Vì sao Trung Quốc là vấn đề và Việt Nam nên giải quyết ra sao?
Bài tham luận đọc tại cuộc hội thảo "Định hướng Đấu tranh cho Việt Nam Tự Do" tổ chức tại Westminster, California, ngày 15 Tháng Tư 2012.
Đáp lời mời của Ban Tổ Chức, chúng tôi xin trước hết có vài cảm nghĩ chủ quan của mình.
Biến cố Tháng Tư 1975 làm thay đổi vận mệnh quốc gia, trong đó, bản thân chúng ta chỉ là những mảnh vụn rất nhỏ. Nhưng cũng từ đó, chúng ta đều phải suy nghĩ về đất nước và không chỉ tưởng niệm hoặc luyến tiếc mỗi năm vào dịp Tháng Tư. Chúng ta suy nghĩ về quá khứ với câu hỏi "Tại Sao?" - và về tương lai với câu hỏi "Đất Nước Sẽ Ra Sao?"
Không tham gia một tổ chức đấu tranh chính trị nào, bản thân chúng tôi kính trọng những người đấu tranh dù có khi không hoàn toàn đồng ý về mọi chuyện. Và càng kính trọng những người đấu tranh vì lý tưởng hơn là vì mơ tưởng sẽ có một vai trò chính trị nào đó trong tương lai.
Cũng vì vậy mà chúng tôi có mặt trên diễn đàn này, như một người nghiên cứu về kinh tế và quan tâm đến Trung Quốc từ nhiều giác độ khác nhau.
Bài tham luận của chúng tôi sẽ có bốn phần và rất ít con số khô khan, chỉ với ước mong khiêm nhượng là gợi ý suy tư về chuyện quốc gia và quốc tế cho những người quan tâm.
Trước hết là về bối cảnh chung: "Vì Sao Trung Quốc là Vấn Đề?" Kế tiếp mới là "Vấn Đề Trung Quốc của Thế Giới, và "Vấn Đề Trung Quốc của Việt Nam". Sau cùng là phần kết luận, "Vấn Đề Trung Quốc của Chúng Ta" - với vài câu hỏi... nhức đầu.
Chúng tôi xin đầu tiên nói về bối cảnh
1. Vì Sao Trung Quốc là Vấn Đề?
Vì là trình bày bối cảnh nên phần này sẽ hơi dài, mất 10 phút.
Quốc gia nào cũng có những giai đoạn thăng trầm trong lịch sử của từng dân tộc. Trong thế giới gọi là "toàn cầu hóa" ngày nay, hầu hết các quốc gia đều cũng có quan hệ với nhau, về ngoại giao, kinh tế hay an ninh. Trung Quốc là trường hợp cá biệt vì di sản của quá khứ.
Xin hãy nói về quá khứ đó. Sau nhiều thế kỷ là đại cường Á châu và thế giới, Trung Quốc đã trải gần hai thế kỷ lụn bại vì nội loạn bên trong và ngoại xâm bên ngoài. Những biến cố kéo dài đó có ảnh hưởng đến tâm lý của dân tộc, chính yếu là Hán tộc. Vừa "tự tôn" vừa "tự ti" có thể là phản ứng tiêu biểu. Khinh thường mà cũng nghi ngờ và e sợ thiên hạ là cách nói dễ hiểu hơn.
Sau nửa thế kỷ nội loạn triền miên, Trung Quốc chỉ giải quyết xong vấn đề ngoại xâm từ hậu bán thế kỷ 20, vào năm 1949, rồi mất 30 năm điên khùng với bài toán dựng nước. Điên khùng vì sự hoang tưởng của Mao. Cho đến năm 1979, xứ này mới tìm được lối ra nhờ Đặng Tiểu Bình. Từ đấy, trong 30 năm liền, xứ này đã tạm yên với chiến lược tăng trưởng khi mở cửa giao lưu kinh tế với thế giới. Tăng trưởng bằng mọi giá là một cách nói dễ hiểu.
Bây giờ đến chuyện hiện tại. Nhờ dân số đông nhất địa cầu và lại là nước đi sau có thể học được kiến thức và kinh nghiệm các nước đi trước, Trung Quốc sớm thành cường quốc kinh tế. Một quốc gia có trọng lượng kinh tế thứ nhì thế giới. Nhưng người dân thì vẫn thuộc loại "Ba Bê", BBB, nghèo như các nước Belarus, Belize hay Bolivia, nếu tính bằng lợi tức đầu người.
Đấy là một mâu thuẫn tâm lý đáng chú ý.
Cho nên, vì yếu tố lịch sử - và đôi khi văn hoá - Trung Quốc cho rằng thế giới có tội về những tai họa của họ từ thời suy sụp của nhà Mãn Thanh. Và rằng từ nay sự thể sẽ khác. Vì vậy, trong quan hệ với các quốc gia, lãnh đạo xứ này không hề có một chút mặc cảm khi làm những điều mà thế giới không còn chấp nhận nữa. Lãnh đạo Trung Quốc có đầy đủ kiến thức của thế kỷ 21, nhưng hành xử với thủ đoạn trung cổ, theo những nấc thang giá trị đã lỗi thời, mà họ vẫn coi là chính đáng.
Vì vậy, chúng ta mới có vấn đề Trung Quốc, xin trình bày qua sáu điểm:
1. Về ngoại giao, Trung Quốc là thành viên thường trực và có quyền phủ quyết trong Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc, và cũng tham gia hầu hết mọi tổ chức chuyên môn quốc tế. Có quan hệ với gần 200 quốc gia lớn nhỏ trên thế giới, Trung Quốc không hành xử như cường quốc có trách nhiệm về sự yên bình của địa cầu. Khi cần trục lợi thì ngoại giao chỉ là một phương tiện, và đạo lý quốc tế là một chướng ngại mà họ tự cho là có quyền phủ nhận.
2. Về kinh tế, Trung Quốc cũng có chủ trương lý tài và thực dụng trong mục tiêu tối thượng là trục lợi. Tức là sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn để giành phần hơn, kể cả ăn cắp, ăn cướp, bằng luật lệ hoặc qua tình báo, tham nhũng, mua chuộc. Chủ trương phát triển nền tư bản nhà nước cho phép lãnh đạo xứ này sử dụng các doanh nghiệp nhà nước trong tinh thần chiến đấu để ăn cướp. Chúng ta có cả trăm trường hợp minh diễn chuyện này.
3. Về môi trường, Trung Quốc là một trung tâm gây ô nhiễm toàn cầu mà... bất chấp. Họ không tham gia vào nỗ lực chung của cả thế giới để bảo vệ môi trường sinh sống của nhân loại và bên trong cũng chẳng kiểm soát việc bảo vệ môi sinh vì coi đó là một trở ngại cho tăng trưởng. Tăng trưởng bằng mọi giá là một chủ trương, cái giá ấy, ai sẽ trả, bao giờ trả thì không đáng kể.
4. Cũng về môi trường, chuyện đáng nói hơn cả là sau khi tấn công Tây Tạng năm 1950 rồi hoàn toàn kiểm soát xứ này từ năm 1959, Trung Quốc đang làm chủ Cao nguyên Tây Tạng và phần lớn của rặng Hy Mã Lạp Sơn đầy băng tuyết. Đây là đỉnh cao nhất thế giới, và một đệ tam cực sau Nam-Bắc cực, trung tâm phát nguyên những con sông lớn nhất Á Châu. Đây cũng là một "tháp nước" của toàn cầu, nơi cung cấp nước ngọt qua mạng lưới sông ngòi nuôi sống hơn một tỷ người dân Á Châu.
Khi kiểm soát Hy Mã Lạp Sơn và Cao nguyên Tây Tạng, Trung Quốc làm chủ nguồn nước của hầu hết các nước Á Châu vây quanh. Và họ điều tiết nguồn nước đó cho mình mà bất kể đến quyền lợi hay sinh mệnh người dân xứ khác, dù là Pakistan, Kyrgyzstan, Ấn Độ, Bangladesh, hay Miến Điện, Thái Lan và ba nước Đông Dương Việt, Miên, Lào. Năm nước sau cùng này đều có thể sống hay chết vì sông Mekong vì lưu vực của dòng sông là nơi sinh hoạt của 60 triệu dân.
Trong khi ấy, Cao nguyên Tây Tạng cũng là nơi hủy thải phế vật uranium của kỹ nghệ hạch tâm, theo tiêu chuẩn mất an toàn đặc biệt của Trung Quốc.
5. Kết hợp ngần ấy chuyện ngoại giao, kinh tế và môi sinh, Trung Quốc còn là vấn đề khi hợp tác, mua chuộc và khuynh đảo các chế độc độc tài và hung đồ của thế giới, miễn là đảm bảo được quyền lợi của mình. Mọi chế độ độc tài còn rơi rớt lại trên thế giới đều là thân chủ của Trung Quốc và được Bắc Kinh bao che, bảo vệ, từ Bắc Hàn đến Việt Nam, từ Sudan tới Iran, Syria...
6. Sau cùng, về an ninh và quân sự, Trung Quốc tự cho mình quyền bảo vệ luồng giao lưu buôn bán, lần đầu tiên trong lịch sử được mở ra thế giới bên ngoài. Nhưng bảo vệ theo màu sắc Trung Hoa thời cổ. Không chỉ chiếm đóng các lân bang để xây dựng vùng trái độn quân sự như đã từng làm từ thời xưa, Trung Quốc muốn mở rộng vùng trái độn ấy ra bên ngoài, và ra biển.
Từ 20 năm trước, lãnh đạo xứ này đã chuẩn bị việc kiểm soát vùng biển cận duyên hay xanh lục làm vùng trái độn quân sự. Ngày nay, với phương tiện kinh tế dồi dào hơn, Trung Quốc có tham vọng sớm thành cường quốc hải dương với khả năng kiểm soát vùng biển viễn duyên là biển xanh dương. Trong phạm vi đó, cái lưỡi bò chúng ta nghe nói đến chỉ là phần trái độn cận duyên, ở ngoài Đông hải. Trong một tương lai không xa, Trung Quốc sẽ đòi kiểm soát luồng giao lưu từ Bán đảo Á Rập qua Ấn Độ dương nối liền với miền Tây Thái bình dương.
Khi thế giới có một đại cường mới xuất hiện thì quan hệ giữa các nước có thể đảo lộn. Khi đại cường lại là một Trung Quốc có đầy mặc cảm và lối hành xử ngang ngược mà lãnh đạo và người dân lại coi là chính đáng, thế giới sẽ khó yên lành.
Sau phần bối cảnh, chúng ta bước qua phần vấn đề.
2. Vấn Đề Trung Quốc của Thế Giới....
Phần này có bốn khía cạnh chúng tôi nghĩ là đáng chú ý:
1. Quốc gia nào cũng có thể có tranh chấp về lãnh thổ với các lân bang. Trung Quốc là quốc gia tranh chấp với hầu hết mọi lân bang, cả chục nước, từ Nga qua Ấn Độ đến các nước Đông Nam Á tên tới Nhật Bản....
Khi có tranh chấp, quốc gia nào cũng phải tương nhượng và có thể yêu cầu quốc tế tham gia giải quyết hoặc tôn trọng phán quyết của quốc tế. Lãnh đạo Trung Quốc lại không chấp nhận việc thương thảo đa phương trên một diễn đàn quốc tế mà tìm giải pháp song phương với từng nước, theo kiểu cố hữu là vừa dọa vừa dụ, vừa mua chuộc hoặc khuynh đảo. Đấy là một vấn đề của thế giới.
Chuyện cái lưỡi bò hoặc khu đặc quyền kinh tế hay Luật biển của Liên hiệp quốc chỉ là mặt nổi của các vấn đề ngoại giao hay pháp lý với Bắc Kinh. Nếu tiến lên khu vực tiếp cận Hy Mã Lạp Sơn và những vùng tranh chấp giữa Pakistan và Ấn Độ tại Kashmir, hoặc giữa Ấn Độ với Trung Quốc chung quanh xứ Nepal, Bhutan, v.v.. cho tới biên giới Miến Điện, người ta còn thấy ra nhiều mối nguy tiềm ẩn từ Trung Quốc, kể cả xung đột giữa hai nước có võ khí hạch tâm là Pakistan và Ấn Độ.
Với phương tiện quân sự lớn lao chưa từng thấy trong lịch sử xứ này, Trung Quốc có thể đổi trị sang loạn ở nhiều nước trên thế giới.
Dĩ nhiên, lãnh đạo Bắc Kinh không muốn trực diện gây chiến với các lân bang, nhưng tiến hành chiến tranh theo kiểu khác. Đó là khuynh đảo để gây bất ổn và dùng chính mối nguy bất ổn đó để bắt bí hoặc mua chuộc các nước mà khỏi phải dụng binh. Khi cứ nói đến tương quan lực lượng quân sự giữa Trung Quốc với các nước, thí dụ như so sánh ngân sách quốc phòng, dường như người ta chỉ thấy một mặt nổi của vấn đề. Mặt chìm rất khó nhìn ra và ngăn ngừa là khả năng gây loạn cho xứ khác, để chi phối quan hệ giữa các nước khác với nhau, theo lối có lợi cho Bắc Kinh.
2. Từ an ninh bước qua chính trị và kinh tế, Trung Quốc là vấn đề cho thế giới khi đưa ra một mô thức xử trí khác, xin gọi là "Đồng thuận Bắc Kinh".
Sau khi chi phối cả thế giới trong nhiều thế kỷ, các nước Tây phương, chủ yếu là Hoa Kỳ và Âu châu, đã rút tỉa kinh nghiệm chinh chiến và sai lầm của mình. Họ thay đổi và tiến tới một giải pháp hoà bình và ổn định hơn. Đó là phát triển kinh tế tự do với sự lãnh đạo chính trị dân chủ trong một xã hội cởi mở mà không ai có độc quyền chân lý. Các định chế quốc tế đều được xây dựng theo ba giá trị tinh thần đó, là tự do, dân chủ và cởi mở, nghĩa là chấp nhận dị biệt để hướng dẫn quy tắc hành xử hòa bình giữa các nước với nhau.
Trung Quốc phát minh ra giải pháp khác: kinh tế thị trường với vai trò chủ đạo của khu vực nhà nước, dưới sự cai trị của một chế độ độc đảng, và chân ly duy nhất được hiện hữu là của đảng độc quyền. Đó là tóm lược về khái niệm "Đồng thuận Bắc Kinh", mà đa số dư luận chỉ nhìn vào mặt nổi là sức can thiệp chủ động của nhà nước trong kinh tế để đạt tốc độ tăng trưởng cao.
Khi áp dụng khái niệm này trong quan hệ quốc tế, với bộ máy tuyên truyền, địch vận, kiều vận cùng dự án đầu tư lẫn thủ thuật hối lộ và khuynh đảo, Trung Quốc đảo lộn luật chơi của thế giới. Phong trào phát huy dân chủ gặp chướng ngại, bị đẩy lui, các chế độ độc tài được bảo vệ, và nhiều quốc gia muốn đi theo con đường tắt của Trung Quốc là bành trướng khu vực nhà nước vào kinh tế, thu hẹp quy luật thị trường, thoái lui về chế độ bao cấp và bảo hộ mậu dịch....
Trong hoàn cảnh suy trầm kinh tế toàn cầu từ bốn năm nay, giải pháp ngược ngạo của Bắc Kinh bỗng thành hấp dẫn cho nhiều người, nhất là các lãnh tụ độc tài, trong khi Trung Quốc mở rộng ảnh hưởng, mâu thuẫn giữa các nước với nhau càng dễ xảy ra. Nghĩa là Bắc Kinh càng có cơ hội trục lợi.
Vì vậy, các quốc gia dân chủ đều gặp vấn đề với Trung Quốc, không về kinh tế hay ngoại thương thì về ngoại giao và an ninh. Mà càng ở gần xứ này thì càng vất vả. Trong khi vòng đai độc tài không thu hẹp lại mà còn mở rộng thêm nhờ sự hà hơi tiếp sức của Trung Quốc.
3. Trong cuộc đua giữa thiện và ác, trị và loạn, hoà bình và xung đột, dân chủ và độc tài, minh bạch và mờ án, Trung Quốc trở thành một trung tâm phát huy cái ác. Nhưng với khẩu hiệu là "không xen lấn vào nội bộ xứ khác". Và với thực tế là đối tác kinh tế của rất nhiều quốc gia.
Các nước Âu, Á, Phi, Mỹ gì đều có thể là bạn hàng của doanh nghiệp Trung Quốc, mà bên trong mỗi doanh nghiệp lại có các chi bộ đảng với nhiệm vụ tình báo, báo cáo, kiều vận và gian lận theo đúng chủ trương của đảng. Ngược lại, doanh nghiệp nào, công hay tư, của Trung Quốc cũng đều có quan hệ với hệ thống quốc doanh và vì vậy kế toán sổ sách gì cũng đều là "bí mật quốc gia" nên không được phép phổ biến.
4. Kết cuộc là từ an ninh, môi sinh đến ngoại giao, kinh tế hay đầu tư, Trung Quốc trở thành vấn đề của thiên hạ mà vì quyền lợi nhất thời, lẫn sự vận động tiền bạc của Bắc Kinh vào hệ thống truyền thông của thế giới, nhiều người không muốn nói ra. Hoặc còn cố tình gây ra ấn tượng sai lạc về Trung Quốc.
Thực tế thì cuộc đua giữa thiện và ác, giữa minh và ám, đang thể hiện ở một tầng rất cao là nhận thức. Trung Quốc tác động vào nhận thức của thiên hạ về chính mình – "một quốc gia mới phát triển sau nhiều thế kỷ là nạn nhân" – và về các nước dân chủ được coi là đối thủ, hay thủ phạm của nhiều tội ác trong lịch sử!
Đó là "thuật quỷ biển" trong kho tàng mưu lược của văn hoá chính trị Trung Hoa.
Chúng ta bước qua một đề mục gần hơn, ở phần ba.
3. Vấn Đề Trung Quốc của Việt Nam
Phần ba này có bốn khía cạnh mà chúng ta nên quan tâm.
1. Nói về lịch sử mà ai cũng nhớ, sau khi chiếm đóng Tân Cương năm 1949, khống chế Tây Tạng năm 1950, và bị chặn tại bán đảo Triều Tiên năm 1953, Trung Quốc đã nghĩ tới Việt Nam như một vùng trái độn quân sự cần thiết. Trong thế thủ thì vùng trái độn ấy bảo vệ cõi Trung Nguyên và trong thế công thì đấy là bàn đạp bành trướng ảnh hưởng xuống vùng Đông Nam Á và ra tới biển nóng ở miền Nam.
May thay, lúc đó họ lại có đảng Cộng sản Việt Nam và giấc mơ tiến hành cách mạng vô sản trên cả nước của Hồ Chí Minh.
Đấy là một trong nhiều nguyên nhân của cuộc tương tàn, với sự tiếp sức của Liên Xô khi tiến hành Chiến tranh lạnh năm 1948 và chủ yếu của Trung Quốc ngay từ những ngày đầu của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa do Mao sáng lập năm 1949.
Nối tiếp nhiệm vụ của Hồ Chí Minh từ khi là cán bộ của Đệ tam Quốc tế được gửi về hoạt động tại Đông Nam Á từ năm 1924 xa xưa, đảng Cộng sản Việt Nam tự nhận là mũi xung kích của khối Cộng sản xuống Đông Nam Á, mà việc gọi là giải phóng miền Nam chỉ là một tất yếu.
2. Nhưng ngoài lý do ý thức hệ dại dột, có một chuyện mà đôi khi chúng ta ít chú ý là về địa dư hình thể, Trung Quốc là một "hải đảo" bị cô lập. Xin hãy nhìn vào hoàn cảnh "khách quan" của họ.
Xứ này bị vây hãm từ bốn hướng. Giữa các sa mạc, thảo nguyên hoang vu cùng núi rừng hiểm trở tại ba hướng Nam, Tây và Bắc với biển Thái bình tại hướng Đông, Trung Quốc chỉ có một đường bành trướng trên đất liền. Đó là miền Bắc nước Việt Nam.
Lần cuối mà họ thử nghiệm giải pháp đó là vào năm 1979 khi Hà Nội chủ quan tưởng rằng mình đã đánh cho Mỹ cút lại còn vừa ký Thỏa ước Hợp tác và An ninh với Liên Xô vào năm 1978!
Sau đó, Cộng sản Việt Nam có giai đoạn được gọi là "độc lập" là 10 năm chiếm đóng Kampuchia và cứng đầu với Bắc Kinh. Nhưng Việt Nam bị xuất huyết cũng vì sự chiếm đóng ấy, song song cùng nạn phá sản vì xây dựng chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng xã hội chủ nghĩa.
3. Khi bức tường Bá Linh sụp đổ và vụ khủng hoảng tại Liên Xô và vụ tàn sát Thiên an môn năm 1989 tại Trung Quốc, mọi sự đều đảo lộn.
Liên Xô bắt đầu tan rã, Trung Quốc e sợ nội loạn nên tập trung kiểm soát hệ thống chính trị bên trên cơ chế kinh tế thị trường. Và lãnh đạo Hà Nội như kẻ mồ côi bị mất quan thầy. Vì vậy, việc cứu đảng là một ưu tiên sinh tử từ năm 1991. Ý thức hệ và sự tồn tại của đảng được đánh giá là quan trọng hơn quyền lợi tổ quốc
Hà Nội trở lại thần phục Trung Quốc, chấm dứt 10 năm độc lập dưới bóng rợp Liên Xô và thực tế tiến hành "đổi mới", nhưng theo mẫu mực Bắc Kinh.
Trung Quốc trở lại xu hướng bành trướng cố hữu mà khỏi tốn quân tốn tiền và vẫn đạt kết quả như ý: miền Bắc Việt Nam trở thành vùng trái độn quân sự. Khi Bắc Kinh mở rộng vùng trái độn ấy ra biển, Đông hải của Việt Nam trở thành ao nhà của Trung Quốc. Biển Việt Nam chỉ là biển Hoa Nam.
Lãnh đạo Hà Nội ý thức được việc đó nhưng chấp nhận để bảo vệ quyền lực đảng, nhân đó bảo vệ được quyền lợi của các đảng viên cao cấp. Nếu có nói rằng họ bán nước để cứu đảng thì cũng không sai.
4. Hậu quả là mọi vấn đề Trung Quốc của thế giới như đã trình bày ở trên đều đã xuất hiện tại Việt Nam, từ an ninh, ngoại giao qua môi sinh, kinh tế, hay ngoại thương.
Ở mặt nổi mà ai cũng thấy dù không được nói ra là nạn lạm thác lâm sản, buôn lậu qua biên giới và hủy hoại môi trường, là tình trạng cạn kiệt của đồng bằng Cửu Long và hiện tượng nước biển ngập mặn cả đồng bằng, v.v.... Trong khi ấy khu vực chiến lược như cột xương sống của quốc gia là Cao nguyên Trung phần đã rơi vào quỹ đạo Trung Quốc với các dự án quái quỷ loại bauxite....
Nhưng biểu hiện nghiêm trọng hơn vậy là lập trường của Hà Nội lại rất thân Trung Quốc trong các hồ sơ nóng của thế giới. Hoặc việc Hà Nội tránh nêu vấn đề về Hoàng Sa hay Trường Sa trên diễn đàn quốc tế theo kiểu đa phương mà tìm giải pháp song phương theo quan hệ chủ tớ. Vì vậy mới giấu biến không cho dân chúng được biết về những gì đã thỏa thuận với Bắc Kinh.
Và cũng vì vậy, Hà Nội kiểm soát dư luận, cấm đoán việc người dân công khai phản đối sự xâm lược ngang ngược của Trung Quốc và nói nước đôi về vấn đề chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Từ mấy năm qua, người Việt chúng ta đã phân tách rất nhiều vấn đề Trung Quốc của Việt Nam, bài tiểu luận này sẽ không nói thêm. Chúng tôi xin giành thời giờ cho phần cuối, một cách tóm lược với vài câu hỏi không vui.
4. Vấn Đề Trung Quốc của Chúng Ta
Qua phần cuối, chúng tôi xin nói về sáu khía cạnh đáng quan tâm và một kết luận cô đọng: "Thế giới phải giải quyết vấn đề Trung Quốc của thế giới và Việt Nam phải giải quyết vấn đề Trung Quốc của Việt Nam. Trong việc giải quyết ấy, nên có sự hợp tác song hành."
1. Đất nước và dân tộc Việt Nam đang gặp vấn đề với Trung Quốc, có thể là nguy ngập hơn vì vị trí lân bang, nhưng cũng không khác nhiều quốc gia Á châu ở chung quanh. Do đó, vấn đề Trung Quốc của Việt Nam cũng nằm trong khuôn khổ các vấn đề chung của thế giới với Trung Quốc.
Khi nhìn như vậy, Việt Nam thật sự không đơn độc và phải một mình đương cự với Trung Quốc.
Một thí dụ: Đài Loan cũng gặp vấn đề Trung Quốc, còn nguy ngập hơn Việt Nam mà không có cái thế ngoại giao của Việt Nam, vậy mà người dân vẫn không sợ và lãnh đạo vẫn xoay trở để xứ này khỏi bị sát nhập. Dân khí giúp họ không sợ, dân trí giúp họ tìm ra nhiều giải pháp, thỏa ước bảo vệ của Mỹ không là giải pháp duy nhất.
Khác với trường hợp các quốc gia kia, vấn đề Trung Quốc của Việt Nam nằm trong tầng lớp lãnh đạo đảng Cộng sản. Vấn đề Trung Quốc của Việt Nam nằm tại Hà Nội, là Hà Nội. Đấy là cái khó của dân tộc, một dân tộc dày dạn kinh nghiệm đối phó với Trung Quốc và có thừa ý chí đấu tranh giành độc lập.
2. Vấn đề Trung Quốc của Việt Nam nằm tại Hà Nội vì đảng Cộng sản giải giới người dân, tước đoạt võ khí truyền thống và mãnh liệt nhất của dân tộc là ý chí chống lại tình trạng Hán hóa.
Hà Nội tiến hành chính sách ngu dân qua kiểm soát báo chí và tư tưởng, đưa mọi người vào phản ứng lý tài, phát huy bản năng kinh tế của loại sinh vật hạ đẳng là vặt mũi bỏ mồm và triệt hạ mọi tiềm lực quật khởi. Lãnh đạo Hà Nội hành xử như những quan Tiết độ sứ của Thiên triều Bắc Kinh trong thời Bắc thuộc, thậm chí như những quan Thái thú trời trực trị. Họ đang làm xã hội băng hoại và đẩy người dân vào kiếp nô lệ cho một thiểu số đại gia phe phẩy ở trên.
3. Muốn giải quyết vấn đề Trung Quốc, người Việt Nam phải giải quyết cái nhân khiến cho sức dân không được huy động vào nhu cầu bảo vệ nền độc lập, đó là đảng Cộng sản. Ưu tiên của Việt Nam vì vậy là phải tháo gỡ cách ách độ hộ của Trung Quốc do Bộ Chính trị của đảng Cộng sản Việt Nam đã tròng lên cổ người dân. Tức là giải quyết đảng Cộng sản Việt Nam. Chính là các đảng viên Cộng sản cũng cần thức tỉnh và nhìn ra sự thật đó.
Với các quốc gia khác, Việt Nam phải là thành viên của một nỗ lực đa phương nhằm giải quyết vấn đề Trung Quốc của thế giới.
Khi cùng chung một mục tiêu, người ta có thể nói đến chuyện hợp tác, một cách bình đẳng vì lợi ích chung. Vì vậy, vấn đề Trung Quốc của thế giới phải do thế giới giải quyết và Việt Nam sẵn sàng tham gia như một thành viên. Nhưng không thể là mũi xung kích hay tiền đồn chống Trung Quốc của thế giới. Không quốc gia nào, kể cả Đài Loan hay Tây Tạng lại tự đảm nhiệm vai trò này.
4. Chuyện ấy dẫn chúng ta về Hoa Kỳ, dù sao cũng là quốc gia đang buôn bán nhiều nhất với Trung Quốc.
Nhiều người đã quên các bài học bi đát của quá khứ với Hoa Kỳ mà đặt sai vấn đề là nên đứng bên Hoa Kỳ hay Trung Quốc. Hoặc là trong quan hệ song phương Mỹ-Hoa, Việt Nam nên ngả về đâu? Hay là nên khôn ngoan giữ vị trí trung lập? Thực tế nó phức tạp hơn những gì xảy ra trong chiến tranh lạnh giữa hai khối cộng sản và tự do.
Thực tế là Trung Quốc có vấn đề với Hoa Kỳ, có vấn đề với Nhật Bản, có vấn đề với Ấn Độ, với các nước Đông Nam Á, thậm chí với cả Úc Đại Lợi. Trong mạng lưới quan hệ song phương chằng chịt đó, như Hoa-Mỹ, Hoa-Nhật, Hoa-Ấn, v.v... của một thế giới đa phương có nhiều chiều kích hơn là chuyện đối đầu giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, Việt Nam đứng ở đâu?
Tất nhiên là phải đứng với người dân, ở vị trí độc lập, chứ không đơn giản là trung lập. Làm sao trung lập trong một quan hệ đa phương?
4. Việt Nam sẵn sàng hợp tác với thế giới để giải quyết vấn đề Trung Quốc trong các nỗ lực đa phương của quốc tế. Nhưng trước hết phải giải quyết vấn đề Trung Quốc của Việt Nam, hiện nằm tại Hà Nội. Khi nào người dân Việt ở trong và ngoài nước làm cho thế giới hiểu ra sự thể đó - rằng mối nguy của Trung Quốc chính là Hà Nội và Hà Nội mới là vấn đề chứ không là giải pháp - chúng ta tiến được một bước khá xa trên chặng đường bảo vệ nền độc lập quốc gia.
Vì vậy, đấu tranh cho dân chủ và cho độc lập là hai mặt không thể tách rời của một sự thể sinh tử cho quốc gia.
5. Cho đến nay, hình như các tổ chức đấu tranh cho dân chủ mới chỉ chú ý đến một mặt, là trình trạng thiếu dân chủ hoặc nạn chà đạp nhân quyền tại Việt Nam. Sự thật phũ phàng là các quốc gia trên thế giới, kể cả Hoa Kỳ, đều có thể đang làm ăn với nhiều chế độ độc tài. Với chính quyền các nước này, nhiều khi lời kêu gọi dân chủ lại là sự phiền nhiễu, là chướng ngại cho hợp tác kinh tế và phát triển kinh doanh của họ.
Nhưng nếu người ta nêu ra hàng loạt vấn đề về môi sinh, về nạn hủy hoại nguồn nước, về tình trạng cạnh tranh bất chính hoặc nguy cơ lũng đoạn xã hội xuất phát từ Trung Quốc, ngoài sự bành trướng ngang ngược đã trở thành hiển nhiên, thì vì quyền lợi của họ hơn là vì dân chủ cho Việt Nam, các nước có thể quan tâm nhiều hơn đến lập trường của người Việt. Muốn như vậy, thì ngay từ ý thức, chúng ta nên là giải pháp hơn là vấn đề cho các nước. Câu hỏi nêu lên ở đây là mình đã tự chuẩn bị như vậy hay chưa?
6. Sau cùng, Trung Quốc thật ra không mạnh như nhiều người thường nghĩ và còn gặp nguy cơ khủng hoảng, thậm chí tan rã, vì chiến lược phát triển của họ không bền vững, thiếu cân đối và có đầy bất công. Khi nước Tầu có loạn như đã từng thấy nhiều lần trong lịch sử của xứ này, Hà Nội tất sẽ không thể yên. Khi đó, Việt Nam sẽ ra sao?
Khi đó, chúng ta đứng ở đâu? Mà chúng ta là những ai?
-Theo:Vấn Đề Trung Quốc Của Thế Giới và Của Việt Nam
-
ĐỊA CHÍNH TRỊ CỦA TRUNG QUỐC: MỘT CƯỜNG QUỐC BỊ BAO VÂY
Nguồn: Stratfor Global Intelligence, 25 tháng 3, 2012 URL: http://www.stratfor.com/analysis/geopolitics_china neofob, x–cafevn.org, chuyển ngữ
LTS: Đây là bài viết thứ hai trong loạt bài chuyên khảo về địa chính trị của các nước có ảnh hưởng đến chính trị thế giới. Bài viết này nguyên được ấn bản vào tháng Sáu năm 2008.
Trung Quốc hiện nay là một hải đảo. Cho dù nó không bị bao bọc bởi nước (chỉ là bờ biên giới phía đông), Trung Quốc có biên giới với địa hình khó khăn cho việc đi lại gần như là khắp mọi hướng. Có một số vùng thuận tiện cho việc đi lại nhưng để hiểu Trung Quốc chúng ta phải bắt đầu bằng việc hình dung những ngọn núi, những cánh rừng nhiệt đới và vùng đất hoang mà chúng bao bọc Trung Quốc. Vỏ bọc này vừa kìm hãm vừa lẫn bảo vệ Trung Quốc.
Nói một cách nội bộ, Trung Quốc phải được chia làm hai phần: trung nguyên và những vùng ngoại biên không phải Trung Quốc vây quanh nó. Có một đường ở Trung Quốc được gọi là đường 15–phân Anh isohyet (*), ở phía đông của nó mưa trên 15 phân Anh hàng năm và phía tây mưa ít hơn. Đại đa số dân Trung Quốc sống phía đông và phía nam của con đường này trong một vùng được biết đến với tên gọi là Hán Trung Hoa — trung nguyên. Vùng này là nơi ở của dân tộc Hán mà thế giới xem là người Trung Quốc. Điều quan trọng cần phải hiểu là hơn một tỷ người sống trong một vùng mà nó bằng khoảng nửa Hoa Kỳ.
Trung Hoa đại lục được chia thành hai khu vực, phía bắc và phía nam, mà được biết đến theo thứ tự với hai phương ngữ là Quan thoại ở phía bắc và Quảng Đông ở phía nam. Những phương ngữ này có chung một hệ thống chữ viết nhưng gần như đôi bên không hiểu nhau khi nói. Trung Hoa đại lục được định hình bởi hai con sông chính — Hoàng Hà phía bắc và Dương Tử phía nam cùng mới một con sông thứ ba nhỏ hơn là Châu Giang. Vùng đại lục là vựa lúa của Trung Quốc. Tuy nhiên — và đây là thực tế quan trọng nhất về Trung Quốc — nó có khoảng một phần ba đất canh tác được theo mỗi đầu người so với phần còn lại của thế giới. Áp lực này đã định hình lịch sử Trung Quốc hiện đại — kể cả việc sống với nó lẫn chuyện cố thoát khỏi nó.
Một chuỗi những vùng không phải của người Hán bao quanh vùng lục địa này — Tibet, tỉnh Tân Cương (quê của người Hồi giáo Uighur), Nội Mông và Mãn Châu (một tên lịch sử được đặt cho vùng phía bắc của Bắc Triều Tiên mà bây giờ bao gồm các tỉnh Hắc Long Giang, Cát Lâm và Liêu Ninh).
Về mặt lịch sử thì những vùng đệm này đã từng nằm dưới quyền kiểm soát của Trung Quốc khi Trung Quốc mạnh và tách khỏi khi Trung Quốc yếu. Hiện nay việc người Hán lập nghiệp ở những vùng này là chuyện lớn, một nguyên do của xích mích, nhưng Hán Trung Hoa hiện nay vững mạnh.
Những vùng này cũng là những vùng mà về mặt lịch sử là nguồn gốc của đe dọa đối với Trung Quốc. Hán Trung Hoa là một vùng đầy những sông và mưa. Vì thế nó là một vùng đất của những nông dân và thương gia. Những vùng chung quanh là vùng đất của dân du mục và người cưỡi ngựa. Vào thế kỷ 13, những người Mông Cổ dưới sự lãnh đạo của Ghenghis Khan(Thành Cát Tư Hãn) đã xâm lược và chiếm đóng nhiều phần của Hán Trung Hoa cho đến thế kỷ 15 khi mà người Hán tái khẳng định thẩm quyền của họ. Những triều đại sau đó, chiến lược của Trung Quốc mang tính nhất quán: thể hiện rõ chủ quyền một cách chậm rãi và có hệ thống đối với những vùng ngoại biên này nhằm bảo vệ người Hán khỏi những vụ đột kích của kị binh du mục. Nhu cầu này dẫn dắt chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Cho dù có sự bất cân đối dân số, hay có lẽ là vì thế, Trung Quốc tự xem mình là vô cùng nhạy cảm đối với những lực lượng quân sự từ phía bắc và phía tây. Bảo vệ một lực lượng đông đảo nông dân chống lại những lực lượng này quả là khó. Giải pháp dễ nhất, cái mà Trung Quốc chọn, là lật ngược tình thế và áp đặt chính họ vào những nhà chinh phục tương lai.
Còn một lý do khác. Ngoài chuyện cung cấp vùng đệm, những vùng này còn tạo ra những biên giới có thể phòng thủ được. Với những vùng biên nằm trong vòng kiểm soát của họ, Trung Quốc có chỗ dựa vững chắc. Hãy xét đến bản chất của biên giới của Trung Quốc theo tuần tự bắt đầu với phía đông dọc theo Việt Nam và Myanmar. Biên giới với Việt Nam là biên giới duy nhất dễ dàng cho việc đi lại bởi những quân đoàn lớn hay buôn bán phổ thông. Thực tế là vừa mới đây vào năm 1979 Trung Quốc và Việt Nam đã giao tranh trong một cuộc chiến biên giới ngắn ngủi và đã có những lúc trong lịch sử Trung Quốc đã đô hộ Việt Nam. Dẫu vậy phần còn lại của biên giới phía nam thì núi đồi rừng rậm nơi mà tỉnh Vân Nam tiếp giáp Lào và Myanmar, khó cho việc đi lại, chẳng có con đường chính nào. Việc di chuyển đáng kể xuyên biên giới ở khu vực biên giới này là gần như không thể. Trong Đệ Nhị Thế Chiến, Hoa Kỳ đã chật vật để xây tuyến đường Burma để đi đến Vân Nam và tiếp tế lực lượng Tưởng Giới Thạch. Nỗ lực quá đỗi phi thường đến nỗi nó được xem là huyền thoại. Trung Quốc an toàn ở khu vực này.
Hkakabo Razi, ở độ cao gần 19000 bộ Anh, phân ranh giới giữa Trung Quốc, Myanmar và Ấn Độ. Ở điểm này, biên ải tây nam của Trung Quốc bắt đầu, bắt rễ ở rặng Hymalayas. Chính xác hơn, đó là nơi mà Tibet, dưới sự kiểm soát của Trung Quốc, giáp giới với Ấn Độ và hai bang Himalaya, Nepal và Bhutan. Biên giới này chạy theo một vòng cung dài băng ngang qua Pakistan, Tajikistan và Kyrgyzstan, chấm dứt ở Pik Pobedy, một ngọn núi cao 25000 bộ Anh phân ranh giới với Trung Quốc, Kyrgyzstan và Kazakhstan. Đúng là có thể băng qua vùng biên giới với khó khăn; nhìn về lịch sử mà nói thì nhiều khu vực của vùng này đã được dùng như những con đường giao thương. Nói chung, tuy vậy, rặng Hymalayas là rào cản đáng kể cho thương mại và chắc chắn cho các lực lượng quân đội. Ấn Độ và Trung Quốc — và Trung Quốc và phần lớn Trung Á — bị tách rời khỏi nhau.
Một ngoại lệ là phần kế tiếp của biên giới với Kazakhstan. Vùng này có thể qua lại được nhưng tương đối có ít giao thông. Một khi giao thông mở rộng, đây sẽ là con đường chính giữa Trung Quốc và phần còn lại của lục địa Á–Âu. Đó là cây cầu độc đạo từ hòn đảo Trung Quốc mà có thể được dùng. Vấn đề là khoảng cách. Biên giới với Kazakhstan là gần một ngàn dặm kể từ những tỉnh Hán Trung Hoa đầu tiên, và con đường băng qua rải rác địa phận của người Hồi giáo, một khu vực mà nó đưa ra những thách thức đáng kể đối với Trung Quốc. Điều quan trọng là con Đường Tơ Lụa từ Trung Quốc chạy xuyên qua Tân Cương và Kazakhstan trên nẻo đường đến phương tây. Đó là con đường duy nhất để đi.
Sau rốt là biên giới dài phía bắc giáp với Mông Cổ trước tiên và sau là với Nga chạy đến Thái Bình Dương. Biên giới này chắc chắn là có thể tiện cho việc giao thông. Dĩ nhiên cuộc xâm lược Trung Quốc thành công duy nhất diễn ra khi những kị binh Mông Cổ tấn công từ Mông Cổ chiếm giữ đáng kể Hán Trung Hoa. Những vùng đệm của Trung Quốc — Nội Mông và Mãn Châu — đã bảo vệ Hán Trung Hoa từ những cuộc tấn công khác. Người Trung Quốc đã không tấn công lên phía bắc với hai lý do. Trước hết là chẳng có gì đáng giá để chiếm đoạt về mặt lịch sử. Sau cùng là giao thông bắc–nam là khó khăn. Nga có hai tuyến đường sắt chạy từ phí tây đến Thái Bình Dương — tuyến đường nổi tiếng Trans–Siberian Railroad (TSR) và Baikal–Amur Mainline (BAM) kết nối hai thành phố đó và liên kết với TSR. Ngoài chuyện đó ra, chẳng có giao thông đường bộ đông–tây nào kết nối Nga. Cũng chẳng có giao thông bắc–nam. Những gì trông có vẻ thuận tiện cho việc đi lại thực tế là không.
Khu vực ở Nga mà thuận tiện cho giao thông nhất từ Trung Quốc là khu vực giáp biên Thái Bình Dương, khu vực của Nga từ Vladivostok đến Blagoveschensk. Khu vực này có giao thông hợp lý, dân số và những lợi thế cho cả hai bên. Nếu có xung đột giữa Trung Quốc và Nga, đây là vùng mà sẽ là tâm điểm của xung đột. Đây cũng là vùng mà, một khi bạn đi về phía nam và khỏi Thái Bình Dương, giáp biên với Bán đảo Triều Tiên, khu vực của xung đột quân sự chính yếu của Trung Quốc gần đây nhất.
Rồi thì còn bờ biển Thái Bình Dương, nơi mà có nhiều hải cảng và đã có thương mại duyên hải đáng kể về mặt lịch sử. Điều thú vị đáng kể đến là, ngoài chuyện nỗ lực của người Mông Cổ để xâm lược Nhật Bản và một cuộc đột phá hàng hải duy nhất của Trung Quốc vào Ấn Độ Dương — chủ yếu để buôn bán và từ bỏ tương đối nhanh chóng — Trung Quốc chưa bao giờ là một cường quốc hàng hải. Truớc thế kỷ 19, nó chưa bao giờ đối mặt với những kẻ thù có khả năng để đe dọa về hải quân. Và vì thế nó ít có quan tâm đến chi tiêu khoản tiền lớn để xây dựng hải quân.
Trung Quốc khi nó kiểm soát Tibet, Tân Cương, Nội Mông và Mãn Châu, là một quốc gia biệt lập. Hán Trung Hoa có chỉ một điểm của xích mích tiềm tàng là ở đông nam với Việt Nam. Ngoài điểm đó ra thì nó được bao vây bởi những vùng đệm không phải Hán Trung Hoa mà nó đã sát nhập về mặt chính trị vào Trung Quốc. Còn có một điểm va chạm thứ hai là ở phía đông của Mãn Châu tiếp xúc Siberia và Triều Tiên. Cuối cùng là có một điểm ngõ vào phần còn lại của lục địa Á–Âu ở biên giới Tân Cương–Kazakh.
Điểm yếu nhất của Trung Quốc kể từ khi sự có mặt của người Âu Châu ở phía tây Thái Bình Dương vào giữa thế kỷ 19 là vùng duyên hải. Ngoài những xâm lấn của Châu Âu mà những quyền lợi thương mại được hỗ trợ bởi quân đội có giới hạn, Trung Quốc gánh chịu xung đột quân sự quan trọng nhất — và là một cuộc chiến lâu dài và cực khổ — sau khi quân Nhật Bản xâm chiếm và chiếm đóng những phần lớn phía đông của Trung Quốc cùng với Mãn Châu vào thập niên 1930. Cho dù có sự bất tương xứng ở sức mạnh quân sự và hơn chục năm chiến tranh, Nhật Bản vẫn không thể buộc chính quyền Trung Quốc quy hàng. Thực tế đơn giản là Hán Trung Hoa, với kích thước và mật độ dân số của nó, không thể bị chinh phục. Cho dù người Nhật có chiến thắng bao nhiêu trận đi nữa, họ đã không có thể đánh bại người Trung Quốc một cách dứt khoát.
Khó mà xâm chiếm Trung Quốc; đối với kích thước và dân số như vậy, thật là khó khăn hơn để mà chiếm đóng. Điều này cũng gây khó khăn cho người Trung Quốc xâm chiếm những nước khác — không phải hoàn toàn không thể nhưng khá là khó. Có một phần năm dân số thế giới, Trung Quốc có thể tự ngăn cách chính nó khỏi thế giới như nó đã từng làm trước khi Vương Quốc Anh cưỡng bức mở cửa vào thế kỷ 19 và khi vào thời Mao Trạch Đông. Tất cả những điều này có nghĩa là Trung Quốc là một cường quốc nhưng là một cường quốc cư xử rất khác với những cường quốc khác.
Những Nhu cầu Địa chính trị của Trung Quốc
Trung Quốc có ba nhu cầu địa chính trị tối quan trọng:
1. Gìn giữ sự đoàn kết nội bộ trong những vùng Hán Trung Hoa.
2. Giữ quyền kiểm soát đối với những vùng đệm.
3. Bảo vệ bờ biển khỏi ngoại xâm
1. Gìn giữ sự đoàn kết nội bộ trong những vùng Hán Trung Hoa.
2. Giữ quyền kiểm soát đối với những vùng đệm.
3. Bảo vệ bờ biển khỏi ngoại xâm
Gìn giữ đoàn kết nội bộ
Trung Quốc bị bao vây hơn bất cứ cường quốc nào khác. Với kích thước dân số của nó, gắn liền với những biên ải an toàn và tương đối giàu có về tài nguyên, cho phép nó phát triển với va chạm tối thiểu với phần còn lại của thế giới nếu nó chọn vậy. Trong thời kỳ Mao Trạch Đông, ví dụ vậy, Trung Quốc đã trở nên một đảo quốc được lèo lái chủ yếu bởi những lợi ích và quan tâm nội bộ, thờ ơ hoặc thù địch đối với phần còn lại của thế giới. Nó an ninh và, ngoại trừ việc dính líu đến chiến tranh Triều Tiên và những nỗ lực bình định không ngừng những vùng đệm, tương đối hòa bình. Về nội bộ mà nói, tuy vậy, Trung Quốc trải qua những hỗn loạn mang tính chu kỳ và tự tạo.
Điểm yếu của sự cô lập đối với Trung Quốc là cảnh bần cùng. Xét đến tỷ lệ đất canh tác được trên dân số, một Trung Quốc tự đóng cửa là một Trung Quốc nghèo nàn. Dân chúng của nó quá nghèo nên việc phát triển kinh tế bởi nhu cầu nội địa là không thể cho dù điều đó được giới hạn đến mức nào đi nữa. Tuy nhiên một Trung Quốc cô lập thì dễ quản lý hơn bởi chính quyền trung ương. Mối nguy hiểm trầm trọng ở Trung Quốc là một sự tan vỡ bên trong quốc gia Hán Trung Hoa. Nếu điều đó xảy ra, nếu chính quyền trung ương suy yếu, những vùng phên dậu sẽ ly khai và Trung Quốc sẽ là mục tiêu cho ngoại bang lợi dụng sự suy yếu của Trung Quốc.
Để Trung Quốc giàu mạnh, nó cần tham gia thương mại, xuất khẩu tơ lụa, bạc và các sản phẩm công nghiệp. Về mặt lịch sử mà nói thì việc giao thương trên đất liền đã không gây ra vấn đề cho Trung Quốc. Con Đường Tơ Lụa đã cho phép những ảnh hưởng ngoại lai vào Trung Quốc và kết quả giàu có đã tạo ra một sự bất ổn có mức độ. Nói chung, tuy vậy, điều đó có thể kiểm soát được.
Sự sôi nổi của công nghiệp hóa đã thay đổi cả địa lý của thương mại của Trung Quốc lẫn những hệ lụy của nó. Vào giữa thế kỷ 19, khi Châu Âu — dẫn đầu bởi người Anh — buộc chính quyền Trung Quốc phải có những nhượng bộ thương mại cho người Anh, nó đã mở ra một chương mới trong lịch sử Trung Quốc. Lần đầu tiên, bờ biển Thái Bình Dương là bề mặt giao tiếp với thế giới chứ không phải là Trung Á. Điều này đã gây mất ổn định Trung Quốc sau đó.
Khi thương mại giữa Trung Quốc và thế giới gia tăng, người Trung Quốc tham gia thương mại làm giàu đáng kể. Những người ở những tỉnh duyên hải của Trung Quốc, vùng tham gia thương mại nhiều nhất, trở nên tương đối giàu có trong khi người Trung Quốc ở nội địa (không phải ở những vùng đệm, nơi mà luôn nghèo khó, mà là những tỉnh không phải duyên hải của Hán Trung Hoa) vẫn nghèo, là những nông dân vừa đủ sống.
Chính quyền trung ương được cân bằng giữa những quyền lợi khác biệt của duyên hải Trung Quốc và nội địa. Vùng duyên hải, đặc biệt là giới lãnh đạo vừa mới giàu có, đã có một lợi ích trong việc duy trì và gia tăng những mối quan hệ với các cường quốc Châu Âu và với Hoa Kỳ và Nhật Bản. Thương mại càng phát triển mạnh thì giới lãnh đạo duyên hải càng giàu và sự cách biệt giữa các vùng càng gia tăng. Theo thời gian thì các nhà ngoại quốc liên minh với các doanh nhân duyên hải Trung Quốc và các nhà chính trị trở nên quyền lực hơn ở những vùng duyên hải hơn là ở chính quyền trung ương. Cơn ác mộng chính trị tệ hại nhất của Trung Quốc đã trở thành sự thật. Trung Quốc phân mảnh, vỡ ra thành nhiều vùng, một số càng chịu kiểm soát của người nước ngoài đặc biệt là những quyền lợi ngoại thương. Bắc Kinh mất quyền kiểm soát đối với quốc gia. Chúng ta nên để ý rằng đây đã là bối cảnh mà khi Nhật Bản xâm chiếm Trung Quốc. Điều này càng làm thất bại của Nhật Bản trong việc đánh bại hoàn toàn Trung Quốc thêm phi thường.
Mục tiêu của Mao là ba mục đích ngoài chủ nghĩa Mác. Thứ nhất, ông ta muốn tái tập trung Trung Quốc — tái thiết lập Bắc Kinh là thủ đô và trung tâm chính trị. Thứ nhì, ông ta muốn chấm dứt sự bất bình đẳng rộng lớn giữa vùng duyên hải và phần còn lại của Trung Quốc. Thứ ba, ông ta muốn trục xuất người nước ngoài khỏi Trung Quốc. Nói ngắn gọn, ông ta muốn tái tạo một Hán Trung Hoa thống nhất.
Mao đầu tiên cố gắng kích động một cuộc nổi dậy ở những thành phố vào năm 1927 nhưng thất bại vì sự liên kết giữa những quyền lợi Trung Quốc và cường quốc nước ngoài là không thể nào phá vỡ được. Thay vào đó ông ta mang cuộc Vạn Lý Trường Chinh vào nội địa của Trung Quốc nơi mà ông ta đã gầy dựng một đội quân nông dân đông đảo vừa mang tính quốc gia lẫn bình đẳng. Và vào năm 1948, ông ta quay trở lại vùng duyên hải và trục xuất người nước ngoài. Mao tái cô lập Trung Quốc, tái tập trung nó, và chấp nhận hậu quả tất yếu. Trung Quốc trở nên bình đẳng hơn nhưng vô cùng nghèo.
Vấn đề địa chính trị chính yếu của Trung Quốc là thế này: Để nó phát triển nó phải tiến hành ngoại thương. Nếu nó làm điều đó, nó phải sử dụng những thành phố ven biển và những vùng chung quanh trở nên càng giàu có. Ảnh hưởng của những người nước ngoài vào vùng này gia tăng và lợi ích của họ và của người Trung Quốc duyên hải đồng quy và bắt đầu cạnh tranh với lợi ích của chính quyền trung ương. Trung Quốc thường xuyên bị thách thức bởi vấn đề làm cách nào để tránh hậu quả này trong khi tiến hành ngoại thương.
Kiểm soát các Vùng Đệm
Vào trước thời của Mao, với chính quyền trung ương suy yếu và Hán Trung Hoa đồng thời lâm chiến với Nhật Bản, nội chiến và chủ nghĩa địa phương, trung ương không đứng vững. Trong khi Mãn Châu dưới quyền kiểm soát của Trung Quốc, Ngoại Mông nằm dưới quyền kiểm soát của Sô Viết và mở rộng ảnh hưởng của nó (quyền lực của Soviet hơn là chủ thuyết Mác xít) vào Nội Mông, và Tibet và Tân Cương đang tách rời [khỏi Trung Quốc].
Vào cùng lúc mà Mao đang tiến hành nội chiến, ông ta cũng đặt nền móng cho việc chiếm quyền kiểm soát các vùng đệm. Thú vị thay, bước đi đầu tiên của ông ta là để ngăn chặn những lợi ích của Sô Viết ở những vùng này. Mao tiến đến việc hợp nhất cộng sản Trung Hoa kiểm soát Mãn Châu và Nội Mông dẫn đến kết quả là đẩy những người Sô Viết ra ngoài. Tân Cương đã nằm dưới quyền kiểm soát của một sứ quân, Yang Zengxin. Ngay sau khi nội chiến kết thúc, Mao ra tay để buộc ông ta đi khỏi và chiếm lấy Tân Cương. Sau cùng, vào năm 1950 Mao ra tay chống lại Tibet và lấy nó vào năm 1951.
Việc hợp nhất liên tù tì những vùng đệm đã cho Mao tất cả những gì mà những hoàng đế Trung Hoa đã tìm kiếm, một Trung Quốc bảo đảm không bị xâm lược. Kiểm soát Tibet có nghĩa là Ấn Độ không thể di chuyển ngang qua Himalayas và thiết lập một căn cứ an toàn cho các hoạt động trên Cao Nguyên Tibet. Có thể có những vụ đột kích ở Himalayas nhưng không ai có thể đưa quân đội cấp sư đoàn qua những rặng núi đó và duy trì tiếp vận. Chừng nào Tibet còn trong tay Trung Quốc, người Ấn Độ có thể sống ở mặt bên kia của mặt trăng. Tân Cương, Nội Mông và Mãn Châu đệm giữa Trung Quốc và Liên Bang Sô Viết. Mao là nhà địa chính trị hơn là nhà tư tưởng. Ông ta không tin tưởng người Sô Viết. Với những quốc gia vùng đệm trong tay, họ sẽ không xâm lược Trung Quốc. Khoảng cách, giao thông kém cỏi và thiếu hụt tài nguyên có nghĩa là bất cứ một cuộc xâm lăng nào của Sô Viết sẽ dẫn đến những vấn đề hậu cần nghiêm trọng và sa lầy — như người Nhật đã gặp phải.
Trung Quốc có nhiều vấn đề địa chính trị với Việt Nam, Pakistan và Afghanistan, những quốc gia láng giềng mà nó có biên giới chung. Nhưng vấn đề thật sự cho Trung Quốc sẽ đến từ Mãn Châu hay là, chính xác hơn, Triều Tiên. Những người Sô Viết, còn hơn người Trung Quốc, đã khuyến khích Bắc Triều Tiên xâm lăng Nam Triều Tiên. Thật là khó mà suy đoán được Joseph Stalin nghĩ gì nhưng điều đó xảy ra một cách tuyệt vời cho ông ta. Hoa Kỳ can thiệp, đánh bại quân đội Bắc Triều Tiên và áp sát đến sông Áp Lục, con sông biên giới với Trung Quốc. Người Trung Quốc, nhận thấy rằng đội quân Hoa Kỳ thiện chiến và trang bị tốt có mặt đầy biên giới, quyết định rằng nó sẽ phải ngăn chặn bước tiến của Hoa Kỳ và tấn công phía nam. Kết cục là ba năm của chiến tranh tàn khốc mà người Trung Quốc mất khoảng một triệu người. Từ quan điểm của Sô Viết, giao tranh giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ điều tốt nhất có thể hình dung ra. Thế nhưng từ quan điểm của Stratfor, cái mà nó cho thấy là sự nhạy cảm của người Trung Quốc đối với bất cứ sự xâm lấn nào đến vùng biên giới của họ, những vùng đệm mà chúng tương ứng với nền tảng của an ninh quốc gia của họ.
Bảo Vệ bờ Biển
Với những vùng đệm trong vòng kiểm soát, bờ biển là điểm yếu nhất của Trung Quốc nhưng yếu điểm của nó không phải là đối với sự xâm lăng. Đối với ví dụ Nhật Bản, chẳng ai có lợi ích hay quân đội để xâm lược Trung Quốc, tiếp liệu quân đội ở đó và hy vọng chiến thắng. Xâm lăng không phải là mối đe dọa đáng kể.
Mối đe dọa bờ biển đối với Trung Quốc là kinh tế cho dù đa số sẽ chẳng gọi đó là một mối đe dọa. Như chúng ta đã thấy, sự xâm lăng của Anh quốc vào Trung Quốc dẫn đến sự mất ổn định của quốc gia, chính quyền trung ương gần như sụp đổ và nội chiến. Tất cả chỉ vì sự thịnh vượng. Mao đã giải quyết vấn đề bằng cách ngăn chặn khu vực duyên hải của Trung Quốc khỏi bất cứ sự phát triển nào và thanh toán tầng lớp đã hợp tác với doanh nhân nước ngoài. Đối với Mao, việc bài ngoại đã trở thành nguyên tắc của chính sách quốc gia. Ông cho rằng sự có mặt của nước ngoài phá hoại sự ổn định của Trung Quốc. Ông ưa thích đoàn kết trong đói nghèo hơn là hỗn loạn. Ông cũng hiểu rằng, đối với dân số của Trung Quốc và địa lý của nó, nó có thể phòng thủ chống lại những kẻ tấn công tiềm tàng mà không cần một tổ hợp quân sự cao cấp.
Người kế nhiệm của ông, Đặng Tiểu Bình, kế thừa một nhà nước uy quyền kiểm soát Trung Quốc và những vùng đệm. Ông ta cũng cảm nhận được áp lực khủng khiếp về mặt chính trị để nâng cao mức sống. Và ông hiểu rõ rằng cuối cùng thì những khoảng cách công nghệ sẽ đe dọa an ninh quốc gia của Trung Quốc. Ông ta đã thi hành một canh bạc lịch sử. Ông ta biết rằng kinh tế của Trung Quốc không thể tự phát triển dựa vào chính nó. Nhu cầu sản phẩm nội địa của Trung Quốc quá ít ỏi bởi vì người Trung Quốc quá nghèo.
Đặng đánh cược rằng ông ta có thể mở cửa Trung Quốc cho đầu tư ngoại quốc và tái định hướng kinh tế của Trung Quốc khỏi nông nghiệp và công nghiệp nặng và hướng đến những ngành công nghiệp xuất khẩu. Bằng cách làm như vậy ông ta sẽ nâng cao mức sống, nhập khẩu công nghệ và huấn luyện lực lượng lao động của Trung Quốc. Ông ta đã đánh cược rằng nỗ lực lần này sẽ không làm mất ổn định Trung Quốc, tạo ra những căng thẳng dữ dội giữa những tỉnh giàu có ở vùng duyên hải và nội địa, gia tăng chủ nghĩa địa phương, hay đặt những vùng duyên hải dưới kiểm soát của nước ngoài. Đặng tin tưởng rằng ông ta có thể tránh được tất cả những chuyện đó bằng cách duy trì chính quyền trung ương mạnh dựa vào một quân đội trung thành và hệ thống Đảng Cộng sản. Những người kế nhiệm của ông ta đã vất vả để duy trì sự trung thành đó đối với nhà nước chứ không phải đối với những nhà đầu tư ngoại quốc mà họ có thể đem lại thịnh vượng cho cá nhân. Đó là sự đánh cược đang được chơi.
Địa Chính trị của Trung Quốc và Vị thế Hiện nay của nó
Đứng về quan điểm chính trị và quân sự mà nói, Trung Quốc đã đạt được những mục tiêu chiến lược của nó. Những vùng đệm không bị hề hấn gì và Trung Quốc chẳng phải đối mặt với đe dọa nào ở lục địa Á–Âu. Nó cho rằng một nỗ lực của Tây phương nhằm đẩy Trung Quốc ra khỏi Tibet là một nỗ lực nhằm phá hoại an ninh quốc gia của Trung Quốc. Đối với Trung Quốc, dẫu vậy, Tibet là một phiền toái nhỏ; Trung Quốc không có ý định nào về chuyện rời Tibet, người Tibet không thể nổi dậy và thành công, và chẳng ai sẽ xâm chiếm vùng này. Tương tự, những người Hồi giáo Uighur đại diện cho cho một phiền toái ở Tân Cương và không là một mối đe dọa trực tiếp. Những người Nga chẳng để tâm đến chuyện này hoặc là có khả năng xâm lược Trung Quốc và Bán đảo Triều Tiên không là một mối đe dọa đối với người Trung Quốc, ít ra không phải là thứ mà họ không thể kham nổi.
Mối đe dọa quân sự lớn nhất đối với Trung Quốc đến từ Hải quân Hoa Kỳ. Người Trung Quốc ngày càng phụ thuộc vào giao thương dựa vào hàng hải và Hải quân Hoa Kỳ ở vào vị thế có thể phong tỏa những cảng của Trung Quốc nếu nó muốn. Giả như Hoa Kỳ làm điều đó, nó sẽ làm tê liệt Trung Quốc. Vì thế điều chú trọng quân sự của Trung Quốc là làm không thể nào có chuyện phong tỏa như thế.
Sẽ mất nhiều thế hệ đối với Trung Quốc để thành lập một hải quân mặt biển có thể cạnh tranh với Hải quân Hoa Kỳ. Chỉ đơn giản huấn luyện phi công hải quân tiến hành những cuộc hành quân dựa vào hàng không mẫu hạm (HKMH) có hiệu quả sẽ mất nhiều chục năm — ít ra là cho đến khi những thực tập sinh này trở thành đô đốc và thuyền trưởng. Và điều này không tính đến thời gian cần để đóng một HKMH và máy bay hoạt động với nó và tinh thông những khúc mắc của những hoạt động của HKMH.
Đối với Trung Quốc, nhiệm vụ chính là đẩy giá thành của cuộc phong tỏa quá cao đến nỗi người Hoa Kỳ sẽ không thi hành nó. Những phương tiện cho việc đó sẽ là những tên lửa chống hạm được phóng từ đất liền hay tàu ngầm. Giải pháp chiến lược đối với Trung Quốc là xây dựng một lực lượng tên lửa phân tán hữu hiệu để tham chiến Hoa Kỳ ở khoảng cách đáng kể, có thể xa đến tận trung tâm Thái Bình Dương.
Lực lượng tên lửa này sẽ phải có thể nhận dạng và theo dõi những mục tiêu tiềm tàng hữu hiệu. Vì thế nếu người Trung Quốc sẽ theo đuổi chiến lược này họ cũng phải phát triển một hệ thống trinh thám biển dựa vào không gian. Những công nghệ này là những điều người Trung Quốc đang tập trung vào. Những tên lửa chống hạm và những hệ thống không gian, kể cả những hệ thống chống vệ tinh được thiết kế để vô hiệu hóa người Hoa Kỳ, cho thấy quân sự của Trung Quốc phản kích chỉ đối với mối đe dọa quân sự đáng kể.
Trung Quốc cũng có thể dùng những tên lửa đó để phong tỏa Đài Loan bằng cách ngăn chặn những tàu đi ra vào khỏi đảo. Thế nhưng người Trung Quốc không có khả năng hải quân để đổ bộ một lực lượng đổ bộ đáng kể và duy trì nó trong địa chiến. Họ cũng không có khả năng để thiết lập ưu thế không quân lên Eo biển Đài Loan. Trung Quốc có thể có khả năng quấy rối Đài Loan nhưng nó sẽ không đổ bộ. Tên lửa, vệ tinh và tàu ngầm tạo thành chiến lược hải quân của Trung Quốc.
Đối với Trung Quốc, vấn đề chính yếu đặt ra bởi Đài Loan là hải quân. Đài Loan được đặt ở vị trí mà nó có thể sẵn sàng được dùng như là căn cứ không quân và hải quân mà có thể cô lập di chuyển đường biển giữa biển Nam Trung Hoa (biển Đông — ND) và biển Đông [của Trung Quốc — ND]. Thật sự là điều này cô lập bờ biển phía bắc của Trung Quốc và Thượng Hải. Khi bạn cân nhắc đến quần đảo Ryukyu mà chúng trải dài từ Đài Loan đến Nhật Bản và tính đến chúng vào những chuyện này, một cường quốc không phải là hải quân có thể phong tỏa bờ biển phía bắc của Trung Quốc nếu nó chiếm giữ Đài Loan.
Đài Loan sẽ không quan trọng đối với Trung Quốc ngoại trừ nó trở nên thù địch hoặc đồng minh với hoặc bị chiếm đóng bởi thế lực thù địch như Hoa Kỳ. Nếu điều đó xảy ra, vị trí địa lý của nó sẽ tạo ra vấn đề cực kỳ nghiêm trọng cho Trung Quốc. Đài Loan cũng là một vấn đề biểu tượng đối với Trung Quốc và là một cách để khích động chủ nghĩa quốc gia. Cho dù Đài Loan không có một mối đe dọa trước mắt nào, nó thật sự mang những nguy hiểm tiềm tàng mà Trung Quốc không thể bỏ qua.
Có một vùng mà Trung Quốc tương đối đang là người bành trướng — Trung Á và đặc biệt là Kazakhstan. Nằm trên con đường tơ lụa về mặt truyền thống, Kazakhstan hiện giờ là một vùng mà có thể sản xuất năng lượng, thứ mà Trung Quốc đang rất cần cho nền công nghiệp. Người Trung Quốc đã rất sốt sắng trong việc phát triển quan hệ thương mại với Kazakhstan và phát triển đường xá vào Kazakhstan. Những con đường này đang mở ra một dòng thương mại cho phép dầu hỏa chảy theo một chiều và sản phẩm công nghiệp chảy theo chiều ngược lại.
Qua việc làm chuyện này, người Trung Quốc đang thách thức tầm ảnh hưởng của Nga ở Liên bang Sô Viết cũ. Người Nga đã dự trù để chấp nhận sự gia tăng hoạt động kinh tế của Trung Quốc trong vùng trong khi lo ngại về việc Trung Quốc trở thành một thế lực chính trị. Kazakhstan đã từng là quốc gia vùng đệm về truyền thống để chống lại sự bành trướng của Trung Quốc đối với nước Nga Châu Âu và nó đã từng nằm dưới ảnh hưởng của Nga. Chúng ta phải chú ý đến khu vực này. Nếu Nga bắt đầu cảm thấy rằng Trung Quốc trở nên quá chủ động ở khu vực này, nó có thể có hành động quân sự đáp trả sức mạnh kinh tế của Trung Quốc.
Về mặt lịch sử mà nói thì những mối quan hệ giữa Trung Quốc và Nga luôn phức tạp. Trước Đệ Nhị Thế Chiến, người Sô Viết đã có nỗ lực thao túng chính trị của Trung Quốc. Sau Đệ Nhị Thế Chiến, mối quan hệ giữa Liên Bang Sô Viết và Trung Quốc chưa bao giờ tốt như một số nghĩ và đôi lúc những mối quan hệ này trở nên thù địch, ví như vào năm 1968, khi quân lính Nga và Trung Quốc giao tranh dọc theo sông Ussuri. Về mặt lịch sử thì người Nga sợ một bước đi của Trung Quốc đi vào những tỉnh vùng biển Thái Bình Dương của họ. Người Trung Quốc sợ một bước đi của người Nga vào Mãn Châu và xa hơn.
Cả hai điều này đã không xảy ra vì những thách đố hậu cần liên quan quá lớn đến nỗi cả hai chẳng hứng thú gì đến việc mạo hiểm tấn công bên kia. Chúng ta sẽ cho rằng sự thận trọng này sẽ chiếm ưu thế trong tình hình hiện nay. Tuy nhiên, sự gia tăng ảnh hưởng của Trung Quốc ở Kazakhstan không phải là chuyện nhỏ đối với người Nga. Họ có thể quyết định không thừa nhận Trung Quốc ở đó. Nếu họ làm chuyện đó và nó trở thành chuyện quan trọng, điểm nhấn quan trọng thứ hai cho cả hai bên sẽ là vùng Thái Bình Dương, bị phức tạp hóa bởi sự lân cận với Triều Tiên.
Thế nhưng những điều này chỉ là những khả năng về lý thuyết. Mối đe dọa của một cuộc phong tỏa bờ biển Trung Quốc của Hoa Kỳ, của việc dùng Đài Loan để cô lập phía bắc Trung Quốc, của việc chiến tranh vì Kazakhstan — tất cả là những khả năng mà người Trung Quốc phải tính đến khi họ hoạch định cho chuyện xấu nhất. Thực tế là Hoa Kỳ không có quan tâm đến chuyện phong tỏa Trung Quốc và người Trung Quốc và người Nga sẽ không leo thang cạnh tranh vì Kazakhstan.
Trung Quốc không có vấn đề địa chính trị về mặt quân sự. Nó đang ở thế mạnh về mặt truyền thống, an ninh về thực tế một khi nó nắm giữ các vùng đệm. Nó đã đạt được ba mục nhu cầu chiến lược. Điểm nhạy cảm nhất vào thời điểm này là nhu cầu [chiến lược] thứ nhất: sự đoàn kết của Hán Trung Hoa. Điều đó không bị đe dọa về quân sự. Đúng ra, điều đe dọa đối với nó là kinh tế.
Những Phương diện Kinh tế của Địa Chính trị Trung Quốc
Vấn đề của Trung Quốc, cội rễ ở địa chính trị, là kinh tế và nó biểu hiện ở hai mặt. Điều đầu tiên là đơn giản. Trung Quốc có một nền kinh tế dựa vào xuất khẩu. Nó ở vị trí phụ thuộc. Không thành vấn đề dự trữ ngoại tệ của nó lớn đến đâu hay công nghệ của nó cao cấp đến mức nào hay lực lượng lao động rẻ đến đâu, Trung Quốc phụ thuộc vào thiện ý và khả năng của các nước khác để nhập khẩu hàng hóa của nó — cũng như khả năng thật sự chuyên chở chúng. Bất cứ sự thay đổi nào của dòng hàng này sẽ có ảnh hưởng trực tiếp lên nền kinh tế của Trung Quốc.
Lý do chủ yếu những nước khác mua hàng Trung Quốc là giá cả. Chúng rẻ vì những chênh lệch tiền lương. Giả như Trung Quốc đánh mất lợi thế đó cho những nước khác hoặc vì những lý do khác, khả năng của nó để xuất khẩu sẽ giảm. Hiện nay, ví dụ vậy, một khi giá năng lượng tăng, giá thành sản xuất tăng và sự quan trọng tương đối của sự chênh lệch tiền lương giảm. Đến một lúc nào đó, khi mà những bạn hàng của Trung Quốc nhận ra nó, giá trị của hàng nhập khẩu Trung Quốc tương đối với giá cả chính trị của việc đóng cửa những nhà máy của họ sẽ thay đổi.
Tất cả những điều này nằm ngoài tầm kiểm soát của Trung Quốc. Trung Quốc không thể kiểm soát giá dầu trên thế giới. Nó có thể dùng dự trữ ngoại tệ để hỗ trợ những giá cả đó cho các nhà sản xuất nhưng điều đó sẽ ngầm chuyển tiền ngược về những quốc gia tiêu thụ. Nó có thể kiểm soát sự gia tăng lương bằng cách áp đặt các hạn chế giá cả nhưng điều đó sẽ gây bất ổn nội bộ. Trọng tâm của Trung Quốc là nó đã trở thành xưởng sản xuất công nghiệp của thế giới, và với tư cách đó, nó hoàn toàn lệ thuộc vào thế giới tiếp tục mua hàng hóa của nó hơn là của người khác.
Có những vấn đề khác đối với Trung Quốc, từ một hệ thống tài chánh rối loạn cho đến đất nông nghiệp bị lấy khỏi canh tác để xây nhà máy. Những điều này đều quan trọng và là một phần của câu chuyện. Thế nhưng ở địa chính trị mà chúng ta tìm kiếm trọng tâm, và đối với Trung Quốc trọng tâm là nó càng trở nên hiệu quả ở xuất khẩu thì nó càng trở thành con tin của những khách hàng của nó. Một số nhà quan sát đã cảnh báo rằng Trung Quốc có thể rút tiền ra khỏi nhà băng của Mỹ. Khó có thể xảy ra nhưng cứ giả sử là như thế. Thế liệu Trung Quốc sẽ làm gì mà không có khách hàng Hoa Kỳ?
Trung Quốc tự đặt mình vào vị trí mà nó phải làm vừa lòng khách hàng. Nó vật lộn với thực tế này hàng ngày nhưng thực tế là phần còn lại của thế giới ít phụ thuộc vào xuất khẩu của Trung Quốc hơn là Trung Quốc phụ thuộc vào phần còn của thế giới.
Điều này đưa chúng ta đến điểm thứ nhì mà còn là phần quan trọng hơn cả của vấn đề kinh tế của Trung Quốc. Nhu cầu địa chính trị đầu tiên của Trung Quốc là bảo đảm sự đoàn kết của Hán Trung Hoa. Điểm thứ ba là bảo vệ bờ biển. Đánh cược của Đặng rằng là ông ta có thể mở cửa bờ biển mà không gây xáo trộn sự đoàn kết của Hán Trung Hoa. Điểm thứ ba là bảo vệ bờ biển. Đánh cược của Đặng rằng là ông ta có thể mở cửa bờ biển mà không gây xáo trộn sự đoàn kết của Hán Trung Hoa. Cũng như ở thế kỷ 19, vùng duyên hải trở nên giàu có. Vùng nội địa vẫn vô cùng nghèo khó. Vùng duyên hải dính mắc sâu đậm vào kinh tế toàn cầu. Vùng nội địa thì không. Bắc Kinh một lần nữa cân bằng giữa vùng duyên hải và nội địa.
Những lợi ích của vùng duyên hải và những lợi ích của các nhà nhập khẩu và cách nhà đầu tư là gắn bó mật thiết lẫn nhau. Lợi ích của Bắc Kinh là ở việc duy trì ổn định nội bộ. Một khi những áp lực gia tăng, nó sẽ tìm cách gia tăng sự kiểm soát của nó về đời sống chính trị và kinh tế của vùng duyên hải. Lợi ích của vùng duyên hải là nắm giữ lấy tiền của nó. Bắc Kinh sẽ tìm cách thỏa mãn cả hai mà không để Trung Quốc tan vỡ và không phải đi đến những phương pháp tận diệt của Mao. Thế nhưng tình hình kinh tế càng xấu đi của thế giới càng làm nhu cầu ít đi cho hàng hóa của Trung Quốc và ít không gian cho Trung Quốc để xoay xở.
Phần thứ hai của vấn đề thoát thai từ phần thứ nhất. Giả sử rằng kinh tế thế giới bây giờ không suy thoái, nó sẽ vào một lúc nào đó. Khi nó suy thoái, và xuất khẩu của Trung Quốc sẽ giảm đáng kể, Bắc Kinh sẽ phải cân đối giữa nội địa thèm khát tiền và vùng duyên hải bị thiệt hại trầm trọng. Điều quan trọng để nhớ là khoảng 900 triệu người Trung Quốc sống ở nội địa trong khi chỉ khoảng 400 triệu sống ở vùng duyên hải. Khi nói đến chuyện cân bằng quyền lực, vùng nội địa là mối đe dọa thiết thực đối với chính quyền trong khi vùng duyên hải gây bất ổn định trong phân bố của cải. Vùng nội địa có lợi thế đám đông. Vùng duyên hải có lợi thế hệ thống thương mại toàn cầu. Các hoàng đế đã vấp ngã vì những thứ nhỏ hơn.
Kết luận
Địa chính trị được dựa vào địa lý và chính trị. Chính trị được xây dựng trên hai nền tảng: quân sự và kinh tế. Hai thứ tương tác và ủng hộ lẫn nhau nhưng hoàn toàn khác biệt. Đối với Trung Quốc, nắm giữ lấy những vùng đệm nói chung loại trừ những vấn đề quân sự. Những vấn đề còn lại đối với Trung Quốc là những vấn đề dài hạn dính líu đến đông bắc Mãn Châu và sự cân bằng quyền lực ở Thái Bình Dương.
Vấn đề địa chính trị của Trung Quốc là kinh tế. Nhu cầu địa chính trị thứ nhất của nó, duy trì sự đoàn kết của Hán Trung Hoa, và cái thứ ba, bảo vệ bờ biển, cả hai đều bị ảnh hưởng sâu đậm bởi những lý do kinh tế hơn là quân sự. Những vấn đề chính trị đối nội và đối ngoại từ kinh tế mà ra. Sự phát triển kinh tế vượt bậc của thế hệ vừa qua là không ngừng do địa lý. Sự phát triển đã mang lại lợi ích cho vùng duyên hải và bỏ rơi vùng nội địa phía sau — đa số của Trung Quốc. Nó cũng làm cho Trung Quốc nhạy cảm đối với các thế lực kinh tế thế giới mà nó không thể kiểm soát và không thể giúp đỡ. Điều này không mới mẻ gì trong lịch sử Trung Quốc thế nhưng giải pháp thông thường của nó là ở chủ nghĩa địa phương và sự suy yếu của chính quyền trung ương. Trò đánh cược của Đặng đang được chơi bởi những người kế nhiệm của ông ta. Ông ta đã chia bài. Họ phải chơi nó.
Câu hỏi đặt ra là liệu cơ sở kinh tế của Trung Quốc có là một nền tảng hay là một sự cân bằng. Nếu đó là thứ đầu tiên, nó có thể tồn tại lâu dài. Nếu nó là điều sau, mọi thứ rút cục sẽ đổ vỡ. Có vẻ như có ít bằng chứng là nó là một nền tảng. Nó loại trừ hầu hết người Trung Quốc khỏi cuộc chơi, những người kiếm ít hơn $100 mỗi tháng. Đó là một sự cân bằng và nó đe dọa nhu cầu địa chính trị thứ nhất của Trung Quốc: gìn giữ sự đoàn kết của Hán Trung Hoa.
(*): isohyet, đường trên bản đồ của những vùng có chung cùng một lượng mưa hàng năm — ND.