Thứ Ba, 10 tháng 7, 2012

Cái kết cho “công ty mua bán nợ quốc gia”

-Phải chăng số phận của mô hình công ty mua bán nợ quốc gia đã chính thức được kết thúc từ khi nó còn chưa ra đời?

 

Không chờ thành lập công ty mua bán nợ!

Có những cái kết đã được hiện thực hóa ngay từ khi chủ thể của nó chưa thành hình thành khối. “Công ty mua bán nợ quốc gia” là một minh họa cho logic phản chiều này. Không phải tất cả, nhưng những gì xa rời với quyền lợi nhân dân đều có thể nhận một kết thúc tương tự.

Vào ngày 4/7/2012, trong một hội nghị toàn ngành với sự tham dự của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, lãnh đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã yêu cầu ngành ngân hàng làm rõ thực chất nợ xấu và xem xét xử lý ngay nợ xấu bằng nguồn dự phòng rủi ro, mà không chờ thành lập công ty mua bán nợ.

Một ngày trước đó, trong buổi họp báo thường kỳ của Chính phủ, vấn đề công ty mua bán nợ quốc gia đã lần đầu tiên được một quan chức có trách nhiệm - Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Vũ Đức Đam - xác nhận thế chân đứng thiếu cơ sở của nó. Ông Đam tỏ ra hoài nghi về gốc gác của con số 100.000 tỷ đồng, và cho rằng có thể đã có “một sự nhầm lẫn nào đó”.
“Sự nhầm lẫn” trên lại khởi phát từ ý tưởng gây tranh cãi diện rộng của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình. Ý tưởng thành lập một công ty mua bán nợ có tầm vóc quốc gia với số vốn điều lệ lên đến 100.000 tỷ đồng đã được ông Bình nêu ra trước kỳ họp Quốc hội vào trung tuần tháng 6/2012.

Ý tưởng này cũng có thể được Ngân hàng Nhà nước xúc tiến hiện thực hóa bằng một đề án trình Chính phủ nhằm giải quyết tỷ lệ nợ xấu lên đến 10% trong khối ngân hàng - một số liệu hoàn toàn bất ngờ mà lần đầu tiên, tính từ phiên họp Quốc hội vào tháng 11/2011, người chịu trách nhiệm điều hành tín dụng của Ngân hàng Nhà nước mới thừa nhận.

Cũng cần lược lại phản ứng của dư luận.

 

Ngay sau khi xuất hiện dề xuất về công ty mua bán nợ quốc gia của Thống đốc Nguyễn Văn Bình, rất nhiều ý kiến của giới chuyên gia, người dân, báo chí và cả quan chức đã phản bác khá gay gắt.

 

“Cứu ai và cứu để làm gì?” là chủ đề chính trong nhiều phản bác như thế. Nếu trong lĩnh vực bất động sản, vào tháng 4/2012, Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Trần Nam đã nói thẳng việc Nhà nước có chủ trương mua lại nhà chung cư là nhằm cứu giới chủ ngân hàng đang bị tồn kho quá nhiều căn hộ cao cấp, thì nhiều vấn đề riêng tư của khối ngân hàng cũng từ đó mà lộ ra.

Cũng bởi, nếu doanh nghiệp bất động sản là một nạn nhân của ngân hàng thì nền kinh tế và doanh nghiệp các ngành nghề khác còn bị xem là “con tin” của những người nắm giữ yết hầu tín dụng quốc gia.

Từ tháng 8/2011 khi Chính phủ mới được thành lập, một điều hết sức đáng lo ngại là phần lớn động thái của Ngân hàng Nhà nước đã chỉ phục vụ cho lợi ích của nhóm các ngân hàng thương mại. Người ta có thể nhận ra logic thuần thục này qua nhiều dẫn chứng từ nạn đầu cơ vàng, hoạt động thâu tóm ngân hàng - bằng hai công cụ lãi suất cho vay và thanh khoản.

Thực trạng giá vàng trong nước luôn chênh cao từ 2-3 triệu đồng/lượng so với giá vàng thế giới, hay những cái tên như Phương Nam, Sài Gòn Thương Tín đã trở thành những minh họa tiêu biểu nhất, mang tính quyết định cho dư luận từ trạng thái hoài nghi lợi ích nhóm vào năm ngoái sang một kết luận cụ thể về nhóm lợi ích vào năm nay.

Cũng đã hiện diện quá nhiều phản ứng và phản bác của dư luận về hành vi không chỉ là hiện tượng như trên. Song như thường lệ, mọi việc vẫn không dẫn đến một kết thúc có hậu nào.

Trong khi đó, nhóm lợi ích ngân hàng vẫn ung dung với kế hoạch và tiến trình thâu tóm, thao túng tín dụng và đẩy nền kinh tế vào thế bế tắc, doanh nghiệp phá sản và người lao động phải ra đường.

Tại sao ngân hàng lại “thích” bán nợ xấu?

Không phải ngẫu nhiên mà chỉ mới gần đây, một báo cáo của Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia đã “tiết lộ” con số dư nợ cho vay bất động sản thực chất lên đến 348.000 tỷ đồng, gấp 1,8 lần so với con số báo cáo của các ngân hàng thương mại là gần 200.000 tỷ đồng vào cuối năm 2011. Số nợ xấu bất động sản cũng theo đó mà tăng gấp 8 lần so với số công bố của khối ngân hàng.

Cũng cần nói thêm, trong một báo cáo trước kỳ họp Quốc hội vào tháng 11/2011, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước NguyễnVăn Bình đã chỉ thừa nhận tỷ lệ nợ xấu của trong hệ thống ngân hàng là 3,6%. Tuy nhiên vào kỳ họp Quốc hội giữa năm nay, tỷ lệ nợ xấu của ngành ngân hàng đã “bất ngờ” được vị quan chức này thông báo đến 10%, tạo nên một chuyển biến hoàn toàn phi logic nếu so sánh với “lộ trình” tăng nợ xấu trước đó.

Gót chân Asin bắt đầu lộ ra, ở chính nơi mà người ta tưởng như tồn tại một cách bền vững nhất.

Bắt đầu từ thời điểm sau quý 1/2012, hàng loạt ngân hàng đã buộc lòng phải tiết lộ thân phận nợ xấu của mình. Cũng theo báo cáo của Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia, 10 ngân hàng có tỷ lệ dư nợ cho vay bất động sản và xây dựng lớn nhất đã mang trên mình số dư nợ cho vay 147.000 tỷ đồng.

Nhưng có lẽ đó chưa phải là con số cuối cùng, bởi nếu căn cứ vào số dư nợ cho vay 348.000 tỷ đồng của Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia, và khả năng “biến mất” đến 50% như giới phân tích và bản thân một số ngân hàng thừa nhận về tình trạng nợ khó đòi, thì số nợ xấu bất động sản thực tế có thể lên đến 170.000 tỷ đồng!

“Tiền thuế của dân không thể dùng để mua nợ xấu ngân hàng” - Viện sĩ Trương Công Phú, nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Đầu tư phát triển, Chủ nhiệm Hội đồng Tư vấn kinh tế thuộc Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chia sẻ trên VnEconomy - “Nhân dân đóng thuế không phải để đi mua nợ, tại sao lại bắt nhân dân phải nai lưng ra gánh chịu những món nợ xuất phát từ những sai lầm của một nhóm người?”.

Bài học còn nóng hổi từ câu chuyện chuyển lỗ và đổ lỗ từ hoạt động kinh doanh thất bát và sai lầm của mình lên đầu người dân vẫn còn nguyên đó - ứng với những minh họa khó tưởng tượng như Tập đoàn Điện lực Việt Nam hay Tổng công ty Kinh doanh xăng dầu Việt Nam.

Vậy tại sao ngân hàng lại “thích” bán nợ xấu? Cũng theo ông Trương Công Phú, nguy hiểm nhất của nợ xấu là bóng dáng của trục lợi, tham nhũng lấp ló đằng sau đó. Nếu bán được những món nợ ấy thì mọi tội lỗi của các nhóm lợi ích và tham nhũng sẽ được xóa hết, thậm chí còn hợp pháp hóa được những món nợ ấy. Sâu xa của vấn đề bán nợ là do các ngân hàng thương mại sợ khi cơ quan chức năng vào cuộc xử lý sẽ phát hiện ra những khuất tất và sẽ lòi ra nhiều chuyện khác.

Chỉ cần sự giải thích ngắn gọn như trên của ông Trương Công Phú đã là đủ cho người dân nhìn ra chân tướng của hoạt động mua bán nợ và một công ty nhằm phục vụ cho ý đồ đó, nếu trong tương lai công ty này được triển khai đúng với kế hoạch của nhóm lợi ích ngân hàng.

Khi đó, không chỉ hàng trăm ngàn tỷ đồng sẽ được cường điệu trong bối cảnh toàn bộ nền kinh tế rơi vào suy thoái cùng những dấu hiệu thiểu phát đầu tiên, mà cuộc tranh luận “Tiền ở đâu ra?” rất có thể sẽ dẫn đến thất bại cho phe phản biện, trong khi phần thắng lại thuộc về ngân hàng - nơi có toàn quyền sử dụng tiền gửi tiết kiệm của người dân để phục vụ cho những mục đích thâm sâu hơn.

Sự vắng mặt “bất thường”

Một cách xâu chuỗi, logic từ đề án huy động vàng đến công ty mua bán nợ quốc gia đã biến đường thẳng thành một thứ đường cong mà người dân đứng ở đầu này sẽ chẳng bao giờ nhìn thấy được đầu kia của con đường.

Nói cách khác, nếu đề án huy động vàng được chuẩn y và đưa vào triển khai, sẽ không có gì bảo đảm là vàng của dân được ngân hàng bảo đảm bằng những giá trị thuộc về ngân hàng nhưng lại gây quá nhiều nghi vấn.

Xin trở lại với hội nghị của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và số phận của công ty mua bán nợ quốc gia. Một chi tiết rất đáng chú ý là lần đầu tiên kể từ thời điểm tháng 8/2011, những vấn đề có tính quyết sách về hệ thống ngân hàng lại không phải do chính lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước thông báo. Quyết sách đó còn liên quan đến cả chủ đề tái cấu trúc hệ thống ngân hàng mà trước đây Thống đốc Nguyễn Văn Bình vẫn thường chủ trì thông tin cho các ngân hàng và báo giới.

Phải chăng số phận của mô hình công ty mua bán nợ quốc gia đã chính thức được kết thúc từ khi nó còn chưa ra đời?

Nếu quả như vậy, xã hội và người dân không chừng lại có cơ may đỡ đi một mối lo lớn cùng những hậu quả không hề nhỏ.


VIẾT LÊ QUÂN- Cái kết cho “công ty mua bán nợ quốc gia” (DNSG).

- Giảm lãi suất nợ cũ: Ngân hàng chờ quy định cụ thể (TTXVN). - Doanh nghiệp “sốt ruột” xin giảm lãi (TN).- Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải: Thúc đẩy giải ngân các dự án ODA (Chinhphu.vn).
- Hàng loạt doanh nghiệp Sông Đà ‘khất nợ’ (ĐV).

 

-“Bức tranh” ngân hàng Việt Nam qua các con số

09/07/2012 06:00 (GMT+7)Tổng tài sản của các nhóm tổ chức tín dụng tính đến 30/4/2012 (Đơn vị: tỷ đồng) - Nguồn: Ngân hàng Nhà nước.

 
Mới đây, lần đầu tiên trong lịch sử, Ngân hàng Nhà nước công bố công khai một cách có hệ thống các thông tin về hoạt động tín dụng theo Thông tư 35/2011.
 
Nhằm giúp bạn đọc có góc nhìn đa dạng hơn về "bức tranh" ngân hàng Việt Nam, VnEconomy xin giới thiệu những con số, chỉ tiêu tài chính mà Ngân hàng Nhà nước vừa công bố.
 
Một số chỉ tiêu tài chính của các nhóm tổ chức tín dụng tính đến 30/4/2012 (Đơn vị: tỷ đồng) - Nguồn: Ngân hàng Nhà nước; Báo cáo Thống đốc gửi đại biểu Quốc hội.

Tổng tài sản của các nhóm tổ chức tín dụng tính đến 30/4/2012 (Đơn vị: tỷ đồng) - Nguồn: Ngân hàng Nhà nước.

Vốn điều lệ của các nhóm tổ chức tín dụng tính đến 30/4/2012 (Đơn vị: tỷ đồng) - Nguồn: Ngân hàng Nhà nước.
Vốn tự có của các nhóm tổ chức tín dụng (không bao gồm Ngân hàng Chính sách xã hội và Công ty Tài chính Tàu thủy) tính đến 30/4/2012 (Đơn vị: tỷ đồng) - Nguồn: Ngân hàng Nhà nước.
Tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản (ROA) của các nhóm tổ chức tín dụng quý 1/2012 (Đơn vị:%) - Nguồn: Ngân hàng Nhà nước.

Lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu (ROE) của các nhóm tổ chức tín dụng quý 1/2012 (Đơn vị:%) - Nguồn: Ngân hàng Nhà nước.

Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của các nhóm tổ chức tín dụng (không bao gồm Ngân hàng Chính sách xã hội và Công ty Tài chính Tàu thủy) đến 30/4/2012 - Nguồn: Ngân hàng Nhà nước.

Tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn của các nhóm tổ chức tín dụng (không bao gồm Ngân hàng Chính sách xã hội và Công ty Tài chính Tàu thủy) đến 30/4/2012 - Nguồn: Ngân hàng Nhà nước.

Tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động (TTI) của các nhóm tổ chức tín dụng đến 30/4/2012 – Nguồn: Ngân hàng Nhà nước.

* Khối ngân hàng thương mại Nhà nước bao gồm cả Vietinbank và Vietcombank.

 

- Chuyện nhỏ và chuyện lớn của nền kinh tế Việt (Alan Phan).
- Phá băng nợ xấu, Kỳ 1: Bít đường làm ăn (TT).  - Nợ xấu của các tổ chức tín dụng tại Hà Nội gia tăng (TN). - Đến lượt Hà Nội hỗ trợ lãi suất cho DN (VNN). - PVN trả lời hàng loạt vấn đề nóng (ĐV).

Dân thiệt, Nhà nước thất thu nếu tăng giá điện (Bee). - Giá điện còn thất thường lâu dài (ĐV).
Ngân hàng thôn tính bất động sản (VNE).
-- Cước vận tải “cố thủ”, nhà nước ra tay can thiệp (VNN).
Kinh doanh viễn thông với mối nguy ‘cá lớn nuốt cá bé’ (VNE).
Sản xuất công nghiệp tăng trưởng thấp (Petrotimes).
Xuất khẩu gỗ và lâm sản dự kiến đạt 4,6 tỷ USD (Chinhphu.vn).- Khánh Hòa: Xin xây dựng thêm 4 sân golf (DV).
Một quả trứng năm lần đóng phí: Đủ kiểu “làm luật” quả trứng (DV).

Một Hố Sâu Sâu  -   (dainamaxtribune).- Malaysia: Đi lên từ thương mại hóa R&D  (Tia sáng).

Việt Nam kỳ vọng Mỹ trở thành nhà đầu tư số 1 (VNN).

- EVN độc quyền mua – bán điện: Vẫn minh bạch, công bằng? (VOV).  - Khó nói chuyện tăng giá điện (TP).- PVN kêu khó đòi nợ EVN;  – PVN trần tình chuyện “quên” nộp ngân sách 21.000 tỷ đồng (Infonet).  – PVN sẽ đưa thêm 7 công trình dầu khí mới vào khai thác (Chinhphu.vn).
Khó nói chuyện tăng giá điện

- Thứ trưởng Công thương: Giá điện sẽ có lúc giảm (Infonet).   – Giá điện điều chỉnh tăng, giảm ba tháng/lần (PLTP). 

 

Hỗ trợ tín dụng cho khách hàng mua nhà tại Ecopark- Bất động sản ‘vô cảm’ trước đủ chiêu kích cầu (TP).

- Viettel, VNPT phải giải trình (TN). - Yêu cầu VNPT, Viettel Ndừng tăng cước thuê kênh (ICTNews). - Giảm giá vé tàu hỏa (TN).

 - “Bó tay” với chiêu thổi giá của thương lái (DT).- Thừa nhận thương lái nước ngoài tận thu nông sản (TQ).

- PVN minh bạch tài chính, hoàn thiện kế hoạch tái cơ cấu Tập đoàn  (PetroTimes).

- Nợ xấu VN ‘là cực kỳ nguy hiểm’ - (BBC).- Đừng phiến diện (NLĐ).
- Tìm lối ra cho kinh tế Việt Nam – Kỳ 8: Không để nhóm lợi ích trì hoãn (TN).
- 2015: Tập đoàn nhà nước rút hết vốn đầu tư ngoài ngành (VEF). - Tạo sức ép để DNNN vươn lên (VEF).
- Đại biểu HĐND TPHCM kiến nghị: Giải pháp cứu doanh nghiệp phải tới nơi tới chốn (SGGP).
- Phỏng vấn ông Bùi Kiến Thành: Mục đích tối thượng của chính sách là tạo ra việc làm (PNTD).
- Cào bằng (TN).  -Nên giảm ngay lãi suất (NLĐ). – Vốn vay giá rẻ bắt đầu chảy (PLTP).  - ‘Trần’ lãi suất nợ cũ 15%: NH hi sinh để cứu mình? (VEF). - Giảm lãi nợ cũ: Không bán được hàng tiền đâu trả nợ (VEF).
- Tích cực tháo gỡ khó khăn cho sản xuất (Chinhphu.vn).
- Chê giá cà phê cao, khách hàng tìm sang Indonesia (PLTP).
- Thị trường lương thực, thực phẩm vẫn tăng giá đều (RFA).
- Quản lý hoạt động mua nông sản của thương nhân nước ngoài (PLTP).

- Không nên vội bán vàng phi SJC (DT)
Phá băng nợ xấu, Kỳ 1: Bít đường làm ăn
TT - Theo ước tính đến cuối tháng 5, tổng nợ xấu tại các ngân hàng, tổ chức tín dụng khoảng 100.000 tỉ đồng. Các khoản nợ này rơi vào rất nhiều nhóm lĩnh vực và đây chính là chiếc “vòng kim cô” khiến cả ngân hàng và...

Đâu là ngưỡng nợ nước ngoài an toàn của Việt Nam?

(Tamnhin.net) - (Tamnhin.net) - Nợ nước ngoài tạo ra nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế nhưng có điểm giới hạn, nếu vượt quá điểm này sẽ tạo ra gánh nặng cho nền kinh tế. 

Từ những năm thập niên 60 các nhà kinh tế đều cho rằng việc chuyển giao các nguồn lực nước ngoài (thông qua các khoản vay, viện trợ và tài trợ) tại các nước kém phát triển là cần thiết, nó bổ sung nguồn vốn thiếu hụt trong nước.

Với nguồn vốn được bổ sung sẽ giúp các nước chuyển đổi nền kinh tế của họ để tạo ra mức tăng trưởng cao hơn. Qua quá trình này có thể thấy mối liên hệ giữa nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế là với một quốc gia đang phát triển mức vay nợ hợp lý có khả năng tăng cường tăng trưởng kinh tế.

Tuy nhiên về sau các nghiên cứu lại cho thấy càng gia tăng nợ thì tăng trưởng kinh tế sẽ càng tốt hơn. Nợ nước ngoài tạo ra nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế nhưng có điểm giới hạn nếu vượt quá điểm này gia tăng nợ sẽ tạo ra gánh nặng cho nền kinh tế.

Nợ nước ngoài của Việt Nam trong những năm gần đây đã gia tăng đáng kể, theo thống kê của Bộ Tài Chính nợ nước ngoài đã tăng từ 31.4% trong năm 2006 lên 42.2% năm 2010.

Sự gia tăng của nợ nước ngoài không chỉ làm gia tăng lo ngại tạo ra gánh nặng cho thế hệ tương lai mà còn không đóng góp vào tăng trưởng kinh tế.

Vận dụng lý thuyết “debt overhang” của nhà kinh tế Krugman (1988) chúng ta có thể trả lời cho câu hỏi này. Lý thuyết của Krugman giúp chúng ta tìm ra ngưỡng nợ nước ngoài của Việt Nam. Ngưỡng nợ được hiểu đơn giản là nếu vượt qua giá trị này sự tăng lên của nợ không đồng nghĩa với sự tăng trưởng tốt hơn.

Bằng cách vẽ mô phỏng các điểm phân bố GDP theo tỷ lệ nợ nước ngoài trên GDP theo dạng hàm phương trình bậc hai, sau đó xác định đỉnh của đường công. Đỉnh của đường cong này chính là ngưỡng nợ nước ngoài cần tìm. Với trường hợp của Việt Nam, khi quan sát số liệu từ năm 1986 đến năm 2010, ngưỡng nợ nước ngoài (tỷ lệ nợ nước ngoài trên GDP) được tìm thấy ở mức gần 65%.

Nói cách khác nếu tỷ lệ nợ nước ngoài trên GDP của Việt nam nhỏ hơn mức 65% sẽ góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và nếu tỷ lệ này vượt quá 65% thì nợ nước ngoài sẽ tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế.

Ngoài ra bằng cách ước lượng thông qua mô hình kinh tế lượng cũng cho thấy nếu tỷ lệ nợ nước ngoài trên GDP gia tăng 1% và chưa vượt ngưỡng 65% thì GDP sẽ gia tăng 15,76987 triệu USD và nếu vượt ngưỡng 65% thì GDP sẽ giảm 22.9528 triệu USD.

Từ kết quả phân tích chúng ta có thể thấy gia tăng nợ nước ngoài hiện nay của nước ta có thể chưa phải là quá nghiêm trọng. Tuy nhiên để đạt được hiệu quả cao khi sử dụng nguồn lực này chúng ta cần nghiêm túc và thận trọng.

Nên phân tích đầy đủ lợi ích kinh tế và xã hội của tất cả các dự án được tài trợ bằng nợ.

Tài trợ bằng nợ chỉ nên thực hiện nếu dự án đảm bảo lợi nhuận tạo ra sẽ đảm đương được thanh toán lãi vay và vốn gốc. Việc sử dụng vốn cũng phải được giám sát chặt chẽ để làm cho đảm bảo vốn vay được sử dụng một cách có hiệu quả...

 

Tổng số lượt xem trang