Thứ Năm, 19 tháng 1, 2012

Nguyễn Gia Kiểng: Khi chủ nghĩa thực tiễn phá sản

Nguồn:-Khi chủ nghĩa thực tiễn phá sản  

Nguyễn Gia Kiểng 

“…Chúng tôi biết rõ phải làm gì nhưng nếu làm như thế thì không có gì bảo đảm là chúng tôi sẽ còn cầm quyền sau cuộc bầu cử sắp tới…”


Tháng 12-1991, trên báo Thông Luận số 44, tôi có viết bài "Quỹ đạo của chó" (xin xem phụ lục 1), dùng tên một bài toán động học để chứng minh sự sai trái của chủ nghĩa thực tiễn và trọng lượng của nó trong văn hóa chính trị Việt Nam. Lúc đó không ai có thể ngờ rằng một năm sau, Bill Clinton, một thanh niên trốn lính với kinh nghiện chính trị sơ sài, có thể đánh bại George H. W. Bush, một anh hùng và một tổng thống tài ba, nhờ lập trường chính trị thực tiễn một cách cực đoan "chỉ làm kinh tế !" (Economy, stupid !).


Tôi vốn dị ứng từ lâu với chủ nghĩa thực tiễn trong chính trị và không thể ngờ nó có thể ngự trị trong bang giao quốc tế trong suốt hai mươi năm qua với những hậu quả nghiêm trọng như người ta ngày càng thấy.



Trong một bài viết cách đây hai năm ("Chủ nghĩa thực tiễn và trường hợp Obama" - Thông Luận, tháng 3-2010 - xin xem phụ lục 2) tôi đã trình bày chủ nghĩa thực tiễn những sai lầm tai hại của nó cho thế giới, bạn đọc nào muốn có thể xem lại. Ở đây chỉ xin tóm lược một vài nét chính:

Không nên lẫn lộn chủ nghĩa thực tiễn (realism) tiễn với chủ nghĩa phúc lợi (utilitarialism), một phương thức đánh giá hành động, đặc biệt là hành động chính trị, theo tiêu chuẩn hành động đúng là hành động đem lại phúc lợi tối đa cho thật nhiều người. Hay với chủ nghĩathực dụng (pragmatism), một phương pháp đánh giá các lý thuyết, theo đó một lý thuyết chỉ đáng để ta quan tâm và học hỏi nếu sự kiện nó đúng hay sai và có ảnh hưởng cụ thể trong đời sống. Chủ nghĩa thực tiễn có thể tóm lược như một chọn lựa chính trị dành cho quyền lợi chỗ đứng trước hết và trên hết, nghĩa là mỗi khi có mâu thuẫn giữa quyền lợi và các giá trị đạo đức thì quyền lợi phải được dành ưu tiên.

Quyền lợi ở đây phải được hiểu là quyền lợi cụ thể và ngắn hạn, bởi vì mọi hành động xét cho cùng đều nhắm một lợí ích nào đó. Những lợi ích dài hạn có thể mâu thuẫn với quyền lợi ngắn hạn và đòi hỏi một tầm nhìn xa mà nhiều người không có được, những lợi ích tình cảm và vị tha lại càng khó nhận diện hơn. Ðặc tính của chủ nghĩa thực tiễn nhắm những quyền lợi trước mắt. Nó chỉ là một tên gọi khác của sự thiển cận.

Quyền lợi cũng thay đổi tùy theo mục tiêu của chế độ chính trị. Ðối với các chế độ độc tài, mà mục tiêu là giữ chặt quyền lực, chủ nghĩa thực tiễn có nghĩa là đàn áp thẳng tay để tiêu diệt mọi mầm mống phản kháng. Ðối với các chế độ dân chủ, mà mục tiêu là hòa bình và thịnh vượng, nó có nghĩa là tránh mọi xung đột ngay cả vì những lý do chính đáng và dồn mọi quan tâm cho kinh tế. Clinton đã tóm gọn chủ nghĩa thực tiễn trong khẩu hiệu economy, stupid !

- Chủ nghĩa thực tiễn đã gây tác hại lớn về mặt chính trị quốc tế. Nó đã bỏ qua những giá trị đạo đức và nhân quyền để bình thường hóa các chế độ độc tài bạo ngược đã rất chao đảo sau khi bức tường Berlin sụp đổ. Các chế độ này không những được củng cố nhờ trao đổi thương mại với các nước dân chủ phát triển mà còn liên kết với nhau và trở thành một đe dọa cho dân chủ và hòa bình. Chủ nghĩa thực tiễn trong quan hệ đối ngoại đã là một sai lầm lớn. Quan hệ thương mại với các nước dân chủ đã không khiến các chế độ độc tài trở thành cởi mở và thân thiện, trái lại chỉ giúp chúng thêm sức mạnh để đối đầu. Lý do là vì ý thức hệ bao giờ cũng quyết định sự chọn lựa bạn và thù.

Sau những nhắc lại này, chúng ta hãy thử nhận diện chủ nghĩa thực tiễn về mặt kinh tế. Phải nói ngay là cuộc khủng hoảng dài và nghiêm trọng như chưa từng có mà chúng ta đang sống đã là hậu quả của sự ngự trị của chủ nghĩa thực tiễn trong hai mươi năm qua.

Ðặc tính của chủ nghĩa thực tiễn là nó tự nhiên dẫn tới chọn lựa kích thích tăng trưởng kinh tế bằng tiêu xài.Tại sao ? Ðó là vì gia tăng tiêu xài, tuy có thể tác hại về lâu về dài, là phương pháp nhanh chóng nhất để gia tăng tổng sản lượng nội địa và rất được lòng cử tri. Ai không thích tiêu xài ? Ai thích thắt lưng buộc bụng ? Gia tăng tiêu xài được lòng cử tri đến nỗi nhiều chính trị gia biết là nguy hiểm mà vẫn phải làm. Jean-Claude Junker, thủ tướng Luxembourg, gần đây đã giải thích tại sao chính phủ của ông không thể thực hiện chính sách thắt lưng buộc bụng trong bối cảnh khủng hoảng hiện nay như sau: "Chúng tôi biết rõ phải làm gì nhưng nếu làm như thế thì không có gì bảo đảm là chúng tôi sẽ còn cầm quyền sau cuộc bầu cử sắp tới".

Niềm tin rằng tiêu xài kích thích tăng trưởng dựa trên một lý luận đơn giản và khá chính xác của J. M. Keynes, theo đó một khoản tiêu xài có tác dụng làm tổng sản lượng nội địa (GDP) tăng lên một số lượng nhiều lần lớn hơn; như thế nên kích thích tiêu xài để có tăng trưởng. Lý luận đó cần được trình bày ít nhất một cách sơ lược để chứng tỏ rằng Keynes không sai nhưng chủ nghĩa thực tiễn đã vận dụng sai lý thuyết của ông.

Hãy giả thử một số tiền D được bơm vào sinh hoạt kinh tế qua một khoản tiêu xài, thí dụ như để thực hiện một dự án. Khoản tiền này đến tay một số người bán và họ sẽ chi ra một số tiền trị giá Dc (Dnhân với c, viết tắt là Dc) nếu c là thiên hướng tiêu thụ (propensity to consume), nghĩa là tỷ lệ trung bình trong xã hội giữa số tiền tiêu ra và số tiền nhận được. Một cách đơn giản nếu một người mỗi khi nhận được 100 đồng tiêu ra 90 đồng thì thiên hướng tiêu thụ của người đó là 0,9 hay 90%, chỉ khác một điều là ở đây c là thiên hướng tiêu thụ trung bình trong xã hội.

Như vậy, sau khi khoản tiêu xài D được tung ra, đợt tiêu xài thứ nhất sẽ lại đưa một số tiền Dc vào tay những người cung cấp hàng hóa hay dich vụ mới. Ðến lượt nó, số tiền Dc này khiến những người vừa có tiền tạo ra một đợt tiêu xài thứ hai Dcc hay Dc². Các đợt tiêu xài cứ kế tiếp nhau như thế, mỗi đợt cộng thêm môt số chi tiêu mới, hậu quả sau cùng của khoản chi tiêu D ban đầu là tạo ra một tổng số mua bán, tức gia tăng GDP, là D' với trị giá D' = D / (1-c).

D'chắc chắn là lớn hơn D và càng lớn nếu thiên hướng tiêu xài của xã hội càng cao. Thí dụ nếu c = 0,9 (nghĩa là xã hội tiêu xài trung bình 90% thu nhập nhận được) thì D' = 10D, nghĩa là một chi tiêu mới có tác dụng tạo ra một gia tăng GDP lớn gấp 10 lần. Mỗi đồng mới được đưa vào sinh hoạt kinh tế làm GDP tăng thêm 10 đồng. Keynes gọi kết quả này là hiệu ứng nhân.

Sở dĩ tôi phải hơi dài dòng trình bày lý luận của Keynes như trên, làm phiền lòng những người đã biết hoặc không cần biết lý luận của Keynes, là để độc giả làm chứng hai điều:

Một là, trong suốt tiến trình tiêu xài qua các đợt, không hề có vấn đề trị giá đồng tiền thay đổi hay thiên hướng tiêu thụ thay đổi; như thế phải hiểu rằng Keynes chỉ lý luận trên một khối lượng chi tiêu mới tương đối nhỏ để không làm thay đổi trị giá đồng tiền và tập quán tiêu xài. Nói cách khác lý luận của Keynes không áp dụng cho một chính sách lớn trên qui mô quốc gia.

Hai là, quan trọng hơn, lý luận của Keynes giả thử rằng toàn bộ các đợt tiêu xài không ra khỏi biên giới quốc gia; nếu số tiền tiêu xài được dùng để mua hàng nhập khẩu, hay để đi du lịch, thì nó sẽ chủ yếu đóng góp tăng trưởng kinh tế của một nước khác. Lý luận của Keynes không còn đúng trong một bối cảnh có trao đổi thương mại quốc tế, chưa nói trong bối cảnh toàn cầu hóa.

Như vậy đặc tính đầu tiên của chủ trương kích thích tăng trưởng bằng tiêu thụ, cốt lõi của chủ nghĩa thực tiễn trong kinh tế, là sai. Ðó là sự áp dụng sai bối cảnh của lý luận Keynes.

Ðặc tính thứ hai là nó tự nhiên dẫn tới thâm thủng mậu dịch và nợ công do tác dụng phối hợp với chính sách đối ngoại thực tiễn.Lý do là vì gia tăng tiêu thụ tự nhiên làm giá cả tăng lên kéo theo lạm phát, và tăng trưởng vì thế bị sút giảm. Phương pháp thực tiễn nhất là thay thế hàng nôi địa bằng hàng Trung Quốc rẻ hơn nhiều, vì nhân công rất thấp lại không tốn kém cho an sinh xã hội và môi trường. Các nhà máy được di chuyển dần dần sang các nước đang phát triển, số mặt hàng nhập khẩu ngày càng nhiều. Sản xuất giảm khiến nguồn thuế thu vào cũng giảm, trong khi chính quyền một mặt không ngừng tung ra những chi tiêu công cộng (để kích thích tiêu thụ), mặt khác phải gia tăng hoặc duy trì ngân sách xã hội bởi vì chủ nghĩa thực tiễn chỉ có thể biện minh bằng lợi ích kinh tế.

Ðặc tính kinh tế quan trọng thứ ba của chủ nghĩa thực tiễn là thả lỏng đầu cơ tài chính. Clinton nới lỏng dần dần sự kiểm soát đối với các sản phẩm đầu cơ tài chính. Năm 2000, trước khi từ chức, ông vận động quốc hội biểu quyết một đạo luật chấm dứt mọi kiểm soát trên các dụng cụ đầu cơ tài chính với sự yểm trợ của Alan Greenspan. Các sản phẩm đầu cơ tài chính được hoàn toàn thả lỏng. Chúng không có ích gì cho hoạt động "kinh tế thực" mà còn có hại - Warren Buffet gọi chúng là những vũ khí giết người hàng loạt - nhưng chúng cần cho chính sách kinh tế thực tiễn vì chúng mang lại thuế và chúng làm gia tăng nguồn tài trợ tín dụng nhà đất, do đó kích thích ngành xây dựng, một trong những ngành hiếm hoi không thể di chuyển ra nước ngoài, hơn nữa lại sử dụng nhiều công nhân và kích thích nhiều ngành khác. Vào cuối năm 2007, khi cuộc khủng hoảng sắp bùng nổ, nhiều ước lượng cho thấy 95% khối lượng tiền tệ lưu hành là thuần túy đầu cơ không liên hệ gì tới kinh tế thực, nghĩa là sản xuất hàng hóa và dịch vụ.

Nhưng chắc chắn giá nhà đất không thể tăng mãi mãi để người ta có thể tiếp tục đầu cơ nhà đất. Phải có một lúc mà giá nhà trở thành quá cao và thu nhập của một số đông người không còn đủ để cho phép họ trả nợ hàng tháng nữa. Lúc đó cỗ máy đầu cơ sẽ kẹt, quả bong bóng nhà đất sẽ bể. Ðó là năm 2008, khi ngân hàng Lehman Brothers phá sản.

Nhiều người tự hỏi phải chăng có một quan hệ mật thiết giữa dân chủ và nợ công. Mọi người đều thấy là các chính quyền dân chủ nợ chồng chất trong khi các chế độ độc tài rất ít mắc nợ và trong một số trương hợp còn có tiền cho vay. Những gì vừa nói ở trên cho phép chúng ta giải đáp rằng dân chủ không tự động đưa tới nợ công, cái đưa tới nợ công là chủ nghĩa thực tiễn trong một nước dân chủ phát triển.

Trong hai mươi năm ngự trị, chủ nghĩa thực tiễn đã dần dần tạo ra một tình trạng ngược đời, trong đó các nước giàu lại phải đi vay các nước nghèo. Một trong những tác dụng của nó là di chuyển một phần đáng kể tài sản của các nước giàu sang các nước nghèo. Ðây đáng lẽ phải được coi là một điều tốt. Tiếc thay, thực tế đã không phải như vậy. Của cải từ các nước giàu đã không vào tay quần chúng mà vào một nhóm nhỏ những người có danh phận, và những người này còn bóc lột đồng bào họ dã man hơn cả người ngoại quốc. Chưa chắc là đời sống quần chúng ở Trung Quốc đã khá hơn ngày xưa. Chắc chắn là họ không còn phải ăn đói nhưng họ có sung sướng hơn trước hay không còn là một vấn đề phải bàn cãi. Họ không còn nước sạch để uống và không khí sạch để thở, họ đang khám phá ra rằng những thứ này còn cần hơn cơm. Và họ phải sống lầm lũi tủi nhục hàng ngày bên cạnh những kẻ phô trương sự giàu sang. Lợi tức trung bình trên mỗi đầu người của Trung Quốc là 500 USD mỗi tháng, nhưng một người Trung Quốc bình thường sẽ rất may mắn nếu kiếm được 200 USD mỗi tháng để nuôi vợ con. Ðiều chắc chắc là Trung Quốc hiện nay là khách hàng lớn nhất của những xa xỉ phẩm.

Chủ nghĩa thực tiễn đã là một thảm kích cho các dân tộc dưới ách độc tài. Các tập đoàn cầm quyền bạo ngược được mặc sức đàn áp những tiếng nói chống đối, tha hồ bóc lột công nhân và bất chấp môi trường để sản xuất thật nhiều với giá thật rẻ và xuất khẩu sang Hoa Kỳ và Châu Âu. Ðó là logic của chủ nghĩa thực tiễn đã ngự trị trong chính sách của các nước dân chủ trong hơn hai mươi năm qua. Người ta hy sinh các giá trị đạo đức và nhân quyền, bỏ mặc hàng tỷ người dưới những ách thống trị dã man nhân danh kinh tế. Nhưng cuối cùng chủ nghĩa thực tiễn đã chỉ đem đến cuộc khủng hoảng kinh tế lớn nhất, dài nhất và trầm trọng nhất trong lịch sử thế giới.

Ðiều an ủi là thế giới đã thức tỉnh và chủ nghĩa thực tiễn đang bị chôn vùi, có thể sẽ bị vĩnh viễn chôn vùi. Các lý thuyết gia của nó đã im bặt vì không còn gì để nói. Chính trị tìm lại được thế giá, kinh tế tìm lại được sự nghiêm chỉnh. Từ cuộc khủng hoảng này sẽ xuất hiện một trật tự thế giới mới đặt nền tảng trên những giá trị phải có cho một thế giới hòa bình và hợp tác, trật tự dân chủ. Và cùng với chủ nghĩa thực tiễn, các chế độ độc tài cũng sẽ bị dứt khoát đào thải vì không còn dưỡng khí.

Một lời sau cùng: một làn sóng dân chủ mới đang dâng lên và rất nhiều dân tộc sắp vĩnh viễn trút bỏ được ách độc tài. Liệu chúng ta có ở trong số những dân tộc may mắn này không? Câu hỏi đáng lẽ không thể có, nó chỉ được đặt ra vì một lý do: trí thức Việt Nam quá thực tiễn.

Như phần trên đã nói, thái độ thực tiễn trong chính trị chỉ là thái độ nhu nhược; trên mặt cá nhân nó là thái độ cúi đầu thay vì đối đầu. Thái độ thực tiễn khiến chúng ta không dám dứt khoát chống lại chế độ trong khi cuộc cách mạng nào cũng đòi hỏi những hy sinh, thậm chí một chút lãng mạn. Chúng ta thừa hưởng chủ nghĩa thực tiễn từ ông cha. Tất cả các triều đại của chúng ta đều chỉ là những chế độ hà hiếp, nhưng những kẻ sĩ đã chọn làm công cụ cho các bạo quyền để ức hiếp dân chúng thay vì đứng về phía dân chúng. Ðó là di sản lịch sử và văn hóa của chúng ta. Nhân danh lẽ phải để chống lại một bạo quyền không thuộc truyền thống của chúng ta. Đấu tranh cho dân chủ vì vậy đòi hỏi một vượt thoát lớn. Ðó là một khó khăn nhưng đồng thời cũng là một niềm tự hào.

Nguyễn Gia Kiểng
Paris, 2012
Phụ Lục 1 :

Quỹ đạo của chó (Nguyễn Gia Kiểng)
Ngày: 30/08/2009 lúc 02:20:00 EDT
Đề tài: Nhìn Lại Mình
Quỹ đạo của chó
Nguyễn Gia Kiểng
“…Tiên liệu là yếu tố cốt lõi của chính trị. Cái khó là tiên liệu không phải là một phản ứng tự nhiên. Nó không có sẵn trong bản năng mà, trái lại, đòi hỏi vượt lên trên bản năng và vận dụng trí tuệ để vừa nhìn rõ thực tại vừa nhận ra hướng đi và điểm tới của thực tại…”

Bài mạn đàm này đã đăng trên Thông Luận số 44, tháng 12 năm 1991 như độc giả có thể đọc trong bài. Mười tám (18) năm đã trôi qua nhưng nhiều độc giả đã viết thư tới toà soạn và cho tác giả yêu cầu được đọc lại. Tôi đã rất bối rối vì chính tôi không còn giữ bản thảo và cũng không còn tờ báo Thông Luận số 44. Rất may mới đây một người bạn còn giữ được số báo này đã có nhã ý đánh máy lại và gửi cho tôi. Xin đăng lại hầu các độc giả đã yêu cầu và các vị khác muốn đọc lại.

Nhân dịp này cũng xin thêm một lời: một trong những khả năng dự liệu trong bài này là một cuộc đảo chính thay thế chế độ cộng sản bằng một chế độ quân phiệt. Một cách âm thầm, cuộc đảo chính này đã xảy ra rồi vào lúc tôi viết bài này. Các tướng Lê Đức Anh, Lê Khả Phiêu, Đoàn Khuê đã câu kết với Đỗ Mười để cướp chính quyền, dựng lên một chế độ quân phiệt lấy 
Tổng Cục 2 làm dụng cụ cai trị. Lê Đức Anh và Đỗ Mười vẫn còn khống chế đảng và nhà nước cộng sản. Chế độ hiện nay xuất phát từ cuộc đảo chính cung đình này, nó là một chế độ quân phiệt mafia ngoan ngoãn với Trung Quốc nhưng bạo ngược với người dân. Hậu quả của chế độ này chính là "tình trạng hỗn loạn chính thức" mà bài này nói tới, công lý chẳng ra công lý, giáo dục chẳng ra giáo dục, bọn đầu gấu được sử dụng làm dụng cụ trị an, quân đội đi làm kinh doanh và không còn khả năng bảo vệ lãnh thổ và lãnh hải v.v.

Một lời tâm sự: bài này được viết ra với tâm sự buồn phiền là một cơ hội lớn cho đất nước, khi bức tường Berlin sụp đổ, đang bị bỏ lỡ vì đối lập dân chủ Việt Nam đã không chuẩn bị đội ngũ và kế hoạch. 

Nguyễn Gia Kiểng
Xin bắt đầu bằng một lời đính chính. Cụm từ "quỹ đạo của chó" không phải là một câu xỉ vả mà là tên của một bài toán. Độc giả nào từng học môn cơ học và hình học giải tích chắc đã biết bài toán dí dỏm nhưng hóc búa này.

Sở dĩ tựa đề bài này có thể gây khó chịu – và không biết chừng phẫn nộ – cho một số người là vì chó không được coi trọng trong nấc thang giá trị của người Á Đông. Người ta giận khi bị so sánh với chó. Người ta rủa nhau là "đồ chó má", quân cẩu trệ", v.v. làm như chó là tiêu biểu của một cái gì xấu xa, đáng khinh bỉ.

Thực ra chó là người bạn cao quý và thuỷ chung. Chủ của chó cho dù nghèo khổ, chó cũng không bỏ. Tình bạn đã cho, chó không bao giờ lấy lại. Thời Chiến Quốc bên Tàu, Tô Tần lúc chinh phục thiên hạ chưa thành, có lần trở về thân tàn ma dại, vợ con không thèm nhìn mặt, nhưng vẫn được con chó vàng vẫy đuôi mừng đón. Một khi đã thân quen, chó hy sinh và chịu đựng tất cả. Đứa trẻ nổi giận đánh chó, chó chỉ kêu đau và bỏ đi. Chó còn có một khả năng siêu việt mà không giống vật nào có: đó là tình yêu và sự vui tươi. Chủ chó đi xa về, chó chồm tới với một sự vui mừng hồn nhiên và mãnh liệt. Chó vẫy đuôi, quặn người, nhảy nhót, vồ vập... Chó có một trữ lượng yêu thương và lạc quan hình như vô tận. Và vì chó đem đến tình bạn và niềm vui trong một xã hội càng ngày càng máy móc và khô khan nên chó rất được các xã hội văn minh quý trọng.

Tại Pháp có một chương trình châm biếm các chính trị gia trên đài truyền hình được gọi là Bébête Show, trong đó mỗi chính khách có tên tuổi được hiện thân bằng một con vật. Tổng thống Mitterrand là một con ếch, cựu thủ tướng Raymond Barre là một con gấu, tổng bí thư đảng cộng sản Pháp Georges Marchais là một con heo, v.v. Riêng một số nhân vật như cựu tổng thống Giscard d'Estaing, cựu thủ tướng Chirac không được làm con vật mà vẫn phải xuất hiện như những con người. Ông Giscard d'Estaing coi đó là một bất công và ông tỏ ý muốn được thể hiện bằng một con chó nhỏ. Đòi hỏi này khiến nhà sản xuất Collaro bối rối vì nếu chiều ý ông Giscard thì sẽ khiến ông được nhiều thiện cảm quá, và sẽ bị các chính khách khác phản đối là thiên vị. Rốt cuộc không chính khách nào được làm chó cả.

*

Nhưng hãy trở về với bài toán "quỹ đạo của chó". Không phải ai cũng đã từng học toán ở cấp đại học và vì thế cần trình bày bài toán đó. Thì đây:

Một con chó muốn chụp bắt một đối tượng (một đồ chơi chẳng hạn). Chó nhắm thẳng đối tượng và phóng tới. Nhưng đối tượng không đứng yên một chỗ mà chuyển động trên một quỹ đạo, cho nên chó vừa khởi hành đối tượng đã đổi vị trí, và chó lại phải đổi hướng chạy. Cứ như thế, chó vừa chạy vừa phải thích nghi hướng chạy của mình theo vị trí của đối tượng. Tìm ra quỹ đạo của chó không phải dễ. Ở mỗi thời điểm người ta chỉ biết một điều: đường thẳng nối liền chó với đối tượng là tiếp tuyến của quỹ đạo của chó. Muốn tìm quỹ đạo của chó phải dùng một phương trình tiếp tuyến phức tạp và phải vận dụng nhiều định lý của cơ học và hình học giải tích.

Trong trường hợp đơn giản nhất là đối tượng chuyển động trên một đường thẳng với một vận tốc cố định và chó cũng chạy với một vận tốc không thay đổi, quỹ đạo của chó cũng đã là một đường cong rất cầu kỳ. Nếu ta lại giả thử đối tượng di chuyển trên một đường không thẳng, với vận tốc thay đổi và chó cũng chạy với một vận tốc biến thiên theo thời gian thì ngay cả những nhà toán học thượng thặng nhất về môn cơ học cũng phải điên đầu mà chưa chắc đã tìm ra phương trình cho đường biểu diễn cho quỹ đạo của chó.

*

Kết quả của bài toán trên là mặc dầu chó lúc nào cũng muốn chạy thẳng tới đối tượng và muốn chụp bắt đối tượng một cách nhanh chóng nhất nhưng trên thực tế chó đã chạy trên một quỹ đạo rất phức tạp và rất dài. Vô tình chó đã cho chúng ta một bài học: con đường có vẻ tự nhiên nhất thực ra không phải là con đường đơn giản hhất. Giải pháp có vẻ ngắn nhất thực ra làm tốn rất nhiều thì giở và sức lực.

Sai lầm cơ bản của anh bạn chó của chúng ta là đã không biết tiên liệu. Nếu bạn ta thay vì cắm đầu cắm cổ chạy theo đối tượng, biết suy nghĩ, chấp nhận hành động phức tạp hơn một chút thì có lẽ công việc của anh ta sẽ giản dị và dễ dàng hơn nhiều. Thay vì chạy theo đối tượng, bạn chó của chúng ta đáng lẽ đã phải chạy tới một điểm trên quỹ đạo của đối tượng và đợi để chụp bắt đối tượng ở đó.

Trình bày như trên có thể khiến nhiều người chê chó là "ngu như chó". Nói như vậy là quên rằng quỹ đạo của chó là hậu quả của khả năng thích nghi phi thường của chó. Ở mỗi thời điểm chó nắm rõ vị trí của đối tượng và uyển chuyển tức khắc lộ trình của mình để đạt mục đích. Chó không nguỵ biện, tự ái, và cũng không lưỡng lự. Chó biết phục thiện và rất thực tế. Chỉ tiếc rằng chó đã hành động thuần tuý theo trực giác và bản năng thay vì theo lý luận.

Chó là con vật thông minh nhất và có nhiều nhạy cảm giống như người nên vì thế mà nhiều khi phản ứng của chó cũng giống phản ứng của người.

*

Hãy lấy thử trường hợp của chính trị Việt Nam

Đảng cộng sản mải miết chạy theo lý tưởng Mác-Lênin mà không nhận ra sự chuyển động của nó, vì thế họ đã bị dẫn tới những chặng đường không ngờ trên một quỹ đạo rất phức tạp. Thực ra phải nói là một quỹ đạo đẫm máu. Từ một lý tưởng quảng đại và vị tha lúc ban đầu, các chế độ cộng sản với thời gian đã hoá thân thành những bạo quyền khủng bố, rồi phải sống chung hoà bình với phương Tây, phải thoả hiệp trong chính sách nội bộ với quyền tư hữu, rồi co cụm lại trong những biên giới quốc gia đóng kín, cuối cùng trở thành những chế độ phát-xít mà không biết. Dầu vậy, Đảng Cộng Sản Việt Nam vẫn hăm hở chạy theo. Lộ trình của họ giống hệt như quỹ đạo của chó.

Nhưng họ lại thua chó ở khả năng thích nghi, cho nên cuối cùng khi các chế độ cộng sản chuyển động mạnh để tự khai tử trong hoà bình, họ đã thác loạn và vẫn cắm đầu chạy tiếp theo đường xưa lối cũ, mặc dầu đường xưa đã sập, lối cũ đã bít. Lần này quỹ đạo của họ không còn là quỹ đạo của chó nữa mà quỹ đạo rối loạn của con nai vàng ngơ ngác, hốt hoảng trong cơn bão rừng không biết chạy về đâu.

Bài này không có ý định mạt sát người cộng sản. Nó chỉ nói lên một sự bi đát và sự bi đát này những người chống cộng cũng chia sẻ. Chống cộng đã chỉ là một chính sách giai đoạn của các cường quốc phương Tây. Nó chưa bao giờ là một lý tưởng. Nhưng nhiều người Việt Nam đã lấy nó làm lý tưởng để rồi cũng phải chật vật với những thay đổi chính sách của quan thầy và bị dẫn dắt từ thất vọng này đến thất vọng khác. Chống Hiệp định Genève rồi sau đó lại phải đòi tôn trọng Hiệp định Genève mà không được. Chống Hiệp định Paris rồi cũng phải ký, rồi lại cố đòi tôn trọng Hiệp định Paris mà cũng không được. Dàn cảnh kháng chiến võ trang, ồn ào kêu gọi lập chiến khu để rồi phải biện bạch rằng lúc đó vì... nhưng ngày nay vì...

Thực đáng buồn, nhưng phải nhìn nhận rằng thiếu tiên liệu luôn luôn là một hằng số của chính trị Việt Nam.

Năm 1945, đã phải tiên liệu rằng chủ nghĩa thực dân sắp cáo chung và độc lập dân tộc là điều chắc chắn sẽ có. Vấn đề lúc đó chỉ là tranh đấu để sớm có độc lập để sớm bắt đầu xây dựng, và nếu hiểu như thế thì không thể có vấn đề hy sinh tất cả cho kháng chiến giành độc lập.

Năm 1954, đã phải nhận định là đất nước đã quá kiệt quệ và mệt mỏi để có thể chịu đựng một cuộc chiến tranh chống Mỹ.

Năm 1975, thay vì nhìn thấy sự phá sản đã rõ rệt của chủ nghĩa cộng sản và chuyển hướng – vì lúc đó có rất nhiều điều kiện tốt để chuyển hướng – đảng cộng sản lại huênh hoang đi vào ngõ cụt. Họ đánh chiếm Kampuchea để rồi phải rút quân sau khi trả giá rất đắt. Họ khiêu khích với Trung Quốc để rồi phải quỵ luỵ cầu hoà.

Năm 1991, bầu trời xã hội chủ nghĩa đã sập trên đầu họ, nhưng họ vẫn chưa hiểu rằng chỉ còn một việc phải làm là tự tổ chức lấy sự cáo chung của chế độ trong êm thấm.

Những người lãnh đạo cộng sản không phải là tồi. Trái lại họ rất xuất chúng. Họ có bản năng mạnh. Họ cũng có thừa thông minh và đảm lược. Nhưng họ thiếu văn hoá để cứ chạy theo một thực tại không bao giờ ngừng chuyển động.

Trước mặt họ, rất nhiều người quốc gia nhiều năm sau 1975 vẫn không thấy được là chế độ cộng sản chắc chắn sẽ bị đào thải và tương lai dân chủ đa nguyên là một bắt buộc. Thay vì lạc quan, họ đã lấy tuyệt vọng làm tinh thần chỉ đạo và đã chỉ biết phản ứng thay vì hành động. Thay vì đứng dậy khởi hành về tương lai, họ đã tự cột chân vào nghĩa trang để làm người giữ mồ cho chế độ Việt Nam Cộng Hoà.

*

Ngày nay dù chúng ta đã được thời cuộc soi sáng rất nhiều, nhưng chúng ta vẫn còn có nguy cơ rơi vào một thảm kịch khác nếu không biết tiên liệu để đi trước biến cố thay vì chạy theo biến cố.

Chế độ cộng sản đã chết, ngay cả tại Việt Nam. Trước mắt chúng ta chỉ còn một chế độ độc tài thối nát, như mọi chế độ độc tài thối nát khác. Nhưng hết cộng sản không phải là hết vấn đề. Bộ máy chính trị của đảng cộng sản đã quá yếu để có thể kiểm soát được một quân lực quá đồ sộ. Chúng ta thiếu thực phẩm nhưng lại có quá nhiều súng đạn. Đất nước Việt Nam đã chín muồi cho một cuộc đảo chánh, dọn đường cho một chế độ quân phiệt. Chế độ này sẽ tuyên bố từ bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin, nhưng sẽ chẳng thay đổi gì hết. Nó sẽ chỉ đem lại một tình trạng hỗn loạn chính thức. Nó sẽ cấu kết với các tập đoàn quân phiệt địa phương Thái Lan, Miến Điện, Trung Quốc để kéo dài. Lúc đó chúng ta sẽ ăn nói làm sao? Lập trường của đối lập Việt Nam vẫn là chống cộng?

Trong trung hạn, 5 năm hay 10 năm, điều rất có thể xảy ra là Việt Nam sẽ là một nước trong đó các chủ nhân và ban lãnh đạo xí nghiệp là người Trung Hoa, người Nhật, người Thái, người Đại Hàn, người Pháp v.v., còn công nhân là người Việt Nam. Tệ hơn nữa còn là một đất nước đầy rẫy khách sạn và vũ trường trong đó chủ nhân và khách hàng là người nước ngoài, còn bồi bàn và vũ nữ là người Việt Nam. Ai chấp nhận cho Việt Nam tương lai này? Nhưng đó là điều sẽ đến nếu kẻ cầm quyền vẫn tiếp tục thái độ "được làm vua" và đối lập vẫn tiếp tục tâm lý "thua làm giặc".

Chúng ta hơn thua nhau để làm gì nếu đất nước chúng ta thua kém thế giới? Lúc đó cái hơn chẳng qua chỉ là cái hơn của người bồi chính và người bồi phụ. Chúng ta sẽ chỉ có tương lai xứng đáng nếu biết nhìn nhau là anh em và bắt tay nhau, dìu dắt nhau xây dựng một tương lai chung. Hoà giải và hoà hợp dân tộc là một bắt buộc. Hoà giải để động viên mọi khát vọng dân chủ trong cố gắng dứt điểm bạo quyền. Hoà hợp để cùng nhau thoát hiểm, tránh cho đất nước khỏi bị gạch tên trong danh sách những dân tộc có thể nói đến hạnh phúc và danh dự.

Mỗi người chúng ta chắc chắn sẽ phải hy sinh nhiều tự ái và nhiều uất ức chính đáng. Nhưng nếu không chúng ta sẽ mất tất cả.

*

Tiên liệu là yếu tố cốt lõi của chính trị. Cái khó là tiên liệu không phải là một phản ứng tự nhiên. Nó không có sẵn trong bản năng mà, trái lại, đòi hỏi vượt lên trên bản năng và vận dụng trí tuệ để vừa nhìn rõ thực tại vừa nhận ra hướng đi và điểm tới của thực tại.

Tiên liệu chính xác chỉ có trong khoa học chính xác. Trong vận hành của xã hội hầu hết mọi tiên liệu đều sai nếu không được liên tục điều chỉnh. Dự đoán của chúng ta cho năm 2000 vào tháng 12 năm 1991 này sẽ không còn là dự đoán của chúng ta cho năm 2000 vào tháng 6 năm 1992. Nhưng chúng ta vẫn phải tiên liệu. Bởi vì nếu không có tiên liệu thì không thể có chính trị. Chúng ta cũng chỉ có thể đoàn kết với nhau nếu cùng theo đuổi một dự án, dựa trên một dự đoán tương lai.

Nhà khoa học không gian không bắn được phi thuyền lên mặt trăng nếu chỉ nhắm mặt trăng mà bắn, trái lại phải bắn phi thuyền tới một điểm mà mặt trăng sẽ tới. Trong chính trị cũng thế. Làm chính trị là hò hẹn với tương lai chứ không phải là chạy theo một hiện tại không ngừng thay đổi.

Nguyễn Gia Kiểng
Nguồn: Thông Luận, số 44 (th. 12/1991)

© Thông Luận 2009

Khái niệm nhà nước pháp quyền từ góc nhìn triết học Trần Ngọc Liêu-Phó Chủ nhiệm khoa Khoa học quản lý, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội
Trong bài viết này, tác giả đã xuất phát từ góc độ triết học để phân tích nhằm góp phần làm rõ thêm khái niệm “nhà nước pháp quyền" trên một số khía cạnh cơ bản: định nghĩa khái niệm, nội dung và bản chất của nhà nước pháp quyền. Theo tác giả, nhà nước pháp quyền là một trình độ phát triển tất yếu đạt tới của nhà nước.

"Nhà nước pháp quyền tư bản chủ nghĩa" là hình thức chưa thể hiện hết nội dung của nhà nước pháp quyền, còn "Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” là nhà nước đã thể hiện hết nội dung của nhà nước pháp quyền, là nhà nước pháp quyền theo ý nghĩa đầy đủ nhất. Trên cơ sở đó, tác giả xác định một sô nội dung chủ yếu cần được thực hiện nhằm xây dựng thành công nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.Thực tiễn trong nước và thế giới thời gian qua đã chứng minh vai trò to lớn của lý luận đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia dân tộc. Việc nhận thức một cách sâu sắc bản chất của các quá trình xã hội, các quan hệ xã hội có ý nghĩa quan trọng trong việc đưa ra các quyết sách chính trị. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay cần phải được tiến hành trên cơ sở một khung lý luận vững chắc, có vai trò giá đỡ cho tư duy khi giải quyết các nhiệm vụ cụ thể liên quan. Nội dung then chốt nhất trong đó chính là phải làm rõ "Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam" là gì? Muốn vậy, trước hết cần xác định rõ nội hàm của khái niệm nhà nước pháp quyền".

Vận dụng các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin về nhà nước, trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, theo định hướng nhận thức của Đảng ta về vấn đề Nhà nước pháp quyền Việt Nam và kế thừa thành quả của các nhà khoa học Việt Nam, chúng tôi mạnh dạn phát biểu một định nghĩa về khái niệm "nhà nước pháp quyền" như sau:

Nhà nước pháp quyền là khái niệm dùng để chỉ xã hội tổ chức theo cách quyền lực của nhân dân được thể chế hóa thành pháp luật và được đảm bảo thực thi bâng bộ máy nhà nước cũng như các thiết chế chính trị - xã hội khác nhằm mang lại quyền lợi cho nhân dân.

Trước hết, chúng tôi cho rằng, "nhà nước pháp quyền" tồn tại với tính cách một khái niệm. Điều đó có nghĩa là, "nhà nước pháp quyền" tồn tại trong tư duy, là sản phẩm của tư duy. Nó không đồng nhất với một mô hình nhà nước hiện tồn, có tính trực quan, mà là sự phản ánh một trình độ tất yếu đạt tới của quyền lực nhân dân trong xã hội được tổ chức thành nhà nước. Nói cách khác, đó là sự phản ánh một trình độ tất yếu đạt tới của bộ máy nhà nước. Nội dung của nó là khách quan, là bản chất của nhà nước ở một giai đoạn trong quá trình tự phát triển, được khái quát từ sự vận động và phát triển của các nhà nước hiện tồn, song tuyệt nhiên không đồng nhất với bất cứ một nhà nước hiện tồn nào.

Đây là một quan niệm có tính phương pháp luận trong nghiên cứu nhà nước pháp quyền được rút ra từ lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước. Cũng giống như "vật chất" là một phạm trù triết học, chỉ tồn tại trong tư duy và là sản phẩm của tư duy thuần tuý (Ph.Ăngghen), "nhà nước pháp quyền" được định nghĩa như trên là một phạm trù của triết học duy vật biện chứng về lịch sử. Nhà nước pháp quyền là một trạng thái mà sự phát triển của nhà nước nhất định sẽ đạt tới, bất kể ý thức của con người có nhận thức dược hay không. Vì thế, nó có tính khách quan và phổ biến. Tuy nhiên, với mỗi dân tộc, con đường, cách thức đi tới nhà nước pháp quyền và nội dung của nhà nước pháp quyền lại mang những dấu ấn riêng của dân tộc ấy. Vì thế, hình thức tồn tại hiện thực của nhà nước pháp quyền rất phong phú, đa dạng và cũng rất phức tạp. Không thể biến mô hình nhà nước ở một quốc gia dân tộc này thành cái chung, giá trị chung, làm chuẩn mực đánh giá, phán xét mô hình nhà nước của một quốc gia dân tộc khác có phải nhà nước pháp quyền hay không, càng không thể từ sự quy chụp như thế để đánh giá quốc gia dân tộc ấy có phải là một quốc gia dân tộc văn minh, phát triển hay không.

Việc đánh giá một mô hình nhà nước cụ thể không thể căn cứ vào những dấu hiệu, những biểu hiện bề ngoài, tức là không thể căn cứ vào hiện tượng, mà phải căn cứ vào thực chất, vào bản chất của nó. Chúng tôi cho rằng, những căn cứ mà lâu nay người ta dựa vào để đánh giá tính chất pháp quyền của một nhà nước, như "sự thống trị của pháp luật trong đời sống xã hội", "quan hệ giữa các cơ quan lập pháp - hành pháp - tư pháp là quan hệ quyền lực ràng buộc và hạn chế quyền lực", đều là những biểu hiện bề ngoài, hoặc là của quan hệ giữa nhà nước và pháp luật, hoặc là của quyền lực nhà nước và cơ chế tổ chức quyền lực nhà nước. Thực chất của vấn đề là ở chỗ, nhà nước và pháp luật có thể hiện được trình độ phát triển của quyền lực nhân dân hay không, hay nói cách khác, chỉ có quyền lực của nhân dân lao động được luật hoá và đảm bảo thực thi có hiệu quả bằng các thiết chế chính trị - xã hội nhằm mang lại quyền lợi cho nhân dân mới làm nên tính chất pháp quyền của nhà nước.

Điều quan trọng không phải là hình thức pháp quyền, tức pháp luật thống trị nhà nước và xã hội, mà là nội dung pháp quyền, tức pháp luật ấy có phải là quyền lực của nhân dân lao động được "đề lên" thành luật hay không. Pháp luật chí là ý chí của một cá nhân (chế độ quân chủ) hay của một thiểu số trong xã hội (ví dụ như pháp luật tư sản) thì chưa thể đạt tới trình độ pháp quyền theo nghĩa đầy đủ nhất. Như vậy, nếu đồng nhất nhà nước pháp quyền với mô hình nhà nước hiện thực cụ thể, nhất là một mô hình nhà nước phương Tây nào đó, rồi coi đó là điểm xuất phát trong tư duy thì thực chất đã đồng nhất một cách trừu tượng cái phổ biến và cái đặc thù, cái bản chất với hiện tượng.

Tóm lại, nhà nước pháp quyền trước hết cần phải được coi là một khái niệm.

Thứ hai, nhà nước với tính cách nội dung khách quan được phản ánh trong khái niệm nhà nước pháp quyền là sự thống nhất giữa xã hội được tổ chức theo một cách thức xác định với bộ máy nhà nước - bộ phận biểu hiện tập trung của cách thức tổ chức xã hội ấy. Nội dung khái niệm nhà nước nói chung, pháp quyền nói riêng, nếu chỉ giới hạn ở bộ máy nhà nước, cho dù đây là nơi biểu hiện tập trung nhất chỉnh thể đời sống xã hội, thì vẫn là cách hiểu không đúng tinh thần duy vật thực tiễn của chủ nghĩa Mác. Việc phân tích quan điểm của C.Mác và Ph.Ăng ghen về nhà nước cho thấy, nhà nước là một khái niệm rất sinh động, có nội hàm vận động phức tạp, phản ánh sự vận động phức tạp của đời sống xã hội. Sự tách rời, cô lập khái niệm nhà nước với tính cách bộ máy nhà nước với khái niệm nhà nước với tính cách xã hội được tổ chức theo cách xác định là sản phẩm của chính trình độ phát triển của xã hội, bị quy định bởi trình độ phát triển của sản xuất vật chất. Nó có tính lịch sử. Song, ngay cả trong tình trạng như vậy, khái niệm nhà nước vẫn là một khái niệm chứa đựng mâu thuẫn, vẫn là hình ảnh của chỉnh thể xã hội với hình thức là quyền lực công, lợi ích chung và nội dung là quyền lực bộ phận (giai cấp), lợi ích riêng (giai cấp). Tình trạng này sẽ bị vượt bỏ, và nhà nước với tính cách bộ máy và nhà nước với tính cách xã hội được tổ chức theo cách thức xác định sẽ đồng nhất trở lại một cách cụ thể.

Đây cũng là một quan niệm có tính chất phương pháp luận trong nghiên cứu nhà nước pháp quyền. Trong các quan niệm về nhà nước pháp quyền mà chúng ta đã khảo sát ở trên, tuyệt đại đa số đều quan niệm nhà nước pháp quyền theo nghĩa bộ máy nhà nước hay nhà nước chính trị. Bởi vậy, những bàn luận về nguyên tắc, đặc trưng, v.v. của nhà nước pháp quyền đều chỉ tập trung vào bộ máy nhà nước, phần quan trọng nhất là xã hội được tổ chức theo cách xác định lại không được bàn tới, hoặc nếu có thì cũng chỉ với tính cách một hệ quả phải tính tới do quan hệ của nó với nhà nước. Cách tư duy này không tránh khỏi tình trạng không lý giải được thực chất, nguồn gốc những tính quy định pháp quyền của bộ máy nhà nước; do vậy, phải du nhập những tính quy định này từ những giá trị chung, nguyên tắc chung nào đó, hoặc từ một ý niệm tuyệt đối nào đó, hoặc suy một cách võ đoán từ nguyên tắc nhận thức đã bị biến thành nguyên tắc tiên nghiệm khi không xuất phát từ thực tiễn mà từ lý luận về sự quy định của cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng, của kinh tế với chính trị, của xã hội với nhà nước. Nói cách khác, tính tất yếu của nhà nước pháp quyền trở thành tính tuỳ tiện chủ quan. Chỉ có quan niệm nhà nước theo hai lớp nghĩa và quan trọng hơn, sự chuyển hoá giữa hai lớp nghĩa này mới cho phép tìm đến bản chất và tính tất yếu khách quan của nhà nước pháp quyền nói chung, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói riêng.

Thứ ba, bản chất của nhà nước pháp quyền được phản ánh trong khái niệm nói trên là "quyền lực của nhân dân được thể chế hoá thành pháp luật và đảm bảo thực thi bằng bộ máy nhà nước cũng như các thiết chế chính trị - xã hội khác nhằm mang lại quyền lợi cho nhân dân". Đây chính là nội hàm căn bản nhất của khái niệm "nhà nước pháp quyền".

Sự hình thành và phát triển của nhà nước pháp quyền diễn ra theo lôgíc sau: Lực thông qua sự thừa nhận chung sẽ trở thành quyền lực; quyền lực được luật hoá và đảm bảo thực thi bằng bộ máy nhà nước cũng như các thiết chế chính trị - xã hội khác sẽ trở thành pháp quyền và xã hội được tổ chức theo cách như vậy chính là nhà nước pháp quyền.

Lực vốn là một khái niệm của vật lý học, dùng để chỉ một thuộc tính của sự vật. "Lực (sức mạnh) là khái niệm dùng để chỉ một thuộc tính của bất kỳ hệ vật chất nào, xét trong tương tác với hệ vật chất khác, có khả năng duy trì sự tồn tại hoặc tạo ra sự biến đổi”.

Khi vận dụng vào khoa học xã hội, khái niệm "lực" được dùng để chỉ thuộc tính sức mạnh, là khả năng áp đặt và buộc người khác/tập đoàn xã hội khác thực hiện theo ý chí của mình trong quan hệ với cá nhân/quan hệ với xã hội. Mỗi cá nhân cũng như mỗi tập đoàn người trong xã hội đều có thể có một lực nhất định trong quan hệ với cá nhân hay tập đoàn khác, và vì thế tạo nên một kiểu tổ chức xã hội nhất định. Quan hệ lôgíc giữa "lực" và kiểu tổ chức xã hội đã được nhiều nhà nghiên cứu xã hội sử dụng khi tiến hành phân tích cấu trúc hệ thống xã hội. Chẳng hạn, nhà tương lai học người Mỹ A.Toffler cho rằng có 3 loại lực được tạo nên từ vũ khí, tiền bạc và trí tuệ, và tương ứng với nó là các kiểu tổ chức xã hội nông nghiệp, công nghiệp và hậu công nghiệp. Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lê nin, đối với các lực lượng cấu thành xã hội, sức mạnh dựa trên cơ sở sở hữu các tư liệu sản xuất có vai trò quyết định đối với sự phát triển của xã hội nói chung và cách thức tổ chức xã hội dựa trên quan hệ đối với tư liệu sản xuất là cách thức tổ chức xã hội căn bản - cách thức tổ chức xã hội thành các giai cấp và quan hệ giữa các giai cấp. C.Mác và Ph.ăng ghen viết: "Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người có những quan hệ nhất định, tất yếu, không tuỳ thuộc vào ý muốn của họ - tức những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy họp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức cái cơ sở hiện thực, trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị, và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó. Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung"(l).

Quan điểm này diễn đạt theo một cách khác có nghĩa là trên cơ sở sức mạnh kinh tế sẽ tổ chức nên chỉnh thể đời sống xã hội. Sự phân tích bản chất của đời sống xã hội sẽ không thể thu được kết quả khách quan nhất nếu không bắt đầu từ sự phân tích sức mạnh và quan hệ sức mạnh của các lực lượng trong xã hội đo quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất trong xã hội quy định. V.I.Lê nin đã khẳng định quan điểm có tính chất phương pháp luận này khi nói rằng, nếu không quy sự phát triển các quan hệ xã hội thành sự phát triển các quan hệ sản xuất và nếu không quy sự phát triển các quan hệ sản xuất thành sự phát triển của lực lượng sản xuất thì không thể có được lời giải đáp cho câu hỏi về quy luật khách quan của sự tồn tại và phát triển của xã hội, hay nói cách khác là không có căn cứ để hiểu quan điểm nền tảng của chủ nghĩa duy vật biện chứng về lịch sử: "sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử- tự nhiên". Từ quan điểm có tính chất phương pháp luận đã trình bày ở trên, C.Mác và Ph.ăng ghen đã chỉ ra quy luật tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản; từ đó chỉ ra những quy luật chung nhất của đời sống nhân loại. V.I.Lê nin đã chỉ ra quy luật vận động của chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn độc quyền. Hồ Chí Minh cũng đã tìm ra tính tất yếu tồn tại và tất yếu diệt vong của chủ nghĩa thực dân, từ đó thúc đẩy xã hội Việt Nam phát triển đúng theo quy luật khách quan vốn có của nó. Việc tìm hiểu nhà nước pháp quyền như một trình độ phát triển về chất trong quá trình vận động của nó không thể không xuất phát từ quan điểm nói trên.

Quyền lực là một quan hệ xã hội, trong đó sức mạnh của một bên được thừa nhận, ý chí một bên trở thành ý chí hành động chung.

Một quan hệ dựa trên sức mạnh sẽ chuyển hoá thành quan hệ quyền lực khi mà bên bị áp đặtbuộc phải hành động đã tự giác và tự nguyện hành động theo ý chí của bên kia. Sự thừa nhận chung có ý nghĩa rất quan trọng trong tổ chức đời sống xã hội và được hiểu là sự thừa nhận của các bên tham gia quan hệ xã hội.

Vấn đề cần quan tâm ở đây là, nói chung, bất cứ một chủ thể nào nắm giữ sức mạnh cũng luôn muốn trở thành chủ thể quyền lực, muốn được đối phương thừa nhận vị trí và vai trò chi phối của mình trong quan hệ với họ. Nhưng vì mỗi bên khi tham gia vào quan hệ xã hội đều xuất phát từ lợi ích riêng của mình, hơn nữa, do trình độ phát triển của sản xuất quy định, nên việc thoả mãn lợi ích riêng của các bên thường đối lập, thậm chí loại trừ nhau; trong khi đó, "kẻ mạnh không phải lúc ào cũng đủ mạnh để mãi mãi làm người thống trị, nếu như hắn ta không chuyển lực thành quyền và chuyển sự phục tùng thành nghĩa vụ”(2). Trên thực tế, đúng như J.J Rousseau đã chỉ ra, sức mạnh tự nó không thề trở thành quyền lực, mặc dù giữa lực và quyền lực có mối quan hệ nội tại rất chặt chẽ - không thể có quyền lực nếu không có sức mạnh.Ý chí bộ phận chỉ trở thành ý chí chung khi lợi ích mà nó đại diện đóng vai trò lợi ích chung.

Chừng nào mà một lực lượng xã hội không nhận thức được và không có đủ khả năng biến lợi ích riêng của mình thành lợi ích chung trên cơ sở kiến tạo lợi ích chung thực sự cho xã hội, thì chừng đó lực lượng ấy không thể có quyền lực thực sự. Tất nhiên, việc núp dưới hình thức lợi ích chung luôn là một sự lợi dụng và sẽ còn bị lợi dụng khi mà kẻ núp dưới hình thức ấy không đủ khả năng tạo ra lợi ích chung thực sự. Khi ấy, sức mạnh đóng vai trò tiêu cực, không phải là công cụ để tạo ra lợi ích chung mà là để duy trì quyền lợi của kẻ núp dưới lợi ích chung. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin đã chứng minh rằng, nếu sản xuất vật chất là nguồn gốc của sự tồn tại và phát triển của xã hội, thì sức mạnh của nhân dân lao động là sức mạnh to lớn nhất trong lịch sử. Chính nhân dân lao động là người sáng tạo ra lịch sử. Vì vậy, để tiến hành những cải tạo căn bản trong xã hội, cần phải tập hợp và phát .huy sức mạnh của nhân dân lao động. Tuy nhiên, không phải lúc nào nhân dân lao động cũng là người có quyền lực trong xã hội, mặc dù họ chiếm đa số, tức là về lý thuyết, họ có thể tự thừa nhận sức mạnh của mình. Sự phát triển của xã hội loài người trải qua các hình thái kinh tế - xã hội đã chứng minh rằng, các giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất mới hình thành trong lòng hình thái kinh tế - xã hội cũ chỉ có thể giành và giữ quyền tổ chức đời sống xã hội - tập trung ở bộ máy nhà nước - khi thể hiện mình là cái phố biến, là đại diện cho lợi ích chung của toàn thể xã hội, biến sức mạnh của nhân dân lao động thành sức mạnh phục vụ cho lợi ích của giai cấp mình. ỏ giai đoạn đầu trong sự tồn tại với tư cách giai cấp của mình, sự thể hiện ấy mang tính bản chất, nhưng cùng với thời gian, sự thể hiện ấy dần chỉ còn là hiện tượng bề ngoài. Điều này đã xảy ra với giai cấp địa chủ phong kiến, giai cấp tư sản. Chỉ đến giai cấp vô sản, vai trò phổ biến của nó trong xã hội mới luôn có tính bản chất, bởi giai cấp vô sản mà hạt nhân của nó là giai cấp công nhân hiện đại chính là chủ thể của các quá trình sản xuất vật chất, và bản thân nó cũng là giai cấp những người lao động. Như vậy, lịch sử nhân loại đã chứng minh rằng, sự hình thành quyền lực của nhân dân lao động là tất yếu. Nhân dân lao động nhất định sẽ trở thành người chủ thực sự của các quan hệ xã hội, của các quá trình xã hội, của toàn thể xã hội.

Pháp quyền là quyền lực của nhân dân được thể chế hoá thành luật và đảm bảo thực thi bằng nhà nước và các thiết chế chính trị xã hội khác.

Pháp quyền có sự phân biệt với pháp luật. Pháp luật là ý chí của giai cấp nắm giữ sức mạnh kinh tế được đề lên thành luật. Khi giai cấp này đồng thời là đại biểu cho toàn thể xã hội, nghĩa là sức mạnh của nó được toàn thể xã hội thừa nhận, thì ý chí của nó dưới hình thức luật là pháp quyền, còn khi nó chỉ đại diện cho chính mình như một bộ phận trong quan hệ đối lập với các bộ phận khác trong xã hội (nghĩa là sức mạnh của nó không được toàn thể xã hội thừa nhận) thì ý chí của nó dưới hình thức luật chỉ là pháp luật.

Trong xã hội có giai cấp, bộ máy nhà nước là cơ quan mang hình thức quyền lực công, đại diện cho lợi ích chung. Chỉ có nó mới đủ tư cách và khả năng thể chế hoá một ý chí nào đó thành luật và đảm bảo thực thi ý chí đó bằng một hệ thống các công cụ vật chất, như quân đội, cảnh sát, nhà tù, toà án, v.v., cùng với hệ thống các thiết chế chính trị - xã hội khác. Mặt khác, về bản chất, bộ máy nhà nước là của một giai cấp nhất định và phục vụ cho giai cấp ấy. Cho nên, để một quyền lực có khả năng được thể chế hoá thành luật và được đảm bảo thực thi, việc đầu tiên là chủ thể quyền lực phải giành lấy quyền tổ chức và điều hành nhà nước. Vấn đề nhà nước, do vậy, là vấn đề trung tâm của mọi cuộc cách mạng xã hội.

Một điều khác cũng cần lưu ý ở đây là năng lực của bộ máy nhà nước trong việc luật hoá và đảm bảo thực thi quyền lực đã được luật hoá. Quyền lực có thể không trở thành pháp quyền khi chủ thể của nó không giành lấy quyền tổ chức và điều hành bộ máy nhà nước, nhưng ngay cả khi đã giành được quyền tổ chức và điều hành bộ máy nhà nước, pháp quyền vẫn không tồn tại nếu bộ máy ấy không đủ sức luật hoá và đảm bảo thực thi quyền lực đã được luật hoá.

Sự phân tích về lực và quyền lực ở trên cho thấy, nếu nhân dân là người chủ thực sự của sức mạnh xã hội thì sự hình thành quyền lực của nhân dân là tất yếu trong lịch sử phát triển của nhân loại, và nếu quyền lực của nhân dân tất yếu hình thành thì chỉ khi nhân dân giành được quyền tổ chức, điều hành bộ máy nhà nước và bộ máy ấy đủ sức luật hoá cũng như đảm bảo thực thi quyền lực của nhân dân đã được luật hoá mới hình thành nên pháp quyền thực sự và tổ chức xã hội thành nhà nước pháp quyền.

Như vậy, với các khái niệm công cụ là lực, quyền lực và pháp quyền như trên, ta có thể thấy, tại sao chỉ có xã hội tổ chức theo cách quyền lực của nhân dân được thể chế hoá thành luật và đảm bảo thực thi bằng nhà nước và các thiết chế chính trị - xã hội khác thì đó mới là nhà nước pháp quyền.

Khái niệm này tự nó đã loại bỏ các loại hình nhà nước từ nhà nước tư sản trở về trước ra khỏi ngoại diên khái niệm nhà nước pháp quyền theo nghĩa đầy đủ, đồng thời khẳng định nhà nước pháp quyền là một trình độ phát triển tất yếu đạt tới của nhà nước.

Các hình thức nhà nước từ nhà nước tư sản trở về trước không phải là nhà nước pháp quyền theo ý nghĩa đầy đủ của nó, mà chí mang những mầm mống của nhà nước pháp quyền, bất kể trong nhà nước ấy, pháp luật có đóng vai trò thống trị hay không và quyền lực nhà nước có được tổ chức theo nguyên tắc tam quyền phân lập hay không. Các hình thức nhà nước ấy chỉ có mầm mống nhà nước pháp quyền, bởi lẽ, xét về mặt giai cấp, các nhà nước ấy đều được tổ chức theo cách quyền lực của một giai cấp thống trị, thiểu số trong xã hội, được thể chế hoá thành luật và đảm bảo thực thi bằng nhà nước. Như vậy, nếu căn cử vào khái niệm nhà nước pháp quyền nêu trên, thì các nhà nước ấy tuyệt nhiên không thể được coi là nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên, xét về mặt giải phóng con người, sự thay thế giai cấp chủ nô bằng giai cấp địa chủ phong kiến, sự thay thế giai cấp địa chủ phong kiến bằng giai cấp tư sản đều là những bước phát triển quan trọng trong quá trình giải phóng con người cả về chất lượng lẫn số lượng. Bản thân các giai cấp thống trị, ngoài bản chất giai cấp thì ở tầng bậc bản chất sâu hơn, họ vẫn là con người. Mặt khác, cách thức tổ chức xã hội dựa trên quan hệ sản xuất phong kiến cao hơn cách thức tổ chức xã hội dựa trên quan hệ chiếm hữu nô lệ và cách thức tổ chức xã hội dựa trên quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa lại cao hơn cách thức tổ chức xã hội dựa trên quan hệ sản xuất phong kiến. Quyền lực xã hội cũng phát triển khi lần lượt trải qua các chủ thể là giai cấp chủ nô, giai cấp địa chủ phong kiến và giai cấp tư sản. Theo nghĩa ấy, trong các hình thức nhà nước từ nhà nước tư sản trở về trước tồn tại những mầm mống, những phần của nhà nước pháp quyền và đều là những bước tiến trong hành trình đi tới nhà nước pháp quyền theo nghĩa đầy đủ nhất.

Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đã tạo ra sự thay đổi chưa từng có trong lịch sử loài người khi nó thay thế lực lượng lãnh đạo xã hội vốn chỉ là một thiểu số bóc lột bằng đa số nhân dân lao động. Đồng thời, nó cũng tạo ra bước chuyển to lớn trong sự giải phóng con người trên cơ sở nắm giữ quyền lực trong xã hội.

Tính chất mà mọi hình thức nhà nước trước đó không thể có là, khi sức mạnh của nhân dân được tập hợp và phát huy thì đồng thời nó cũng trở thành quyền lực, bởi sức mạnh đó là sức mạnh của đa số trong xã hội. Từ việc giành lấy quyền tổ chức và điều hành bộ máy nhà nước, nhân dân lao động sẽ tổ chức lại đời sống xã hội bằng cách thể chế hoá ý chí của mình thành luật và đảm bảo thực thi luật ấy bằng bộ máy nhà nước cùng với hệ thống các thiết chế chính trị - xã hội của mình . Ý chí chung ở đây là ý chí chung thực sự. Lợi ích chung ở đây là lợi ích chung thực sự. Do vậy, mâu thuẫn nội tại trong xã hội và trong bộ máy nhà nước có điều kiện tồn tại trong trạng thái thống nhất cao độ. Nhà nước và xã hội tiến nhập trở lại với nhau. Nhà nước dần mất đi tính chất chính trị (bởi trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản, vẫn tồn tại các giai cấp). Nhà nước pháp quyền là bước phát triển cuối cùng trước khi nhà nước hoàn toàn mất đi tính chất chính trị, nhà nước với tính cách bộ máy và nhà nước với tính cách xã hội được tổ chức theo cách xác định đồng nhất một cách cụ thể với nhau. Đó chính là điều mà C.Mác đã khẳng định khi phê phán triệt để triết học pháp quyền của Hêghen. Nhà nước với tính cách một bộ phận thì là bộ phận thực sự, bên cạnh các bộ phận khác cấu thành chỉnh thể đời sống xã hội; với tính cách chỉnh thể thì là chỉnh thể thực sự khi nó thâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

Khái niệm nhà nước pháp quyền như xác định ở trên đã đặt ra nhiều vấn đề về mặt lý luận và thực tiễn đối với quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay.

Theo quan điểm của chúng tôi, chỉ có một khái niệm "nhà nước pháp quyền" theo nghĩa trình độ phát triển cao của nhà nước trong xã hội loài người. Tự bản thân nó, nói "nhà nước pháp quyền" tức là nói "nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa", và nói "nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa" tức là nói đến nhà nước pháp quyền ở trình độ phát triển đầy đủ nhất, là nhà nước đã đạt đến trình độ dân chủ hoàn bị nhất. Bản chất của "nhà nước pháp quyền", hay "nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa" là tất cả mọi quyền hành, lực lượng và lợi ích đều ở nơi nhân dân.

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước pháp quyền với tính cách là khái niệm, là nội dung đã "tìm thấy" cái vỏ vật chất, cái hình thức của nó.

Nếu phân chia khái niệm "nhà nước pháp quyền" thành hai khái niệm "nhà nước pháp quyền tư bản chủ nghĩa" và "nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa" thì điều đó không có nghĩa thừa nhận sự tồn tại trong hiện thực một loại hình nhà nước pháp quyền này bên cạnh một loại hình nhà nước pháp quyền kia. Nói theo ngôn ngữ của C.Mác, "nhà nước pháp quyền tư bản chủ nghĩa" và "nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa" không phải là những "giống" đồng đăng với nhau. "Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa" vừa là "giống" bởi trong hiện thực, nó đang tồn tại trong cùng không gian - thời gian với "nhà nước pháp quyền xã hội tư bản chủ nghĩa", là những hình thức của "nhà nước pháp quyền", vừa là "loài", bởi nó là sự vượt bỏ so với "nhà nước pháp quyền tư bản chủ nghĩa", là "tương lai" của "nhà nước pháp quyền tư bản chủ nghĩa". "Nhà nước pháp quyền tư bản chủ nghĩa" là hình thức chưa thể hiện hết nội dung "nhà nước pháp quyền", còn "nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa" là nhà nước đã thêm hiện hết nội dung của "nhà nước pháp quyền", là "nhà nước pháp quyền" dưới hình thái vật chất của nó.

Nói một cách đơn giản hơn, nếu sử dụng hai khái niệm này, thì điều đó chỉ có nghĩa "nhà nước pháp quyền tư bản chủ nghĩa" là nhà nước pháp quyền ở trình độ tư bản chủ nghĩa, là nhà nước pháp quyền chưa đầy đủ, còn "nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” là nhà nước pháp quyền ở trình độ xã hội chủ nghĩa, là nhà nước pháp quyền theo ý nghĩa đầy đủ nhất.
Sự khác biệt ở đây chính là ở nội hàm của khái niệm trung tâm của nhà nước pháp quyền là “nhân dân". Nếu chế độ tư bản chủ nghĩa được hiểu là chế độ mà nhân dân với tư cách "chủ thể tối cao và duy nhất của mọi quyền lực trong xã hội" vẫn là một thiểu số nhà tư bản thì hình thức pháp lý của ý chí của chủ thể quyền lực ấy vẫn chỉ là pháp luật và vì thế, chưa thực sự có nhà nước pháp quyền, dù tính chất pháp quyền của nó cao hơn nhà nước phong kiến hay nhà nước chiếm hữu nô lệ. Nếu chế độ xã hội chủ nghĩa được hiểu là chế độ mà nhân dân với tư cách "chủ thể tối cao và duy nhất của mọi quyền lực trong xã hội" là nhân dân lao động chiếm tuyệt đại đa số thành viên của xã hội, là "toàn dân" theo cách nói của Hồ Chí Minh, thì ý chí của nhân dân được đề lên thành luật cũng đồng thời trở thành pháp quyền. Trong điều kiện ấy, toàn bộ tổ chức xã hội và nhà nước là sự tự tổ chức của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; do đó, là xã hội - nhà nước pháp quyền theo đúng nghĩa của nó.

Dĩ nhiên, nhà nước pháp quyền theo đúng nghĩa của nó - nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa - nhà nước dân chủ - không phải cứ muốn là có ngay được. Với trình độ phát triển của xã hội hiện nay, ngay cả ở những nước đã trải qua một thời kỳ lịch sử xây dựng chủ nghĩa xã hội, thì nhà nước pháp quyền trước hết vẫn là một mục tiêu. Nói cách khác, ở các nước xác định mục tiêu phát triển xã hội là chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, vận dụng triết lý phát triển xã hội dựa trên nền tảng học thuyết Mác - Lê nin và do Đảng Cộng sản chân chính cách mạng lãnh đạo, thì nhà nước pháp quyền vẫn là nhà nước pháp quyền "đang thành" chứ chưa phải là "đã thành", dù nó đã đạt trình độ cao hơn so với nhà nước pháp quyền ở trình độ tư bản chủ nghĩa. chính vì thế, tiến hành xây đựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam chính Là hiện thực hóa những nội dung cơ bản: 1.Nhân dân là chủ thể tối cao và duy nhất của mọi quyền lực và quyền lợi trong xã hội; 2. Pháp quyền trong chế độ chính trị Việt Nam hiện nay là ý chí của nhân dân được đề lên thành luật và đảm bảo thực thi bằng nhà nước cùng với các thiết chế chính trị xã hội khác; 3. Bộ máy nhà nước trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là của dân, do dân, vì dân; 4. Xây dựng hệ thống các thiết chế chính trị - xã hội với tư cách một công cụ thực thi quyền lực của nhân dân cùng với bộ máy nhà nước; 5. Nhà nước quản lý và điều hành xã hội theo mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh"; 6. Kiên trì chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam hành động; 7. Củng cố và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền.

Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực chất là xây dựng nhà nước pháp quyền trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Vì vậy, nội dung của nó chính là làm cho nhân dân thực sự trở thành chủ thể tối cao và duy nhất của mọi quyền lực và quyền lợi; các công cụ quyền lực trong xã hội, như nhà nước, các thiết chế chính trị - xã hội, pháp luật phải thực sự là công cụ bảo vệ, thực thi quyền lực và quyền lợi của nhân dân; cần phải làm cho chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh thấm sâu vào quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền, phải củng cố và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.



(1) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.13.Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.14-15.
(2) J.J.Rousseau. Bàn về Khế ước xã hội. Nxb Tp.Hồ Chí Minh, 1992, tr.33.
----------

Chủ nghĩa thực tiễn và trường hợp Obama (Nguyễn Gia Kiểng) 6/3

“…Cuộc chuyển hoá về dân chủ là một cuộc cách mạng rất lớn, như chưa từng có trong lịch sử nước ta. Nó đòi hỏi những trí tuệ và những tấm lòng rất lớn. Những người thực tiễn chẳng bao giờ làm được những thay đổi lớn và thực sự đáng mong ước…”

Không cần phải là người Mỹ để quan tâm đến các cuộc bầu cử tổng thống Mỹ. Tôi đã là một trong hàng tỷ người trên thế giới theo dõi cuộc tranh cử năm 2008. Tôi lưỡng lự giữa Obama mà tôi tự nhiên thấy có cảm tình và McCaine mà tôi quý trọng từ lâu về nhân cách. Chọn lựa của tôi lệch về Obama sau khi bà Sarah Pallin được chọn làm ứng cử viên phó tổng thống cho McCain và tôi đã là một trong hàng tỷ người hân hoan theo dõi lễ nhậm chức của Obama trên truyền hình. Trong lịch sử nước Mỹ có lẽ ngoại trừ George Washington chưa có vị tổng thống Mỹ nào được hoan nghênh khi đắc cử bằng Obama. Nhưng rồi Obama trở thành một trong những tổng thống Mỹ ít được tín nhiệm nhất sau một năm cầm quyền.

Ronald Reagan trước đây cũng đã từng xuống thấp trong tỷ lệ tín nhiệm sau một năm tại chức như Obama, nhưng sau đó đã lên dốc được và trở thành một trong những tổng thống Mỹ được ái mộ nhất vì ông quả quyết theo đuổi một chính sách và chính sách đó -quyết tâm đánh gục lạm phát và chủ nghĩa cộng sản- dần dần chứng tỏ là đúng và đã thành công. Obama thì khác, ông khó có thể đảo ngược được tình thế bởi vì không thể chờ đợi kết quả của một hò hẹn nào với tương lai cả, ông là một con người thực tiễn.

Thất vọng đầu tiên của tôi đối với Obama đến ngay trong khi nghe ông đọc bài diễn văn nhậm chức. Obama nói đại khái: "Với những chế độ độc tài bám lấy quyền lực bằng mọi giá và bịt miệng đối lập chúng tôi nói quí vị đi sai chiều lịch sử, nhưng nếu quí vị chìa bàn tay ra chúng tôi cũng sẽ nắm lấy". Diễn nghĩa: quí vị cứ tiếp tục vi phạm nhân quyền cũng không sao miễn là đừng thù địch với chúng tôi. Câu nói ngắn ngủi này diễn tả một cách bóng bẩy chủ thuyết đối ngoại thực tiễn của Obama. Ông đã trình bày một cách tỉ mỉ hơn trong bài diễn văn tại Cairo ngày 4-6-2009. Hôm đó đúng là ngày kỷ niệm 20 năm cuộc thảm sát Thiên An Môn nhưng Obama đã không có một lời nào cho biến cố này, hơn thế nữa trong phần nói về dân chủ Obama đã làm một triệt thoái lớn trong khái niệm dân chủ: ông định nghĩa dân chủ một cách mơ hồ là chính quyền phải phản ánh nguyện vọng của người dân. Nhưng đây chỉ là định nghĩa của dân chủ sơ đẳng nhất, không hề làm phiền các chế độ độc tài vì chúng đều tự xưng là thể hiện trung thành ý chí của nhân dân. Đây là dân chủ ở mức độ zero. Hình như nghĩ rằng nói như thế vẫn chưa đủ để làm vừa lòng các chế độ độc tài, Obama còn nói thêm rằng không một dân tộc nào có quyền quyết định chế độ nào là phù hợp nhất cho một dân tộc khác. So much for democracy. Quý vị nào muốn có thể đọc bài nhận định của tôi về ông Obama sau bài diễn văn này (1).

Chủ nghĩa thực tiễn của Obama có thể tóm tắt như sau: thôi nhấn mạnh về dân chủ và nhân quyền trong quan hệ đối ngoại, thoả hiệp thay vì đương đầu với các chế độ hung bạo, tương đối hoá các giá trị và các văn hoá, tránh can thiệp khi quyền lợi của Hoa Kỳ không trực tiếp bị đe doạ. Trong chuyến công du châu Á vừa qua, gồm cả Trung Quốc, Obama đã hầu như không đề cập đến vấn đề dân chủ và nhân quyền.

Obama mất dần uy tín bởi vì chính sách thực tiễn của ông đã thất bại. Iran đã bạo tay hơn trong việc đàn áp các cuộc biểu tình chống bầu cử gian lận và cũng mạnh dạn hơn trong việc chuẩn bị chế tạo bom nguyên tử, tương tự như Bắc Triều Tiên. Các chế độ độc tài tại Venezuella, Cuba, Sudan còn hung hăng hơn. Tình hình Trung Đông bế tắc vì cả Do Thái lẫn các lực lượng khủng bố Hồi Giáo Hizbollah và Hamas đều leo thang trong sự quá khích. Trung Quốc, Việt Nam và Miến Điện gia tăng đàn áp một cách thô bạo đối với những người dân chủ. Trung Quốc và Việt Nam còn công khai hành xử như bọn tin tặc, đánh phá các website của đối lập, bất chấp luật pháp quốc tế, thách thức cả thế giới. Chắc chắn họ không làm như vậy với một tổng thống Mỹ khác. Thái độ của Trung Quốc đặc biệt đáng lưu ý. Trung Quốc làm ngơ trước đòi hỏi tăng hối suất đồng Nhân Dân Tệ, phá đám và làm thất bại hội nghị quốc tế về khí hậu tại Copenhagen, có lúc một thành viên phái đoàn Trung Quốc còn la ó phản đối trong khi Obama đọc diễn văn. Các chế độ bạo ngược đều muốn gia tăng sự bạo ngược vì đó là bản chất của họ; với Obama họ tha hồ làm tới vì được bảo đảm là sẽ không gặp khó khăn. Trong chính sách đối ngoại chủ nghĩa thực tiễn là điều mà ngay cả nếu bất đắc dĩ phải áp dụng cũng không nên nói ra như Obama.

Obama cũng áp dụng chủ nghĩa thực tiễn trong chính sách đối nội. Dự luật cải tổ y tế của ông sau quá nhiều nhượng bộ và thoả hiệp đã mất dần ý nghĩa; nó hầu như không đả động đến vấn đề cốt lõi của nền y tế Mỹ là giá điều trị quá đắt để chỉ tập trung vào một vấn đề ít quan trọng hơn là mở rộng bảo đảm chăm sóc.

Trước sự suy sụp của cảm tình và uy tín dành cho ông, Obama đã bắt đầu thay đổi thái độ. Ông đã tỏ ra cứng rắn hơn đối với Iran và Trung Quốc, các quan chức Hoa Kỳ cũng đã lên tiếng tố giác các chính quyền độc tài. Obama có nhiều lợi thế hơn để bênh vực nhân quyền, so với Bush 43 chẳng hạn, vì con người truyền thông của ông và vì mọi người đều tin ông là một con người ôn hoà chừng mực, nhưng ông có một trở ngại lớn: chính ông. Obama là con người thực tiễn, và chủ nghĩa thực tiễn chỉ có thể thất bại.

*
Nhưng chủ nghĩa thực tiễn là gì?

Trước hết không nên lẫn lộn chủ nghĩa thực tiễn (realism) với hai triết lý về đạo đức: chủ nghĩa phúc lợi (utilitarianism) và chủ nghĩa thực dụng (pragmatism). Chủ nghĩa phúc lợi là một phương pháp đánh giá hành động, đặc biệt là hành động chính trị, theo tiêu chuẩn hành động đúng là hành động đem lại phúc lợi tối đa cho thật nhiều người; chính vì thế mà chủ nghĩa phúc lợi được coi là một nền tảng của dân chủ; những người khai sáng ra chủ nghĩa này (Bentham và Stuart Mill) cũng là những người đấu tranh nhiệt tình cho dân chủ và nhân quyền. Chủ nghĩa thực dụng là một phương pháp đánh giá các lý thuyết, theo đó một lý thuyết chỉ đáng để ta quan tâm và học hỏi nếu sự kiện nó đúng hay sai có ảnh hưởng cụ thể trong đời sống, còn nếu không nó chỉ là một lý thuyết suông không đáng để ta mất thì giờ.

Chủ nghĩa thực tiễn không phải là một triết lý, dù là triết lý tri thức hay là triết lý hành động, nó là một thái độ hướng dẫn chọn lựa, theo đó mỗi khi có mâu thuẫn giữa quyền lợi và nguyên tắc thì quyền lợi phải được dành ưu tiên, trái tim phải phục tùng cái đầu, tình cảm phải nhường chỗ cho lý trí. Obama thực tiễn cho nên dù ông có cho rằng các chế độc độc tài là sai ông cũng sẵn sàng bắt tay như ông đã nói trong bài diễn văn nhậm chức của ông, hay như khi ông định nghĩa dân chủ một cách chung chung và khẳng định rằng không một quốc gia nào có quyền quyết định thế nào là một chế độ đúng cho một nước khác để khỏi bị sự chống đối của các chế độ độc tài. Đặng Tiểu Bình cũng phát biểu chủ nghĩa thực tiễn khi ông nói "mèo trắng mèo đen mèo nào cũng được miễn là bắt chuột". Bản chất của một chế độ không có tầm quan trọng nào trong chính sách đối ngoại của một chính quyền thực tiễn, điều quan trọng là lợi và hại.

*
Các chính trị gia thực tiễn không bao giờ nhìn nhận là chủ nghĩa thực tiễn đồng nghĩa với sự mềm yếu. Họ có thể viện dẫn trường hợp nhiều nhân vật rất quả quyết từng được coi, có khi tự coi, là thực tiễn. Barry Goldwater, Richard Nixon và Ronald Reagan đã được coi là những chính trị gia Mỹ thực tiễn. Với một bản chất khác hẳn, Lenin, Stalin và Đặng Tiểu Bình cũng là những con người rất thực tiễn. Nhưng nếu nhìn kỹ hơn thì sự thực có thể khác.

Năm 1964 nghị sĩ Barry Goldwater tranh cử với tổng thống Johnson trên một lập trường mà ông cho là thực tiễn và có thể tóm tắt như sau: hy vọng thoả hiệp với cộng sản chỉ là hão huyền, cộng sản chỉ hiểu ngôn ngữ của sức mạnh vì thế thái độ thực tiễn nhất đối với họ là phải tỏ ra sẵn sàng dùng sức mạnh, phải sẵn sàng tăng cường quân lực tại Việt Nam, sẵn sàng đánh Cuba, Trung Quốc và cả Liên Xô nếu cần. Thực ra Goldwater không phải là một người thực tiễn. Ở vào giữa thập niên 1960, cao điểm của phong trào phản chiến và chủ nghĩa Mác – Lênin, lấy một lập trường như thế là chuốc lấy thảm bại, và quả nhiên Goldwater đã thua rất xa Johnson trong cuộc tranh cử tổng thống. Goldwater đã lấy thái độ diều hâu như thế, dù biết sẽ thất cử, chỉ để chặn đứng khuynh hướng chủ bại. Ông là một người lý tưởng. Reagan có lúc cũng đã bị đánh giá là thực tiễn một cách sơ đẳng như Goldwater nhưng đã chứng tỏ là một tổng thống lỗi lạc, có lý tưởng, bản lãnh và tầm nhìn. Chỉ có Nixon quả thực là con người thực tiễn. Người Mỹ không còn chấp nhận những hy sinh tại Việt Nam? Vậy thì phải Việt Nam hoá chiến tranh và chuẩn bị triệt thoái. Khối cộng sản có dấu hiệu chia rẽ? Vậy hãy bắt tay với Mao để tách hẳn Trung Quốc và Liên Xô mà không cần thắc mắc về bản chất tội ác của chế độ Trung Cộng. Đặc tính thực sự của chủ nghĩa thực tiễn là sự mưu tìm hiệu quả một cách giản dị trong lý luận và hành động ngay cả nếu phải hy sinh hoặc gác lại các nguyên tắc nền tảng. Hitler, Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình đều đã hành động giản dị như thế, và vì họ không bị ràng buộc bởi một luật pháp nào nên họ đã không dừng tay trước tội ác.

Trong trường hợp các nước dân chủ, mà bản chất là muốn giải quyết mọi vấn đề trước hết bằng đường lối hoà bình, chính do sự giản dị của nó mà chủ nghĩa thực tiễn dẫn đến sự nhu nhược một cách khá tự nhiên. Lý do là vì đối đầu luôn luôn là một chọn lựa khó khăn, đòi hỏi sự quyết tâm mà những người thực tiễn thường không có. Hơn nữa đối đầu bao giờ cũng bao hàm một thiệt hại nào đó lúc ban đầu cho nên không được coi là khôn ngoan, nhất là khi quyền lợi quốc gia không bị trực tiếp đe doạ, vì thế những người lãnh đạo thực tiễn thường hay chọn giải pháp nhân nhượng và thoả hiệp, ngay cả khi những giá trị nền tảng bị vi phạm.

Chủ nghĩa thực tiễn thường được hưởng một lợi thế về ngôn ngữ. Người ta thường có khuynh hướng coi thực tiễn là thái độ đúng và có lợi, ngược lại với thực tiễn là viển vông và vô ích. Nhưng đây chỉ là một sự hiểu lầm. Không cần phải là một người thực tiễn, bất cứ ai cũng đều hành động nhắm lợi ích. Ngay cả những nhà tu hành cũng chỉ chọn cuộc sống tu hành vì nghĩ đó là cách sống có lợi nhất, hoặc vì nó mở cửa thiên đường cho cuộc sống vĩnh cửu sau này, hoặc vì cho rằng đó mới là hạnh phúc đích thực ngay trong cuộc đời này. Tất cả vấn đề chỉ là quan niệm thế nào là quyền lợi, quyền lợi thực sự hay quyền lợi biểu kiến, quyền lợi lâu dài hay quyền lợi ngắn hạn. Chủ nghĩa thực tiễn dựa trên thực tại trước mắt và coi nhẹ các nguyên tắc và giá trị nền tảng nên thường chỉ là quyền lợi ngắn hạn. Các nguyên tắc và các giá trị nền tảng là gì nếu không phải là những điều mà trí tuệ và kinh nghiệm cho thấy là nên tuân thủ vì phúc lợi lâu dài?

*
Một đặc tính của chủ nghĩa thực tiễn là nó không phù hợp với thực tế. Nó luôn luôn nhắm tiến thẳng tới mục tiêu bằng giải pháp trực tiếp nhất và vì thế luôn luôn bị hụt hẫng. Thực tại không ngừng thay đổi cho nên những người thực tiễn phải vất vả chạy theo nó và có mọi triển vọng là sau khi đã tốn nhiều thì giờ và cố gắng người ta nhận ra rằng thực tại đã thay đổi đến độ mà mục tiêu theo đuổi đã mất ý nghĩa. Làm chính trị là hò hẹn với tương lai cho nên khả năng quan trọng nhất là tiên liệu cái gì sẽ xảy ra, các vấn đề hiện nay sẽ đặt ra như thế nào trong tương lai, các vấn đề nào sẽ không còn đặt ra nữa và các vấn đề mới nào sẽ xuất hiện. Người làm chính trị phải có viễn kiến. Chủ nghĩa thực tiễn thực ra chỉ tố giác sự thiếu viễn kiến. Các trường đại học, và các cố gắng trau dồi văn hoá nói chung, không nhắm mục đích nào khác ngoài việc cho chúng ta khả năng nhìn xa trông rộng, nói cách khác là giải phóng chúng ta khỏi phản xạ thực tiễn.

Một đặc tính khác cần được lưu ý của chủ nghĩa thực tiễn mà có lẽ Obama không thấy là nó luôn luôn sai trong chính sách đối ngoại. Nó bỏ qua quan tâm ý thức hệ để chỉ đặt chính sách đối ngoại trên nền tảng quyền lợi mà không biết rằng ý thức hệ, nghĩa là bản chất của chế độ, bao giờ cũng quyết định chính sách ngoại giao và các đồng minh của một quốc gia. Ngưu tầm ngưu mã tầm mã. Dù Hoa Kỳ và các nước dân chủ phương Tây có ve vãn đến đâu đi nữa thì các chế độ độc tài Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Triều Tiên, Sudan, Miến Điện, Iran… vẫn coi họ là thù địch, và dù trong thâm tâm các chế độ độc tài có khinh bỉ nhau thế nào đi nữa chúng vẫn là đồng minh. Câu nói "buột miệng" của ông Nguyễn Minh Triết (theo đó ông tìm cách "phân hoá" nước Mỹ) là một bằng cớ.

Mỹ và các nước dân chủ nói chung cần rút kinh nghiệm trên hai trường hợp mà chủ nghĩa thực tiễn đã được thể hiện. Trong hơn ba thập qua họ đã hợp tác với Trung Quốc mà không đặt vấn đề bản chất của chế độ, ngay cả sau cuộc thảm sát Thiên An Môn, có lẽ với hy vọng là tăng trưởng kinh tế tự nó sẽ dần dần đem đến dân chủ (cứ như là độc tài là hậu quả chứ không phải là nguyên nhân của sự nghèo khổ). Thực tế đã không như vậy, nhờ giao thương với các nước dân chủ, đặc biệt là Hoa Kỳ, Trung Quốc đã mạnh hơn nhiều nhưng vẫn là một chế độ bạo ngược và còn yểm trợ cho nhiều chế độ hung bạo khác. Đôi khi Trung Quốc còn được viện dẫn như là một bằng cớ về sự đúng đắn của chủ thuyết tăng trưởng kinh tế bất chấp nhân quyền. Sức mạnh kinh tế đã chỉ khiến Trung Quốc tự tin hơn trong thái độ thách thức và đang trở thành một lo âu cho thế giới. Một bài học khác là Pakistan. Tại đây, một cách thực tiễn, Hoa Kỳ đã ủng hộ chế độ quân phiệt của tướng Pervez Musharraf sau khi ông này đảo chính lật đổ chính quyền dân cử cuối năm 1999 và coi ông này như một đồng minh đắc lực trong cuộc chiến tranh chống khủng bố. Thực tế đã ngược hẳn với sự mong đợi, chính Musharraf đã giúp quân khủng bố Taliban hồi sinh; Hoa Kỳ đã chỉ tỉnh mộng một cách muộn màng. Bản chất của những tập đoàn độc tài là gian trá. Phải nói rõ để tránh mọi hiểu lầm: ngày nay ít ai còn đòi hỏi cô lập và trừng phạt các chế độ độc tài, các biện pháp này chỉ đánh vào nạn nhân thay vì thủ phạm. Nhưng ít nhất cũng phải gây áp lực và gắn bó hợp tác với những tiến bộ về nhân quyền bởi vì đó vừa là đạo đức quốc tế được qui định trong hiến chương Liên Hiệp Quốc vừa là điều kiện để có những đối tác đáng tin cậy.

Coi nhẹ các giá trị dân chủ và nhân quyền còn là một sai lầm lớn nếu hoà bình là điều cần được trân quý nhất. Trong lịch sử thế giới các cuộc chiến đã chỉ xảy ra hoặc giữa các nước độc tài với nhau hoặc giữa một nước độc tài và một nước dân chủ. Chưa có trường hợp hai nước dân chủ chiến tranh với nhau. Dân chủ và nhân quyền là nền tảng của hoà bình.

Chủ nghĩa thực tiễn chỉ có thể đem lại thất vọng bởi vì trong chiều sâu nó là một sự từ nhiệm. Dân chúng chờ đợi ở những người lãnh đạo khả năng, viễn kiến và đởm lược để lấy những quyết định khó khăn có thể khó hiểu và nhức nhối lúc ban đầu chứ không phải để lấy những quyết định hiển nhiên, dễ dãi. Người dân đòi hỏi người lãnh đạo phải đi trước họ, họ bầu ra người lãnh đạo để nếu cần áp đặt những cố gắng và hy sinh cần thiết chứ không phải để chạy theo họ. Vả lại nếu không có viễn kiến và lý tưởng thì bước vào trường chính trị để làm gì? Các chính trị gia thực tiễn có thể được lòng dân lúc mới xuất hiện nhưng chắc chắn sẽ gây thất vọng sau đó. Trong trường hợp Obama sự thất vọng còn lớn hơn bởi vì rất nhiều người đã bỏ phiếu cho ông vì những giá trị dân chủ và nhân quyền để rồi khám phá ra rằng chính ông không tha thiết gì lắm với những giá trị này.

Có một bài toán động học và hình học giải tích trình bày một cách khá chính xác chủ nghỉa thực tiễn. Bài toán, với cái tên dí dỏm là "quỹ đạo của chó" (2), mô tả một con chó đuổi bắt một đối tượng đang di chuyển. Chó có bản năng rất thực tiễn nên nhắm thẳng đối tượng mà chạy tới nhưng vì đối tượng di chuyển không ngừng nên chính tính thực tiễn của nó khiến chó phải chạy trên một quỹ đạo rất cầu kỳ, ngay cả nếu đối tượng di chuyển một các giản dị trên một đường thẳng với một vận tốc cố định. Trong trường hợp đối tượng di chuyển một cách phức tạp hơn thì bài toán không có giải đáp. Chủ nghĩa thực tiễn được chứng minh là sai bằng toán học.

*
Một lời sau cùng: tại sao người Việt Nam cần hiểu rằng chủ nghĩa thực tiễn là sai? Đó là vì cuộc đấu tranh cho dân chủ đang rất vất vả với chủ nghĩa thực tiễn. Có quá nhiều người mong muốn một tương lai dân chủ cho Việt Nam nhưng lại suy nghĩ và hành động một cách thực tiễn. Trong nội bộ đảng và nhà nước cộng sản thái độ thực tiễn là không bộc lộ lập trường dân chủ để khỏi bị trù dập và vô hiệu hoá. Ngoài xã hội thái độ thực tiễn là kiếm tiền, và làm giàu nếu có thể được, thay vì đối đầu với một chính quyền đồ sộ và hung bạo. Chủ nghĩa thực tiễn có một tên gọi khác: chủ nghĩa luồn lách. Người ta chán ghét chế độ nhưng thấy phải thoả hiệp với thực tại để sống, và vì thế vô tình củng cố chế độ. Cuộc chuyển hoá về dân chủ là một cuộc cách mạng rất lớn, như chưa từng có trong lịch sử nước ta. Nó đòi hỏi những trí tuệ và những tấm lòng rất lớn. Những người thực tiễn chẳng bao giờ làm được những thay đổi lớn và thực sự đáng mong ước.

Nguyễn Gia Kiểng

(1) Nguyễn Gia Kiểng, «Obama tại Cairo: dân chủ ở mức độ zero». Thông Luận số 237, tháng 6-2009.
(2) Nguyễn Gia Kiểng, «Quỹ đạo của chó». Thông Luận số 44, tháng 12-1992.

© Thông Luận 2010

Chủ nghĩa thực tiễn và trường hợp Obama (Nguyễn Gia Kiểng)

---------

Sếp lớn làm vua, ân nhân, bè bạn đua nhau đi làm đại sứ (Nguyễn Văn Khanh)
Lúc tranh cử, ông hứa hẹn với người dân “sẽ thay đổi lối làm việc ở Washington.” Không dám vội xét đoán lời hứa này đã được ông thực hiện tới đâu, nhưng nhìn vào danh sách những người được ông chọn làm đại sứ thì thấy ngay lời hứa của ông... không thật sự đi đôi với việc làm.

-------

“Chủ nghĩa thực tiễn” và trường hợp ông Nguyễn Gia Kiểng Lê Nguyên Hồng 22/3

Nhân đọc bài “Chủ Nghĩa Thực Tiễn Và Trường Hợp Obama” của tác giả Nguyễn Gia Kiểng, xin có vài dòng ý kiến dưới góc nhìn của một bạn đọc. Cũng xin được hiểu bài viết của ông dưới góc độ triết lý và chính trị, vì ông Nguyễn Gia Kiểng dường như là một nhà hoạt động chính trị chuyên nghiệp, chứ không phải là một người viết bình thường.

Sau khi tìm hiểu chủ nghĩa thực dụng Mỹ của Sanders Charles Peirce. Có lẽ đây là lần đầu tiên, người viết bài này được biết thêm một chủ nghĩa mới – Chủ nghĩa thực tiễn – Một phát minh (hay là một phát hiện) của ông Nguyễn Gia Kiểng.

Trước hết, thế nào là một chủ nghĩa? “Chủ nghĩa” là tập hợp những nguyên tắc lý luận về nhận thức, tư tưởng. Nó tạo nên một hệ thống lý thuyết nhằm định hướng một cách có ý thức cho hoạt động của con người.

Vấn đề thực tiễn là gì? Thực tiễn là một phạm trù. Nó phản ánh quá khứ và hiện tại, hoàn toàn phụ thuộc vào những gì đã và đang diễn ra trong cuộc sống. Thực tiễn giống như một tấm gương phản chiếu mọi sự vật. Thực tiễn có mối quan hệ biện chứng với nhận thức. Nó giúp con người nhân thức được những gì tốt và xấu, thuận và nghịch đang diễn ra. Từ đó người ta rút ra được những kinh nghiệm cho các hoạt động sống trong tương lai. Vì vậy thực tiễn không phải là bản chất, nó chỉ là hiện tượng nhằm phản ánh thực tế của cuộc sống.

Ông Nguyễn Gia Kiểng là một con người sáng tạo. Không ít người đã từng “toát mồ hôi hột” khi đọc tựa đề bài viết “Tổ Quốc Ăn Năn” của ông, vì người ta không hiểu được, “tổ quốc” chỉ là một khái niệm, tại sao khái niệm lại biết…ăn năn? Trong bài viết “Chủ Nghĩa Thực Tiễn Và Trường Hợp Obama” Ông lại sáng tạo ra một chủ nghĩa mới, đó là “chủ nghĩa thực tiễn”.  Theo quan điểm riêng, trên thực tế không thể có “chủ nghĩa thực tiễn”, vì nó không có những yếu tố cần và đủ để có thể cấu thành một chủ nghĩa như đã dẫn ở trên.

Hoạt động sống không thể thiếu sự sáng tạo. Cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, giữa bảo thủ và tiến bộ là điều luôn xảy ra. Việc xúc tiến để biến đổi xã hội Việt Nam hiện nay từ chế độ Độc Tài độc đảng sang chế độ Đa Nguyên Dân Chủ là một công việc tất yếu. Đó thực sự là một cuộc cách mạng. Muốn có cách mạng thì phải có lý luận cách mạng, đó cũng là điều tối quan trọng và cần thiết. Thế nhưng lý luận đó sẽ như thế nào? Có phù hợp với văn hóa, lối sống, nếp nghĩ của người dân (đại chúng) hay không, có sáng tạo hay không? Đó là điều cần quan tâm hàng đầu. Nhưng không vì vậy mà ta cứ sáng tạo (ra lý luận) một cách tùy ý, thậm chí là… tùy tiện!

Trong bài viết “Chủ Nghĩa Thực Tiễn Và Trường Hợp Obama” của ông Nguyễn Gia Kiểng. Ông đã viện dẫn ra câu chuyện “quỹ đạo của chó”. Đây là một câu chuyện lại không có (hoặc rất ít)… thực tế! Chó là một loài vật được người thuần dưỡng từ rất sớm, có lẽ là từ buổi bình minh của loài người. Loại trừ chó hoang dạng Dingo, chó Sói (ít khi săn những con mồi nhỏ như Thỏ), một số ít chú Chó dùng cho việc đi săn của người cũng chỉ được giao nhiệm vụ đánh hơi, theo dõi phát hiện con mồi mà thôi. Vì vậy kỹ năng săn mồi của Chó (nhà) hiện nay là rất kém. Về tư duy (!), Chó chỉ là bậc con cháu so với loài Cáo. Cáo là một loài thông minh, nó biết cách giả chết khi cần (thậm chí một số họ nhà Cáo  có thể tiết ra mùi của xác chết), nó biết cách rình mồi, bí mật tiếp cận và tung đòn tấn công chớp nhoáng (chưa kể đến tốc độ chạy của Cáo cũng thuộc loại đáng nể). Vì vậy, trong hầu hết các cuộc đối đầu với Cáo, Thỏ đều chịu thúc thủ. Con Cáo chẳng cần dùng chiến thuật “hò hẹn với tương lai” (lại một sáng tạo về ngôn ngữ) như ông Nguyễn Gia Kiểng đã trình bày. Cáo có chiến thuật khác – Chiến thuật thông minh – Hay ngày nay như người ta thường nói, dùng “sức mạnh thông minh” (học thuyết của Gioseph Nye), có thể tạm ví như vậy. Có lẽ câu chuyện “quỹ đạo của chó” nên viết thành “sức mạnh thông minh của Cáo” thì tính thuyết phục sẽ cao hơn?

Nhận xét của ông Nguyễn Gia Kiểng về ông Obama. Người viết bài này hoàn toàn tôn trọng ý kiến cá nhân của ông. Theo ý hiểu riêng, chắc ông Kiểng cũng chỉ nhằm làm sáng tỏ vấn đề “chủ nghĩa thực tiễn” của ông, để áp dụng (hay là giải thích sự chậm trễ) vấn đề “dân chủ đa nguyên” ở Việt Nam mà thôi.

Tổng thống Obama nhậm chức trong lúc cơn bão suy thoái kinh tế toàn cầu đang lên. Ông Obama (cùng bộ máy của ông) giữ được sự cân bằng của nền kinh tế Mỹ, đã là một thắng lợi. “Nước Mỹ và chính quyền Obama cần phải tỉnh táo để không áp dụng những sai lầm của chủ nghĩa hiện thực giáo điều cho các quyết sách kinh tế và ngoại giao của mình”. Đó là phát biểu của Paul Wolfowitz- Một nhà đối ngoại hàng đầu dưới thời tổng thống George Bush.

Với phương châm “không can thiệp vào nội bộ các nước khác”. Người Mỹ chủ trương  “xử lý mối quan hệ giữa các nước với nhau” hơn là “trực tiếp làm thay đổi bản chất của một chế độ nào đó”. Họ không chủ trương “áp đặt giá trị của nền văn minh Mỹ lên một nước khác”. Chính vì vậy, mọi tư tưởng “há miệng chờ sung” của ai đó, mong người Mỹ dọn cỗ sẵn sàng, để mình chỉ việc ngồi vào ăn, là một việc làm hoàn toàn thụ động và sai lầm.

Người Mỹ, tổng thống Obama, hay một vị tổng thống tiền nhiệm nào của ông có thể mắc sai lầm. Điều đó cũng dễ hiểu vì họ cũng là những con người bằng xương bằng thịt mà thôi. Hơn bao giờ hết, người Mỹ (cụ thể là bất kỳ vị tổng thống nào của họ) đều phải ưu tiên đặt lợi ích của nước Mỹ lên hàng đầu, nếu các vị tổng thống này muốn nhận được sự ủng hộ từ các cử tri của mình…

Phong trào dân chủ ở một nước nhỏ (như Việt Nam) chỉ nên trông chờ vào các nước lớn bởi sức ép chính trị (hợp lý và hợp pháp) của họ trên các diễn đàn quốc tế. Chính nhờ điều này, hiện nay các nước độc tài trên thế giới ít nhiều đều có những sự “chuyển động” nào đó. Nhưng những thay đổi ấy vẫn chưa đáp ứng được với mong mỏi của nhân dân (đặc biệt là đối với những nhà chính trị như ông Nguyễn Gia Kiểng). Cho nên chúng ta có thể hiểu được (phần nào) những chỉ trích của ông Kiểng đã dành cho tổng thống Obama…

Tựu chung lại, người viết bài này không có ý công kích ông Nguyễn Gia Kiểng. Chỉ xin bày tỏ quan điểm và suy nghĩ riêng của mình về bài viết “Chủ Nghĩa Thực Tiễn Và Trường Hợp Obama” của ông. Cùng một vài nhận xét chủ quan trong phạm vi vốn kiến  thức còn nhiều khiêm tốn của mình.

Thiết nghĩ, người dân Việt trong nước đang cần những điều thiết thực bằng hành động của bà con người Việt hải ngoại, cụ thể:

Tạo áp lực lên chính phủ các quốc gia mà mình đang cư trú, yêu cầu họ có tiếng nói lên án chế độ độc tài thiếu dân chủ ở Việt Nam. Đòi nhà nước Việt Nam tôn trọng các cam kết của họ về việc thực thi nhân quyền (được thể hiện trong Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyên), bảo đảm các quyền tự do về dân sự, tự do về chính trị cho người dân.

Giúp đỡ tiền bạc, phương tiện cho các cá nhân và tổ chức đấu tranh (chủ yếu là trong nước), nhằm phá thế bao vây kinh tế của chế độ độc tài.

Đẩy mạnh hơn nữa cuộc đấu tranh giành quyền tự do Internet, nhằm gỡ bỏ “bức màn sắt thông tin” (lời của bà Hillary Clinton) đang bao trùm lên xã hội Việt Nam. Qua đó cải thiện kiến thức nhân quyền cho nhân dân trong nước. Nhưng không phải bằng những sản phẩm văn hóa lạc lõng, các bài viết nặng tính giáo điều. Vì chính những tư tưởng chính trị sai lạc, mơ hồ, sẽ đem lai một cuộc cách mạng mất định hướng. Điều này chắc chắn những nhà chính trị như ông Nguyễn Gia Kiểng, là những người biết rõ hơn ai hết.

© Lê Nguyên Hồng

© Đàn Chim Việt

Tổng số lượt xem trang