lãnh thổ Campuchia thì người dân nước này chính thức thoát khỏi chế độ Khmer Đỏ.
Những người chiến thắng cao thượng
Khác với nhiều cuộc chiến tranh, trong cuộc chiến tranh này những người chiến thắng lại là những người thiệt thòi nhất. Từ chỗ đấu tranh tự vệ để bảo vệ lãnh thổ và nhân dân, quân đội Việt Nam quyết định tiêu diệt chế độ diệt chủng Pol Pot để vừa bảo vệ mình vừa giải phóng nhân dân Campuchia. Trong toàn bộ cuộc chiến ấy, hàng chục ngàn bộ đội Việt Nam đã bị thiệt mạng, bị thương tật.
Bộ đội Việt Nam tiến vào giải phóng Phnom Penh ngày 7.1.1979
Trong bối cảnh đất nước vừa trải qua 2 cuộc kháng chiến mấy chục năm vừa được hòa bình thì lại phải tiếp tục ném nhân tài vật lực vào cuộc chiến này. Không kể những tài sản mất đi trong chiến tranh thì chỉ riêng nguồn nhân lực là thanh niên trai tráng khi hết chiến tranh bị hy sinh, thương tật cũng đã là một tổn thất rất lớn cho công cuộc xây dựng kinh tế đất nước. Thêm vào đó, 10 năm quân đội Việt Nam phải đồn trú trên đất Campuchia để bảo đảm an ninh cho chính quyền nước bạn còn non trẻ. Với hàng chục ngàn quân phải duy trì ở đất bạn khiến cho kinh tế trong nước gặp khó khăn rất lớn.
Một điều thiệt thòi hơn nữa là vì cuộc chiến tranh này, nhiều nước đã lớn tiếng vu oan cho Việt Nam là xâm lược Campuchia khiến một thời gian Việt Nam bị cô lập trên trường quốc tế. Nhưng sự thực là người Campuchia cần bộ đội Việt Nam ở lại đất nước họ để giữ gìn an ninh.
Chính thủ tướng Hun Sen bộc lộ trong cuốn sách “Hun Sen – Nhân vật xuất chúng của Campuchia” rằng: “Chính phủ Việt Nam không muốn để quân lại, phía chúng tôi đã yêu cầu họ như thế. Không có sự giúp đỡ của Việt Nam, chúng tôi sẽ chết. Không có Pol Pot sẽ không có lực lượng vũ trang nào của Việt Nam trên đất Campuchia”.
Cho đến nay, khi những xấu xa của tập đoàn Pol Pot bị phơi bày ra thế giới và Tòa án quốc tế đưa ra xét xử tội phạm diệt chủng của chúng thì chẳng mấy ai nhắc tới Việt Nam với công lao ngăn chặn nạn diệt chủng ấy, ngoài chính quyền và nhân dân Campuchia.
“Hoạt động của quân tình nguyện của Việt Nam tại Campuchia là từ sự yêu cầu của nhân dân Campuchia. Chúng ta có thể hỏi rằng trên thế giới này có đất nước nào đã giúp nhân dân Campuchia, đặc biệt là giải phóng khỏi chế độ diệt chủng Pol Pot và ngăn cản sự quay trở lại của chúng? Câu trả lời chính là nhân dân và quân đội Việt Nam. Nhân dân Campuchia có niềm tin chỉ có Tiên có Phật mới cứu giúp được những phận người khi gặp khó khăn khốn cùng. Đúng vào lúc người dân Campuchia sắp chết, chỉ còn biết chắp tay khẩn cầu tiên Phật tới cứu thì bộ đội tình nguyện Việt Nam xuất hiện. Bộ đội Việt Nam chính là đội quân nhà Phật”, Thủ tướng Hun Sen trả lời báo giới Việt Nam ngày 3.1.2012. |
(Còn nữa)
--
Tin liên quan:
> Nguyên Tổng bí thư Lê Khả Phiêu: Một thực tế lịch sử không thể phủ nhận
> 'Việt Nam đã giúp Campuchia hồi sinh'
> Hồi ức Thủ tướng Hun Sen: Cuộc gặp với với Tư lệnh Lê Đức Anh và Lê Đức Thọ-----