Thứ Hai, 30 tháng 1, 2012

Việt Nam và "bẫy thu nhập trung bình"

--GS Trần Văn Thọ
.-Việt Nam và "bẫy thu nhập trung bình" -Theo GS Trần Văn Thọ, từ một nước vừa bước vào ngưỡng thu nhập thấp, để tiến đến trở thành quốc gia có thu nhập trung bình cao và thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình thì đất nước sẽ còn phải nỗ lực, cải cách rất nhiều.
Trong chuyến công tác ngắn ngày về Việt Nam của GS Trần Văn Thọ, từng là thành viên Tổ Tư vấn Cải cách Hành chính và Kinh tế của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, người viết đã có dịp trao đổi với ông về một số vấn đề kinh tế vĩ mô hiện nay.

Đề cập đến “bẫy thu nhập trung bình” trong bối cảnh Việt Nam vừa bước chân vào ngưỡng các nước có thu nhập trung bình thấp, giáo sư cho biết, đến 2020, nước ta cũng có thể sẽ đạt được mức thu nhập cao. Song “vấn đề là Việt Nam có thể tiếp tục phát triển bền vững để trở thành nước có thu nhập cao trong vài thập kỷ sau đó nữa hay không mới là điều quan trọng”.
Trong lịch sử kinh tế thế giới, ít khi có quốc gia nào vượt qua được bẫy này, thậm chí có những nước đã mắc vào bẫy này từ rất sớm mà không cần đợi đến khi đạt được mức thu nhập trung bình cao ( khoảng 4.000 USD).
Ông dẫn ví dụ điển hình là trường hợp của Philippines. Vào những năm 1950, nước này chỉ phát triển đứng sau Nhật Bản. Năm 1960, GDP bình quân đầu người của Philippines vẫn cao gấp đôi Thái Lan nhưng đến giữa thập niên 1980 thì đã bị Thái Lan đuổi kịp rồi vượt qua trong năm 2000.
Vượt qua được thử thách đó là khó khăn nhưng không phải không làm được. Bằng chứng là Hàn Quốc, một đất nước cách đây 50 năm vẫn còn kém phát triển, nhưng chỉ sau 1 thế hệ, họ đã trở thành một nước công nghiệp phát triển trên thế giới.
Trước tiên, phải kể đến tố chất của những người lãnh đạo, những chính trị gia luôn trăn trở về con đường phát triển của đất nước, biết thức thời, quy tụ và sử dụng nhân tài.
Bên cạnh đó, từ rất sớm, Hàn Quốc đã có một cơ chế thi tuyển công chức nghiêm ngặt, là cơ sở để xây dựng được bộ máy hành chính mạnh, hiệu suất cao.
Đến nay, theo đánh giá của ông thì Việt Nam mới chỉ chủ yếu tìm hiểu, nghiên cứu về những chính sách, chiến lược cụ thể, còn những yếu tố thuộc nền tảng thể chế và xã hội, nền tảng văn hóa, giáo dục... những tiền đề để cho các chính sách, chiến lược cụ thể ấy thành công, thì hầu như chưa được chú trọng, hoặc có nhưng chưa được thực thi, áp dụng.
“Đó là những điều tôi mong thời gian tới sẽ thay đổi” – ông nói.
Trước đó, tại hội thảo “Châu Á với mức thu nhập trung bình: Các thách thức chính sách phía trước” tổ chức hồi tháng 5 năm ngoái, giáo sư Kenichi Ohno từ Viện quốc gia sau đại học về nghiên cứu chính sách của Nhật Bản cũng nhấn mạnh:
“Chỉ các quốc gia thiết lập được một cơ chế nội địa trong việc xúc tiến và thậm chí thúc đẩy tích lũy nguồn lực con người mới có khả năng thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình và đạt được mức thu nhập cao. Bởi, các yếu tố này giúp tạo ra các giá trị đáp ứng nhu cầu quốc tế”.
Hơn một thế hệ và những cơ hội bị bỏ lỡ
Trên thực tế, để đạt được thành quả mà bây giờ đang có, Việt Nam đã để mất hơn một thế hệ. “Một thế hệ - tương đương trên dưới 25 năm - có thể xem như một đơn vị thời gian quan trọng để khảo sát sự thay đổi về chất của xã hội. Khoảng thời gian này đủ làm thay đổi hẳn cục diện nhiều quốc gia” – GS Trần Văn Thọ nhìn nhận.
Ông liên hệ trở lại khoảng thời gian nửa đầu thập niên 1990, cụ thể là từ năm 1993, Việt Nam đã bỏ lỡ thời cơ phát triển.
Theo đó, tình hình quốc tế lúc bấy giờ rất thuận lợi cho Việt Nam: Cộng đồng quốc tế bắt đầu một cơ chế giúp vốn vay ưu đãi để xây dựng kết cấu hạ tầng. Doanh nghiệp nước ngoài dự định đổ xô vào Việt Nam đầu tư sản xuất nhiều mặt hàng công nghiệp như điện tử và các loại máy móc. Đồng Yên Nhật lên giá mạnh làm phát sinh dòng chảy đầu tư trực tiếp lớn đang khao khát tìm cơ sở sản xuất mới.
Tuy nhiên, do môi trường pháp lý chậm cải thiện, kéo dài chính sách đối xử phân biệt với nước ngoài và chính sách công nghiệp không rõ ràng, thay đổi thường xuyên nên cơ hội này bị bỏ lỡ.
Do vậy, dòng chảy vốn đầu tư trực tiếp đó kết cuộc đã đổ sang các tỉnh ven biển Trung Quốc, sau đó kéo theo hàng chục vạn doanh nghiệp nhỏ và vừa đến đầu tư hình thành những cụm công nghiệp lớn ở vùng này.
Mới đây, Việt Nam cũng đã để tuột qua tay một “cơ hội vàng” khi “đại bản doanh” của những Tập đoàn công nghiệp lớn là Thái Lan phải trải qua trận lũ lịch sử kinh hoàng. Sản xuất bị đình đốn và hoạt động kinh doanh ảnh hưởng nặng nề, không ít doanh nghiệp đã phải chọn hướng dồn sản xuất sang các cơ sở, nhà máy lẻ ở Việt Nam để tránh bị đổ bể đơn hàng, suy giảm doanh thu và mất uy tín. Song, đến cả cơ hội này Việt Nam cũng không giữ được.
Do nền công nghiệp phụ trợ kém phát triển và chưa đáp ứng được nhu cầu của những nhà đầu tư lớn, nên Việt Nam đành “ngậm ngùi” nhường luồng vốn này chảy sang các nước xung quanh.
Rõ ràng, đó là một thực tế mà không sớm thì muộn Việt Nam cũng cần phải thay đổi nếu không muốn mắc kẹt lại. Chính vì vậy, thời gian tới, Chính phủ đang nỗ lực thực hiện tái cơ cấu lại toàn bộ nền kinh tế, bắt đầu từ năm 2012 này, với 3 hướng chính: tái cơ cấu đầu tư công, tái cơ cấu doanh nghiệp và tái cơ cấu hệ thống ngân hàng. Chưa thể đưa ra kết luận về hiệu quả ngay, nhưng rõ ràng đó là một bước đi cần thiết.

GS Trần Văn Thọ hiện đang giảng dạy và nghiên cứu kinh tế tại Đại học Waseda (Tokyo), Nhật Bản, là một nhà nghiên cứu và có nhiều đóng góp về tư duy kinh tế cho Việt Nam.


Năm 1990, lần đầu tiên có ba người nước ngoài được mời làm thành viên chuyên môn trong Hội đồng Tư vấn Kinh tế của Thủ tướng Nhật, ông là một trong ba người đó. Ông ở cương vị này trong gần 10 năm, qua nhiều đời Thủ tướng Nhật.
Tại Việt Nam ông từng là thành viên trong Tổ Tư vấn Cải cách Hành chính và Kinh tế của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt.

Mới đây, GS Trần Văn Thọ là một trong 14 trí thức ở nước ngoài vừa đề xuất Bản ý kiến về việc đẩy mạnh cải cách toàn diện để phát triển đất nước.


Nguồn đọc thêm: http://www.xaluan.com/modules.php?name=News&file=article&sid=337213#ixzz1kut4R38q
http://www.xaluan.com/



-Nguồn: Giáo sư Trần Văn Thọ: Cơ hội bỏ lỡ và nguy cơ lệ thuộc

TP - GS Trần Văn Thọ hiện đang giảng dạy và nghiên cứu kinh tế tại Đại học Waseda (Tokyo), Nhật Bản. Ông là một trong ba nhà khoa học nước ngoài từng được mời làm thành viên chuyên môn trong Hội đồng Tư vấn Kinh tế của Chính phủ Nhật Bản trong gần 10 năm.

Tại Việt Nam ông từng là thành viên trong Tổ Tư vấn Cải cách Hành chính và Kinh tế của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt. GS Trần Văn Thọ là một trong 14 trí thức ở nước ngoài vừa đề xuất Bản ý kiến về việc đẩy mạnh cải cách toàn diện để phát triển đất nước. 
Tiền Phong có cuộc trao đổi với GS Trần Văn Thọ nhân chuyến công tác ngắn ngày về Việt Nam của ông.
Chúng ta đã mất hơn một thế hệ
Có thời điểm chúng ta thường nói đến hình ảnh Việt Nam như một “ngôi sao đang lên”, một “con hổ đang chuyển mình”… nhưng hiện nay hình ảnh này ít được nhắc đến, cá nhân ông nghĩ sao về điều này?
Việt Nam đến nay đã tách được ra khỏi nhóm các nước nghèo và chen chân vào nhóm các nước có thu nhập trung bình thấp. Tuy nhiên, chúng ta đã mất hơn một thế hệ để có được thành quả đó. Trong phát triển kinh tế, một thế hệ - tương đương trên dưới 25 năm - có thể xem như một đơn vị thời gian quan trọng để khảo sát sự thay đổi về chất của xã hội. Thực tiễn trên thế giới, khoảng thời gian một thế hệ đủ làm thay đổi hẳn cục diện của nhiều quốc gia.
Câu hỏi cũng khiến tôi nhớ lại khoảng thời gian vào nửa đầu thập niên 90 thế kỷ trước, cụ thể là từ năm 1993, tình hình quốc tế khi đó rất thuận lợi cho Việt Nam. Cộng đồng quốc tế bắt đầu một cơ chế giúp vốn vay ưu đãi để xây dựng kết cấu hạ tầng. Doanh nghiệp nước ngoài dự định đổ xô vào Việt Nam đầu tư sản xuất nhiều mặt hàng công nghiệp như điện tử và các loại máy móc. Đồng yên Nhật lên giá mạnh làm phát sinh dòng chảy đầu tư trực tiếp lớn đang khao khát tìm cơ sở sản xuất mới.
Nhưng rồi chúng ta đã bỏ mất thời cơ này do môi trường pháp lý chậm cải thiện, kéo dài chính sách đối xử phân biệt với nước ngoài và chính sách công nghiệp không rõ ràng, thay đổi thường xuyên. Dòng chảy vốn đầu tư trực tiếp đó kết cuộc đã đổ sang các tỉnh ven biển Trung Quốc, sau đó kéo theo hàng chục vạn doanh nghiệp nhỏ và vừa đến đầu tư hình thành những cụm công nghiệp lớn ở vùng này.
Mối lo từ sự lệ thuộc kinh tế
Trong bối cảnh như vậy, chúng ta cần nhìn nhận như thế nào về sự ảnh hưởng, đặc biệt là lệ thuộc về kinh tế?
Chẳng hạn, chúng ta thử so sánh với một đối tác thôi. Năm 1984, thu nhập bình quân đầu người của Trung Quốc chỉ hơn Việt Nam 30% nhưng đến nay khoảng cách này là 300%. Tất nhiên cần xét đến chất lượng phát triển nữa nhưng chất lượng phát triển của chúng ta cũng không hơn Trung Quốc nên không cần đặt ra so sánh chi tiết ở đây.
Một thực tế chúng ta có thể thấy là hàng công nghiệp của Trung Quốc đang tràn ngập thị trường Việt Nam, nhập siêu từ Trung Quốc cao ở mức dị thường, vừa gây bất ổn kinh tế vĩ mô vừa cản trở khả năng chuyển dịch cơ cấu công nghiệp của Việt Nam. Đặc biệt hiện nay cơ cấu mậu dịch giữa Việt Nam và Trung Quốc có tính chất Bắc - Nam, nghĩa là một quan hệ mậu dịch giữa nước tiên tiến và nước chậm tiến, trong đó Việt Nam xuất khẩu nguyên liệu thiên nhiên kể cả sản phẩm sơ chế và nhập khẩu hàng công nghiệp.
Đẩy mạnh CNH - HĐH, thoát khỏi sự lệ thuộc kinh tế Ảnh: H.V.
Dưới trào lưu mậu dịch tự do tại Đông Á, đặc biệt dưới tác động của Hiệp định thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc, trong đó từ tháng 1-2015, Việt Nam sẽ cắt giảm thuế đối với hàng nhập khẩu từ Trung Quốc, sản phẩm rẻ từ Trung Quốc chắc chắn sẽ còn ào ạt vào thị trường Việt Nam. Còn tại thời điểm này, các thống kê cho thấy doanh nghiệp Trung Quốc đang chiếm rất nhiều các gói thầu xây dựng, đưa lao động vào Việt Nam dưới nhiều hình thức - kể cả bất hợp pháp - và nhiều nơi còn hình thành cộng đồng người Hoa mới... Lệ thuộc về kinh tế sẽ còn dẫn đến những sự lệ thuộc khác.
Bài học từ Philippines và Hàn Quốc
Thời gian qua nhiều ý kiến đề cập đến việc nếu không có chiến lược phát triển đúng đắn thì Việt Nam sẽ rơi vào “bẫy thu nhập trung bình” rất nhiều nước đang mắc phải, ông chia sẻ gì về lo lắng này?
Theo tiêu chuẩn của Ngân hàng thế giới, Việt Nam hiện đang ở trong nhóm các nước có thu nhập ở mức trung bình thấp, đến năm 2020 cũng có thể sẽ đạt mức thu nhập trung bình cao. Nhưng vấn đề là Việt Nam có thể tiếp tục phát triển bền vững để trở thành nước có thu nhập cao trong vài thập kỷ sau đó nữa hay không mới là điều quan trọng. Trong lịch sử kinh tế thế giới, rất ít nước vượt qua được cái bẫy này thậm chí có những nước đã mắc vào bẫy này từ rất sớm mà không cần đợi đến khi đạt được mức thu nhập trung bình cao (độ 4.000 USD).
Điển hình chúng ta có thể thấy ở trường hợp của Philippines. Vào những năm của thập niên 1950, Philippines là nước phát triển chỉ sau Nhật Bản, cao hơn cả Hàn Quốc. Năm 1960, GDP bình quân đầu người của Philippines cao gấp đôi Thái Lan nhưng đến giữa thập niên 1980 Thái Lan đã theo kịp Philippines và đến năm 2000 hai nước đảo ngược vị trí của năm 1960.
Năm 1985, GDP bình quân đầu người của Philippines cao gấp 3,5 lần Trung Quốc nhưng sau năm 2000, Trung Quốc đã vượt Philippines. Trong khi đó, Hàn Quốc vào đầu thập niên 1960 vẫn là nước kém phát triển nhưng chỉ sau một thế hệ, Hàn Quốc đã trở thành một nước công nghiệp phát triển trên thế giới.
Vậy theo ông, điều gì đã góp phần làm nên sự thần kỳ đó của đất nước Hàn Quốc mà Việt Nam chúng ta có thể tham khảo?
Lý do đầu tiên phải kể đến đó là tố chất của những người lãnh đạo, đó là những nhà chính trị mà tinh thần yêu nước vượt qua những niềm tin ý thức hệ, luôn trăn trở về con đường đưa đất nước đuổi kịp các nước tiên tiến. Họ cũng là những người thức thời, quy tụ và sử dụng được nhiều người tài giỏi, có tâm huyết với sự nghiệp xây dựng đất nước.
Lý do thứ hai cũng rất quan trọng là Hàn Quốc từ rất sớm đã có cơ chế thi tuyển công chức nghiêm ngặt để từ đó họ xây dựng được bộ máy hành chính mạnh, hiệu suất cao. Ngoài ra, trong quá trình phát triển, Hàn Quốc xây dựng được quan hệ lành mạnh, hiệu quả giữa nhà nước và doanh nghiệp. Cùng với các yếu tố đó thì giáo dục, nghiên cứu khoa học và công nghệ luôn được Hàn Quốc quan tâm hàng đầu.
Cho đến nay, Việt Nam có nghiên cứu kinh nghiệm của nhiều nước nhưng chủ yếu là những chính sách, chiến lược cụ thể, còn những yếu tố thuộc nền tảng thể chế và xã hội, nền tảng văn hóa, giáo dục... những tiền đề để cho các chính sách, chiến lược cụ thể ấy thành công, thì hầu như chưa được chú trọng nghiên cứu, hoặc có nhưng chưa được thực thi, áp dụng. Đó là những điều tôi mong thời gian tới sẽ thay đổi.
Cảm ơn ông.
Cao Nhật - Bích Diệp (thực hiện)


--Kinh tế Việt Nam cần xác định lợi thế mới (VEF). -
Việt Nam: 5 trụ cột để hướng tới tương lai
-Vietnam Inflation Slows to 17.27%, Supporting Case for Rate Cuts (Bloomberg 21-1-12) - Phan Châu Thành – Tại sao các tập đoàn kinh tế nhà nước chắc chắn sẽ phá sản? – (Dân Luận).
-- 10 bí quyết thành đạt (Tầm Nhìn)..
Bầu Kiên: Bí ẩn đại gia đầu bạc :Diễn Đàn Doanh Nghiệp – Chủ tịch nước: ‘Đất nước cần doanh nhân biết phản biện’ (VNE). “5 năm nữa, máy cũng đếm không xuể tiền của Bầu Đức” (VTC).
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước: 'Làm những gì đã hứa!' (TP 22-1-12)Bộ trưởng Huệ: “Tôi học được bà xã trong quản lý tài khóa” (DT). – Bộ trưởng Tài chính Vương Đình Huệ: ‘Tôi chọn được việc trước’(TP).Ông Đặng Thành Tâm: Tôi là một con rồng bay trên trời (CafeF).- Đón năm Rồng, gắng “vượt vũ môn” (VnEconomy).- Gặp gỡ năm Rồng (VnEconomy). - 5 vấn đề nhà đầu tư hàng hóa phải đối mặt năm 2012 (Gafin). - “10 năm tới không thể có cơ hội đầu tư tốt như bây giờ” (Đầu tư CK).
-“Cổ phiếu lì xì” (Vietstock). - Siêu thị đua lì xì hút khách ngày khai xuân (Infonet). Lạm phát mới biết ai giàu (TP).
Dịch vụ làm đẹp "ế sưng" ngày cuối năm (Bee.net 22-1-12)
Những thú chơi ‘khoe tiền’ của đại gia Việt (ĐV 22-1-12) 

Việt Nam có bao nhiều bằng sáng chế Mỹ công nhận? (Bee.net 21-1-12)  
Trung Quốc là thủ phạm khủng hoảng tài chính toàn cầu? How China's Boom Caused the Financial Crisis (FP 17-1-12)Debt crisis: Italy and Spain call for eurozone rescue fund booster (The Telegraph). - Lãnh đạo EU họp bàn chấm dứt khủng hoảng hôm nay (Gafin).-- Dự đoán thế giới trong năm Thìn (VNE).- Tổng thống Mỹ sắp công bố kế hoạch kinh tế chi tiết  –  (VOA). - TT Obama: Du lịch sẽ thúc đẩy kinh tế Mỹ tăng trưởng   –  (VOA).
Chuyện trong làng: Economists: A Profession at Sea (Time 19-1-12) -- I tell ya: Après moi, le deluge! 
Để dạy học: Tại sao Mỹ không sản xuất iPhone? How U.S. Lost Out on iPhone Work (NYT 20-1-12) VERY INTERESTING! ("It isn’t just that workers are cheaper abroad. Rather, Apple’s executives believe the vastscale of overseas factories as well as the flexibility, diligence and industrial skills of foreign workers have so outpaced their American counterparts that “Made in the U.S.A.” is no longer a viable option for most Apple products."
-----------

Tổng số lượt xem trang