Chủ Nhật, 8 tháng 4, 2012

Cái chết của những trang trại điểm

- -:Những rủi ro từ trang trại
Tại cuộc họp báo thường kỳ của Văn phòng Chính phủ tháng 2.2012, bộ trưởng, chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Vũ Đức Đam khẳng định: sẽ không có chuyện thu hồi đất và chia lại vào năm sau, thậm chí, trong việc sửa đổi luật Đất đai tới đây cũng sẽ xem xét kéo dài thời gian giao đất cho dân để sử dụng ổn định lâu dài. Thông tin này khiến nhiều nông dân vui mừng. Tuy nhiên, với một số chủ trang trại ở một số địa phương, thực tế mà họ đã và đang đối mặt vẫn khiến họ lo lắng không dám mở rộng sản xuất.
SGTT.VN - Cổ Đông (thị xã Sơn Tây, Hà Nội) là hợp tác xã chăn nuôi công nghiệp lớn nhất miền Bắc trong khoảng năm năm trở lại đây. Mỗi năm, hợp tác xã này cung cấp cho thị trường hàng trăm ngàn tấn thịt heo. Nhờ nuôi heo công nghiệp mà hàng chục chủ trang trại heo từ lâu đã thành tỉ phú. Thế nhưng, từ hai đến ba năm qua, nhiều hộ chăn nuôi lại không dám mở rộng quy mô sản xuất.

Trang trại nuôi heo quy mô hàng ngàn con của ông Phùng Văn Chính vẫn chưa được thị xã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vì chưa có quy hoạch.
Gặp tỉ phú nuôi heo đầu tiên
Tháng 10.2003, ông Trần Văn Chiến được hợp tác xã Đồng Trạng và UBND xã Cổ Đông giao khoán hơn 10.500m2 đất nông nghiệp tại Quán O với thời hạn 50 năm. Ba tháng sau, ông Chiến làm đơn xin xây dựng chuồng trại chăn nuôi theo mô hình nuôi công nghiệp và được xã Cổ Đông chấp nhận. Ông bỏ ra hơn 1 tỉ đồng để xây hai chuồng và thả nuôi 1.600 con heo thịt theo hợp đồng cho một doanh nghiệp Thái Lan. Ông Chiến kể: “Phía công ty thiết kế chuồng trại, mình xây xong họ kiểm tra, thấy đáp ứng thì họ đưa heo giống về cho mình, kèm theo thức ăn, kỹ thuật nuôi, phòng dịch bệnh… họ đều lo hết. Khoảng năm tháng thì xuất chuồng, 1.600 con heo cân được hơn 150 tấn. Lúc đó một ký heo người nuôi được công ty trả công 1.500 đồng, mỗi lứa mình hưởng khoảng 220 triệu đồng”.
Từ những năm 1990, ông Chiến đã được tỉnh Hà Tây (cũ) cấp bằng khen “hộ chăn nuôi giỏi cấp tỉnh” bởi khi đó, ông đã sở hữu đàn bò hàng trăm con. Vậy nên, lúc ông tiên phong chuyển sang nuôi heo công nghiệp, các cấp từ tỉnh, đến bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đều cử cán bộ cấp cao về động viên, thăm hỏi. Nhờ vậy mà ông Chiến có thêm niềm tin để làm ăn. Sau thành công những lứa đầu tiên, đến nay, ông đã có bốn trang trại ở cả Sơn Tây, Ba Vì với 4.000 con heo thịt và 800 con heo nái; trong đó 2.000 con heo thịt và 600 heo nái nuôi thuê cho công ty của Thái Lan. Mỗi năm xuất chuồng khoảng 4.000 tấn heo thịt, mỗi ký heo được trả công 3.000 đồng, sau khi trừ hết chi phí, ông bỏ túi hơn 1 tỉ đồng/năm. “200 heo nái và 2.000 heo thịt còn lại tự mình nuôi lấy chứ không còn nuôi thuê cho công ty. Nghĩa là tự mình thiết kế chuồng trại, tự mua thức ăn, học nuôi theo quy trình như phía công ty, nên hiệu quả kinh tế không hề kém cạnh”, ông Chiến nói.
Mỗi nơi mỗi kiểu
Theo gương ông Chiến, giai đoạn năm 2005 – 2006 đã có hàng trăm hộ ở xã Cổ Đông chuyển sang nuôi heo công nghiệp theo mô hình nuôi thuê cho công ty Thái Lan. Theo ông Chiến, ông là người nuôi heo công nghiệp đầu tiên ở Hà Tây, nhưng bây giờ không phải là người nuôi nhiều nhất. Giờ hợp tác xã chăn nuôi Cổ Đông do ông làm chủ nhiệm đã có 270 hộ, trong đó có hộ nuôi quy mô lớn hơn gia đình ông. Mỗi năm, Cổ Đông xuất ra thị trường cả trăm ngàn tấn thịt, được bộ Nông Nghiệp và phát triển nông thôn đánh giá là một trong những hợp tác xã chăn nuôi công nghiệp lớn nhất miền Bắc.
“Năm 2006, trại nhà tôi sau khi xuất chuồng, trừ hết chi phí nhân công, lãi vay, mỗi năm tôi bỏ túi 300 – 400 triệu đồng. Sau hai năm, tôi đã lấy lại vốn và bắt đầu tính chuyện mở rộng quy mô”, ông Chiến nhớ lại. Lúc ấy, những chủ trang trại như ông Chiến hay ông Phùng Văn Chính (xã Sơn Đông), Nguyễn Văn Mị, Nguyễn Văn Thuỷ (xã Cổ Đông) – những người học theo ông đầu tư hàng tỉ đồng thành lập trang trại nuôi heo đầy lạc quan và chí thú làm ăn. “Đây là giai đoạn thành công của mô hình kinh tế trang trại, hơn nữa, mình lại làm ăn trên mảnh đất của mình, do mình bỏ tiền ra mua lại để tích tụ ruộng đất, hoặc ít nhất, với đất thuê khoán thì cũng đã được chính quyền giao ổn định, lâu dài, không lý gì các cấp chính quyền lại không ủng hộ”, ông Chính kể.
Thời điểm đó, 10.500m2 đất của ông Chiến vẫn còn thời hạn sử dụng hơn 45 năm theo quyết định giao đất của UBND xã Cổ Đông, còn 8.300m2 đất của ông Chính được xã Sơn Đông giao 30 năm. Vậy nhưng, kế hoạch mở rộng quy mô sản xuất sau đó của các chủ trang trại này không những bị thị xã Sơn Tây từ chối, mà quyết định giao đất từ 30 – 50 năm của các xã cũng bị các ngành của thị xã “xem xét lại”.
“Chúng tôi được thị xã mời lên và thông báo (bằng miệng): xã giao đất với thời hạn 50 năm là không đúng luật, xã chỉ được giao đất với thời hạn năm năm. Tôi quá bất ngờ vì trước nay, mọi giao dịch, thủ tục đều làm việc với xã”, ông Chiến kể. Còn ông Chính nói: “Thị xã không duyệt dự án mở rộng quy mô chăn nuôi của tôi, không duyệt thời hạn sử dụng đất 30 năm. Họ bảo “xã không có quyền” (giao đất 30 năm – PV).
Vẫn theo lời các chủ trang trại này, sau đó, các ông đã lên thị xã nhiều lần hỏi thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cấp phép mở rộng trang trại, song chưa được chấp nhận. Theo ông Chính, năm 2010 – 2011, ông có nghe thành phố Hà Nội chủ trương phê duyệt thời hạn sử dụng đất cho các dự án trang trại và thực tế nhiều huyện đã thực hiện. “Ngay như một trang trại chăn nuôi heo khác của tôi có quy mô 12.000m2 ở xã Cẩm Lĩnh, huyện Ba Vì, giai đoạn này cũng được huyện Ba Vì giao đất 50 năm. Nhưng trang trại ở xã Sơn Đông thì thị xã nói chưa có chủ trương”, ông Chính thắc mắc.
Theo chủ nhiệm hợp tác xã chăn nuôi Cổ Đông Trần Văn Chiến, bản thân ông và hàng chục xã viên có hoàn cảnh tương tự hiện rất lo lắng vì không rõ thời hạn giao đất 30 – 50 năm xã ký với họ có bị vô hiệu hay không, và nếu chỉ được sử dụng trong thời hạn năm năm, thì tính từ lúc chính quyền thị xã thông báo với họ từ năm 2007 đến nay, hàng chục hộ đã hết hạn nhưng vẫn chưa bị thu hồi, cũng chưa có hướng dẫn đấu thầu lại, hoặc có hướng giải quyết như thế nào.
“Chúng tôi làm đúng mục đích (là chăn nuôi), chúng tôi mong có giấy chứng nhận sử dụng đất, chứng nhận làm dự án chăn nuôi để mời gọi đối tác, đi thế chấp vay ngân hàng, yên tâm đầu tư. Nhiều lần cấp trên có giới thiệu cho ngân hàng Thế giới về khảo sát để tài trợ cho chúng tôi dự án xử lý môi trường, song cũng vì không có giấy này, nên chúng tôi không được hưởng dự án. Mấy năm rồi, chúng tôi không biết có nên đầu tư làm ăn tiếp hay không”, ông Chiến âu lo.
BÀI VÀ ẢNH: CHÍ HIẾU
Kỳ sau: Cái chết của những trang trại điểm
“Không cấm nhưng cũng không cấp phép”
Theo phòng tài nguyên và môi trường thị xã Sơn Tây, sở dĩ thị xã chưa thể cấp giấy chứng nhận sử dụng đất nông nghiệp, chứng nhận các dự án chăn nuôi cho các chủ trang trại nói trên do quy hoạch thủ đô vừa được thông qua (10.2011), nên Hà Nội chưa có quy hoạch sử dụng đất. “Điều này có nghĩa là, nếu năm nay hoặc năm sau, khi Hà Nội có quy hoạch sử dụng đất mà các trang trại nói trên được cấp phép, song lại không nằm trúng trong vùng quy hoạch đất nông nghiệp, chăn nuôi, thì cơ quan cấp phép phải chịu trách nhiệm, bởi vậy chúng tôi phải thận trọng. Người dân có quyền triển khai các dự án chăn nuôi, song để được cấp phép thì phải chờ quy hoạch”, một lãnh đạo phòng tài nguyên và môi trường thị xã Sơn Tây giải thích. Cũng theo vị này, những cá nhân đã ký hợp đồng giao đất, cho thuê đất sai thẩm quyền của xã Cổ Đông đã bị xử lý kỷ luật, thậm chí ra toà, song vì tiền thuê đất đã lấy của dân (thanh toán một lần khi giao đất) nên có những vướng mắc khó giải quyết trong thời gian ngắn!
Những rủi ro từ trang trại
SGTT.VN - Gần mười năm trước, trang trại của ông Khả, ông Tùng được các cấp của tỉnh Hà Nam chọn làm thí điểm mô hình kinh tế trang trại. Gần mười năm sau, khi những khu ruộng có giá trị kinh tế thấp trở thành những trang trại trù mật, thu lãi hàng trăm triệu đồng mỗi năm thì cũng là lúc chính quyền địa phương thu hồi để giao cho người khác.
Khu đất rộng 3ha trải dọc con đường chính của thôn Lập Thượng (xã La Sơn) vốn là một trang trại trù phú bậc nhất của huyện Bình Lục (tỉnh Hà Nam) suốt gần năm năm từ 2006 – 2010 nhưng hơn một năm nay, nó trở thành “cánh đồng hoang” với cỏ dại, bèo tây um tùm.
Ông Đinh Văn Khả trước cánh đồng hoang, nơi từng là trang trại trù phú của gia đình ông. Ảnh: Chí Hiếu
Từ trang trại điển hình thành “cánh đồng hoang”
Nhìn từ ngoài vào, mặt nước ao hồ trải rộng ngút tầm mắt, song lối vào của trang trại là nhánh nhỏ đường đất phủ đầy hoa cứt lợn. Đi sâu vào bên trong, chỉ toàn um tùm lau sậy và cây dọc mùng (tàu môn) cao quá thân người. Khu chuồng trại hai dãy bề thế cả trăm mét vuông bỏ hoang, mà muốn đi vào, ông Đinh Văn Khả phải lấy liềm tỉa bớt những cây dại cao cả mét. Luồn lách theo ông Khả vào giữa trang trại, chúng tôi không thể hình dung nổi mảnh đất hoang này mới chỉ một năm trước là trang trại tốt tươi, từng là mô hình điểm minh chứng cho sự thành công của nghị quyết phát triển kinh tế trang trại do tỉnh uỷ Hà Nam khởi xướng gần một thập niên trước.
Ông Khả thở dài khi kể lại quá trình làm trang trại đầu những năm 2000: Sau khi nhận thầu khoán 2,99ha đất với thời hạn đến hết năm 2013, ông Khả bắt đầu mở rộng chăn nuôi từ đầu năm 2001. Năm 2003, khi tỉnh Hà Nam tiến hành thí điểm mô hình trang trại, diện tích đất của ông Khả được chọn để chuyển đổi sang làm trang trại đa canh: nuôi gà, vịt, heo, thả cá kết hợp trồng cây ngắn ngày. Thời gian thực hiện dự án là mười năm, từ năm 2003 – 2013.
Được sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Hà Nam, UBND huyện Bình Lục khuyến khích, trong hai năm 2003 - 2004, ông Khả bỏ vốn liếng, vay mượn thêm để có 314 triệu đồng đầu tư vào trang trại và ba năm tiếp theo, trung bình mỗi năm ông bỏ thêm trên 50 triệu đồng để tu bổ, mua thêm con giống, cây trồng. “Tiền bỏ ra vài trăm triệu đồng, ba năm đầu hầu như làm cầm cự lấy kinh nghiệm, thậm chí là thất bại lớn khi đưa vào trồng đại trà bưởi Diễn, vải thiều ở địa hình chiêm trũng. Không nản chí, tôi tiếp tục bỏ tiền ra đào ao thả cá, nuôi vịt, đầu tư chuồng trại nuôi gà, heo và đến năm 2007 mới gọi là có “quả ngọt” đầu tiên”, ông Khả kể.
Lật từng trang quyển sổ thu chi hàng năm, mãi đến trang hạch toán lỗ lãi của năm 2008, ông Khả mới dừng lại nhoẻn miệng cười: “Đây là năm đầu tiên thực sự có lãi, gần 300 triệu đồng, và trong ba năm tiếp theo sau đó, mỗi năm thu vào cũng ngần ấy. Số tiền này đủ để trả bớt nợ nần, tiếp tục đầu tư, mở rộng”, ông Khả kể.
Cuối năm 2010, giữa lúc đang hăm hở làm ăn, bỗng nhiên ông nhận được giấy gọi của UBND xã lên để thanh lý hợp đồng giao đất trong khi thời gian thực hiện dự án còn những ba năm. Không đầy nửa năm sau, trang trại 3ha của ông Khả đã bị xã mang ra đấu thầu. Ông Khả bức xúc: “Tất nhiên tôi không chịu! Không đấu gì hết vì không lẽ tôi lại đi đấu thầu mảnh đất của tôi. Đó là cơ nghiệp, là danh dự của đời tôi!” Vậy là cơ ngơi gần mười năm của ông Khả bị thu hồi và giao cho người khác rất chóng vánh. Đã gần một năm trôi qua kể từ ngày đó, dẫu rằng chủ mới chưa nhận được đất, nhưng gia đình ông cũng không thể tiếp tục sản xuất, mảnh đất vốn trù phú nay trở thành cánh đồng đầy cỏ dại.
“Cá phải gạn non, lợn bán nhỡ nhàng”
Cùng với ông Đinh Văn Khả, trong thời gian kể trên, ông Nguyễn Văn Tùng ở thôn Đồng Rồi cũng được lựa chọn làm chủ đầu tư cho dự án điểm phát triển mô hình trang trại đầu tiên này. Song khác với ông Khả, ông Tùng chỉ được đấu thầu đất thời hạn năm năm một, lần đầu nhận thầu khoán vào năm 2000, và đến năm 2005, ông trúng thầu lại diện tích 5,1ha mà ông đang sử dụng làm trang trại. “Khi ký thuê lại đất lần thứ hai, xã có hứa khi hết hạn thuê đất (2010), nếu có nhu cầu, tôi sẽ được ưu tiên thầu tiếp với giá bằng hoặc thấp hơn người khác. Hơn nữa, khi ấy tôi cứ nghĩ, quyết định duyệt dự án trang trại do cấp huyện, tỉnh phê duyệt thời hạn đến năm 2013, chẳng lẽ chữ ký cấp trên lại thua cái hợp đồng thuê đất cấp dưới? Nghĩ vậy, nên tôi yên tâm nhận thầu năm năm một”, ông Tùng nói.
Tuy nhiên, khi hết thời gian đấu thầu đất vào cuối năm 2010, ông Tùng liên tiếp nhận được thông báo thanh lý hợp đồng, kiểm kê tài sản đền bù nhằm mục đích thu hồi đất để xã tổ chức đấu thầu công khai. Theo lời ông Tùng, tại thời điểm tháng 7.2011, khi xã đấu thầu 5,1ha trang trại của ông, ông không tham gia bỏ thầu với lý do “dự án còn ba năm mới đáo hạn, nên không việc gì phải đi đấu thầu cái đang là của mình”. Ngoài ra, “trước đó, tôi đã đề nghị sẵn sàng nâng mức đóng góp lên, thậm chí cao hơn cả mức 71kg/sào của người trúng thầu sau này, vậy mà xã vẫn tìm đủ lý do ép tôi nhận đền bù để giao cho người khác”, ông Tùng nói.
Rút cuộc, sau tám năm “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” để biến vùng đất chiêm trũng một vụ lúa năng suất thấp thành trang trại thu lãi hàng trăm triệu đồng/năm, “nông dân sản xuất giỏi” với hàng chục bằng khen từ đủ các cấp: huyện, tỉnh, Trung ương hội Nông dân, ông Nguyễn Văn Tùng đã bị UBND xã La Sơn cho ra rìa. Trang trại của ông bị xẻ làm đôi, giao lại cho hai người khác. “Làm ăn đứt gánh giữa chừng, cá phải gạn non, lợn bán nhỡ nhàng trong khi xã ép tôi nhận đền bù với giá rẻ rúng. Khi kêu gọi chúng tôi làm chủ đầu tư vào dự án thí điểm, chính quyền khẳng định sau mười năm thực hiện sẽ ưu tiên giao tiếp cho chủ cũ, vậy mà họ (chính quyền – PV) lại sai lời. Ngay thời hạn thực hiện dự án còn ba năm mà chúng tôi vẫn bị gạt sang một bên!”, ông Tùng bức xúc.
“Trang trại đầu tiên nên quy định của tỉnh chưa rõ ràng”?
Trao đổi với phóng viên Sài Gòn Tiếp Thị, ông Trần Văn Sơn, chủ tịch UBND huyện Bình Lục, thừa nhận đây là hai trang trại đầu tiên của tỉnh, và ngày đó, tỉnh giao trực tiếp cho xã làm chủ dự án, sau đó xã ký hợp đồng với hai chủ trang trại làm chủ đầu tư, chứ huyện không có thẩm quyền. “Mãi đến gần đây huyện mới được giao, có điều vì đây là trang trại đầu tiên thí điểm nên có thể hồi đó các văn bản quy định của tỉnh cũng chưa rõ ràng. Tôi đang chờ ý kiến của thanh tra sở Tài nguyên và môi trường để mở cuộc họp. Nếu có văn bản nói dự án phải được giao đất đến hết năm 2013, mà năm 2010 xã đã buộc thu hồi thì xã sai”, ông Sơn khẳng định. Tuy vậy, ông Sơn cho biết: “Theo báo cáo của chủ tịch UBND xã La Sơn, do thẩm quyền giao đất của xã chỉ năm năm, nên dù thời hạn dự án còn ba năm, xã vẫn phải thanh lý, sau đó đấu thầu lại, rồi ký tiếp hợp đồng ba năm còn lại để có cơ sở bắt các hộ này thực hiện nghĩa vụ đóng góp; trong lần đấu thầu này, các chủ trang trại không tham gia thì xã coi như họ không có nhu cầu, nên mới có chuyện giao cho người khác!”
Còn ông Lê Ngọc Hanh, chủ tịch UBND xã La Sơn, nói: “Xã là chủ dự án, còn ông Khải và ông Tùng chỉ là người được xã thuê làm chủ đầu tư theo hợp đồng ký với xã, nên xã có quyền quyết định”. Tuy nhiên, khi phóng viên đòi xem “hợp đồng thuê làm chủ đầu tư” thì ông Hanh không thể dẫn chứng, mà chỉ đưa ra hợp đồng đấu thầu đất, trong khi hợp đồng đấu thầu đất đầu tiên được lập năm 2000, tức trước khi có dự án… ba năm!

CHÍ HIẾU – CHÍ THÔNG


- Bài 3: Phải thông suốt “bài học Tiên Lãng” (SGTT).   – SGTT.VN - “Ngay cả khi đã hết thời hạn giao đất cho nông dân, chính quyền muốn thu hồi cũng phải thông báo mục đích thu hồi để làm gì, xem có đúng trong quyền được Nhà nước cho phép thu hồi không. Và một khi nhu cầu của người đã được giao, thuê đất trước đó muốn tiếp tục được sản xuất, phù hợp quy hoạch mà chính quyền vẫn thu hồi thì chính quyền sai. Chúng ta đã có bài học Tiên Lãng rồi, chính quyền các địa phương phải “thông” chuyện đó. Còn trách nhiệm của hội là phải phát hiện để bảo vệ nông dân”, phó chủ tịch hội Nông dân Việt Nam Nguyễn Duy Lượng trả lời phóng viên Sài Gòn Tiếp Thị sau loạt bài Những rủi ro từ trang trại.
Vợ chồng chủ trang trại Đinh Văn Khả ở La Sơn, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam đứng trước khu trang trại bỏ hoang, cỏ mọc um tùm. Ảnh: Chí Hiếu
Phần lớn nông dân, chủ trang trại sau khi nghe thông tin Chính phủ khẳng định không có chuyện thu hồi đất đai để chia lại vào năm sau đều rất mừng, nhưng vẫn còn mối lo là không được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thời hạn giao đất không rõ, nên không dám đầu tư lớn. Được biết, ông cũng vừa có chuyến kiểm tra nhiều trang trại, ông có thấy những nỗi lo tương tự?
Đúng là tôi vừa có chuyến đi thực tế một số trang trại. Thứ hai vừa rồi tôi cùng chủ tịch hội Nông dân thành phố Hà Nội đi nắm tình hình các trang trại chăn nuôi ở Ba Vì, Sơn Tây. Các chủ trang trại ở đấy rất mong muốn được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vì thực tế hiện nay có đến 70 – 80% chủ trang trại đã được cấp đâu. Một số nơi có tình trạng người ta không yên tâm đầu tư, không bón phân cho đất, mà chỉ quảng canh để giữ đất, nên hiệu quả sản xuất không cao.
Vậy giải quyết thế nào để nông dân yên tâm đầu tư làm ăn trên mảnh đất của mình?
Bộ trưởng Tài nguyên và môi trường Nguyễn Minh Quang: “Đề nghị bỏ thời hạn giao đất nông nghiệp”
Tại hội thảo “Đổi mới chính sách về đất đai” do hội đồng Lý luận Trung ương tổ chức vừa qua, bộ trưởng Nguyễn Minh Quang nói: “Bộ Tài nguyên và môi trường cho rằng, cần bỏ quy định về thời hạn giao đất nông nghiệp (hiện với đất trồng cây ngắn ngày là 20 năm, đất trồng cây lâu năm là 50 năm), mục đích là để người dân gắn bó hơn với mảnh đất của mình và an tâm sản xuất”.
Chúng tôi đã có văn bản đề nghị Chính phủ trong việc sửa luật Đất đai là cấp giấy chứng nhận cho các chủ trang trại. Còn với nông dân nói chung, vừa qua, thông điệp của Chính phủ đã rất rõ là không có chuyện thu hồi rồi chia lại đất đai. Bộ Chính trị cũng đã chỉ đạo kỳ họp Trung ương tới cần có một nghị quyết về tiếp tục đẩy mạnh đổi mới chính sách đất đai.
Mới đây, lãnh đạo bộ Tài nguyên và môi trường đã đề xuất chủ trương bỏ thời hạn giao đất cho nông dân. Tôi được biết bộ này sẽ trình Chính phủ vào kỳ họp tháng 4 này và bộ đang có văn bản rà soát các bất hợp lý. Vậy nên, nông dân cứ yên tâm sản xuất và thực tế gần đây có ai bàn về mối lo bị thu hồi đất, có ai hỏi “tới đây có được giao đất tiếp không” nữa đâu!
Trước mắt, có biện pháp gì để nông dân bớt đi nỗi ám ảnh bị thu hồi đất, bởi thực tế, chính quyền một số địa phương vẫn thu hồi đất khi dân đang yên ổn làm ăn...
Chính quyền các cấp phải “thông” cái đó. Tỉnh uỷ, UBND nào mà chẳng biết là Văn phòng Chính phủ đã thông báo ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng và phải tổ chức thực hiện đúng chỉ đạo đó. Còn địa phương nào thực hiện không đúng, dân phải phản ánh với các đoàn thể, tổ chức xã hội. Nếu là hội viên hội nông dân thì phải phản ánh với hội nông dân các cấp.
Hội nông dân sẽ làm gì để giúp đỡ nông dân trong trường hợp này, thưa ông?
Để hiểu tất cả băn khoăn lo lắng của nông dân nói chung và của hội viên nói riêng, chúng tôi chỉ đạo các cấp hội từ tỉnh xuống huyện, đến các chi, tổ hội nông dân nắm bắt, phản ánh, thu thập để báo cáo lên. Trung ương hội thì một tháng hai lần tổ chức tư vấn miễn phí cho nông dân. Những vụ việc kéo dài hoặc ở những điểm nóng chúng tôi cử cán bộ trung tâm tư vấn pháp luật kết hợp với một công ty luật cùng báo Nông Thôn Ngày Nay thực hiện tư vấn miễn phí cho nông dân.
Chủ tịch hội Nông dân huyện Bình Lục: “Chỉ làm công tác phong trào nên không nắm rõ”!
Về vụ việc hai trang trại điểm ở xã La Sơn (huyện Bình Lục, Hà Nam) đã bị chính quyền xã “khai tử” khi thời hạn thực hiện dự án theo quyết định của tỉnh vẫn còn đến năm 2013, ông Trần Văn Son, chủ tịch hội nông dân huyện Bình Lục cho biết, do các cơ quan có thẩm quyền như thanh tra đã vào cuộc rồi, nên ông không nắm rõ. “Thực ra mình chỉ làm công tác phong trào, nên không nắm bắt chuyên sâu lắm. Các cơ quan đã giải quyết cả rồi, tôi không nắm rõ”, ông Son nói. Theo ông Son, thông thường, các dự án của tỉnh (như dự án trang trại của ông Khả, ông Tùng – PV) thì thời hạn giao đất lâu.
“Tuy nhiên, có thể mỗi thời kỳ chính sách khác nhau, các cấp có thẩm quyền khác nhau, nên có sự thay đổi về thời hạn giao đất, chứ nguyện vọng chung của nông dân là phải được lâu dài để yên tâm sản xuất. Thời gian ngắn thì gò bó, người ta không dám làm. Mình cứ suy từ mình ra”, ông Son nói.
Thực tế nhiều vụ việc khi vỡ lở ra mới được quan tâm hơn, như vụ trang trại điểm ở La Sơn, huyện Bình Lục (Hà Nam) mà báo Sài Gòn Tiếp Thị vừa phản ánh. Đây là vụ việc đã xảy ra va chạm giữa lực lượng cưỡng chế với chủ trang trại và nguy cơ đối đầu vẫn còn. Song trao đổi với chúng tôi, chủ tịch hội nông dân huyện nói: “Chỉ là cán bộ công tác phong trào nên không nắm rõ, chỉ biết thông tin là chính quyền đã giải quyết”?
Phải là cơ sở hội, vì cơ sở hội ở một bên đó, chứ chẳng lẽ phó chủ tịch trung ương hội như tôi lại đi giải quyết, nắm thông tin từng trường hợp một hết được? Tuy nhiên, ngoài báo cáo từ cơ sở, cách làm việc của tôi là lắng nghe trực tiếp từ nông dân, nên họ bị đè nén thì cứ gọi thẳng cho tôi, tôi sẵn sàng cho số điện thoại, lắng nghe. Nhưng cái chính phải là các chi – tổ hội ở cơ sở. Họ phải phát hiện, cùng chính quyền, vì đôi lúc chính quyền “quên”, thì hội phải phát hiện. Cũng có thể do ông này không phải là hội viên nông dân – dù có làm trang trại – nên cơ sở hội ở địa phương không biết. Tuy vậy, trách nhiệm của hội là bảo vệ quyền lợi của hội viên mình và của người dân ở nông thôn nói chung.
Nhưng vụ việc này kéo dài, đơn thư đã lên đến Trung ương, lại là một trang trại điểm của tỉnh và đến năm 2013 mới “đáo hạn” mà năm 2011 đã bị thu hồi. Đây cũng là một nông dân sản xuất giỏi từng nhận bằng khen của tỉnh, của trung ương hội, thưa ông?
Chúng tôi đã yêu cầu tỉnh hội báo cáo lên và đang chờ cách giải quyết của chính quyền dưới đó. Sau khi có thông tin cụ thể, sẽ đề xuất phương án giải quyết. Nếu dự án còn ba năm mà chính quyền đã cưỡng chế thu hồi, thì chính quyền chưa đúng, nó cũng rơi vào trường hợp như ở Tiên Lãng. Tức là dù cả khi hết thời hạn giao đất, muốn thu hồi, anh (cơ quan thực hiện thu hồi – PV) phải thông báo mục đích thu hồi để làm gì, rồi một khi nhu cầu của người được giao, thuê đó vẫn tiếp tục được sản xuất, mà anh chưa có mục đích thu hồi thì chính quyền sai. Chúng ta đã có bài học Tiên Lãng rồi, phải rút kinh nghiệm!


Bài 2: Cái chết của những trang trại điểm;  - Bài 1: Trót làm ăn lớn------

Tổng số lượt xem trang