Thứ Hai, 18 tháng 6, 2012

Doanh nghiệp thoi thóp, ngân hàng lãi khủng

Chắc chắn nhiều người sẽ bị “sốc”nặng nếu nhìn vào bảng kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và ngân hàng thương mại năm 2011 và bốn tháng đầu năm 2012, trong đó doanh nghiệp đang lỗ nặng còn lợi nhuận của 71 ngân hàng vẫn tăng mạnh.

Đây chính là điều bất thường của nền kinh tế, nhiều chuyên gia cho rằng cần phải thay đổi cơ chế vận hành hiện nay...

 

Lãi 97.000 tỉ đồng

 

Dựa trên số liệu quản lý thuế của các doanh nghiệp thuộc 63 cục thuế, căn cứ trên 256.000 tờ khai thuế thu nhập doanh nghiệp, theo Tổng cục Thuế, tổng doanh thu của các doanh nghiệp là 7,5 triệu tỉ đồng, tuy nhiên tổng chi phí (gồm cả chi phí mua nguyên vật liệu, nhân công...) đã lên tới 7,2 triệu tỉ đồng (chiếm 97% doanh thu). Đáng lưu ý, trong tổng chi phí trên, riêng chi phí trả lãi vay đã lên tới 466.000 tỉ đồng.

 

Điều đáng nói là tỉ lệ nghịch với chi phí của các doanh nghiệp nêu trên, qua tổng hợp số liệu của 71 ngân hàng thương mại, Tổng cục Thuế khẳng định thu nhập của các ngân hàng đã tăng rất... khủng.

 

"Tôi đi thẩm định thấy mức chênh lệch giữa lãi suất huy động và cho vay chỉ 2,5-2,6% ngân hàng đã sống tốt rồi, nay mức chênh đến hơn 3% thì quá mức"

 

Ông Nguyễn Đại Lai (nguyên phó vụ trưởng Vụ Chiến lược phát triển ngân hàng - Ngân hàng Nhà nước)

Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh (chưa trừ trích lập dự phòng rủi ro) năm 2011 lên tới trên 97.000 tỉ đồng, tăng gần 45% so với năm 2010. Ngay cả khi đã trích lập dự phòng, tốc độ tăng lợi nhuận cũng lên đến gần 30%.

 

Đặc biệt, trong quý 1-2012, theo Tổng cục Thuế, khi có tới 70% trong tổng số 258.000 doanh nghiệp khảo sát thua lỗ, với số lỗ lên tới trên 40.000 tỉ đồng, thì các ngân hàng vẫn theo xu hướng lãi. “Về cơ bản, các ngân hàng đều vẫn có doanh thu từ hoạt động kinh doanh tín dụng với xu thế tăng cả về quy mô và tỉ lệ” - Tổng cục Thuế khẳng định.

 

Cao như lương... ngân hàng

 

Cùng với mức thu nhập tăng, thông tin từ cơ quan thuế cho biết trong khi kinh tế khó khăn, cắt giảm chi tiêu thì chi phí hoạt động của các ngân hàng thương mại vẫn tăng đột biến, từ 54.000 tỉ năm 2010 tăng thêm tới trên 76.000 tỉ năm 2011. Trong đó, chi phí tiền lương của ngân hàng tăng rất nhanh. Cụ thể, theo Vụ Quản lý thuế doanh nghiệp lớn, thu nhập bình quân đầu người trong ngân hàng đã tăng từ 7 triệu đồng/người/tháng năm 2007 lên 15-21 triệu đồng/người/tháng năm 2011, gấp 2-3 lần mức lương bình quân toàn nền kinh tế. “Nguyên nhân chủ yếu do cơ chế chính sách tín dụng giúp các ngân hàng có mức lãi lớn thời gian qua” - cơ quan thuế nhấn mạnh.

 

Các ngân hàng đã hạch toán chi phí tiền lương vào chi phí hợp lệ, chiếm tới 55-60% chi phí hoạt động tài chính, góp phần giúp các ngân hàng giảm thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp (trong khi các doanh nghiệp khác năm 2011 phải dành 80% chi phí tài chính để trả lãi vay). Do đó, “kiến nghị với Ngân hàng nhà nước có những quy định chặt chẽ hơn về tiền lương, cần thiết có sự khống chế ở mức hợp lý đối với lương được hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh nhằm tạo bình đẳng cho các thành phần kinh tế và tránh thất thu ngân sách nhà nước” - cơ quan thuế kiến nghị.

Chênh lệch huy động và cho vay: 3,5-4,5%

 

Hầu hết lợi nhuận của ngân hàng đến từ lãi cho vay thu được từ doanh nghiệp. Chênh lệch giữa lãi suất ngân hàng huy động của dân và cho doanh nghiệp vay đã lên tới 3,5-4,5%. Trước thực trạng doanh nghiệp lỗ, khó khăn trên diện rộng trong khi các ngân hàng lãi lớn, trong báo cáo, Vụ Quản lý thuế doanh nghiệp lớn, Tổng cục Thuế kiến nghị để kiểm soát tăng trưởng tín dụng, kiềm chế lạm phát, Ngân hàng Nhà nước cần đảm bảo biện pháp giảm lãi suất đi vay và đem cho vay của các ngân hàng từ mức 3,5-4,5% hiện tại xuống mức 2,2-2,5%.

 

Theo một quan chức Bộ Tài chính, một trong những nguyên nhân các ngân hàng phải đưa mức chênh lệch giữa lãi suất huy động và lãi suất cho vay cao là vì nợ xấu. Tuy nhiên, nghịch lý ở chỗ khi các ngân hàng năng lực kém hoặc có “vấn đề” khi cho vay khiến phát sinh nợ xấu, phải trích quỹ dự phòng thì họ sẽ tính tất cả rủi ro đó vào chi phí kinh doanh. Các ngân hàng từ đó sẽ buộc phải đẩy mức lãi suất cao lên và bắt tất cả các doanh nghiệp phải chịu. Như vậy là từ cái yếu kém của vài doanh nghiệp mà tất cả nền kinh tế phải chịu chung mức lãi suất cao.

 

TS Nguyễn Đại Lai,  nguyên phó vụ trưởng Vụ Chiến lược phát triển ngân hàng (Ngân hàng Nhà nước), là người từng đi thẩm định chi phí của các ngân hàng thương mại những năm trước đây - cho rằng cần áp dụng mức chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động theo một cách “có đạo lý” hơn. Theo ông Lai, các ngân hàng có thể đã làm vênh các con số để đưa mức dự phòng rủi ro lên cao, đẩy lãi suất lên, trong khi nếu quản trị tốt nguồn vốn đã có thể giảm rủi ro. Cụ thể, ông Lai cho biết các ngân hàng luôn có dòng tiền về phục vụ thanh toán giữa các doanh nghiệp. Nguồn tiền này gần như không thời hạn, lãi suất gần như không có. “Vì vậy các ngân hàng VN cần tính toán để giảm chi phí, giảm lãi suất”-  ông Lai đề nghị.

 

XUÂN TOÀN - CẦM VĂN KÌNH

 

Lãi lớn nhờ nợ cũ lãi cao

 

Mặc dù tín dụng tăng trưởng âm, nguồn thu từ dịch vụ hạn chế nhưng lợi nhuận của các ngân hàng (NH) vẫn tăng cao so với cùng kỳ năm 2011.

 

Các NH thương mại có vốn nhà nước chi phối như Vietinbank, Vietcombank đều bị giảm dư nợ tín dụng với mức giảm lần lượt là -0,64% và -0,57% trong quý 1, tuy nhiên lợi nhuận của Vietinbank tăng trưởng đến 60%. Theo các NH, nguồn thu chính trong tổng lợi nhuận chủ yếu đến từ hoạt động cho vay. Ông Lê Đức Thọ, phó tổng giám đốc Vietinbank, cho biết nguồn thu từ hoạt động cho vay chiếm khoảng 70% tổng lợi nhuận, 30% còn lại đến từ các nguồn khác.

 

Phó tổng giám đốc một NH cổ phần tại quận 1, TP.HCM xác nhận cơ chế thỏa thuận lãi suất (LS) cho vay trong khi giới hạn trần LS huy động cũng mang lại lợi thế cho các NH. Thời gian qua, trần LS huy động giảm rất nhanh, trong khi LS cho vay vẫn bị ràng buộc bởi chu kỳ thay đổi LS cũng như các điều khoản trong hợp đồng ký kết với khách hàng. Do vậy, NH có điều kiện duy trì LS cho vay cao trong thời gian lâu hơn. Chưa kể, dù tăng trưởng tín dụng âm tuy nhiên các NH vẫn có nguồn thu từ các hợp đồng cho vay cũ. Đặc biệt việc trì hoãn hoặc giảm không đáng kể LS cho các hợp đồng vay cũ cũng mang lại lợi nhuận không nhỏ cho các NH.

 

Theo vị phó tổng giám đốc này, hiện nay những NH cổ phần lớn, có dịch vụ tốt thì nguồn thu từ tín dụng vẫn chiếm trên 60%, những NH quy mô trung bình nguồn thu từ tín dụng từ 70-75%, còn những NH cổ phần mới thành lập, NH từ nông thôn lên đô thị, nguồn thu từ lãi vay chiếm 90-95%. Ngay cả NH lớn như Eximbank, lợi nhuận từ các hoạt động dịch vụ, kinh doanh ngoại hối, đầu tư chứng khoán, thu nhập góp vốn mua cổ phần trong quý 1 đều giảm mạnh so với cùng kỳ năm 2011 do tình hình kinh tế khó khăn, doanh nghiệp có xu hướng hạn chế sử dụng các dịch vụ của NH để có thể tiết kiệm các chi phí đầu vào.

 

Theo một chuyên gia kinh tế cấp cao, nghịch lý tăng dư nợ thấp, nguồn thu từ tín dụng lại cao cho thấy tỉ lệ lãi biên tại các NH rất cao. Trong điều kiện hiện nay, việc NH Nhà nước giới hạn trần LS đầu vào trong khi lại thả nổi LS đầu ra là cơ hội vàng giúp các NH có lãi lớn.

 

Điều này có thể minh chứng từ số liệu thống kê mới đây của NH Nhà nước TP.HCM. Theo thống kê của NH Nhà nước TP.HCM, tính đến ngày 29-5, tức gần một tháng triển khai áp trần lãi vay, chỉ có 650 doanh nghiệp tiếp cận được vốn ưu đãi với tổng dư nợ gần 7.000 tỉ đồng. Trao đổi với Tuổi Trẻ, ông Nguyễn Hoàng Minh, phó giám đốc NH Nhà nước TP.HCM, cho biết đến nay một số lĩnh vực vẫn phải vay theo LS thỏa thuận lên đến 17,5-18%/năm.

 

Tuy nhiên, theo các NH, ngoài yếu tố nguồn thu từ tín dụng còn có nguyên nhân khác ảnh hưởng đến lợi nhuận của các NH chính là cách thức mà các NH thương mại trích dự phòng rủi ro tín dụng. Với việc nhiều NH giảm trích lập dự phòng hoặc trích lập dự phòng chưa đầy đủ, thì mức lợi nhuận có được sẽ ở mức cao hơn nhiều so với mức lợi nhuận nếu trích lập đầy đủ. Chưa kể, nhiều NH báo lãi cao nhưng nếu trích lập dự phòng rủi ro đầy đủ thì gần như lợi nhuận không còn.

 

ÁNH HỒNG

 

Còng lưng trả lãi ngân hàng

 

Sản xuất giấy vệ sinh cao cấp tại Nhà máy giấy Sài Gòn - Mỹ Xuân trong Khu công nghiệp Mỹ Xuân A, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu - Ảnh: THANH ĐẠM

 

Đầu tư đến 2.000 tỉ đồng cho dự án Nhà máy giấy Mỹ Xuân 2 vào thời điểm năm 2007, hiện Công ty cổ phần Giấy Sài Gòn vẫn đang trong quá trình trả nợ với số lãi phải trả năm sau cao hơn năm trước. Ông Cao Tiến Vị, chủ tịch HĐQT, cho biết nếu như năm 2009 số lãi phải trả xấp xỉ 45 tỉ đồng thì năm 2010 nhảy vọt lên 60 tỉ đồng, năm 2011 là 80 tỉ đồng và dự kiến năm 2012 là 200 tỉ đồng. “Ba năm nay, mở mắt ra tôi phải tìm đủ mọi cách để trả lãi vay ngân hàng, khi mà lãi suất từ 12%/năm đã vọt lên ngoài 22%/năm, thậm chí có thời điểm tôi đã phải trả khoản lãi vay với mức 24%/năm” - ông Vị nói. Để có tiền trả lãi cho dự án thứ hai này, toàn bộ lợi nhuận của nhà máy hiện tại đều “đổ hết” vào đây.

 

Ông Nguyễn Phúc, giám đốc Công ty TNHH may mặc Coxmo (TP.HCM), cho biết ông vừa vay 1,5 tỉ đồng chuẩn bị nhập nguyên liệu cho đợt hàng sản xuất mới với lãi suất 18%/năm. Theo ông Phúc, dù đáp ứng đầy đủ tiêu chí vừa và nhỏ, nhưng các ngân hàng vẫn không thể giải quyết cho ông mức lãi suất 14%/năm như yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước. “Họ nói sẽ giải quyết cho tôi mức lãi suất 14%/năm với điều kiện ngoài phần lãi gốc hằng tháng phải trả, lãi suất tôi vẫn phải trả 14%/năm trên tổng mức đã vay, bất kể tôi có trả bớt lãi gốc hàng bao nhiêu tháng đi chăng nữa. Tính toán kiểu này, thà tôi chịu mức lãi suất 18%/năm còn hơn!” - ông Phúc ngao ngán nói. Theo tính toán của ông Phúc, năm ngoái chỉ tính riêng tiền lãi ông phải trả cho các khoản vay tròm trèm 1 tỉ đồng. Dự kiến năm 2012 số lãi phải trả tầm 600-700 triệu đồng, “không phải vì lãi suất hạ mà vì tôi đã vay ít lại. Nói thật tiền lời làm ra cũng không đủ trả tiền lãi nên vay nhiều càng... khổ. Nhưng không vay thì không được” - ông Phúc nói.

 

Cũng chịu cảnh “mở mắt ra chưa làm gì phải tính tiền trả lãi vay ngân hàng”, ông L.M., phụ trách tài chính Công ty TNHH HB hoạt động trong lĩnh vực sản xuất kính xây dựng (Q.5, TP.HCM), cho rằng dù lãi suất cho vay hiện tại có hạ, còn 17%/năm thay vì 20%/năm như công ty ông vay cách đây vài tháng, nhưng mức lãi suất như vậy vẫn là quá cao so với sức chịu đựng của doanh nghiệp. Với số vốn lưu động cần phải vay khoảng 20 tỉ đồng với lãi suất 17%/năm, ông M. tính sơ sơ mỗi tháng tiền lãi ông phải trả khoảng 400 triệu đồng, bất kể tháng đó lượng hàng bán ra có tốt hay không. Năm ngoái, ước tổng tiền lãi vay ngân hàng mà công ty ông phải trả trên 7 tỉ đồng. “Năm 2012 tổng tiền lãi phải trả chắc khoảng 5 tỉ đồng vì chúng tôi đã siết lại các khoản vay, chỉ vay những khoản thật cần thiết.

 

Theo ông Đỗ Duy Thái - tổng giám đốc Công ty cổ phần Thép Việt (Pomina), những doanh nghiệp đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp nặng như Pomina “tiền trả lãi cho ngân hàng luôn ám ảnh không ngừng!”. Theo ông Thái, chỉ tính sơ tiền lãi phải trả cho các khoản vay cố định (đầu tư dây chuyền thứ hai sản xuất thép) hay các khoản vay lưu động mất đứt xấp xỉ 2 tỉ đồng/ngày. “Lúc nào đầu tôi cũng phải căng ra để tính toán sao cho bài toán kinh doanh đạt mức hiệu quả cao nhất. Vì nếu không, làm sao có đủ để trả lãi vay khi mà các dự án đầu tư đều ở trong trạng thái không thể dừng lại được” - ông Thái chia sẻ.

 

Tương tự, ông Nguyễn Tôn Quyền, phó chủ tịch Hiệp hội Gỗ và lâm sản VN, cho biết hầu hết các doanh nghiệp bị tồn kho, có nơi tồn kho 30-40% mà phải chịu lãi suất cao đã khiến nhiều khoản vay ngân hàng tự nhiên trở thành nợ xấu. Chính mức lãi suất cao của ngân hàng đã khiến nhiều doanh nghiệp đáng ra có lãi, có thể trả nợ đã trở nên lỗ, không thể trả nổi. “Nếu lãi suất chỉ 14-15% họ có thể hòa hoặc lãi chút ít, phát triển sản xuất” - ông Quyền nói.

 

T.V.N. - C.V.K.

 

Doanh nghiệp thoi thóp, ngân hàng lãi khủng

 

@ -Đại gia tung hoành, lách luật trên ‘chợ' chứng khoán VEF - Hình thức quản lý lỏng lẻo, tính minh bạch thấp, mức xử phạt vi phạm quá nhẹ… đang khiến TTCK trở thành cái chợ đêm cho các đại gia thỏa sức hoành hành, lách luật, ngang nhiên qua mặt cơ quan quản lý.

Dễ như mua gom, bán tháo cổ phiếu

Chỉ vài ngày sau khi bị phạt do bí mật mua gom cổ phiếu và trở thành cổ đông lớn của Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín (Sacombank - mã STB), các đại gia lại bất ngờ bán cổ phiếu không báo cáo và sẵn sàng chờ cơ quan quản lý phạt 1 lần nữa.

Sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh (HoSE) hôm 12/6 vừa có thông báo về việc vi phạm công bố thông tin của các cổ đông lớn của Sacombank.

Theo đó, CTCP Đầu tư Tài chính Sài Gòn Á Châu đã bán 900.000 cổ phiếu STB, giảm lượng cổ phiếu nắm giữ xuống 47,88 triệu đơn vị (chỉ còn chiếm tỷ lệ 4,92% số lượng cổ phiếu lưu hành). Công ty này đã không công bố thông tin và báo cáo về thay đổi sở hữu của cổ đông lớn.

Cũng cùng thời gian này, ông Trần Phát Minh cũng đã bán ra 876.000 cổ phiếu STB, giảm lượng cổ phiếu nắm giữ xuống 48,12 triệu đơn vị (chỉ còn chiếm tỷ lệ 4,94% số lượng cổ phiếu lưu hành). Với tỷ lệ nắm giữ này, ông Minh cũng không còn là cổ đông lớn của STB nhưng không công bố thông tin và báo cáo về thay đổi sở hữu của cổ đông lớn.

 

Với việc nắm giữ dưới 5% sau vụ bán chui nói trên thì 2 nhà đầu tư này có thể bán hết lượng cổ phiếu đang nắm giữ mà không phải công bố nữa. Điều này đồng nghĩa với việc số lượng cổ phiếu 2 nhà đầu tư này có thể về 0 bất cứ lúc nào mà chẳng ai hay biết.

Chỉ vài ngày trước đó, Ủy ban chứng khoán Nhà nước (UBCK) đã có thông báo xử phạt CTCP Đầu tư Sài Gòn Exim, CTCP Đầu tư Tài chính Sài Gòn Á Châu và ông Trần Phát Minh vì việc trở thành cổ đông lớn nắm từ 5% lượng cổ phiếu đang lưu hành trở lên của Sacombank nhưng không công bố thông tin theo quy định. Đây là những cổ đông nằm trong liên minh Exim Bank - Phương Nam Bank thâu tóm Sacombank thời gian vừa qua.

Vụ việc xử phạt đối với 3 cổ đông "mua chui" cổ phiếu STB chưa hết nóng bởi mức độ xử phạt nhẹ (60 triệu đồng/tổ chức, cá nhân), thời gian xử lý chậm trễ (vài ba tháng) và được coi là không công bằng với Sacombank, thì các cổ đông này lại bất ngờ âm thầm thoái vốn không công bố trước sự ngỡ ngàng của giới đầu tư.

Một loạt câu hỏi được đặt ra là: Vai trò của các cơ quan quản lý ở đâu khi mà các cổ đông lớn trắng trợn vi phạm các quy định? Tại sao những sai phạm lớn như vậy mà không được phát hiện ngay để ngăn chặn? Khi phát hiện vì sao lại xử lý quá chậm? Cơ quan quản lý có dung túng cho hành vi nói trên hay không? Và liệu đây có phải là một trò chơi chứng khoán ảo để thâu tóm Sacombank hay không?...

Trước đó, giới đầu tư cũng khá phẫn nỗ với những vụ mua bán chui của các cổ đông lớn làm ảnh hưởng tới quyền lợi của đa số các cổ đông nhỏ.

Cuối tháng 3/2012, UBCK đã xử phạt ông Đinh Hồng Long - Chủ tịch Hội đồng Quản trị Công ty Cổ phần Đầu tư Tổng hợp Hà Nội (mã SHN - HNX) 40 triệu đồng vì bán chui cổ phiếu. Theo đó, ông Long đã bán 200.000 cổ phiếu SHN trước khi đăng ký bán.

Nhiều cổ đông của SHN đã rất bức xúc về việc ông long bán cổ phiếu chui và đặt câu hỏi về trách nhiệm của lãnh đạo công ty trong việc hợp tác với Beta BQP dẫn tới việc có khả năng mất trắng gần 350 tỷ đồng.

Tính trong năm 2011, ông Long đã bán khoảng gần 1,4 triệu cổ phiếu SHN và rút tỷ lệ nắm giữ xuống chỉ còn khoảng 1%. Trong khoảng thời gian đó cho tới cuối tháng 5/2012, cổ phiếu này đã giảm từ trên 20.000 đồng/cp xuống 1.600 đồng/cp.

Trước đó, một loạt các cá nhân và tổ chức khác đã vi phạm về công bố thông tin như: Công ty quản lý quỹ Hữu Nghị bị phạt 85 triệu do chuyển nhượng cổ phần vốn góp từ 10% trở lên trên vốn điều lệ khi chưa được chấp thuận; ông Nguyễn Văn Mạnh, cổ đông lớn của Công ty Cổ phần Xuất nhập Khẩu Khánh Hội (KHA) mua 264.940 cổ phiếu KHA từ 14/2/2011 đến 8/3/2011, nhưng không báo cáo về thay đổi sở hữu cổ đông lớn; ông Hoàng Duy Anh - Kế toán trưởng Công ty Cổ phần Hàng hải Hà Nội (mã MHC) bán 100.000 cổ phiếu MHC không công bố thông tin; Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc và một thành viên trong Ban quản trị đã mua tổng cộng hơn 240.000 cổ phiếu TV1 nhưng không công bố thông tin…

Gần đây nhất, Ngân hàng Sacombank đã mua 1.041.500 cổ phiếu SPM vào ngày 5/3/2012 và trở thành cổ đông lớn của Công ty Cổ phần SPM (mã SPM) nhưng chậm báo cáo về sở hữu của cổ đông lớn; ông Phan Hoàng Tuấn, cổ đông lớn Công ty Cổ phần Xây dựng và Phát triển Đô thị tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (mã UDC) đã bán 120.000 cổ phiếu UDC vào ngày 21/5/2012 trước khi HOSE công bố thông tin đăng ký giao dịch.

Tất cả các trường hợp này đều bị xử lý nhưng mức phạt quá nhẹ và dường như những đối tượng này sẵn sàng chấp nhận.

Quản lý kém hay mở cửa cho qua?

Trong một động thái mới nhất, Bộ trưởng Tài chính Vương Đình Huệ cho biết, đã yêu cầu UBCK phải báo cáo Bộ Tài chính trong thời gian sớm nhất về những vấn đề báo chí đã nêu và sẽ xử lý nghiêm nếu có những sai phạm trong mua gom cổ phiếu và phản ứng chậm của cơ quan quản lý nhà nước.

Đây có lẽ là thông tin được các nhà đầu tư mong đợi. Theo nhiều nhà đầu tư, hiện tượng mua bán chui đã diễn ra rất phổ biến trên diện rộng từ nhiều năm qua và gây ra rất nhiều bức xúc nhưng vẫn chưa được các các cơ quan chức năng quan tâm đúng mức.

Vụ việc mua bán chui cổ phiếu Sacombank vừa qua có thể nói đã đẩy vấn đề này lên đến cao trào. Nó cho thấy một sự lộng hành tới mức coi thường các quy định của pháp luật. Dường như đang có những nhóm đối tượng có sức mạnh chi phối thị trường. Sự công bằng đã không được thực thi và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc giám sát thông tin, đảm bảo quyền lợi cho các cổ đông đa số dường như đã không được nhìn nhận ở trong trường hợp này.

 

 

Theo giải thích của thanh tra UBCK, việc xử lý các đối tượng vi phạm chậm trễ (nửa tháng sau khi kết thúc thương vụ thâu tóm mới công bố xử phạt) là do không mời được đối tượng lên làm việc và lập biên bản vi phạm hành chính. Trường hợp Sacombank là đến ngày 29/5 họ mới ký biên bản.

Điều mà nhiều người quan tâm là trong một khoảng thời gian dài vài ba tháng các đối tượng này thực hiện mua gom để thâu tóm và đấu khẩu ầm ĩ trên các phương tiện đại chúng, các cơ quan quản lý và điều hành thị trường chứng khoán đã không hề lên tiếng cho dù về lý thuyết hệ thống cho phép quản lý chính xác từng giao dịch nhỏ.

Nhiều nhà đầu tư thậm chí còn cho rằng, vụ thâu tóm đã có kịch bản trước. Không phải ngẫu nhiên mà các tổ chức ngân hàng lớn mua chui STB để thâu tóm và rồi lại bán chui khi thương vụ M&A đã xong. Theo họ, đây có lẽ là một kiểu chơi chứng ảo nổi tiếng ở thị trường Việt Nam.

Hiện tại, các mức phạt tiền đối với các hành vi vi phạm trên TTCK còn quá thấp. Mức phạt đối với với hành vi thao túng giá chứng khoán, giao dịch nội bộ tối đa là 300 triệu đồng; đối với hành vi công bố thông tin sai lệch, che giấu thông tin, mức phạt cao nhất là 500 triệu đồng. Trên thực tế, những hành vi vi phạm như những vi dụ nêu trên chỉ vài ba chục triệu đồng. Con số này quá nhỏ so với mức lời mà các đối tượng vi phạm thu được.

Nhiều nhà đầu tư cho rằng, với hành vi sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán, đặc trưng của tội phạm này là cố tình, nhằm thu được khoản lợi lớn hoặc tránh được khoản lỗ lớn cần truy cứu trách nhiệm hình sự.

Trên TTCK, sau khi tăng một mạch từ khoảng 11.000 đồng/cp vào hồi giữa năm 2011 - khi có những hiện tượng thâu tóm đầu tiền, lên 26.000 đồng/cp (trong khoảng cuối tháng 4 và tháng 5), cổ phiếu STB đã giảm mạnh gần đây và hiện đang được giao dịch ở mức 21.500 đồng/cp.

 

@ -Đại gia tung hoành, lách luật trên ‘chợ' chứng khoán

Tổng số lượt xem trang