-Lịch sử có công bằng không? Thật khó nói, nhưng chắc chắn phải rất lâu sau đó chờ vòng quay thời gian tới một thời thịnh và công tâm để có một phán xét công bằng ..Trong thời gian 4 tốt, vàng vọt gì đó thì cái tên Lê Duẩn dường như không còn được nhắc tới.-Con trai Lê Duẩn thanh minh cho cha: Tiến sĩ Lê Kiên Thành: Nếu cha tôi là người độc đoán... (ANTG 3-5-15)
Tiếp theo phần I cuộc trò chuyện với Tiến sĩ (TS) Lê Kiên Thành về người cha - cố Tổng Bí thư (TBT) Lê Duẩn và những quyết định của ông liên quan đến cách mạng miền Nam, Chuyên đề ANTG Cuối tháng xin giới thiệu với bạn đọc phần II cuộc trò chuyện này, khi TS Lê Kiên Thành đã thẳng thắn đối diện và trả lời sòng phẳng về những nhận định, cả những nhận định thiện chí và không thiện chí về cố TBT Lê Duẩn.
- Phóng viên: Khác với một số nhà cách mạng nổi tiếng khác, cố TBT Lê Duẩn là người không có nhiều cơ hội học hành. Có bao giờ điều đó làm giảm sự sáng suốt của ông trong những quyết định lớn của đất nước?
- Tiến sĩ Lê Kiên Thành: Thật ra tri thức của con người là một sự tích lũy tổng thể. Tri thức của cha tôi, không đến nhiều từ học hành, nhưng đến một phần từ tình yêu nước, một phần từ sự sáng tạo và từ kinh nghiệm của ông. Tri thức của ông đến từ những lần lăn lộn từ Bắc chí Nam đấu tranh cách mạng, từ hết nhà tù này cho đến nhà tù khác, tiếp xúc với đủ loại người, va chạm với không biết bao nhiêu sự kiện. Và một điều quan trọng là cha tôi không bao giờ ngừng suy nghĩ. Suốt đời ông, trong tất cả những câu chuyện với con cái, hầu như không có những lời nói đùa. Điều mà ông luôn nghĩ, cái mà ông luôn nói với tôi, là những câu chuyện về đất nước, về con người. Trong tất cả các quyết định cha tôi đưa ra khi còn làm Tổng Bí thư, từ chuyện giải phóng miền Nam cho đến chiến tranh biên giới phía Nam và chiến tranh biên giới phía Bắc, cha tôi đã quyết định những việc đó với lòng yêu nước đến tận cùng.
- Khi nhìn lại quãng thời gian ông Lê Duẩn ra miền Bắc rồi trở thành TBT trong suốt 26 năm, nhiều người nói ông đã tìm cách củng cố dần dần quyền lực về mình?
- Nếu cha tôi là người như thế, thì đã không có chuyện ông năm lần bảy lượt xin ở lại miền Nam. Sẽ không có chuyện, ông đề nghị với Bác Hồ và Trung ương phân công ông Trường Chinh và ông Phạm Văn Đồng giữ chức Chủ tịch Quốc hội và Thủ tướng Chính phủ.
Nhưng có những người, có thể vì không đủ thiện chí, hoặc cũng có thể vì không đủ thông tin mà không hiểu và có cái nhìn sai về lịch sử. Khi ông Võ Nguyên Giáp được phân đi phụ trách công tác kế hoạch hóa gia đình, nhiều người nói, cha tôi và ông Võ Nguyên Giáp có hiềm khích vì ông Võ Nguyên Giáp là người tài. Trước hết theo tôi, việc tung tin như thế là ý đồ của kẻ xấu nhằm chia rẽ nội bộ của Đảng. Và thực tế, theo nguyên tắc lãnh đạo của Đảng, cha tôi đâu phải là người có quyền lực tuyệt đối. Mọi quyết định lớn của đất nước đều phải có sự nhất trí của tập thể Bộ Chính trị cơ mà. Nhà báo Lương Bích Ngọc trong một bài phỏng vấn cách đây mấy năm trên Báo Vietnamnet, cũng không ngần ngại hỏi tôi về mối quan hệ của cha tôi và ông Giáp. Nguyên văn câu trả lời của tôi là thế này: Ông Võ Nguyên Giáp đã từng đến gặp riêng cha tôi và nói: “Cuộc đời cách mạng của tôi có được một phần lớn là nhờ anh Ba”.
Cha tôi chưa bao giờ thích thể hiện mình là người có quyền lực. Hầu như mọi cuộc tiếp xúc quốc tế, tôi được biết, ông đều phân công cho ông Phạm Văn Đồng. Thế nên có những giai đoạn, chính những người Mỹ cũng đã không nhận ra rằng cha tôi mới chính là người nắm vai trò lớn trong việc hoạch định chính sách cho cuộc chiến tranh ở miền Nam. Và sau này có người Mỹ nói với tôi, đó là một trong những lý do khiến họ thất bại.
- Nếu giờ tôi hỏi ông, cố TBT Lê Duẩn có phải là một nhà lãnh đạo độc tài, ông sẽ nói...
- Chắc chắn không! Tôi không tin, những người mang tính độc tài lại có thể sáng tạo trong tư duy và đường lối lãnh đạo. Có thể có người nói cha tôi độc tài. Nhưng thời điểm đó, những người xung quanh cha tôi đã được cháy sáng hết mình nhất vì đất nước. Nếu có sự độc tài của cha tôi, hẳn là họ không bao giờ có cơ hội đó. Nếu cha tôi là người độc tài, liệu chúng ta có được sự đồng thuận trên dưới để đi đến ngày đất nước thống nhất? Như người ta vẫn nói Lý Quang Diệu là nhà độc tài, nhưng tôi không nghĩ thế. Đôi khi người ta dễ bị nhầm lẫn giữa sự cương quyết và độc tài. Khiến Singapore trở thành một đất nước năng động như bây giờ, mà bảo ông ấy là người độc tài thì tôi thấy thật khó thuyết phục.
Đến giờ, nếu bảo đất nước chúng ta làm cách nào để tạo ra một lớp lãnh đạo như lớp lãnh đạo thời điểm đó với sự sáng suốt, sự hi sinh đến tận cuối đời, có lẽ rất khó. Cứ nhìn vào gia đình họ, con cái họ, là có thể hiểu sự hi sinh của họ.
Rất nhiều người có thể hi sinh bản thân mình nhưng không sẵn sàng hi sinh con cái. Còn những người đó, họ đương nhiên đã hi sinh bản thân mình, hi sinh gia đình mình, con cái mình.
- Thế tại sao, ông Lê Duẩn không bao giờ viết hồi ký, để lịch sử sau này có cơ hội hiểu rõ hơn những việc ông làm?
- Tôi cho rằng, lịch sử, dù “lười biếng”, cuối cùng cũng phải đi đến đích. Nó có thể đến đích sớm hay đến đích muộn, nhưng thay đổi nó là điều không thể. Tôi tin rằng tất cả những tài liệu mà Trung ương chưa công bố, rồi đến một ngày sẽ công bố. Sẽ có ngày, chúng ta có cơ hội được hiểu rõ hơn về quá khứ.
Tôi may mắn được sống cạnh cha tôi, hiểu ông, và tôi có thể tự tin nói rằng cha tôi là người mà việc ông làm chỉ là bởi ông thấy đó là điều cần phải làm. Không bao giờ ông nghĩ đến những vụ lợi bản thân mình trong đó. Cha tôi là người không bao giờ nghĩ rằng, ở đâu đó ông phải nhắc lại những việc ông đã làm để người ta biết đến ông và biết rằng ông chính là người làm việc đó chứ không phải ai khác. Chính điều đó làm tôi tự tin rằng cái đó sẽ mãi là của ông .
Tôi nhớ có những lần sau khi nghe được những câu chuyện về lịch sử từ cha tôi, tôi đã nhiều lần thắc mắc với ông: “Nếu những chuyện như vậy mà mọi người không biết đến thì có xác đáng không?”. Cha tôi trả lời: “Cái quan trọng nhất là mình đã làm chuyện đó và mình đã được làm chuyện đó”. Với ông, chỉ cần được làm việc ông muốn làm, đó đã là hạnh phúc.
Cha tôi cứ nhắc đi nhắc lại mãi về câu chuyện một người bạn tù trước khi chết đã trăng trối với ông lúc còn ở trong nhà tù Côn Đảo: “Tao muốn làm cái gì cho Đảng quá. Mày có thể mặc cái áo này cho tao không? Cứ để tao chết trần truồng”. Nhưng cha tôi không chịu, dù với ông, cái áo đó, vào những năm tháng tù đày thiếu thốn đó, là vô cùng quý giá. Đó là câu chuyện mà ông nhớ mãi. Nó nhắc ông mãi mãi nhớ rằng, được hi sinh cho Dân tộc, cho Đảng là một hạnh phúc, chứ không phải là công lao. Người Cộng sản chân chính thì không cần kể công với đất nước. Vì rất nhiều người muốn hi sinh mà không được hi sinh.
- Vậy một người như cha ông, chỉ cần làm những gì mình cho là đúng và không bao giờ giải thích hay kể công, sẽ nghĩ gì khi nghe những lời không thuận tai từ dư luận, vì như tôi được biết, không phải bây giờ mà ngay từ thời đó đã có một số người không đồng tình với cha ông trong nhiều chuyện?
- Sau giải phóng, cuộc sống ở hai miền Nam - Bắc rất khó khăn. Có những người dân đứng trước cổng gia đình tôi nói: “Ông Duẩn ơi, người ta ức hiếp tôi này”. Hồi đó tôi đi chơi ở nhà một số người bạn, có những chuyện rất đau lòng. Ông bà, bố mẹ bạn tôi biết tôi là con ai, cứ cố tình nói bóng gió: “Dân tình khổ lắm! Có ai biết không?”. Tôi biết họ cố tình nói để cho tôi nghe. Tôi có mang điều đó về kể với cha tôi, và ông nói: “Những cái khó khăn nhất của dân tộc qua rồi. Những cái như bây giờ sẽ qua”.
Khi tôi quyết định ứng cử đại biểu quốc hội cách đây vài năm, tôi có đến hỏi ý kiến chú Trần Phương, nguyên Phó Thủ tướng. Chú ấy cho tôi lời khuyên và kể cho tôi câu chuyện giữa chú và cha tôi rằng, có lúc chú đến gặp ông, nói cho ông nghe nhiều chuyện trái tai, thậm chí đọc cho ông nghe cả bài vè về ông, nhưng ông rất bình thản. Nghe xong cả buổi sáng, ông bảo chú về ăn trưa, đến chiều lại đến nói tiếp. Thú thật, chú ngạc nhiên với sự bình thản của ông.
- Ông nói, việc ở cạnh cố TBT Lê Duẩn khiến cho ông có cơ hội nhìn thấu suốt và hiểu cha mình hơn rất nhiều người khác. Nhưng ông có nghĩ, sự gần gũi và mối quan hệ ruột thịt đó cũng có thể khiến ông nhìn cố TBT Lê Duẩn với một sự thiên vị nào đó?
- Tôi luôn cố gắng tách cá nhân mình ra để nhìn ông như một nhân vật lịch sử, chỉ khác là nhân vật lịch sử đó tôi được tiếp xúc nhiều hơn mọi nhân vật khác. Nếu tôi muốn tự huyễn hoặc mình, tôi sẽ không mất công tìm tòi những điều liên quan đến ông trong suốt cuộc đời mình.
Mặt khác, cũng có thể có những lúc tình cảm ruột thịt sẽ chi phối ở một mức nào đó những suy nghĩ của tôi về ông. Cái đó tôi luôn cố tránh, nhưng không dám khẳng định là tuyệt đối không có. Tôi vẫn nhìn thấy những thứ mà từ đó giúp tôi thấy cha tôi không phải người toàn bích. Nhưng nó khiến tôi hiểu, cha tôi dù sao cũng là một con người bình thường, có đúng, có sai, chứ không tuyệt đối hoàn hảo.
Nhưng có một điều khiến tôi tin vào những gì mà tôi nhận định về ông, là một người cha, có thể giấu giếm con người mình lúc ra ngoài xã hội, nhưng không thể lừa dối con cái mình. Và tôi đã quan sát ông cả cuộc đời. Nên tôi tin vào sự cảm nhận của tôi về ông.
Ảnh: Minh Trí - Đức Sơn |
- Đến giờ vẫn không ít người cho rằng, cha ông, cố TBT Lê Duẩn là người phải có trách nhiệm với cuộc chiến tranh biên giới, cũng như những khó khăn, sai lầm mà ta mắc phải trước đổi mới. Và có người nói đại ý, nếu ông Lê Duẩn chỉ dừng lại ở thời điểm năm 1975, thì ông đã mãi mãi là anh hùng. Ông nghĩ gì về ý kiến ấy?
- Cũng giống như khi bạn hỏi sẽ là đúng hay sai nếu ta chọn con đường hòa bình, chứ không phải chọn con đường đấu tranh vũ trang ở miền Nam. Tôi cũng sẽ lại lật ngược vấn đề thế này: Nếu chỉ dừng lại ở 1975, mà không giúp nhân dân Campuchia giải phóng dân tộc mình khỏi họa diệt chủng của Pôn Pốt, không thực hiện cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới phía Bắc, thì bây giờ đất nước sẽ thế nào? Tôi cần phải nhắc lại rằng khi đó, Campuchia, với sự hỗ trợ từ nước ngoài, đã gây ra cuộc chiến tranh xâm lược ở các tỉnh biên giới phía Nam và đe dọa, phá hoại thành quả của cuộc kháng chiến mà chúng ta đã phải hi sinh xương máu 20 năm trời mới giành được. Nên những nhận định của Huy Đức trong Bên thắng cuộc (chắc là bạn nhắc đến nhân vật này), tôi chỉ thấy sự thiên kiến và thiếu hiểu biết mà thôi.
Cha tôi từng nói với tôi, đến 60 tuổi, ông sẽ nghỉ và ở nhà viết sách. Nhưng giải phóng miền Nam xong là lúc đất nước bộn bề, ngổn ngang, kinh tế khó khăn. Sau đó xảy ra chiến tranh biên giới phía Nam, chiến tranh biên giới phía Bắc. Liên Xô và các nước Đông Âu thì rơi vào khủng hoảng. Đủ mọi sóng gió đến với chúng ta vào đúng thời điểm ấy. Lúc này cha tôi hiểu phải tìm ra một phương thức tồn tại mới cho xã hội mà từ sau giải phóng, ông đã nhận ra là những cái cũ đã không còn đúng, không còn phù hợp. Trong một bài viết trên Tạp chí Xưa và Nay, nhà nghiên cứu kinh tế Đặng Phong đã công bố những tư liệu về việc ngay từ những ngày đầu tiên sau giải phóng, khi Đại hội IV diễn ra năm 1976, cha tôi đã hình thành tư duy đổi mới. Bác Lê Đức Anh trong một bài viết cách đây vài năm, cũng đã nói về tư tưởng đổi mới của cha tôi từ thời điểm đó. Khi ấy, những ý kiến đổi mới của cha tôi đã được đưa vào văn kiện dự thảo. Chỉ tiếc là ông đã không thể làm được việc đó ngay tức thì, vì không dễ để có thể ngay lập tức thay đổi tư duy của cả một xã hội.
Khi ông Kim Ngọc làm khoán hộ ở Vĩnh Phúc, một đồng chí lãnh đạo chỉ đạo viết một bài phê bình trên Báo Nhân dân. Cha tôi đọc xong bài báo, đã ném xuống bàn, trước mặt ông Trần Quỳnh, nét mặt vừa châm biếm, vừa buồn rầu: “Các anh phải đọc bài báo này đi!”. Nhiều người có thể nghĩ cha tôi không ủng hộ ông Kim Ngọc. Nhưng ít ai biết hai ông đã ngồi ăn cùng nhau và nếu không có sự ủng hộ từ cha tôi, ông Kim Ngọc đã không còn là Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phúc.
Có thể có người nghĩ cha tôi là người nắm chức vụ cao nhất trong Đảng, tại sao lại không có quyền quyết định? Nhưng ông từng nói với tôi: “Đời ba đi làm cách mạng như đi làm dâu trăm họ. Đôi khi phải biết nhượng bộ người này điều này, để họ đồng ý với mình ở những việc khác lớn hơn mà có lợi cho đất nước, cho dân tộc. Có những lúc, chúng ta không còn cách nào khác là phải chờ đợi”. Theo tôi hiểu, nhiều người đã ủng hộ ông trong sự nghiệp thống nhất đất nước, thì bây giờ, ông phải chấp nhận nhượng bộ họ, chờ đợi họ thay đổi, để giữ được sự đoàn kết trong nội bộ. Đó cũng là một quy luật bình thường trong đổi mới tư duy thôi.
Có một sự thật rất buồn cười là bây giờ chúng ta phê phán bao cấp, nhưng ngày đó, những người muốn giữ bao cấp nhất chính là các cán bộ công chức nhà nước - những người sống bằng chế độ bao cấp. Nhiều người phê phán cuộc cách mạng Giá - Lương - Tiền. Nhưng giống như trận đánh Mậu Thân 1968 mà chúng ta đã phải hi sinh rất nhiều, Giá - Lương - Tiền cũng đã làm được một điều quan trọng là bẻ ngoặt tư duy của xã hội Việt Nam, buộc họ phải chấp nhận việc xóa bỏ chế độ mậu dịch. Liên Xô lúc đó đã rất cản trở kế hoạch này của chúng ta, vì họ cảm nhận được chúng ta đang thay đổi, đang đi theo một con đường khác. Đó là điều họ không hề mong muốn. Nhưng chúng ta vẫn quyết tâm làm đến cùng.
Đúng là chúng ta có thể đổi mới kinh tế sớm hơn, nhưng với những khó khăn mà chúng ta phải đối mặt trong giai đoạn đó, thì việc mất 11 năm để chính thức bắt đầu đổi mới, tôi nghĩ nó không phải là một quãng thời gian dài với lịch sử một dân tộc.
Và, những người trung thực nhất với chính mình, nếu để viết ra một kịch bản khác cho quãng thời gian 11 năm sau giải phóng, với hoàn cảnh của đất nước khi đó, có thể sẽ có một kịch bản tốt hơn một chút, nhưng tốt hơn, hay hơn rất nhiều thì tôi tin là không có.
Ngay cả Liên Xô, Ba Lan, Tiệp Khắc, khi họ muốn thay đổi nền kinh tế của họ, họ đã phải đi bước đầu tiên là thay đổi chính thể. Và kể cả khi đã thay đổi chính thể rồi, giá cả của họ cũng đã tăng lên cả nghìn lần. Tổn hại mà họ phải đánh đổi cho sự đổi mới là không kể xiết.
- Người ta đều mặc định khi ông là con trai Tổng Bí thư, gia đình ông là gia đình danh giá của Việt Nam thì bản thân gia đình ông sẽ có những quyền lợi mà nhiều người khao khát. Thậm chí, còn có những lời đồn về việc, cố TBT Lê Duẩn đã để lại cho con trai mình tài sản khá lớn. Tôi thực sự muốn biết, ông nghĩ gì về những lời đồn đó? Và sự thực thì gia đình ông được - mất gì từ vị trí mà cha ông đã nắm giữ?
- Tôi không bao giờ để ý đến những tin đồn ấy. Vì nó đến từ những người tôi chưa bao giờ gặp mặt. Những người đồng đội của tôi trong quân ngũ, những người bạn của tôi, những người từng cộng sự, làm ăn với tôi bao năm qua mà nói như thế mới là đáng lo. Với những người đã chứng kiến tôi từng phải đi ra chợ trời bán cả bộ quần áo mới của mình để mua sữa cho con, họ sẽ hiểu tôi đến tận cùng. Và đừng nói với tôi, chỉ cần những người đó thôi cũng đã thấy tin đồn đó kệch cỡm đến mức nào.
Còn mất mát? Khi đó, vì sự nghiệp cách mạng, mẹ tôi phải viết đơn xin ly dị cha tôi, nhưng Trung ương không đồng ý. Tuy nhiên, bà đã phải chấp nhận sống xa chồng con trong mấy chục năm trời. Tôi chứng kiến sự đau khổ của bà trong suốt mấy chục năm trời đằng đẵng và thương bà vô hạn vì bà đã phải hi sinh hạnh phúc của mình cho sự nghiệp mà cha tôi theo đuổi.
Anh em chúng tôi, cũng phải chịu nhiều thiệt thòi. Nhưng việc được làm con của ông là cái được lớn nhất của chúng tôi. Cha tôi trước khi mất có nói với tôi rằng: “Ba chết đi có lẽ không để lại cho con một đồng xu nào. Có chăng là để lại cho con cái tiếng của ba”. Sau này tôi nghiệm ra rằng điều đó đúng vô cùng. Tôi đi làm kinh tế tư nhân từ hai bàn tay trắng. Cha tôi, đúng như lời ông nói, đã chẳng để lại một chút tiền bạc nào. Nhưng sau này, kể cả khi cha tôi đã mất mấy chục năm, thì cũng có những đối tác làm ăn, nếu vô tình biết tôi là con trai ông Lê Duẩn, tức khắc họ dành cho tôi sự kính trọng, tin tưởng, và tôi không giấu giếm một điều rằng, điều đó đã cho tôi nhiều cơ hội và thành công trên thương trường. Và đó là điều tôi vô cùng hạnh phúc và tự hào!
- Cảm ơn ông về cuộc trò chuyện này!
-Những chuyện chưa biết về cha tôi, Lê Duẩn
Tôi vẫn đối diện với những lời đồn về cha mình trên dưới 50 năm nay. Nhưng tôi tự hào về ông vô cùng vì tôi hiểu rằng, một người đàn ông có thể diễn kịch với cuộc đời nhưng chân dung họ hiện lên trong mắt con cái là chân thực nhất.
Cha tôi không phải là người toàn bích nhưng trong thời bình, nhiều người cấp tiến, những người mà sau này người ta được đánh giá là có tư duy bài bản về kinh tế thị trường tương đối sớm vẫn gọi những ý tưởng của cha tôi là: "Ý tưởng từ cái đầu 200 ngọn nến". Tôi tin rằng, những câu chuyện như thế này, nhiều người chưa nghe, chưa biết nhưng những người trong cuộc thì họ vẫn còn sống, và tôi chắc chắn rằng họ sẽ thầm nghĩ trong đầu: "Đúng, những chuyện về anh Ba như vậy là có". Vâng, tôi chỉ cần như vậy.
Có lần, cha tôi cử một cán bộ ngoại giao sang Mỹ tìm hiểu để sau đó bàn chuyện bình thường hóa quan hệ, người đó đi thấy ngợp quá nhưng về lại sợ "anh Ba cho là ăn phải bả tư bản" nên chỉ kể toàn chuyện xấu. Cha tôi nghe xong, cười bảo: "Mỹ nó xấu thế mình quan hệ làm gì...?". Sau đó, ông ta đành phải nói những gì mắt thấy tai nghe.
Đi thăm một địa phương tương đối năng động lúc đó, tại Hợp tác xã chăn nuôi, nhìn thấy hàng chục người ngồi thái rau nuôi mấy con lợn còi, cha tôi nói với người đứng đầu: "Cậu hiểu thế nào là làm ăn lớn? Làm ăn lớn là mỗi người nông dân có thể nuôi hàng ngàn con gà, hàng trăm con lợn chứ không phải tập trung nhiều người để làm...". "Nhưng Trung Ương chỉ đạo khác..." - ông ta thành thật.
Cha tôi nói: "Tỉnh cậu có điều kiện để làm mô hình đổi mới, cậu lại có tư duy kinh tế sáng tạo sao cậu cứ chần chừ. Mỗi nơi một đặc thù. Các địa phương phải chủ động rồi báo cái, đôi khi từ mô hình này tốt mà làm điểm cho cả nước. Trung ương chỉ đạo thay được các địa phương từ chuyện nhỏ đến chuyện lớn thì cần gì các cậu nữa...".
Một lần, về Hải Phòng, đến thăm một hợp tác xã làm hàng xuất khẩu, cha tôi hỏi một cô công nhân: "Cháu có biết đồng đô-la là gì không?". Cô ta lắc đầu. Cha tôi đã nói với Chủ tịch Hải Phòng lúc đó: "Người làm xuất khẩu mà không biết đồng đô-la là gì thì họ sẽ không có động lực...". Đó là giai đoạn ta đương đầu với Mỹ quyết liệt nhất.
Người ta vẫn nói rằng, vì cha tôi mà quan hệ Việt Nam và Trung Quốc xấu đi. Thế nhưng, có lẽ họ không biết, năm 1961, tại Đại hội 81 các Đảng Cộng sản tổ chức tại Mátxcơva, Khrushchev đưa ra những ý kiến phê bình gay gắt Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tại cuộc họp đó, duy nhất Đảng Lao động Việt Nam mà cha tôi là trưởng đoàn, đứng lên phản đối. Sau đó, đại diện Đảng Cộng sản Pháp có đến gặp cha tôi và nói: "Các đồng chí Việt Nam chỉ biết có quyền lợi dân tộc mà xao nhãng tinh thần quốc tế vô sản". Cha tôi trả lời: "Tinh thần quốc tế vô sản lớn nhất bây giờ là chống Mỹ, các đồng chí hãy để chúng tôi làm việc đó"...
Tổng Bí thư Lê Duẩn và các con trai Lê Hãn, Lê Kiên Thành, Lê Kiên Trung |
Tôi cầm lại cuốn sổ nhật ký màu xanh đen của ông lúc sinh thời. Có trang chỉ là những ký hiệu, những chữ không đủ nghĩa, những câu ngắn gọn, khó hiểu, những tên người được viết tắt... Nhưng với tôi, đó là những con chữ biết nói. Và tôi như được truyền ngọn lửa ý chí quyết tâm mãnh liệt vì những mục đích cao cả của cha...
Có một nhà báo từng hỏi tôi: "Anh có đau khổ khi nghe những lời đồn ác ý về cha mình, khi có những người đã không hiểu đúng về Tổng Bí thư Lê Duẩn như những gì ông có và đáng được hiểu đúng?".
Khi nghe những câu đại loại như vậy, tôi thấy nhớ và thương cha rất nhiều. Và cũng biết rằng, mình đã hiểu ông nhiều hơn những gì ông nghĩ là tôi có thể chia sẻ. Cha tôi không bao giờ thấy buồn vì ai đó không hiểu, hoặc không hiểu đúng suy nghĩ và hành động của mình. Ông chỉ tâm niệm một điều: "Nhữnggì mình đã cho là đúng thì phải quyết tâm làm bằng được, dù có khó khăn đến đâu...".
Bản lĩnh sống đó của cha tôi được thể hiện một cách rõ ràng và mạnh mẽ nhất ở quyết tâm thống nhất đất nước và giữ vững độc lập dân tộc. Hạnh phúc hay đau khổ của ông đều nằm ở đó. Những mối quan tâm và những quan hệ riêng, chung của ông cũng đều vì mục tiêu cao cả này.
Năm 1965 trong cuộc họp với ba lãnh đạo Liên Xô lúc đó là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Brêgiơnep, Chủ tịch Xô Viết tối cao Podgonưi, Thủ tướng Koxưgin về tình hình cuộc chiến đối với Mỹ của Việt Nam, Podgonưi đã phản đối gay gắt việc Việt Nam tiến hành chiến tranh vũ trang để thống nhất đất nước vì "Mỹ rất mạnh, Việt Nam không thể thắng Mỹ..".
Cha tôi kể rằng, lúc đó ông đã nổi nóng: "Nhất định chúng tôi phải đánh Mỹ và thắng Mỹ. Nếy các đồng chí ủng hộ, có thể chúng tôi chỉ chết có một triệu người. Nếu các đồng chí không ủng hộ, chúng tôi có thể hi sinh nhiều người hơn nữa. Nhưng chúng tôi phải thực thiện được mục tiêu cuối cùng là thống nhất đất nước".
Quyết tâm đó của ông bắt nguồn từ việc am hiểu tình hình thực tế chiến trường miền Nam và việc nắm bắt ý nguyện cháy bỏng, khát khao của đồng bào miền Nam lúc đó, rằng không thể thống nhất đất nước thông qua giải pháp hòa bình bởi Mỹ và chính quyền miền Nam không hề có ý định thực hiện hiệp định Genève.
Quyết tâm đó đã nung nấu từ khi cha tôi chia tay con tàu chở mẹ mang thai tôi ra miền Bắc để quay trở lại chiến trường miền Nam với lời nhắn gửi: "ông chúc sức khỏe mọi người và nói anh Sáu Thọ (Lê Đức Thọ): cho tôi gửi lời chúc sức khỏe đến Bác Hồ và các anh ở ngoài đó, có thể 20 năm sau mới gặp nhau...".
Năm 1957, sau khi được Bác Hồ gọi ra Hà Nội, cha tôi là người được Bác Hồ và Bộ Chính trị giao cho việc chỉ đạo soạn thảo Nghị quyết 15. Tháng 1/1959, Nghị quyết 15, "ngọn lửa giữa cánh đồng khô", khí thế của cách mạng miền Nam lúc đó, ra đời. Đó là sự đồng thuận của toàn Đảng, toàn dân về cách mạng miền Nam, là chỉ giành thắng lợi cuối cùng, thống nhất đất nước thông qua con đường đấu tranh vũ trang.
Kết quả này đã thể hiện một phần bản lĩnh của cha tôi, đặc biệt trong ứng xử ngoại giao mà quan trọng nhất là với hai người bạn lớn của nước ta lúc đó là Liên Xô và Trung Quốc. Khi đã vượt qua sự khó khăn ban đầu bằng tinh thần độc lập tự do tự chủ và thái độ cương quyết, về sau, Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ toàn diện và mạnh mẽ của hai nước.
...Năm 1972 là một năm đầy thử thách với tiến trình thống nhất đất nước của Việt Nam. Trong cuốn nhật ký của cha tôi có ghi lại vài dòng nhưng đủ để tôi nhớ và hình dung lại những gì diễn ra trong năm đó liên quan đến câu chuyện mà cha tôi kể lại. Ở đó, bản lĩnh người lãnh đạo tối cao của đất nước đã thể hiện bản lĩnh của một dân tộc... Và đủ để tôi cảm nhận sực khắc khoải, đau đớn về những gì trải qua trong cái năm đầy cam go, thử thách ấy và quyết tâm dữ dội của ông về hai chữ độc lập, tự do của dân tộc.
Trước khi Nixon có cuộc đàm đạo với lãnh đạo Trung Quốc, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai sang Việt Nam, gặp cha tôi ở Gia Lâm, Thủ tướng Chu Ân Lai nói với cha tôi ý là Trung Quốc và Nixon sẽ có cuộc bàn thảo về vấn đề Việt Nam.
Cha tôi kể rằng lúc đó ông đã lập tức nổi nóng: "Nước Việt Nam là của người Việt Nam, không ai có thể quyết định được vận mệnh dân tộc này thay chúng tôi. Nếu Mỹ muốn bàn về Việt Nam thì sang Việt Nam mà bàn với chúng tôi, tại sao lại bàn với các đồng chí và tại Trung Quốc? Đồng chí có biết, năm 1954, khi cảm nhận được rằng, Việt Nam đã bị ép ký hiệp định Genève, tôi đã khóc ròng trên đường từ miền Bắc quay trở lại miền Nam vì biết rõ rằng, rồi đây máu của đồng bào tôi sẽ đổ hàng chục năm trời? Và sau đó thì các đồng chí đã thấy đó, sau hai năm theo như thỏa thuận là "hòa bình sẽ được lập lại", máu của đồng bào tôi đã đổ cho tới bây giờ...".
Cha tôi kể rằng, trước sự nổi nóng của ông, Thủ tướng Chu Ân Lai đã tỏ thái độ xin lỗi.
Sau khi gặp Nixon, Thủ tướng Chu Ân Lai có sang Việt Nam thông báo tình hình rồi sẽ thế này, thế khác. Sau khi nghe xong, cha tôi nói: "Tôi chỉ biết trước một điều là sau khi Nixon gặp các đồng chí, Mỹ sẽ đánh chúng tôi gấp 10 lần...".
Dự đoán đó đã đúng. Sau đó, Mỹ đã rải bom khắp các thành phố lớn và làng mạc miền Bắc...
Cha tôi đã không ngăn được điều này nhưng ông đã thể hiện bản lĩnh và ý chí của cả dân tộc lúc đó và tâm nguyện lớn lao của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Dù có đốt cháy dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được độc lập, tự do".
Và khát vọng đó đã trở thành hiện thực vào ngày 30/4/1975.
Tôi rất tự hào về ông. Tổng Bí thư Lê Duẩn, người có vị trí quan trọng trong thế kỷ XX, thế kỷ nhiều đau thương và anh hùng của dân tộc Việt Nam, người đã thể hiện được bản lĩnh và khát vọng độc lập tự do của một dân tộc nhỏ bé mà kiên cường, bất khuất.
Lê Kiên Thành
Theo Tạp chí Văn Hiến Việt Nam. Tên bài do Tuần Việt Nam đặt
Ngày 6/4, nhân kỷ niệm 105 năm ngày sinh Tổng Bí thư Lê Duẩn(7/4/1907 - 7/4/2012), Hội đồng lý luận TƯ phối hợp với NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật và Trung tâm nghiên cứu bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc Việt Nam tổ chức Hội thảo Tổng bí thư Lê Duẩn với nền văn hóa và con người Việt Nam. Hội thảo này tiếp nối Hội thảo Tổng Bí thư Lê Duẩn với truyền thống văn hóa dân tộc đã được tổ chức cách đây 5 năm. Ban tổ chức hội thảo đã nhận được hơn 40 bản tham luận của nhiều nhà lãnh đạo, nhà nghiên cứu như: đồng chí Nguyễn Mạnh Cầm, Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, đồng chí Phạm Quang Nghị, bí thư Thành ủy Hà Nội, đồng chí Hữu Thọ, Nguyên trưởng ban Tư tưởng - Văn hóa TƯ, đồng chí Trần Việt Phương, nguyên trợ lý đồng chí Phạm Văn Đồng, GS. Hà Minh Đức, ĐH KHXH&NV, v.v... Các bản tham luận này sẽ được NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật tập hợp, biên soạn thành sách. |
Cold War International History Project
Virtual Archive
Vietnam
Comrade B on the Plot of the Reactionary Chinese Clique Against Vietnam | |
Date: 1979 |
Source: People's Army Library, Hanoi. Document obtained and translated for CWIHP by Christopher Goscha |
Description: Speech by Comrade B (Le Duan) regarding the plot of reactionary Chinese clique against Vietnam. Published in CWIHP Bulletin Nos 12/13. |
COMRADE B ON THE PLOT OF THE REACTIONARY CHINESE CLIQUE AGAINST VIETNAM
Generally speaking, after we had defeated the Americans, there was no imperialist that would dare to fight us again. The only persons who thought they could still fight us and dared to fight us were Chinese reactionaries. But the Chinese people did not want it like that at all. I do not know how much longer some of these Chinese reactionaries will continue to exist. However, as long as they do, then they will strike us as they have just recently done [meaning in early 1979]. If war comes from the north, then the [northern central] provinces of Nghe An, Ha Tinh and Thanh Hoa will become the bases for the entire country. They are unparalleled as the most efficient, the best and the strongest bases. For if the Deltas [in the north] continued as an uninterrupted stretch, then the situation would be very complicated. Not at all a simple matter. If it had not been for the Vietnamese, there would not have been anyone to fight the USA, because at the time the Vietnamese were fighting the USA, the rest of the world was afraid of the USA... Although the Chinese helped [North] Korea, it was only with the aim of protecting their own northern flank. After the fighting had finished [in Korea] and when the pressure was on Vietnam, he [this appears to be a reference to Zhou Enlai as the text soon seems to suggest] said that if the Vietnamese continued to fight they would have to fend for themselves. He would not help any longer and pressured us to stop fighting.
When we had signed the Geneva Accords, it was precisely Zhou Enlai who divided our country into two [parts]. After our country had been divided into northern and southern zones in this way, he once again pressured us into not doing anything in regard to southern Vietnam. They forbade us from rising up [against the US-backed Republic of Vietnam]. [But] they, [the Chinese,] could do nothing to deter us.
When we were in the south and had made preparations to wage guerrilla warfare immediately after the signing of the Geneva Accords, Mao Zedong told our Party Congress that we had to force the Lao to transfer immediately their two liberated provinces to [the] Vientiane government. Otherwise the Americans would destroy them, a very dangerous situation [in the Chinese view]! Vietnam had to work at once with the Americans [concerning this matter]. Mao forced us in this way and we had to do it.
Then, after these two [Lao] provinces had been turned over to Vientiane, the [Lao] reactionaries immediately arrested Souphanouvong [President of Laos, 1975-86]. The Lao had two battalions which were surrounded at the time. Moreover, they were not yet combat ready. Later, one battalion was able to escape [encirclement]. At that time, I gave it as my opinion that the Lao must be permitted to wage guerrilla warfare. I invited the Chinese to come and discuss this matter with us. I told them, "Comrades, if you go ahead pressuring the Lao in this way, then their forces will completely disintegrate. They must now be permitted to conduct guerrilla warfare."
Zhang Wentian, who was previously the Secretary General [of the Chinese Communist Party] and used the pen name Lac Phu, answered me: "Yes, comrades, what you say is right. Let us allow that Lao battalion to take up guerrilla war".
I immediately asked Zhang Wentian: "Comrades, if you allow the Lao to take up guerrilla war, then there is nothing to fear about launching guerrilla war in south Vietnam. What is it that frightens you so much so that you still block such action?"
He [Zhang Wentian] said: "There is nothing to be afraid of!"
That was what Zhang Wentian said. However, Ho Wei, the Chinese ambassador to Vietnam at that time, [and] who was seated there, was listening to what was being said. He immediately cabled back to China [reporting what had been said between Le Duan and Zhang Wentian]. Mao replied at once: "Vietnam cannot do that [taking up guerrilla war in the south]. Vietnam must lie in wait for a protracted period of time!" We were so poor. How could we fight the Americans if we did not have China as a rearguard base? [Thus], we had to listen to them, correct?
However, we did not agree. We secretly went ahead in developing our forces. When [Ngo Dinh] Diem dragged his guillotine machine throughout much of southern Vietnam, we issued the order to form mass forces to oppose the established order and to take power [from the Diem government]. We did not care [about the Chinese]. When the uprising to seize power had begun, we went to China to meet with both Zhou Enlai and Deng Xiaoping. Deng Xiaoping told me: "Comrade, now that your mistake has become an accomplished fact, you should only fight at the level of one platoon downward." That was the kind of pressure they exerted on us.
I said [to the Chinese]: "Yes, yes! I will do that. I will only fight at the level of one platoon downwards." After we had fought and China realized that we could fight efficiently, Mao suddenly had a new line of thinking. He said that as the Americans were fighting us, he would bring in [Chinese] troops to help us build roads. His essential aim was to find out about the situation in our country so that later he could strike us, and thereby expand into Southeast Asia. There was no other reason. We were aware of this matter, but had to allow it [the entry of Chinese troops]. But that was OK. They decided to send in their soldiers. I only asked that they send personnel, but these troops came with guns and ammunition. I also had to countenance this.
Later, he [Mao Zedong] forced us to permit 20,000 of his troops to come and build a road from Nghe Tinh into Nam Bo [the Vietnamese term for southern Vietnam]. I refused. They kept proposing, but I would not budge. They pressured me into permitting them to come, but I did not accept it. They kept on pressuring, but I did not agree. I provide you with these examples, comrades, so that you can see their long-standing plot to steal our country, and how wicked their plot is.
- After the Americans had introduced several hundred thousand troops into southern Vietnam, we launched a general offensive in 1968 to force them to de-escalate. In order to defeat the US, one had to know how to bring them to de-escalate gradually. That was our strategy. We were fighting a big enemy, one with a population of 200 million people and who dominated the world. If we could not bring them to de-escalate step-by- step, then we would have floundered and would have been unable to destroy the enemy. We had to fight to sap their will in order to force them to come to the negotiating table with us, yet without allowing them to introduce more troops.
When it came to the time when they wanted to negotiate with us, Ho Wei wrote a letter to us saying: "You cannot sit down to negotiate with the US. You must bring US troops into northern Vietnam to fight them." He pressured us in this way, making us extremely puzzled. This was not at all a simple matter. It was very tiresome every time these situations arose [with the Chinese].
We decided that it could not be done that way [referring to Ho Wei's advice not to negotiate with the US]. We had to sit back down in Paris. We had to bring them [the US] to de-escalate in order to defeat them. During that time, China made the announcement [to the US]: "If you don't attack me, I won't attack you. However many troops you want to bring into Vietnam, it's up to you." China, of its own accord, did this and pressured us in this way.
They [the Chinese] vigorously traded with the Americans and compelled us to serve as a bargaining chip in this way. When the Americans realized that they had lost, they immediately used China [to facilitate] their withdrawal [from southern Vietnam]. Nixon and Kissinger went to China in order to discuss this matter.
- Before Nixon went to China, [the goal of his trip being] to solve the Vietnamese problem in such a way as to serve US interests and to lessen the US defeat, as well as to simultaneously allow him to entice China over to the US [side] even more, Zhou Enlai came to visit me. Zhou told me: "At this time, Nixon is coming to visit me principally to discuss the Vietnamese problem, thus I must come to meet you, comrade, in order to discuss [it with you]."
I answered: "Comrade, you can say whatever you like, but I still don't follow. Comrade, you are Chinese; I am a Vietnamese. Vietnam is mine [my nation]; not yours at all. You have no right to speak [about Vietnam's affairs], and you have no right to discuss [them with the Americans]. Today, comrades, I will personally tell you something which I have not even told our Politburo, for, comrade, you have brought up a serious matter, and hence I must speak:
- In 1954, when we won victory at Dien Bien Phu, I was in Hau Nghia [province]. Bac [Uncle] Ho cabled to tell me that I had to go to southern Vietnam to regroup [the forces there] and to speak to the southern Vietnamese compatriots [about this matter]. I traveled by wagon to the south. Along the way, compatriots came out to greet me, for they thought we had won victory. It was so painful! Looking at my southern compatriots, I cried. Because after this [later], the US would come and massacre [the population] in a terrible way.
Upon reaching the south, I immediately cabled Bac Ho to ask to remain [in the south] and not to return to the north, so that I could fight for another ten years or more. [To Zhou Enlai]: "Comrade, you caused me hardship such as this [meaning Zhou's role in the division of Vietnam at Geneva in 1954]. Did you know that, comrade?"
Zhou Enlai said: "I apologize before you, comrade. I was wrong. I was wrong about that [meaning the division of Vietnam at Geneva]." After Nixon had already gone to China, he [Zhou Enlai] once again came to Vietnam in order to ask me about a number of problems concerning the fighting in southern Vietnam.
However, I immediately told Zhou Enlai: "Nixon has met with you already, comrade. Soon they [the US] will attack me even harder." I am not at all afraid. Both sides [the US and China] had negotiated with each other in order to fight me harder. He [Zhou Enlai] did not as yet reject this [view] as unfounded, and only said that "I will send additional guns and ammunition to you comrades."
Then he [Zhou Enlai] said [concerning fears of a secret US-Chinese plot]: "There was no such thing." However, the two had discussed how to hit us harder, including B-52 bombing raids and the blocking of Haiphong [harbor]. This was clearly the case.
- If the Soviet Union and China had not been at odds with each other, then the US could not have struck us as fiercely as they did. As the two [powers of China and the Soviet Union] were in conflict, the Americans were unhampered [by united socialist bloc opposition]. Although Vietnam was able to have unity and solidarity both with China and the USSR, to achieve this was very complicated, for at that time we had to rely on China for many things. At that time, China annually provided assistance of 500,000 tons of foodstuffs, as well as guns, ammunition, money, not to mention dollar aid. The Soviet Union also helped in this way. If we could not do that [preserve unity and solidarity with China and the USSR], things would have been very dangerous. Every year I had to go to China twice to talk with them [the Chinese leadership] about [the course of events] in southern Vietnam. As for the Soviets, I did not say anything at all [about the situation in southern Vietnam]. I only spoke in general terms. When dealing with the Chinese, I had to say that both were fighting the US. Alone I went. I had to attend to this matter. I had to go there and talk with them many times in this way, with the main intention to build closer relations between the two sides [meaning Chinese and Vietnamese]. It was precisely at this time that China pressured us to move away from the USSR, forbidding us from going with the USSR's [side] any longer.
They made it very tense. Deng Xiaoping, together with Kang Sheng, came and told me: "Comrade, I will assist you with several billion [presumably yuan] every year. You cannot accept anything from the Soviet Union."
I could not allow this. I said:
"No, we must have solidarity and unity with the whole [socialist] camp."
In 1963, when Khrushchev erred, [the Chinese] immediately issued a 25-point declaration and invited our Party to come and give our opinion. Brother Truong Chinh and I went together with a number of other brothers. In discussions, they [the Chinese] listened to us for ten or so points, but when it came to the point of "there is no abandonment of the socialist camp," they did not listen...Deng Xiaoping said, "I am in charge of my own document. I seek your opinion but I do not accept this point of yours."
Before we were to leave, Mao met with Brother Truong Chinh and myself. Mao sat down to chat with us, and in the end he announced: "Comrades, I would like you to know this. I will be president of 500 million land-hungry peasants, and I will bring an army to strike downwards into Southeast Asia." Also seated there, Deng Xiaoping added: "It is mainly because the poor peasants are in such dire straits!"
Once we were outside, I told Brother Truong Chinh: "There you have it, the plot to take our country and Southeast Asia. It is clear now." They dared to announce it in such a way. They thought we would not understand. It is true that not a minute goes by that they do not think of fighting Vietnam!
I will say more to you comrades so that you may see more of the military importance of this matter. Mao asked me:
In Laos, how many square kilometers [of land] are there?
I answered:
About 200,000 [sq. km.].
What is its population? [Mao asked]:
[I answered]: Around 3 million!
[Mao responded:] That's not very much! I'll bring my people there, indeed!
[Mao asked:] How many square kilometers [of land] are there in Thailand?.
[I responded]: About 500,000 [sq. km.].
And how many people? [Mao asked].
About 40 million! [I answered].
My God! [Mao said], Szechwan province of China has 500,000 sq. km., but has 90 million people. I'll take some more of my people there, too [to Thailand]!
As for Vietnam, they did not dare to speak about moving in people this way. However, he [Mao] told me: "Comrade, isn't it true that your people have fought and defeated the Yuan army?" I said: "Correct." "Isn't it also true, comrade, that you defeated the Qing army?" I said: "Correct." He said: "And the Ming army as well?" I said: "Yes, and you too. I have beaten you as well. Did you know that?" I spoke with Mao Zedong in that way. He said: "Yes, yes!" He wanted to take Laos, all of Thailand – as well as wanting to take all of Southeast Asia. Bringing people to live there. It was complicated [to that point].
In the past [referring to possible problems stemming from the Chinese threat during these times], we had made intense preparations; it is not that we were unprepared. If we had not made preparations, the recent situation would have been very dangerous. It was not a simple matter. Ten years ago, I summoned together our brothers in the military to meet with me. I told them that the Soviet Union and the US were at odds with each other. As for China, they had joined hands with the US imperialists. In this tense situation, you must study this problem immediately. I was afraid that the military did not understand me, so I told them that there was no other way to understand the matter. But they found it very difficult to understand. It was not easy at all. But I could not speak in any other way. And I did not allow others to grab me.
When I went to the Soviet Union, the Soviets were also tough with me about China. The Soviet Union had convened a conference of 80 [communist] Parties in support of Vietnam, but Vietnam did not attend this conference, for [this gathering] was not simply aimed at helping Vietnam, but it was also designed to condemn China. Thus Vietnam did not go. The Soviets said: "Have you now abandoned internationalism [or] what? Why have you done this?" I said: "I have not abandoned internationalism at all. I have never done this. However, to be internationalist, the Americans must be defeated first. And if one wants to defeat the Americans, then there must be unity and solidarity with China. If I had gone to this conference, then the Chinese would have created very severe difficulties for us. Comrades, please understand me."
In China there were also many different and contending opinions. Zhou Enlai agreed on forming a front with the Soviet Union in order to oppose the Americans. Once, when I went to the USSR to participate in a national day celebration, I was able to read a Chinese cable sent to the Soviet Union saying that "whenever someone attacks the USSR, then the Chinese will stand by your side." [This was] because there was a treaty of friendship between the USSR and China dating from earlier times [February 1950]. Sitting next to Zhou Enlai, I asked him: "In this cable recently sent to the USSR, you have agreed, comrade, to establish a front with the Soviet Union, but why won't you form a front to oppose the US?" Zhou Enlai said: "We can. I share that view. Comrades, I will form a front with you [on Vietnam]." Peng Zhen, who was also seated there, added: "This opinion is extremely correct!" But when the matter was discussed in Shanghai, Mao said it was not possible, cancel it. You see how complicated it was.
Although Zhou Enlai held a number of those opinions, he nonetheless agreed on building a front and [he] helped Vietnam a lot. It was thanks to him that I could understand [much of what was going on in China]. Otherwise it would have been very dangerous. He once told me: "I am doing my best to survive here, to use Li Chiang to accumulate and provide assistance for you, comrades." And that there was [meaning that Zhou was able to use Li Chiang in order to help the Vietnamese]. My understanding is that without Zhou Enlai this would not have been possible at all. I am indebted to him.
However, it is not correct to say that other Chinese leaders shared Zhou Enlai's view at all. They differed in many ways. It must be said that the most uncompromising person, the one with the Greater Han mentality, and the one who wanted to take Southeast Asia, was mainly Mao. All of [China's] policies were in his hands.
The same applies to the current leaders of China. We do not know how things will turn out in the future, however, [the fact of the matter is that] they have already attacked us. In the past, Deng Xiaoping did two things which have now been reversed. That is, when we won in southern Vietnam, there were many [leaders] in China who were unhappy. However, Deng Xiaoping nonetheless congratulated us. As a result of this, he was immediately considered a revisionist by the others.
When I went to China for the last time, I was the leader of the delegation, and I met with the Chinese delegation led by Deng Xiaoping. In speaking of territorial problems, including discussion of several islands, I said: "Our two nations are near each other. There are several areas of our territory which have not been clearly defined. Both sides should establish bodies to consider the matter. Comrades, please agree with me [on this]. He [Deng] agreed, but after doing so he was immediately considered a revisionist by the other group of leaders.
But now he [Deng] is crazy. Because he wants to show that he is not a revisionist, therefore he has struck Vietnam even harder. He let them go ahead in attacking Vietnam. After defeating the Americans we kept in place over one million troops, leading Soviet comrades to ask us: "Comrades, whom do you intend to fight that you keep such a large [standing] army?" I said: "Later, comrades, you will understand." The only reason we had kept such a standing army was because of China['s threat to Vietnam]. If there had not been [such a threat], then this [large standing army] would have been unnecessary. Having been attacked recently on two fronts, [we can see that] it would have been very dangerous if we had not maintained a large army.
(B) [The meaning of this "B" in the original text is unclear] - In the wake of WWII, everyone held the international gendarme to be American imperialism. They could take over and bully all of the world. Everyone, including the big powers, were afraid of the US. It was only Vietnam that was not afraid of the US.
I understand this matter for my line of work has taught me it. The first person to fear [the Americans] was Mao Zedong. He told me, that is, the Vietnamese and Lao, that: "You must immediately turn over the two liberated provinces of Laos to the [Vientiane] [government]. If you do not do so, then the US will use it as a pretext to launch an attack. That is a great danger." As for Vietnam, we said: "We have to fight the Americans in order to liberate southern Vietnam." He [Mao] said: "You cannot do that. Southern Vietnam must lie in wait for a long period, for one lifetime, 5-10 or even 20 lifetimes from now. You cannot fight the Americans. Fighting the US is dangerous". Mao Zedong was scared of the US to that extent...
But Vietnam was not scared. Vietnam went ahead and fought. If Vietnam had not fought the US, then southern Vietnam would not have been liberated. A country which is not yet liberated will remain a dependent one. No one is independent if only one-half of the country is free. It was not until 1975 that our country finally achieved its full independence. With independence would come freedom. Freedom should be freedom for the whole of the Vietnamese nation...
Engels had already spoken on people's war. Later the Soviet Union, China, and ourselves also spoke [on this matter]. However, these three countries differ a lot on the content [of people's war]. It is not true that just because you have millions of people you can do whatever you like. China also spoke on people's war, however, [they held that] "when the enemy advances, we must retreat." In other words, defense is the main feature, and war is divided into three stages with the countryside used to surround the cities, while [the main forces] remain in the forests and mountains only... The Chinese were on the defensive and very weak [during World War II]. Even with 400 million people pitted against a Japanese army of 300,000 to 400,000 troops, the Chinese still could not defeat them.
I have to repeat it like that, for before China had sent advisers to us [some of our Vietnamese] brothers did not understand. They thought the [Chinese] were very capable. But they are not so skilled, and thus we did not follow [the Chinese advice].
In 1952, I left northern Vietnam for China, because I was sick and needed treatment. This was my first time abroad. I put questions to them [the Chinese] and saw many very strange things. There were areas [which had been] occupied by Japanese troops, each with a population of 50 million people, but which had not [had] a single guerrilla fighter...
When I returned from China, I met Uncle [Ho]. He asked me:
This was your first time to go abroad, isn't that right?
Yes, I went abroad for the first time.
What did you see?
I saw two things: Vietnam is very brave and they [the Chinese] are not brave at all.
I understood this from that day on. We [the Vietnamese] were entirely different from them. Courage is inherent in the Vietnamese person, and thus we have never had a defensive strategy. Every inhabitant fights.
Recently, they [the Chinese] have brought several hundred thousand troops in to invade our country. For the most part, we have used our militia and regional troops to attack them. We were not on the defensive, and thus they suffered a setback. They were not able to wipe out a single Vietnamese platoon, while we wiped out several of their regiments and several dozen of their battalions. That is so because of our offensive strategy.
The American imperialists fought us in a protracted war. They were so powerful, yet they lost. But there was a special element, that is the acute contradictions between the Chinese and the Soviets. [Because of this,] they have attacked us hard like this.
...Vietnam fought the Americans, and fought them very fiercely, but we know that the US was an extremely large country, more than capable of amassing 10 million troops and bringing all of its considerably powerful weapons in to fight us. Therefore we had to fight over a long period of time in order to bring them to de-escalation. We were the ones who could do this; the Chinese could not. When the American army attacked Quong Tre, the Politburo ordered troops to be brought in to fight at once. We were not afraid. After that I went to China to meet Zhou Enlai. He told me: "It [the attack in Queng Tre] is probably unparalleled, unique. In life there is only one [chance,] not two. No one has ever dared to do what you, comrades, have done."
...Zhou Enlai was the Chief of the General Staff. He dared to speak, he was more frank. He told me: "If I had known before the ways which you comrades employ, we would not have needed the Long March." What was the Long March for? At the beginning of the march there were 300,000 troops; and at the end of the Long March there were only 30,000 remaining. 270,000 people were lost. It was truly idiotic to have done it in this way – [I] speak as such so that you, comrades, know how much we are ahead of them. In the near future, if we are to fight against China, we will certainly win... However, the truth is that if a different country [other than Vietnam] were to fight against China, it is not clear that they would win like this [like Vietnam].
...If China and the USSR had been united with each other, then it is not certain that the US would have dared to fight us. If the two had been united and joined together to help us, it is not certain that the US would have dared to have fought us in the way in which they did. They would have balked from the very beginning. They would have balked in the same way during the Kennedy period. Vietnam, China, and the USSR all helped Laos and the US immediately signed a treaty with Laos. They did not dare to send American troops to Laos, they let the Lao [People's Revolutionary] Party participate in the government right away. They did not dare to attack Laos any more.
Later, as the two countries [the USSR and China] were at odds with each other, the Americans were informed [by the Chinese] that they could go ahead and attack Vietnam without any fear. Don't be afraid [of Chinese retaliation]. Zhou Enlai and Mao Zedong told the Americans: "If you don't attack me, then I won't attack you. You can bring in as many troops into southern Vietnam as you like. It's up to you."
...We are [presently] bordering on a very strong nation, one with expansionist intentions which, if they are to be implemented, must start with an invasion of Vietnam. Thus, we have to shoulder yet another, different historical role. However, we have never shirked from our historical tasks. Previously, Vietnam did carry out its tasks, and this time Vietnam is determined not to allow them to expand. Vietnam preserves its own independence, and by doing so is also safeguarding the independence of Southeast Asian nations. Vietnam is resolved not to allow the Chinese to carry out their expansionist scheme. The recent battle [with China] was one round only. Presently, they are still making preparations in many fields. However, whatever the level of their preparations, Vietnam will still win...
Waging war is no leisurely walk in the woods. Sending one million troops to wage war against a foreign country involves countless difficulties. Just recently they brought in 500,000 to 600,000 troops to fight us, yet they had no adequate transport equipment to supply food to their troops. China is presently preparing 3.5 million troops, but they have to leave half of them on the [Sino-Soviet] border to deter the Soviets. For that reason, if they bring 1 or 2 million troops in to fight us, we will not be afraid of anything. We have just engaged 600,000 troops, and, if, in the near future, we have to fight 2 million, it will not be a problem at all. We are not afraid.
We are not afraid because we already know the way to fight. If they bring in 1 million troops, they will only gain a foothold in the north. Descending into the mid-lands, the deltas, and into Hanoi and even further downwards would be difficult. Comrades, as you know, Hitler's clique struck fiercely in this way, yet when they [the German Nazis] arrived in Leningrad they could not enter. With the cities, the people, and defense works, it is impossible to carry out effective attacks against each and every inhabitant. Even fighting for two, three, or four years they will still not be able to enter. Every village there [in the north] is like this. Our guidelines are: Each district is a fortress, each province a battlefield. We will fight and they will not be able to enter at all.
However, it is never enough just to fight an enemy at the frontline. One must have a strong direct rearguard. After the recent fighting ended, we assessed that, in the near future, we must add several million more people to the northern front. But as the enemy comes from the north, the direct rear for the whole country must be Thanh Hoa, Nghe An, Ha Tinh... The direct rear to protect the capital must be Thanh Hoa and Nghe Tinh. We have enough people. We can fight them in many ways... We can use 2 to 3 army corps to inflict a strong blow on them that will make them stagger, while we continue to hold our land. To this end, each soldier must be a real soldier and each squad a real squad.
- Having now fought one battle already, we should not be subjective. Subjectivism and underestimation of the enemy are incorrect, but a lack of self-confidence is also wrong. We are not subjective, we do not underestimate the enemy. But we are also confident and firmly believe in our victory. We should have both these things.
- The Chinese now have a plot to attack [us] in order to expand southwards. But in the present era nothing can be done and then wrapped up tidily. China has just fought Vietnam for a few days, yet the whole world has shouted: ["]Leave Vietnam alone!["] The present era is not like the olden times. In those days, it was only us and them [meaning the Chinese]. Now the whole world is fastened closely together. The human species has not yet entered the socialist phase at all; instead this is a time where everyone wants independence and freedom. [Even] on small islands, people want independence and freedom. All of humankind is presently like this. That is very different than it was in olden times. In those days, people were not yet very aware of these things. Thus the sentence of Uncle Hò: "There is nothing more precious than independence and freedom" is an idea of the present era. To lay hands on Vietnam is to lay hands on humanity and infringe on independence and freedom... Vietnam is a nation that symbolizes independence and freedom.
- When it came to fighting the US, our brothers in the Politburo had to discuss together this matter to consider whether we dared to fight the US or not. All were agreed to fight. The Politburo expressed its resolve: In order to fight the Americans, we must not fear the USA. All were of the same mind. As all agreed to fight the US, to have no fear of the USA, we must also not fear the USSR. All agreed. We must also not fear China. All agreed. If we don't fear these three things, we can fight the US. This was how we did things in our Politburo at that time.
Although the Politburo met and held discussions like this and everyone was of the same mind, there was later one person who told a comrade what I said. That comrade rose to question the Politburo, asking for what reason does Anh Ba once again say that if we want to fight the Americans then we should not fear the Chinese? Why does he have to put it this way again?
At that time, Brother Nguyen Chi Thanh, who thus far was suspected of being sympathetic to the Chinese, stood up and said: "Respected Politburo and respected Uncle Ho, the statement of Anh Ba was correct. It must be said that way [referring to the need not to fear the Chinese], for they [the Chinese] give us trouble on many matters. They blocked us here, then forced our hands there. They do not let us fight..."
While we were fighting in southern Vietnam, Deng Xiaoping stipulated that I (toi) could only fight at the level of one platoon downward, and must not fight at a higher level. He [Deng Xiaoping] said: "In the south, since you have made the mistake of starting the fighting already, you should only fight at the level of one platoon downward, not at a higher level." That is how they brought pressure to bear on us.
- We are not afraid of anyone. We are not afraid because we are in the right. We do not fear even our elder brother. We also do not fear our friends. Of course, we do not fear our enemies. We have fought them already. We are human beings; we are not afraid of anyone. We are independent. All the world knows we are independent.
We must have a strong army, because our nation is under threat and being bullied... It cannot be otherwise. If not, then it will be extremely dangerous, but our country is poor.
- We have a strong army, but that does not in any way weaken us. The Chinese have several policies towards us: To invade and to occupy our country; to seek to weaken us economically and to make our living condi- tions difficult. For these reasons, in opposing China we must, first of all, not only fight, but also make ourselves stronger. To this end, in my view, our army should not be a force that wastes the resources of the state, but should also be a strong productive force. When the enemies come, they [the soldiers] grab their guns at once. When no enemy is coming, then they will produce grandly. They will be the best and highest symbol in production, producing more than anyone else. Of course, that is not a new story...
- At present, our army shoulders an historical task: to defend our independence and freedom, while simultaneously protecting the peace and independence of the whole world. If the expansionist policy of the reactionary Chinese clique cannot be implemented any longer, that would be in the interest of the whole world. Vietnam can do this. Vietnam has 50 million people already. Vietnam has Lao and Cambodian friends and has secure terrain. Vietnam has our camp and all of mankind on its side. It is clear that we can do this.
...Do our comrades know of anyone in our Party, among our people, who suspects that we will lose to China? No one, of course. But we must maintain our friendly relations. We do not want national hatred. I repeat: I say this because I have never felt hatred for China. I do not feel this way. It is they who fight us. Today I also want you comrades to know that in this world, the one who has defended China is myself! That is true. Why so? Because during the June 1960 conference in Bucharest, 60 Parties rose to oppose China, but it was only I who defended China. Our Vietnamese people is like that. I will go ahead and repeat this: However badly they behave, we know that their people are our friends. As for our side, we have no evil feelings towards China. Yet the plot of several [Chinese] leaders is a different matter. We refer to them as a clique only. We do not refer to their nation. We did not say the Chinese people are bad towards us. We say that it is the reactionary Beijing clique. I again say it strictly like this.
Thus, let us keep the situation under firm control, remain ready for combat, and never relax in our vigilance. It is the same with respect to China. I am confident that in 50 years, or even in 100 years, socialism may succeed; and then we will not have this problem any longer. But it will take such a [long] time. Therefore, we must prepare and stand ready in all respects.
At present, no one certainly has doubts any more. But five years ago I was sure there [were no] comrades who doubted] that China could strike us. But there were. That as the case because [these] comrades had no knowledge about this matter. But that was not the case with us [Le Duan and the leadership]. We knew that China had been attacking us for some ten years or more. Therefore we were not surprised [by the January 1979 Chinese attack].
Collection | The Cold War in Asia |
Creator | Comrade B (Le Duan) |
Contributor | |
Type | Speech |
Subject | China, PRC, conflict with Vietnam over Cambodia, China, PRC, foreign policy of, China, PRC, military involvement in Vietnam, China, PRC, relations with Vietnam, Chinese Communist Party, CCP, Chinese troops, imperialism, US, Soviet Union, relations with Vietnam, US, negotiations with Vietnam, US, relations with Vietnam, Vietnam War, effects of, on International Communist Movement, Vietnam, DRV, relations with China |
Coverage | China, People’s Republic of, (PRC), Vietnam |
Relation | The Vietnam (Indochina) War(s) |
Lang | English |
Publisher | CWIHP |
Rights | CWIHP |
Format | Translation |
Identifier: | 5034BF75-96B6-175C-95920EA599AF9609 |
– TS Lê Kiên Thành: 35 năm và những giấc mơ riêng, chung (Bee).
- Con người yếu nhất khi họ nghĩ về bản thân nhiều nhất; khi họ lơi lỏng nghĩ về đất nước, dù chỉ trong vài phút. Từng con người yếu sẽ không làm nên sự hùng mạnh của một dân tộc để dân tộc đó “sánh vai với các cường quốc năm châu” dù rằng chúng ta đã có nhà cao, đường đẹp...
Quân Giải phóng tiến vào Dinh Độc Lập ngày 30/4/1975 |
TIN LIÊN QUAN |
---|
LTS: 35 năm đã trôi qua, có những điều chúng ta đã làm được và nhiều điều còn dang dở. Nhưng luôn có những con người từng ngày, từng giờ xây đắp những giấc mơ cho riêng họ, để tạo nên giấc mơ lớn Việt Nam. Dù thành công hay thất bại, HỌ đều đã bắt tay làm một điều gì đó, cho HỌ, cho chúng ta, cho đất nước này. Nhân kỷ niệm 35 năm ngày thống nhất đất nước, Bee khởi đăng loạt bài nói về những con người đang tạo nên giấc mơ lớn Việt Nam, mở đầu là bài viết của TS Lê Kiên Thành, con trai cố TBT Lê Duẩn. Ông Lê Kiên Thành sinh năm 1955, là con trai thứ 5 trong gia đình cố TBT Lê Duẩn. Ông là Tiến sĩ khoa học hàng không, nguyên chủ tịch HĐQT Techcombank. |
1. “Gần trưa 30/4/1975, hay tin ta đã chiếm Dinh Độc Lập. Quên phắt cả sự tồn tại của phương tiện thông tin, như một người cổ sơ, tôi hấp tấp ra Viện phóng nhanh xe máy về nhà và lao thẳng vào phòng ba tôi.
Ở đây, một mình ba tôi đang ngồi lặng lẽ… Vẫn lặng lẽ, Người ngước mắt cười với tôi, rồi nước mắt bỗng trào ra từ đôi mắt thân thiết luôn ngời sáng trong tôi. Tôi đăm đăm nhìn đôi dòng nước mắt chảy dài trên nụ cười mãn nguyện của ba… Đã lặng lẽ, căn phòng lại càng lặng lẽ hơn. Đột nhiên, tôi thấy thời gian như ngưng lại và ánh sáng trong căn phòng cũng không còn là thứ ánh sáng thông thường của trời đất nữa.
Thật lạ lùng những cảm giác mà sự ngưng đọng này đã đem tới, nó trong suốt, tinh khiết và quá đỗi tuyệt vời, nó chưa bao giờ xuất hiện trong tôi và cũng không một lần trở lại… Trong cảm giác này, tôi thấy, dường như mình đủ sức để hiểu thấu cả nụ cười, đôi dòng nước mắt, cả thứ ánh sáng linh thiêng kỳ diệu của niềm hạnh phúc tột cùng đã từ ba tôi tràn khắp căn phòng...”
Chị tôi, TS Lê Thị Muội đã vẽ bức ký họa sinh động và chân thực hình ảnh của người cha - cố Tổng bí thư Lê Duẩn, người chịu trách nhiệm cuối cùng và cao nhất về chiến dịch Mùa xuân năm 75 lịch sử Ký ức về ngày 30/4/1975 - trong thời khắc quan trọng và thiêng liêng. Hơn ai hết, những người thân của ba hiểu rằng, đó là thời điểm hạnh phúc nhất của ông vì cuối cùng ông và đồng chí, đồng bào của mình cũng đã thực hiện được lời thề: Hoàn thành Cách mạng giải phóng miền Nam.
Đó là lời thề của một thế hệ, một dân tộc. Và trong suốt 20 năm trước đó, ông đã sống vì lời thề ấy.
Vì lời thề ấy, ba tôi đã có những việc làm thể hiện đến cùng cá tính quyết đoán và mạnh mẽ trong những thời điểm cam go mà một chính khách cần phải có, quên cả sự được mất của cá nhân...
Nhớ đến thời khắc 30/4/1975, tôi lại nhớ đến nỗi ám ảnh về lời mong ước của má từ chiến trường miền Nam: “Giá mà lúc này chạm tay vào các con một lần, tôi có thể đánh giặc thêm được 10 năm nữa...”.
Thế hệ ba má tôi đã thực hiện được giấc mơ của mình bởi họ biết biến hiện thực giấc mơ. Và họ biết cách hành động đúng để thực hiện giấc mơ đẹp đó.
2. Đến bây giờ, câu hỏi vì sao Việt Nam thắng Mỹ vẫn là điều kỳ diệu, khó giải thích, ngay cả với người Mỹ.
Có một quy luật bất biến trong chiến tranh, vật chất thắng vật chất. Napoleon cũng từng nói: “Chúa chỉ đứng về phía kẻ mạnh”. Nếu tính vật chất, người VN không bao giờ thắng Mỹ. Nhưng Việt Nam đã tạo được thứ vật chất hơn Mỹ.
Mỹ có máy bay trực thăng, hơn Việt Nam về vận tốc. Nhưng chúng ta lại có thứ vận tốc vô cùng lớn. Đó là sự có mặt của đội quân NHÂN DÂN ở khắp mọi nơi.
Khi biết huy động con người, chúng ta huy động nhanh hơn cả trực thăng hiện đại của Mỹ… Thời điểm năm 1972, trên thế giới, chưa có nước nào bắn rơi B52- biểu tượng của sức mạnh vật chất thực sự. Nhưng người Mỹ ngỡ ngàng, bởi trong 12 ngày đêm, họ mất hơn 36 máy bay/200 chiếc.
Hiện thực hóa giấc mơ vật chất không phải là chuyện xa vời. Nhưng... |
Ngày 30/4/1975 là chiến thắng tất yếu của những người CỘNG SẢN như ba, mẹ tôi đã coi lòng yêu nước là lẽ sống; như ba tôi từng nói “Mở mắt ra thấy đất nước, nhắm mắt lại cũng thấy đất nước”. HỌ (Đảng cộng sản Việt Nam) đã chiến thắng bởi trong suốt 20 năm của một cuộc chiến, với lý tưởng yêu nước của mình, đã quy tụ được những con người tinh hoa nhất của dân tộc.
Và quan trọng hơn, họ đã tìm được sự đồng thuận cao nhất trong tư tưởng. “Đồng thuận” không đơn thuần là phải cùng nhau chung một ý kiến mà là cùng nhau yêu đất nước này.
Bao giờ thì con người yếu nhất? Có phải là khi mình có quá nhiều thứ không, thưa ông? Con người yếu nhất khi họ nghĩ về bản thân nhiều nhất; khi họ lơi lỏng nghĩ về đất nước, dù chỉ trong vài phút. Sau 35 năm, đất nước đã sản sinh ra một lớp người mới. Ông mơ ước điều gì? Sau 35 năm, tôi mơ ước có một lớp người lãnh đạo như 35 năm trước, nhưng trẻ trung và khỏe mạnh. |
Sau năm 1975, thế hệ chúng tôi nhanh chóng bước qua những khó khăn của thời hậu chiến; nhiều người trong chấp nhận bước qua nhiều ngã rẽ để vươn vai trong thời đổi mới.
Sau 35 năm, nhiều gia đình nhanh chóng lần lượt thực hiện từng giấc mơ về vật chất. Thay xe đạp bằng xe máy, ôtô; thay nhà căn hộ bao cấp bằng chung cư cao cấp rồi tiến lên biệt thự...
35 năm, chúng ta lần lượt chứng kiến những bãi rau muống ở Thành Công, Láng Hạ (Hà Nội) thành cao ốc; bãi sình lầy ở nam Sài Gòn thành khu Phú Mỹ Hưng đẹp đẽ, sang trọng.
35 năm, đôi lúc tôi có cảm giác thời gian đi như chạy, nhanh hơn cả trăm năm, ngàn năm với hình những con đường cao tốc nối vùng miền, tỉnh lỵ những cây cầu bắc qua những con sông lần lượt hoàn tất...
Thì hiển nhiên, hiện thực hóa giấc mơ vật chất không phải là chuyện xa vời. Nhưng...
Và tôi đã từng đến nhiều vùng quê nghèo, đã từng chứng kiến cảnh hai chị em xin đi học 2 buổi khác nhau vì chỉ có một cái quần lành. Tôi trao học bổng 100.000 đồng cho một em, họ bảo nên chia ra để nhiều em được. 50.000 đồng, với không ít người chỉ là một ly cà phê sáng, với họ, là phần ăn cả một tháng.
Không ai có thể đòi hỏi sự công bằng tuyệt đối nhưng lương của một Tổng giám đốc DN Nhà nước có thể gấp 100 lần so với lương của một Đại úy biển đảo là điều khó thể chấp nhận. Có thể có nhiều người cho là cũ kỹ nhưng tôi vẫn không quên lý tưởng của những người cộng sản thủa ban đầu là xây dựng một nhà nước mà trong đó sự công bằng là nền tảng.
Nhà thơ Việt Phương từng viết: “Cứ đêm đêm ta tự kết nạp mình vào Đảng”. (Có nghĩa là: Mỗi ngày những Đảng viên tự kết nạp lại mình vào Đảng. Đấy mới là người Đảng viên đích thực).
Nếu một khi nhìn thấy sự bất công, đau khổ mà không còn thấy cảm giác gì thì có lẽ, lúc đó anh không còn là người cộng sản. Con người yếu nhất khi họ nghĩ về bản thân nhiều nhất; khi họ lơi lỏng nghĩ về đất nước, dù chỉ trong vài phút. Hiển nhiên, khi đó chất cộng sản trong con người đó tồn tại ít nhất.
Từng con người yếu sẽ không làm nên sự hùng mạnh của một dân tộc để dân tộc đó “sánh vai với các cường quốc năm châu” dù rằng chúng ta đã có nhà cao, đường đẹp....
Lê Kiên Thành
- Con trai cố TBT Lê Duẩn – TS Lê Kiên Thành: 35 năm và những giấc mơ riêng, chung (Bee). “Không ai có thể đòi hỏi sự công bằng tuyệt đối nhưng lương của một Tổng giám đốc DN Nhà nước có thể gấp 100 lần so với lương của một Đại úy biển đảo là điều khó có thể chấp nhận.”
---Cha tôi,cố TBT Lê Duẩn đã thể hiện bản lĩnh dân tộc
"Nước Việt Nam là của người Việt Nam, không ai có thể quyết định được vận mệnh của dân tộc này thay chúng tôi".
LTS: Nhân kỷ niệm 103 năm ngày sinh của Cố TBT Lê Duẩn, Bee xin đăng lại bài viết của TS Lê Kiên Thành viết ngày 10/7/2008, 22 năm sau ngày mất của cha. Bài viết đã được đăng trên VietNamNet .
Có một nhà báo từng hỏi tôi:
"Anh có đau khổ không khi nghe những lời đồn đại ác ý về cha mình, khi có những người đã không hiểu đúng về cố Tổng Bí thư Lê Duẩn như những gì ông có và đáng được hiểu đúng?".Khi nghe những câu hỏi đại loại như vậy, tôi thấy nhớ, thương cha rất nhiều. Và cũng biết rằng, mình đã hiểu ông nhiều hơn những gì ông nghĩ là tôi có thể chia sẻ. Cha tôi không bao giờ thấy buồn vì ai đó không hiểu, hoặc không hiểu đúng suy nghĩ và hành động của mình. Ông chỉ tâm niệm một điều: Những gì mình đã cho là đúng thì phải quyết tâm làm bằng được, dù có khó khăn đến đâu...
Bản lĩnh sống đó của ông được thể hiện một cách rõ ràng và mạnh mẽ nhất ở quyết tâm thống nhất đất nước và giữ vững độc lập dân tộc. Hạnh phúc hay đau khổ của ông đều nằm ở đó. Những mối quan tâm và những quan hệ riêng, chung của ông cũng đều vì mục tiêu cao cả này.
... Năm 1965, trong cuộc họp với ba lãnh đạo Liên Xô lúc đó là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Bregiơnep, Chủ tịch Xô Viết tối cao Podgonưi, Thủ tướng Koxưgin về tình hình cuộc chiến với Mỹ của Việt Nam, Podgonưi đã phản đối gay gắt việc Việt Nam tiến hành chiến tranh vũ trang để thống nhất đất nước vì "Mỹ rất mạnh, Việt Nam không thể chiến thắng Mỹ...".
Cha tôi kể rằng, lúc đó ông đã đập bàn:
"Nhất định chúng tôi phải đánh Mỹ và thắng Mỹ. Nếu các đồng chí ủng hộ, có thể chúng tôi chỉ chết có một triệu người. Nếu các đồng chí không ủng hộ, chúng tôi có thể hi sinh đến 10 triệu người. Nhưng chúng tôi phải thực hiện được mục tiêu cuối cùng là thống nhất đất nước".Quyết tâm đó của ông bắt nguồn từ sự am hiểu với tình hình thực tế của chiến trường miền Nam và việc nắm bắt ý nguyện cháy bỏng, khát khao của đồng bào miền Nam lúc đó, rằng không thể thống nhất đất nước thông qua giải pháp hòa bình bởi Mỹ và chính quyền miền Nam không hề có ý định thực hiện Hiệp định Geneves. Quyết tâm đó đã nung nấu từ khi ông chia tay con tàu chở mẹ đang mang thai tôi ra Bắc để quay trở lại chiến trường miền Nam với lời nhắn gửi: "Nói với Bác, 20 năm nữa, thống nhất đất nước, tôi mới được gặp Bác...".
Năm 1957, sau khi được Bác Hồ gọi ra Hà Nội, cha tôi là người được Bác và Bộ Chính trị giao cho việc chỉ đạo soạn thảo Nghị quyết 15. Tháng 1/1959, Nghị quyết 15 - "ngọn lửa giữa cánh đồng khô", khí thế của cách mạng miền Nam lúc đó - ra đời. Đó là sự đồng thuận của toàn Đảng, toàn dân về con đường của cách mạng miền Nam, là chỉ giành thắng lợi cuối cùng, thống nhất đất nước thông qua con đường đấu tranh vũ trang.
Kết quả này đã thể hiện một phần bản lĩnh của cha tôi, đặc biệt trong ứng xử ngoại giao mà quan trọng nhất là với hai người bạn lớn của nước ta lúc đó là Liên Xô và Trung Quốc.
Khi đã vượt qua sự khó khăn ban đầu bằng tinh thần độc lập tự chủ và thái độ kiên quyết, về sau, Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ toàn diện và mạnh mẽ của hai nước.
... Năm 1972 là một năm đầy thử thách với tiến trình thống nhất đất nước của Việt Nam. Trong cuốn nhật ký của cha tôi có ghi lại vài dòng nhưng đủ để tôi nhớ và hình dung lại những gì diễn ra trong năm đó liên quan đến câu chuyện mà cha tôi kể lại.
Ở đó, bản lĩnh người lãnh đạo tối cao của đất nước đã thể hiện bản lĩnh của một dân tộc... Và đủ để tôi cảm nhận được sự khắc khoải, đau đớn về những gì trải qua trong cái năm đầy cam go, thử thách ấy và quyết tâm dữ dội của ông về hai chữ độc lập, tự do của một dân tộc.
Trước khi Nixon có cuộc đàm đạo với lãnh đạo Trung Quốc, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai sang Việt Nam, gặp cha tôi ở Gia Lâm. Thủ tướng Chu Ân Lai nói với cha tôi ý là Trung Quốc và Nixon sẽ có cuộc bàn thảo về vấn đề Việt Nam.
Cha tôi kể rằng lúc đó ông đã lập tức nổi nóng:
"Nước Việt Nam là của người Việt Nam, không ai có thể quyết định được vận mệnh của dân tộc này thay chúng tôi. Nếu Mỹ muốn bàn về Việt Nam thì sang Việt Nam mà bàn với chúng tôi, tại sao lại bàn với các đồng chí và tại Trung Quốc?Đồng chí có biết, năm 1954, khi cảm nhận được rằng, Việt Nam đã bị ép ký hiệp định Geneves, tôi đã khóc ròng trên đường từ miền Bắc quay trở lại miền Nam vì biết rất rõ rằng, rồi đây máu của đồng bào tôi sẽ đổ hàng chục năm trời? Và sau đó thì các đồng chí đã thấy đó, sau hai năm theo như thỏa thuận là "hòa bình sẽ được lập lại", máu của đồng bào tôi đã đổ cho tới bây giờ...".
Cha tôi kể rằng, trước sự nổi nóng của ông, Thủ tướng Chu Ân Lai đã tỏ thái độ xin lỗi.
Sau khi gặp Nixon, Thủ tướng Chu Ân Lai có sang lại Việt Nam thông báo tình hình rồi sẽ thế này, thế khác. Sau khi nghe xong, cha tôi nói: “Tôi chỉ biết trước một điều là sau khi Nixon gặp các đồng chí, Mỹ sẽ đánh chúng tôi gấp 10 lần...".
Dự đoán đó đã đúng. Sau đó, Mỹ đã rải bom khắp các thành phố lớn và làng mạc miền Bắc...
Cha tôi đã không ngăn được điều này nhưng ông đã thể hiện được bản lĩnh và ý chí của cả dân tộc lúc đó và tâm nguyện lớn lao của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Dù có đốt cháy dãy Trường Sơn cũng phải giành được độc lập, tự do".
Và khát vọng đó đã trở thành hiện thực vào ngày 30/4/1975.
Hôm nay, kỷ niệm 22 năm ngày mất của cha tôi, nhìn vào đôi mắt cháy bỏng và nhân từ trên di ảnh, tôi muốn nói với lòng mình rằng: Tôi rất tự hào về ông, cố Tổng Bí thư Lê Duẩn, người có vị trí quan trọng trong thế kỷ XX - thế kỷ nhiều đau thương và anh hùng của dân tộc Việt Nam, người đã thể hiện được bản lĩnh và khát vọng độc lập tự do của một dân tộc nhỏ bé mà kiên cường, bất khuất.
Lê Kiên Thành
Tin liên quan:
Đặng Phong – Suy ngẫm từ một bài nói mới tìm lại được của Lê Duẩn (*)