Radio CTM - Theo bảng phúc trình mới nhất được công bố hôm 1-5-2012 về tự do báo chí, tổ chức Freedom House đã xếp Việt Nam gần cuối bảng trong tổng số 197 nước trên thế giới, vì Đảng và Nhà nước Việt Nam tiếp tục mạnh tay trong việc kiểm soát báo chí và các phương tiện truyền thông khác một cách sâu rộng.
Phúc trình của tổ chức Freedom House có trụ sở ở Washington DC, Hoa Kỳ, qua khảo sát về tự do báo chí trên toàn thế giới trong năm qua, cho thấy Việt Nam đứng ở thứ hạng 182 đồng hạng với các nước Ả Rập Saudi, Bahrain, Lào và Somalia.
Phúc trình của Freedom House đã phân loại các quốc gia được khảo sát ra làm ba nhóm, gồm các nước có tự do, có tự do một phần, và hoàn toàn không có tự do báo chí. Trong bảng phúc trình năm nay, có 66 nước được xếp hạng có tự do, 72 nước có tự do một phần, và 59 nước không có tự do báo chí. Việt Nam nằm trong nhóm 3 các nước hoàn toàn không có tự do báo chí.
Trong tổng số 197 nước được khảo sát đánh giá thì vị trí Việt Nam chỉ có hơn vài nước là Miến Ðiện, Trung Quốc, Syria, Cuba, Guinea, Iran, Belarus, Eritrea, Uzbekistan, Turkmenistan và Bắc Hàn. Riêng trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương thì Việt Nam thua cả Campuchia, chỉ đứng trước Miến Điện, Trung Quốc và Bắc Hàn và đồng hạng với nước Lào.
Freedom House là một tổ chức phi chính phủ kỳ cựu, được thành lập vào năm 1941 chuyên tiến hành các hoạt động nghiên cứu và vận động cho dân chủ, tự do chính trị và nhân quyền. Bản phúc trình của tổ chức này được đưa ra trong thời điểm Liên Hiệp Quốc sắp kỷ niệm Ngày tự do báo chí thế giới vào ngày 3 tháng 5 tới đây.
Trước đây 3 tháng, vào ngày 25-1-2012, tổ chức Phóng viên không biên giới RSF cũng có đưa ra bảng xếp hạng “Tự do thông tin trên thế giới” cho thấy Việt Nam nằm trong 10 nước đàn áp tự do báo chí tệ hại nhất trên thế giới cùng với các nước Eritria, Bắc Hàn, Turkmenistan, Syria, Iran, Trung Quốc, Bahrain, Yemen, và Sudan.”.-
@ basam-MÙA XUÂN ARẬP: MỘT NĂM ĐẦY RẪY NGUY HIỂM
THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM-Tài liệu tham khảo đặc biệt
Thứ năm, ngày 19/7/2012
(Tạp chí Foreign Affairs)
Trong suốt năm 2011, một lời ca nhịp nhàng đã vang lên trên khắp các vùng đất Arập: “Người dân muốn lật đổ chế độ”. Nó đã dễ dàng bỏ qua các đường biên giới, được đưa vào các tờ báo và các tạp chí, trên Twitter va Pacebook, trong các chương trình phát sóng của các đài truyền hình al Jazeera và al Arabiya. Chủ nghĩa dân tộc Arập đã bị xóa bỏ, nhưng ở đây, đạt đến đỉnh cao nhất, là thứ chắc chắn giống như sự thức tỉnh liên Arập. Những người trẻ tuổi trong lúc tìm kiếm quyền tự do chính trị và cơ hội kinh tế, rã rời nhận ra cùng sự buồn tẻ ngày này qua ngày khác, đã đứng dậy chống lại những ông chủ khô cứng của họ.
Nó đã xảy đến như một sự ngạc nhiên. Trong gần hai thế hệ, những làn sóng dân chủ đã quét qua những khu vực khác, từ Nam và Đông Âu đến Mỹ Latinh, từ Đông Á đến châu Phi. Nhưng không phải Trung Đông, ở đó, những kẻ bạo chúa đã đóng kín thế giới chính trị, trở thành những người chủ đất nước của họ về tất cả trừ cái tên. Đó là một khung cảnh ảm đạm: những kẻ cầm quyền tồi tệ, người dân chán nản, một nhóm khủng bố rơi vào sự thất vọng trước một trật tự bị mất hết tính hợp pháp. Người Arập đã bắt đầu cảm thấy họ bị nguyền rủa, phải chịu sống dưới chế độ chuyên chế. Chủ nghĩa ngoại lệ của khu vực này trở thành không chỉ là một thảm họa nhân loại mà còn thành một sự xấu hổ về đạo đức.
Các cường quốc bên ngoài đã nhắm mắt làm ngơ trước thực trạng này thầm nghĩ đây là điều tốt nhất các nước Arập có thể làm. Trong một sự bùng nổ đột ngột của chủ nghĩa Wilson ở Irắc và sau đó, Mỹ đã đặt sức mạnh của mình ơ đằng sau sự tự do. Saddam Hussein đã bị lôi ra khỏi hang nhện, các lữ đoàn khủng bố và tống tiền của Xyri đã bị đẩy ra khỏi Libăng, và chế độ chuyên chế của Hosni Mubarak, từ lâu đã là trụ cột của hòa bình theo kiểu Mỹ, dường như mất đi phần nào ưu thế của mình. Nhưng Irắc hậu Saddam đã đưa ra những thông điệp lẫn lộn: có chế độ dân chủ nhưng cũng có cả máu trên đường phố và chủ nghĩa bè phái. Các chế độ chuyên quyền đã làm việc ráo riết và hết sức để ngăn chặn kế hoạch Irắc mới. Irắc đã bừng cháy, và những kẻ chuyên quyền Arập có thể lưu ý đến nó như một câu chuyện cảnh báo về hành động điên rồ hất cẳng ngay cả kẻ tồi tệ nhất trong những kẻ chuyên quyền. Hơn nữa, Irắc đã mang gánh nặng nhục nhã gấp đôi cho những người Arập dòng Sunni: người mang lại tự do ở đó là Mỹ, và cuộc chiến tranh này đã trao quyền lực cho những đứa con riêng Shitte của thế giới Arập. Kết quả là một thế bế tắc: người Arập không thể dập tắt hay phớt lờ một thoáng tự do, nhưng tấm gương Irắc cũng không cho thấy một tia hy vọng lật đổ mà những người khơi xướng nó đã mong đợi.
Chính người Arập nói rằng George W.Bush đã gây ra cơn sóng thần ở khu vực này. Đó là sự thật, nhưng người Arập rất giỏi trú ẩn qua các cơn bão, và trước đây rất lâu, bản thân người Mỹ đã chán nản và từ bỏ việc tìm kiếm. Cuộc bầu cử năm 2006 ở các vùng lãnh thổ thuộc Palextin đã đi theo con đường của Hamát, và một sự vỡ mộng mới với phán quyết của chế độ dân chủ đã đến với Chính quyền Bush. “Việc tăng quân” ở Irắc đã kịp thời cứu thoát cuộc chiến tranh của Mỹ ở đó, nhưng tầm nhìn nhiều tham vọng hơn về việc cải cách thế giới Arập đã bị từ bỏ. Các chế độ chuyên quyền đã sống sót qua giây phút ngắn ngủi của thái độ quyết đoán của Mỹ. Và chẳng bao lâu, người gánh vác quyền lực Mỹ theo tiêu chuẩn mới, Barack Obama, đã xuất hiện với một thông điệp làm yên lòng: Mỹ đã từ bỏ thay đổi: nước này sẽ tạo ra hòa bình của mình với hiện trạng, tiếp tục lại quan hệ đối tác với những nhà chuyên quyền thân thiện ngay cả khi nước này can dự với các chế độ thù địch ở Đamát và Têhêran. Mỹ vẫn phải dính líu với Kabul trong một khoảng thời gian nữa, nhưng Trung Đông lớn hơn sẽ được bỏ lại cho Nữ thần tóc rắn của mình.
Khi một cuộc nổi dậy nổ ra ở Irắc chống lại những kẻ cai trị bằng thần quyền vào mùa Hè đầu tiên nhiệm kỳ tổng thống của Obama, ông đã bị bắt gặp tỏ ra lúng túng trước tình trạng hỗn loạn này. Quyết tâm hòa giải các nhà cầm quyền, ông không thể tìm được tiếng nói để nói chuyện với những người nổi loạn. Trong khi đó, chế độ Xyri, đã buộc phải từ bỏ quyền chi phối của mình ớ Libăng, hiện tha thiết muốn lấy lại điều đó. Một chiến dịch khủng bố và ám sát lén lút, sức mạnh của Hezbollah tại địa bàn và những khoản trợ cấp của Iran gần như đã kết thúc cuộc “Cách mạng Cedar” mà đã từng là niềm tự hào của chính sách ngoại giao của Bush.
Các nhà quan sát nhìn vào cán cân sức mạnh ở khu vực này vào cuối năm 2010 sẽ là thông minh khi đặt cược vào sự trường tồn của chế độ chuyên quyền. Quan sát Bashar al-Assad ở Đamát, họ sẽ được tha thứ cho kết luận rằng một số phận tương tự chờ đợi Libi, Tuynidi, Yêmen, và Ai Cập rộng lớn mà đã là nước tạo xu hướng trong đời sống chính trị và văn hóa của Arập. Tuy nhiên, bên dưới bề nổi sự ổn định, có sự khốn cùng và vô ích về chính trị. Người Arập không cần “báo cáo phát triển nhân loại” để nói với họ về nỗi phiền muộn của mình. Sự đồng thuận đã không còn trong đời sống công chúng; sự gắn kết duy nhất giữa người cai trị và những người bị trị là sự nghi ngờ và nỗi lo sợ. Không có một dự án công cộng nào để lại cho một thế hệ đang trở nên độc lập – và đây còn là dân số lớn nhất và trẻ nhất.
Và rồi điều đó đã xảy ra. Vào tháng 12/2012, một người bán hoa quả dạo tuyệt vọng người Tuynidi tên là Mohamed Bouazizi đã tìm một lối thoát, tự thiêu để phản đối những sự bất công của nguyên trạng. Không lâu sau đó, hàng triệu người vô danh khác cũng đã tìm lối thoát khác, đổ ra những con phố. Một cách bất ngờ, những kẻ chuyên quyền, dường như để đảm bảo sự thống trị của họ, những vị chúa trời ở mọi mặt trừ cái tên, lại chạy trốn, về phần mình, Mỹ đã vội vã bắt kịp cuộc chính biến. Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã tuyên bố ở Cata vào giữa tháng 1/2011, khi cơn báo đang càn quét: “Ở quá nhiều nơi, theo quá nhiều cách, các nền tảng của khu vực này đang chìm trong cát”. Quang cảnh Arập đã làm cho lời nhận xét của bà thêm phần chắc chắn; điều bà đã bỏ sót là các thế hệ ngoại giao của Mỹ cũng sẽ bị chôn vùi.
Ngọn lửa lần này
Cuộc nổi dậy này là sự thanh toán giữa những thế lực ở bên cạnh và người dân quyết định từ bỏ các nhà chuyên quyền. Nó đã nổ ra ở một đất nước nhỏ bé nằm bên lề sự trải nghiệm chính trị của Arập, được giáo dục tốt và thịnh vượng và có mối quan hệ với châu Âu tốt hơn so với bình thường. Khi cuộc nổi dậy tiến về phía Đông, nó đã bỏ qua Libi và đến Cairô, “mẹ của thế giới”. Ở đó, nó đã tìm thấy một vũ đài có giá trị cho những tham vọng của mình.
Thường bị giảm giá trị như là vùng đất hoàn hảo của sự phục tùng chính trị, Ai Cập đã thực sự biết đến những cuộc nổi loạn tàn bạo. Mubarak đã có một cơ may khi vùng đất này đã chịu đựng ông trong 3 thập kỷ. Là người kế nhiệm Anwar al-Sadat được chỉ định, Mubarak là một người đàn ông thận trọng, nhưng sự trị vì của ông đã sinh ra những tham vọng triều đại. Trong 18 ngày thần kỳ vào tháng 1 và tháng 2, người Ai Cập từ mọi nẻo đường cuộc sống đã tập hợp ở Quảng trường Tahrir đòi gạt bỏ ông. Những chỉ huy cấp cao của các lực lượng vũ trang đã bỏ rời ông, và ông đã chung số phận với một kẻ chuyên quyền cùng hội, Zine el-Abidine Ben Ali cua Tuynidi, người đã bị truất quyền một tháng trước.
Từ Cairo, sự thức tỉnh đã trở thành một vấn đề liên Arập, bùng cháy ơ Yêmen và Baranh. Là một chế,độ quân chủ, Baranh là ngoại lệ hiếm hoi do trong thời gian này chủ yếu là các chế độ cộng hòa của những người hùng bị chìm trong tình trạng náo động. Nhưng ở nơi mà hầu hết các chế độ quân chủ có sự đồng điệu giữa người cai trị và những người bị cai trị, Baranh bị tan nát bởi một đường hướng sai lầm giữa những nhà cầm quyền người Sunni và đa số dân chúng người Shiite. Chính vì vậy, nước này dễ bị tổn hại, và có vẻ như là sự bùng nổ ở đó sẽ biến thành một mối hận thù bè phái. Trong khi đó, Yêmen là nước nghèo nhất trong số các nước Arập, có các phong trào ly khai nổ ra ở miền Bắc và miền Nam và nhà lãnh đạo trong tình trạng phân cực Ali Abdullah Saleh không có các kỹ năng giữ được nghệ thuật sống sót chính trị. Những mối hận thù của Yêmen là không rõ ràng, là những sự bất hòa giữa các bộ tộc và các thủ lĩnh quân sự. tình trạng náo động rộng lớn hơn ở Arập đã mang lại cho những người Yêmen mong muốn gạt bỏ nhà cầm quyền của họ dũng khí để thách thức ông.
Rồi cuộc nổi dậy đã quay trở lại Libi. Đây là một vương quốc im lặng, lãnh địa của nhà lãnh đạo mất trí và tự cho mình là “người đứng đầu các nhà cầm quyền Arập”, Muammar al-Gaddafi. Trong 4 thập kỷ đau khổ, người Libi đã ở dưới quyền của một cai ngục, nửa độc tài, nửa như anh hề này. Gaddati đã rút ruột đất nước ông, nước giàu nhất ở châu Phi nhưng lại có dân chúng nghèo khổ khốn cùng. Trong những năm giữa hai cuộc chiến tranh, Libi đã biết đến sự cai trị thuộc địa độc ác của người Italia. Nước này đã có khoảng thời gian yên bình ngắn ngủi dưới thời nhà cầm quyền khổ hạnh, Vua Idris, nhưng vào cuối nhừng năm 1960 đã bị thu hút bởi một cơn sốt cách mạng. “Iblis wa la Idris” (Con quỷ còn tốt hơn Idris) đã trở thành câu châm ngôn của thời đại. Và đất nước này đã có thứ mình muốn. Dầu lưa đã duy trì sự điên cuồng; các nhà lãnh đạo châu Âu cũng như các trí thức của Mỹ đã đến ve vãn. Hiện nay, vào năm 2011, Benghazi, cách xa thủ đô, đã trỗi dậy, và lịch sử đã trao cho người Libi một cơ hôi.
Các nhà cầm quyền của Ai Cập đã nói rằng đất nước của họ không phải là Tuynidi. Gaddatì đã nói rằng nền cộng hòa của ông không phái là Tuynidi hay Ai Cập. Cuối cùng, Assad nói rằng Xyri không phải là Tuynidi, Ai Cập hay Libi. Assad còn trẻ chứ không phải đã già, chế độ của ông chính đáng hơn bởi vì nó đã đối đầu với Ixraen thay vì cộng tác với nước này. Ông đà nói quá sớm: vào giữa tháng 3, lần này đến lượt Xyri.
Xyri đã là nơi Hồi giáo coi là ngôi nhà của mình sau khi nước này phát triển nhanh hơn Bán đảo Arập và trước khi nước này tuột ra khỏi bàn tay của người Arập rơi vào tay người Ba Tư và người Thổ Nhĩ Kỳ. Tuy nhiên, những thập kỷ trước đây, cha của Bashar al-Assad, Hafez – một người đàn ông khôn ngoan và có kỹ năng chính trị nhất – đã đưa quân đội và đảng Baath lên đến quyền lực tuyệt đối, đang tạo ra một chế độ trong đó quyền lực nằm trong tay thiểu số người Alawite của đất nước này. Sự kết. hợp giữa chủ nghĩa chuyên quyền và chủ nghĩa bè phái đã sản sinh ra nhà nước đáng sợ nhất ở Đông Arập.
Khi cuộc nổi loạn nổ ra ở đó vào năm 2011, nước này có vị trí địa lý khác biệt, như nhà khoa học chính trị Pháp Fabrice Balanche đã chỉ ra, nằm trên những vùng lãnh thổ và những khu vực thành thị của người Arập dòng Sunni của đất nước này. Nó đã nổ ra ở Dara’a, một thị xã xa xôi ở miền Nam, sau đó đã lan rộng sang Hamah, Homs, Jisr al-Shughour, Rastan, idlib và Dayr az Zawr – bỏ qua các khu vực người Kurd và người Druze và các ngôi làng miền núi và các thị trấn duyên hải tạo nên thành trì của người Alawite. Tình trạng bạo lực trong cuộc nổi dậy của Xyri là rõ rệt nhất ở Homs, thành phố lớn thứ ba của nước này, do dân số học dễ bùng nổ của nó – 2/3 dân số là người Sunni, 1/4 dân số là người Alawite, 1/10 là người Cơ đốc.
Dĩ nhiên, chủ nghĩa bè phái không phải là tất cả. Xyri có tỷ lệ sinh cao nhất ở khu vực này, với dân số tăng gần gấp 4 lần kể từ khi Hafez lên nắm quyền vào năm 1970. Những động mạch của chế độ này đã bị xơ cứng với một phức hợp quân sự và thương mại đang chi phối đời sống chính trị và kinh tế. Không còn lại nhiều sự bảo trợ để nhà nước sử dụng, do dưới khẩu hiệu cấm tư nhân hóa trong những năm gần đây, nhà nước này đã thực hiện một sự lẩn trốn. Cuộc nổi loạn đã gắn kết ý thức về sự tước quyền thừa kế kinh tế và cơn phẫn nộ của đa số người Sunni quyết tâm tự giải thoát mình khỏi quy luật của số mệnh độc ác.
Mọi việc ở đúng chỗ của nó
Dĩ nhiên là không có một kịch bản giống nhau nào dành cho các chế độ Arập đang hoạt động. Tuynidi, một nhà nước già cỗi với bản sắc dân tộc được xác định rõ đã giải quyết các công việc của mình một cách tương đối dễ dàng. Nước này đã lựa chọn một hội đồng lập hiến trong đó al Nahda, một đảng Hồi giáo, đảm bảo tính đa nguyên. Nhà lãnh đạo của al Nahda Rachi al-Ghannouchi, là một người đàn ông sắc sảo; nhiều năm sống lưu vong đã dạy cho ông phải thận trọng, và đảng của ông đã lập ra một chính phủ liên minh với hai bên tham gia thế tục.
Ở Libi, sự can thiệp nước ngoài đã giúp những người nổi dậy lật đổ chế độ. Gaddafi đã bị kéo ra khỏi một đường cống, bị đánh đập và bị giết chết, và một trong những người con trai của ông cũng vậy. Đây là những sự hận thù và phẫn nộ mà chính nhà cầm quyền này đã tạo nên; ông đã nhận được những gì ông đã gieo rắc. Nhưng sự giàu có, một dân số thưa thớt và sự chú ý của nước ngoài hẳn giúp Libi vượt qua khó khăn. Không có một lịch sử đang hình thành nào có thể đầy chết chóc với người Libi, và các nước khác, như những năm cầm quyền của Gaddafi.
Bóng tối của Iran và Arập Xêút bao trùm lên Baranh. Không có cuộc khủng bố lớn nhưng trật tự chính trị là không tốt. Có sự phân biệt bè phái và vẻ bề ngoài kỳ quặc của triều đại đang cai trị, Hoàng gia Khalifa, đã chinh phục khu vực này vào những năm cuối của thế kỷ 18 nhưng vẫn không tạo ra hòa bình cho người dân. Những người ngoài mang lại nguồn nhân lực cho các lực lượng an ninh, và sự ổn định thực sự dường như còn rất xa xôi.
Về phần Yêmen, đây là nhà nước thất bại hoàn toàn. Dấu ấn của chính quyền nước này là mờ nhạt, các nhà cầm quyền không có phương thuốc cứu chữa nào, nhưng không có sự khủng bố tàn bạo. Đất nước này đang cạn kiệt nguồn nước; các phần tử thánh chiến Hồi giáo chạy trốn từ Hindu Kush đã tìm thấy ngôi nhà của mình: đó là Ápganixtan với bờ biển trải dài. Những người đàn ông và phụ nữ đã đổ ra những con phố thuộc Sanaa vào năm 2011 để tìm kiếm sự phục hồi của đất nước của họ, hoạt động chính trị có phẩm giá hơn so với họ nhận được từ nhà chính trị đi trên dây hay hoài nghi cầm quyền trong hơn 3 thập kỷ. Không rõ họ có hiểu điều đó hay không.
Xyri vẫn ở trong tình trạng hỗn loạn. Hamát đã bỏ rơi Đamát vào tháng 12/2011 bởi vì nước này lo sợ bị bỏ lại ở mặt trái của sự đồng thuận Arập đang gia tăng chống lại chế độ Xyri. Một trong những khẩu hiệu có ý nghĩa của những người phản kháng: “Không Iran, không Hezbollah, chúng tôi muốn có những nhà cầm quyền sợ hãi trước đấng Allah”. Luật lệ của Alawite là bất thường và chế độ này, thông qua phản ứng tàn bạo của nó đối với cuộc nổi dậy, với việc các lực lượng an ninh mạo phạm các nhà thờ Hồi giáo, nổ súng vào các tín đồ, và ra lệnh cho những người bị bắt giữ bất hạnh phải nói câu: “Không có Chúa mà chỉ có Bashar”, đã viết ra lệnh lưu đày khỏi khu vực của chính mình. Hafez đã phạm phải những hành động tàn bạo của bản thân ông, nhưng ông luôn tìm cách để vẫn ở bên trong khối Arập. Bashar thì khác – liều lĩnh – và thúc giục ngay cả Liên đoàn Arập, có lịch sử bỏ qua những hành động điên rồ của các nước thành viên, đình chỉ tư cách thành viên của Đamát.
Cuộc chiến đấu vẫn diễn ra ác liệt, Aleppo và Đamát không trỗi dậy, và nhà cầm quyền đã tham chiến dường như tin rằng ông có thể chống lại những định luật hấp dẫn. Không như ở Libi, chưa có dấu hiệu nào về một sứ mệnh giải cứu của nước ngoài. Nhưng với tất cả những tình trạng không chắc chắn này, có thể nói rằng: nhà nước an ninh gây sợ hãi mà Hafez, Đảng Baath, và các binh lính Alawite và các ông “vua” tình báo tạo ra đã ra đi vĩnh viễn. Khi sự đồng thuận và sự ủng hộ của dân chúng phai nhạt dần, nhà nước dựa trên sự sợ hãi, và sự sợ hãi đã bị đánh bại. Ớ Xyri, mọi ràng buộc giữa các nhà cầm quyền và dân chúng đã bị phá vỡ không thể sửa chữa được.
Những gì đi theo sau Pharaông
Trong khi đó, Ai Cập có thể đã đánh mất ánh hào quang; của thời xa xưa, nhưng thời gian này của Arập sẽ được đánh giá bằng những gì cuối cùng xay ra ờ đó. Trong những kịch bản thảm họa, cách mạng sẽ sản sinh ra một nước cộng hòa Hồi giáo: người Cốp sẽ chạy trốn, doanh thu ngành du lịch vĩnh yiễn mất đi, và người Ai Cập sẽ khát khao có bàn tay sắt của Pharaông. Thành tích mạnh mẽ của tố chức Anh em Hồi giáo và của đảng Salafi thậm chí còn cực đoan hơn trong các cuộc bầu cử quốc hội gần đây, cùng với sự phá vỡ cuộc bỏ phiếu tự do thế tục, dường như chứng minh cho mối quan ngại về định hướng của nước này. Những người Ai Cập tự hào với ký ức về những giai đoạn tự do trong lịch sử của họ. 6 thập kỷ chịu sự cai trị quân sự đã cướp đi của họ cơ hội trải nghiệm chính trị cởi mở, và hiện nay họ không thể từ bỏ điều đó mà không cần có một cuộc đấu tranh.
Các cuộc bầu cử là minh bạch và sáng sủa. Các lực lượng tự do và thế tục chưa sẵn sàng cho một cuộc chiến đấu, trong khi Anh em Hồi giáo đã chờ đợi một thời khắc lịch sử như vậy trong nhiều thập kỷ và đã tận dụng cơ hội của mình. Ngay khi những người Hồi giáo dòng Salafi bước ra khỏi hầm mộ, họ đã bắt đầu làm dân chúng lo lắng, và chính vì thế họ đã rút lại phần nào quan điểm cực đoan của mình. Những sự kiện diễn ra ở Quảng trường Tahrir làm cả thế giới sửng sốt, nhưng như trí thức trẻ tuổi người Ai Cập Samuel Tadros đã nói, “Ai Cập không phải là Cairo và Cairo không phải là Quảng trường Tahrir”. Khi cát bụi lắng xuống, 3 lực lượng sẽ tranh giành tương lai của Ai Cập – quân đội, Anh em Hồi giáo, và một liên minh tự do và thế tục rộng lớn gồm những người muốn có một chính thể dân sự, sự tách rời tôn giáo và chính trị, và những sự bù đắp lại là một đời sống chính trị bình thường.
Anh em Hồi giáo đem đến cuộc đấu tranh này sự pha trộn đã đi vào truyền thống giữa thủ đoạn chính trị và cam kết thiết yếu với việc áp đặt một trật tự chính trị được định hình bởi đạo Hồi. Người sáng lập tổ chức này, Hasan al-Banna, bị một kẻ ám sát đánh gục vào năm 1949 nhưng vẫn bước đi oai vệ trong công việc chính trị của thế giới Hồi giáo. Là một người không ngừng bày mưu tính kế, ông đã nói về luật của Chúa, nhưng ở trong bóng tối, ông đã đạt được các thỏa thuận với cung điện chống lại đảng chính trị chi phối ở thời của ông, Wafd, Ông đã chơi một ván bài chính trị khi ông gắn kết lại một, lực lượng bán quân sự đáng gờm, tìm cách xâm nhập các quân đoàn – một thứ gì đó mà những người kế nhiệm ông đã giữ chặt suốt từ đó. Chắc chẵn ông sẽ nhìn một cách ngưỡng mộ những kỳ năng chiến thuật của những người kế nhiệm ông khi họ khéo léo vận động giữa những người có tư tưởng tự do và Hội đồng tối cao các lực lượng vũ trang (SCÀF), cùng tham gia cuộc náo động ở Quảng trường Tahrir nhưng không còn hồ hởi nhấn mạnh cam kết của họ với sự đúng mức và trật tự xã xã hội.
Một sự thật hiển nhiên là Ai Cập thiếu tiềm lực kinh tế để xây dựng một trật tự Hồi giáo hiện đại thành công, cho dù điều đó có thể có ý nghĩa như thế nào. Cộng hòa Hồi giáo Iran phụ thuộc vào dầu lửa, và ngay cả uy thế vừa phải của Đảng Công lý và Phát triển, hay AKP, ở Thổ Nhĩ Kỳ là được đảm bảo bởi sự thịnh vượng có được từ “giai cấp tư sản nhiệt tình” ở các thị trấn trên đồi Anatolia. Ai Cập nằm ở ngã tư của thế giới, kiếm tiền từ du lịch, Kênh đào Xuyê, những dòng viện trợ nước ngoài, và những khoản tiền kiều hối từ những người Ai Cập ở nước ngoài. Trong năm qua, dự trữ ngoại hối của nước này đã thu nhỏ lại từ 36 tỷ USD xuống còn 20 tỷ USD. Lạm phát gõ cửa, giá cả lúa mì nhập khẩu là cao, và các hóa đơn phải được thanh toán. 4 bộ trưởng tài chính đã đến rồi đi kể từ khi Mubarak từ chức. Khao khát có được sự ổn định hiện nay cân xứng với sự thỏa mãn rằng ke chuyên quyền đã bị hạ bệ.
Có những vấn đề lớn bắt đầu xuất hiện trước mắt các nhà lãnh đạo Ai Cập và sự miễn cưỡng của cả Anh em Hồi giáo lẫn các lực lượng vũ trang nắm chính quyền đang nói lên điều đó. Lẽ phải và chủ nghĩa thực dụng tuy thế có thể thắng thế. Sự phân chia hợp lý những chiến lợi phẩm và trách nhiệm có thể mang lại cho Anh em Hồi giáo những lĩnh vực cai trị gần nhất với nó – dáo dục, trợ cấp xã hội và bộ máy tư pháp – với quân đội phụ trách quốc phòng, tình báo, hòa bình với Ixraen, các mối quan hệ quân sự với Mỹ, và duy trì những đặc quyền kinh tế của các quân đoàn. Những người thế tục có tư tưởng tự do sẽ có số lượng lớn, có tiếng nói trong nhịp điệu của cuộc sống thường ngày ở một đất nước khó có thể đưa vào khuôn phép và tổ chức, và có cơ hội đưa một nhà lãnh đạo có sức thuyết phục tiềm năng vào cuộc bầu cử tổng thống trong tương lai.
Trong hai thế kỷ này, Ai Cập đã can dự vào cuộc đấu tranh kiên trì vì sự hiện đại và một vị trí trong số các quốc gia xứng với những tham vọng của nước này. Nước này không ở vào tình trạng tốt, nhưng vẫn đang tiếp tục cố gắng. Tháng 8 năm ngoái, một cảnh tượng đã diễn ra mà có thể đem lại một sự an ủi ở mức độ nào đó cho người Ai Cập. Vị Pharaông cuối cùng cua nước này – có lẽ là vậy – đã đến tòa án trên một chiếc cáng. Nhà cai trị trước đây của Ai Cập nói với vị thẩm phán chủ tọa phiên tòa: “Thưa ngài, tôi có mặt”. Mubarak không bị kéo ra khỏi cống và bị giết chết như Gaddafì, cũng không bỏ trốn cùng với gia đình và tùy ý giết người dân của mình, như Assad. Theo lời của E.M.Forster, người Ai Cập đã luôn có khả năng làm hài hòa những sự quả quyết cạnh tranh nhau, và họ có thể lại làm điều đó một lần nữa.
Đại thức tỉnh thứ ba
Tình trạng hỗn hoạn này, sự thức tỉnh này là sự thức tỉnh thứ ba trong lịch sử Ai Cập hiện đại. Sự thức tỉnh thứ nhất, thời kỳ Phục hưng chính trị văn hóa sinh ra từ mong muốn gia nhập thế giới hiện đại, đã xuất hiện vào cuối những năm 1800. Được lãnh đạo bởi những người chép thuê và các luật sư, những người thích làm nghị sĩ và các trí thức theo đạo Cơ đốc, nó đã tìm kiếm việc cải cách đời sống chính trị, tách biệt vấn đề tôn giáo khởi công việc chính trị, giải phóng phụ nữ, và đưa đống đổ nát của Đế chế Ôttôman vào quá khứ. Khá phù hợp, Đại phong trào đó, với Bâyrút và Cai rô đứng đầu, đã tìm thấy người ghi chép biên niên sử của mình ở George Antonius, một nhà văn Cơ đốc giáo gốc Libăng, được đàọ tạo ở Cambridge, và làm việc trong Chính quyền Anh ở Palextin. Cuốn sách của việc hất cẳng một kẻ chuyên quyền không dẫn đến tự do. Các tù nhân muốn chuyển từ nhà tù này sang nhà tù khác để được thay đổi khung cảnh và cơ hội để giành được đôi chút gì đó trên đường đi”.
Sử gia người La mã Tacitus đã từng có nhận xét đáng nhớ: “Ngày tốt đẹp nhất sau thời đại của một vị hoàng đế tồi tệ là ngày đầu tiên”. Sự thức tỉnh thứ ba của Arập này nằm trong các nấc thang lịch sử. Nó vừa đứng; trước hoàn cảnh nguy hiểm vừa đầy hứa hẹn, có khả năng bị giam hãm nhưng cũng có khả năng được tự do./.
@ basam-MÙA XUÂN ARẬP: MỘT NĂM ĐẦY RẪY NGUY HIỂM
--
--Sáu câu hỏi của Lưu Hiểu Ba bxvn1
Phan Trinh dịch
Lời người dịch:
Đây là bản dịch bài “A Deeper Look into Why Child Slavery in China’s ‘Black Kilns’ Could Happen” (Nguyên nhân sâu xa gây ra vụ trẻ em nô lệ tại các lò gạch đen Trung Quốc), in trong cuốn “No Enemies, No Hatred” (Không thù, không ghét) của Lưu Hiểu Ba, do Perry Link, Tienchi Martin-Liao và Lưu Hà biên tập, Vaclav Havel giới thiệu, nhà xuất bản Havard University Press phát hành tại Luân Đôn năm 2012. Tựa do người dịch đặt.
Khi Lưu Hiểu Ba được trao giải Nobel Hòa Bình ngày 10/12/2010 vì đấu tranh cho tự do và nhân phẩm, ông đang ở trong nhà tù Trung Quốc. Năm 2009, ông bị Bắc Kinh kết án 11 năm tù vì tội “kích động chống phá nhà nước”. Trong lễ trao giải Nobel ở Na Uy, một chiếc ghế trống được đặt thay chỗ cho ông.
Vụ “lò gạch đen” tại tỉnh Sơn Tây được khui ra vào đầu năm 2007, cho thấy hàng ngàn người nhập cư, người khuyết tật và trẻ em bị bắt cóc phải làm việc như nô lệ trong các lò gạch do thế giới ngầm khống chế. Họ bị giam giữ, làm việc ngày đêm, đói khát, không lương, không thuốc men, luôn bị cưỡng chế, đánh đập, có người bị đánh đến chết… trong một thời gian dài, trước sự làm ngơ của chính quyền các cấp. Lưu Hiểu Ba viết bài này vào ngày 16/7/2007, đặt ra 6 câu hỏi nhức nhối, mà câu trả lời dường như chỉ quy về một mối, có thể tóm tắt như sau:
Khi một nhóm tư nhân (chẳng khác gì một công ty tư, một băng đảng) nắm độc quyền chính trị trong tay, thì ưu tiên đầu tiêu của họ là duy trì quyền lực và lợi lộc, chứ không thể là chăm lo cho dân.
Họ trở nên “siêu hiệu quả” khi bảo vệ quyền lợi của mình, khi khống chế tiếng nói phản kháng, khi bắt người bất đồng, nhưng lại “siêu bất lực” khi giải quyết những vấn đề xã hội.
Nhân sự cầm quyền, ở mọi cấp độ, do nhóm này bổ nhiệm vì vậy sẽ tận tụy phục vụ bề trên, thay vì phục vụ nhân dân bên dưới.
Báo chí truyền thông trong tay họ cũng được ưu tiên dùng để tô vẽ hình ảnh đẹp đẽ của “trên”, còn phản ánh nỗi khổ của người dân thấp cổ bé miệng ở dưới chỉ là ưu tiên thấp.
Không chỉ kết hợp với giới kinh doanh, họ còn ăn nằm với thế giới ngầm, hai nhập một, trùm tội phạm ngồi trong Quốc hội, trong khi quan chức chính quyền lại bắt tay tội phạm để kiểm soát xã hội.
Nhân vụ lò gạch, Lưu Hiểu Ba nhắc tới nhu cầu phải thay đổi tận gốc hệ thống, có lẽ đó là lý do bài này là một trong các tài liệu được dùng để kết tội ông trong phiên toà năm 2009.
P. T.
Đã gần hai tháng trôi qua từ khi tin tức từ Sơn Tây về nạn “trẻ em lao động nô lệ” tại các “lò gạch đen” làm chấn động dư luận Trung Quốc và thế giới. Vậy mà, trái với những bức xúc và đòi hỏi điều tra cấp bách của quần chúng; trái với việc quan chức nhà nước đưa ra hàng loạt những chỉ đạo, xin lỗi, phái cán bộ đến tìm hiểu; trái với với việc công an tiến hành điều tra rộng rãi; và trái với việc các quan chức Sơn Tây quyết tâm “giải quyết dứt điểm vấn đề nô lệ trong mười ngày”, kết quả thực của vụ việc vẫn chỉ mang tính chiếu lệ và hời hợt ngoài da.
Lao động nô lệ tại các lò gạch trở thành hiện tượng lan tràn trong thập niên trước, nhưng nếu chỉ nhìn vào các báo cáo chính thức thì hẳn người đọc sẽ nghĩ đó chỉ là vấn đề của một lò gạch tại thôn Thảo Thánh, thị trấn Quảng Thắng Tự, huyện Hồng Đỗng, tỉnh Sơn Tây mà thôi. Chỉ vài người bị kết án, và cáo buộc cũng chỉ rút xuống còn ba tội: giam giữ trái phép, cưỡng bức lao động, và cố ý gây thương tích. Những tội hình sự khác như bắt trẻ em lao động trái phép, dụ dỗ lừa đảo, bắt cóc, xâm hại trẻ em… bị gạt mất. Và bản án là gì? Đốc công lò gạch, Triệu Nghiêm Băng bị kết án tử hình và gã cai thầu Hành Đình Hán, người tỉnh Hà Nam, bị án tù chung thân. Những người khác bị tuyên án từ 18 tháng đến chín năm tù.(1)
Tuy nhiên, sự chiếu lệ và hời hợt của công lý trở nên lộ liễu tột cùng khi nhìn vào cách người ta xử lý các quan chức chính quyền liên quan. Vào ngày 16 tháng 7, chính quyền công bố danh sách quan chức đang bị điều tra, vì đã để vụ việc xảy ra do cẩu thả, hoặc vì đích thân dính líu. Mặc dù danh sách khá dài – 95 đảng viên và quan chức được liệt vào diện bị kỷ luật Đảng (thay vì bị tố cáo hình sự) – nhưng số lượng không bù được chất lượng. Toàn bộ danh sách đều là những cán bộ ở cấp thấp nhất. Ở vị trí cao nhất là vài người thuộc lớp cán bộ mà quần chúng gọi là những cán bộ “bé hạt mè” của huyện Hồng Đỗng, trong đó có Bí thư huyện ủy Cao Hoành Viễn, bị “nghiêm túc cảnh cáo”; Phó Bí thư kiêm Chủ tịch huyện Tôn Diễm Lân, bị cách chức, và Phó Chủ tịch Uông Chánh Quân, bị “nghiêm túc cánh cáo” và cách chức.(2)
Hiện tượng những tội ác tày đình nhưng chỉ bị trừng phạt vừa sơ sài, vừa chậm trễ như vậy càng xát muối vào vết thương nạn nhân. Nó cho thấy sự xem thường tiếng nói phẫn nộ của dư luận, và sự bất chấp trắng trợn luật pháp và công lý. Dù các vị lãnh đạo cao nhất ở trung ương có hứa hẹn “lo cho dân” đến thế nào đi nữa, dù sự ân hận của ông Chủ tịch tỉnh Sơn Tây nghe thành thật đến đâu đi nữa, không lời lẽ ba hoa nào có khả năng nhổ bật rễ chính cái hệ thống đã tạo nên tình trạng lao động nô lệ tràn lan này, nó cũng không thể cứu chế độ Cộng sản khỏi phá sản về uy tín chính trị và tư cách đạo đức. Cụ thể hơn, cách chính quyền hành xử trong vụ này càng không thể biện minh được khi đứng trước sáu câu hỏi sau đây.
CÂU HỎI THỨ NHẤT: Tại sao nỗ lực của chính quyền trong việc giải cứu nô lệ trẻ em lại kém hiệu quả đến thế?
Vào ngày 5 tháng 6, một lời kêu cứu xuất hiện trên internet có tên “Lời kêu cứu của 400 ông bố: Ai sẽ cứu con chúng tôi?”. Lời kêu cứu viết: “Vụ tai tiếng lao động nô lệ ở Hồng Đỗng làm chấn động cả nước, nhưng đó chỉ là phần nhô lên của tảng băng, hơn 1000 trẻ em vẫn trong vòng nguy hiểm… hãy cứu lấy con cái chúng ta!”. Vậy mà nửa tháng sau, hầu hết các ông bố từ tỉnh HàNamnày vẫn chưa tìm thấy con mình. Ngày 20 tháng 6, họ lại đăng trên mạng một kiến nghị khác, cho thấy sau các cuộc tìm kiếm, họ tìm thấy hơn 100 em trong cảnh tương tự, nhưng quê quán các em không ở Hà Nam, không phải con họ. Rõ ràng còn rất nhiều trẻ em khác cần được giải cứu và một số đã được chở đến những tỉnh xa. Các ông bố yêu cầu phải đẩy mạnh gấp đôi công cuộc tìm kiếm và phải mở rộng quy mô tìm kiếm trên cả nước.
Trong khi đó, dư luận tiếp tục đòi hỏi chính quyền phải có câu trả lời. Ngày 27 tháng 6, tờNamphương Đô thị báo đăng bài “Làm thế nào đảm bảo sẽ cứu hết các em?”. Bài báo viết:
“Làm thế nào để không nơi nào trên đất nước này nằm trong tay tội ác, và chúng ta sẽ giải cứu được tất cả nạn nhân, không trừ em nào? Nếu chỉ tin vào những lời có cánh của các quan chức tỉnh Sơn Tây thì sẽ chẳng đi đến đâu. Chính phủ phải tự xét lại mình, xã hội phải hỗ trợ thành khẩn hơn, và mọi công dân cần nâng cao ý thức hơn nếu chúng ta còn nuôi hy vọng giải cứu mọi nạn nhân trong vụ tai tiếng này – và quan trọng hơn nữa, nếu chúng ta còn muốn môi trường xã hội tạo điều kiện cho tình trạng nô lệ xảy ra bị loại trừ tận gốc. Tất cả những biện pháp này đều bức thiết và thực tế hơn bất cứ những tuyên bố chính trị cao đạo nào.”
Vậy mà, khi tôi viết những dòng này vào giữa tháng 7, vẫn chưa có biện pháp nào mới để tìm kiếm trẻ mất tích. Số em được giải cứu, như truyền thông nhà nước thông báo, là xấp xỉ hơn 100 em, tức chỉ có 10 phần trăm trong hơn 1000 em mất tích. Từ vụ này, có thể thấy chính phủ toàn năng của ta, với tất cả những nguồn lực khổng lồ, đã không sẵn lòng đối đầu với thế giới ngầm Trung Quốc.
Nếu công cuộc tìm kiếm của hàng chục ngàn công an, bao trùm cả một khu vực chỉ mang lại kết quả ít ỏi như vậy thì chúng ta có thể tin gì nữa? Hay chúng ta phải tin rằng thế giới ngầm tội phạm quá mạnh, nằm ngoài vòng kiểm soát, hoặc – như tôi nghĩ – chính quyền đã không làm đúng chức năng cần thiết?
Ai cũng thấy chính quyền toàn trị hùng mạnh của chúng ta, kẻ nắm độc quyền mọi nguồn lực của xã hội, đã bộc lộ một nghịch lý kỳ quái về năng lực quản lý: khi phải bảo vệ quyền lực, khi theo đuổi đặc quyền đặc lợi, khi đè nén quyền tự do của dân chúng, khi theo dõi những người bất đồng chính kiến, khi kiểm soát báo chí truyền thông, khi chiếm dụng và chuyển đổi đất công thành tài sản riêng, hoặc khi ém nhẹm cho êm thắm các vụ tham nhũng…, thì chính quyền và quan chức nhà nước không chỉ cho thấy họ có năng lực, mà còn có siêu năng lực. Trong những việc vừa kể thì không gì qua mắt được họ, họ có thể điều cả một lực lượng công an đông đảo với xe cộ hùng hậu để chỉ bao vây một người bất đồng chính kiến. Nhưng để phục vụ nhân dân, đẩy mạnh công bằng, cải thiện phúc lợi, hoặc chống lại những tệ nạn xã hội, thì chính quyền và quan chức nhà nước không chỉ cho thấy họ bất lực, mà còn là siêu bất lực. Trong các lãnh vực này, họ chỉ giỏi làm ngơ, ngay cả với những vụ như trẻ em lao động nô lệ, cả khi thảm họa này tồn tại trên diện rộng trong một thời gian dài.
CÂU HỎI THỨ HAI: Tại sao quan chức chính quyền lại vô cảm, và không biết nhục đến thế?
Hãy nhìn lại những ồn ào quanh vụ lò gạch từ đầu đến nay: theo chỉ đạo của chính quyền trung ương do Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo cầm đầu, chính quyền huyện Hồng Đỗng đã điều 11 đội công tác đến 12 tỉnh để gửi thư xin lỗi, trả lương còn thiếu và các khoản bồi thường đến tận tay người lao động nhập cư được giải cứu. Văn phòng cấp huyện của Ủy ban Kỷ luật Đảng đồng thời mở cuộc điều tra về sai phạm của cán bộ liên quan. Đến ngày 20 tháng 6, tại Bắc Kinh, Thủ tướng Ôn Gia Bảo triệu tập Quốc vụ viện. Trong phiên họp này, Chủ tịch tỉnh Sơn Tây, ông Ư Ấu Quân, đã báo cáo kết quả điều tra chính thức của chính quyền tỉnh Sơn Tây. Ngày 22 tháng 6, tại Thái Nguyên, thủ phủ Sơn Tây, Bộ Bảo vệ Lao động Nhà nước, Bộ Công an, và Ban Công tác Liên ngành thuộc Liên hiệp Nghiệp đoàn toàn Trung Quốc đã tổ chức một cuộc họp báo và trong đó chủ tịch Ư Ấu Quân, đại diện cho chính quyền tỉnh, đã nói lời xin lỗi với những người lạo động nhập cư nạn nhân và gia đình của họ về vụ lò gạch, ông cũng tự kiểm điểm trước người dân trong tỉnh.
Giữa những diễn biến ồn ào này có một người, một nhà vận động độc lập, ông Vương Toàn Kiệt, một Đại biểu Quốc hội từ tỉnh Quảng Đông, đã đưa ra cách giải quyết vấn đề rốt ráo hơn. Ngày 28 tháng 6, ông Vương gửi cho Chủ tịch Ư Ấu Quân “Lời kêu gọi Giám đốc Sở Lao động và An sinh xã hội tỉnh Sơn Tây từ chức”. Ông viết:
“Trong những ngày qua, vụ “lò gạch” tại Sơn Tây đã làm chấn động cả nước… khiến dư luận thế giới lên án… Chủ tịch Sơn Tây Ư Ấu Quân đã phải xin lỗi nạn nhân và tự kiểm điểm trước nhân dân trong tỉnh. Nhưng các quan chức chính quyền ở ngay trung tâm của vụ tai tiếng, tức Sở Lao Động và An sinh xã hội Tỉnh Sơn Tây – những người phải chịu trách nhiệm trực tiếp trong vụ này – lại không hề hấn gì. Không một ai đứng ra nhận trách nhiệm hoặc nói lời xin lỗi. Chỉ thấy được vài lời “nghiêm túc kiểm điểm” của các sở lao động và công an, nhưng những lời này chỉ có tác dụng đùn đẩy trách nhiệm cho người khác mà thôi. Nhân dân chắc chắn sẽ thắc mắc: Tại sao một vụ bê bối lớn đến thế lại không có ai trong các sở ban ngành phụ trách lao động chịu trách nhiệm?… Tại sao đích thân người chịu trách nhiệm về “lao động và an sinh xã hội” trong tỉnh lại có thể thản nhiên và tự tin trở thành người chỉ đạo tất cả các cuộc giải cứu diễn ra sau đó? Điều 82 Luật Công vụ quy định rằng “những ai sai phạm nghiêm trọng trong công việc, hoặc xao lãng nhiệm vụ, hoặc giữ vai trò lãnh đạo chính trong sự việc, phải chịu trách nhiệm bằng cách từ chức khỏi vị trí lãnh đạo.” Việc từ chức như một cách nhìn nhận trách nhiệm là dấu hiệu rõ nét của một xã hội pháp trị. Niềm tin của công chúng chỉ có thể được phục hồi nếu bọn tham quan vô lại từ chức.
“Từ chức trong trường hợp này nên trở thành một quy trình chính trị chuẩn mực: nó cho thấy người quan chức tôn trọng công việc mình làm, trân trọng ý kiến quần chúng, và sẵn lòng chấp nhận sự giám sát của công dân mà mình phục vụ. Đó cũng nên là một phản xạ tự nhiên của bất cứ con người nào còn có chút liêm sỉ. Nhưng không, đàng này lại có những kẻ dùng tuyệt chiêu “mặt dày, tâm đen” vốn được dùng thường xuyên trong lịch sử Trung Quốc. Họ cứ trơ trơ trước bất cứ áp lực nào, cứ lì lợm trước bất cứ lời nguyền rủa nào của cả xã hội, cứ bám víu không rời vị trí “có chức là có quyền”. Họ không những không biết sợ ý kiến quần chúng, mà trong thâm tâm, cũng không còn cảm giác nhục nhã.
“Một lần nữa, tôi kêu gọi Giám đốc Sở Lao động và An sinh xã hội tỉnh Sơn Tây, người có trách nhiệm không thể chối cãi trong vụ tai tiếng lò gạch, phải đối diện với dư luận cả nước, phải có can đảm chấp nhận trách nhiệm, phải nhìn thẳng vào vấn đề và phục tùng nguyện vọng của công chúng. Ông chỉ có một cách để tôn trọng vai trò công bộc nhân dân, để cảm ơn đồng bào, để xin lỗi một cách cụ thể, đó là từ chức.”
Nhưng, đứng trước đòi hỏi kiên quyết như thế, với sự hậu thuẫn mạnh mẽ của dư luận, tại sao vẫn chưa hề thấy bất cứ một quan chức cấp tỉnh nào từ chức? Tại sao chính quyền trung ương không can thiệp và yêu cầu họ phải chịu trách nhiệm? Tại sao báo đài và các phương tiện truyền thông nhà nước chỉ tập trung vào các lò gạch ở Sơn Tây mà không hề chú ý gì đến tình trạng vô trách nhiệm ở tỉnh Hà Nam lân cận, là quê quán của hầu hết các trẻ em bị bắt cóc làm nô lệ? Thật khó có thể không kết luận thẳng thắn rằng việc ông Chủ tịch Sơn Tây tự kiểm điểm và xin lỗi cũng chẳng có ý nghĩa gì, mà chỉ là một chiêu trò chiếu lệ và giả tạo.
Tại Sơn Tây, nơi ai nấy nhìn vào, chỉ có những cán bộ cấp thấp của huyện và thị trấn phải chịu hình phạt. Đảng viên và các quan chức chính quyền cấp cao hơn chỉ phải làm “kiểm điểm” mà thôi. Ngày 16 tháng 7, trang mạng chinanews.com cho biết Đảng ủy tỉnh Sơn Tây đã chỉ đạo cho Đảng ủy tại các thành phố Lâm Phần và Vận Thành phải “nghiêm túc kiểm điểm”. Tương tự, hệ thống nhà nước cũng bắt chước làm theo, chính quyền tỉnh Sơn Tây cũng chỉ đạo cho chính quyền các thành phố Lâm Phần và Vận Thành, cho Sở Lao động và An sinh xã hội tỉnh, cho Sở Đất đai và Tài nguyên tỉnh, cho Sở Công nghiệp và Thương mại tỉnh phải “nghiêm túc kiểm điểm”. Thế là các quan chức hàng đầu của các thành phố và cơ quan nhà nước này đã tự kiểm điểm trong các cuộc họp nội bộ quy tụ đông đảo các quan chức nhà nước khác. Tức là chỉ toàn là nói và nói.
Dĩ nhiên, người cần thú tội không chỉ là các vị ở Sơn Tây. Các quan chức cao cấp ở HàNamcũng cần làm tương tự. Gần hai phần ba số trẻ mất tích của 400 ông bố viết thư cầu cứu là các em quê quán ở HàNam. Việc có quá nhiều trẻ em mất tích lâu ngày đến thế cho thấy nạn buôn người đã lan tràn tại HàNam. HàNamchính là nơi cung cấp lao động nô lệ. Hơn thế nữa, khi các ông bố bà mẹ không tìm ra con mình sau nhiều ngày tìm kiếm – rồi bất chợt chúng được tìm ra, không nhờ lực lượng công an, mà nhờ các nhà báo – thì càng thấy rõ các cơ quan ban ngành công an cũng chí ít là mắc tội xao nhãng nhiệm vụ một cách nghiêm trọng, hoặc tệ hơn là cố tình làm ngơ, quay nhìn chỗ khác mặc cho tội phạm xảy ra. Những cơ quan công an này phải có trách nhiệm. Chủ tịch tỉnh HàNam, ông Từ Quang Xuân, ít nhất cũng như chủ tịch Sơn Tây Ư Ấu Quân, phải ra trước công chúng nói lời xin lỗi với các nạn nhân và gia đình các em.
Lý do chính khiến các quan chức ở mọi cấp độ tại Trung Quốc trở nên vô cảm và vô trách nhiệm là vì họ được bổ nhiệm bởi một hệ thống mà trong đó quyền lực công đã trở thành quyền lực riêng nằm trọn trong tay một nhóm tư nhân là Đảng Cộng sản Trung Quốc. Để bảo vệ quyền bính của nền độc tài một đảng và quyền lợi của nhóm đặc quyền chóp bu, Đảng đã nắm thật chặt quy trình bổ nhiệm và sa thải nhân sự tại mọi cấp độ. Trên thực tế, việc này đã cướp mất quyền lực từ tay người dân, đối tượng đáng lý phải được hành xử quyền lực này, và biến việc bổ nhiệm thành món hàng cho những cuộc trao đổi riêng tư trong nội bộ Đảng. Quyền lực của mọi quan chức ở mọi cấp độ đều không đến từ dưới, tức từ dân, mà đến từ trên, dọc theo cơ cấu tổ chức của nhóm tư nhân nắm độc quyền cai trị. Tình thế này dẫn đến lối hành xử gần như thành quán tính: ưu tiên đầu tiên của các quan chức là luôn luôn phục vụ bề trên (thực ra là phục vụ chính mình) chứ không phải phục vụ người dân bên dưới. Ưu tiên này không hề được che đậy, mà còn được phơi bày lộ liễu. Chẳng hạn như trong cuộc phỏng vấn ngày 5 tháng 7, 2007, trên tờ Cuối tuần Phương Nam, Chủ tịch Ư Ấu Quân đã nói về sứ mệnh của mình bằng những lời như sau: “Khi Đảng gửi tôi đến Sơn Tây, Đảng đã giao cho tôi một trách nhiệm nặng nề. Khi Quốc hội bổ nhiệm tôi làm Chủ tịch, Quốc hội đã đầu tư niềm tin rất lớn vào tôi. Bổn phận của tôi là bảo vệ lãnh thổ, giúp Trung ương Đảng gánh vác gánh nặng của mình, và làm giảm nhẹ những bức xúc của dân chúng.” Thật rõ ràng, ngay cả trong ngôn ngữ, người dân luôn chỉ đứng cuối cùng.
Không chỉ không có bất cứ quan chức cấp tỉnh nào từ chức, cũng không hề thấy một vụ từ chức nào của các quan chức huyện Hồng Đỗng hoặc thành phố Lâm Phần – những người chịu trách nhiệm trực tiếp về vụ tai tiếng lò gạch. Cũng chẳng có quan chức ngành công an nào của Hà Nam hay Sơn Tây, những kẻ đã bỏ ngoài tai các báo cáo về trẻ em mất tích suốt một thời gian dài, đứng ra chịu trách nhiệm. (Một vài ông trưởng công an địa phương có bị điều tra, nhưng cũng chỉ có thế rồi thôi.) Hệ thống tư pháp – một công cụ độc quyền khác của Đảng – luôn luôn cho thấy sự hữu hiệu khi xử lý người dân, nhưng lại hoàn toàn vô hiệu khi phải đối đầu với liên minh chính quyền và thế giới ngầm.
CÂU HỎI THỨ BA: Tại sao phải mất quá lâu trước khi người ta biết đến một vụ tai tiếng lớn như vậy?
Trong bất cứ quốc gia văn minh nào, câu chuyện về trẻ em lao động như nô lệ sẽ là tin tức hàng đầu, ngay cả khi chỉ có vài người liên quan, huống gì khi có tới hơn cả ngàn người. Thế mà ở Trung Quốc, trong khi tin tức từ Sơn Tây gây chấn động trên thế giới, thì tựa đề các bài báo trong nước vẫn chỉ đầy dẫy các vụ đi đây đi đó của nhóm lãnh đạo Cộng sản chóp bu. Tường thuật tin tốt lành và phổ biến chủ trương nhà nước vẫn là công việc chính của báo chí truyền thông Trung Quốc. Ban Tuyên truyền của Đảng ở các cấp, và các cơ quan như Cục Quản lý Báo chí và Xuất bản chuyên trách các vấn đề ý thức hệ, là những đơn vị phải chịu trách nhiệm trong vụ này. Đó là những con chó săn chuyên sục sạo giới báo chí truyền thông, buộc họ phải trở thành miệng lưỡi của Đảng, cùng lúc, cướp mất của dân chúng quyền được thông tin và cướp mất của nhà báo quyền được viết trung thực.
Không có quyền tự do để viết trung thực, báo chí truyền thông, sau một thời gian, trở thành công cụ của chế độ trong âm mưu bưng bít thông tin và giữ dân chúng trong vòng ngu dốt. Như vụ lò gạch cho thấy, việc bưng bít thông tin đã dẫn tới thảm họa. Nhưng khi thảm họa xảy ra rồi thì Đảng lại thọc tay vào báo chí truyền thông và nhào nặn để biến thủ phạm ác ôn thành người hùng cứu nhân độ thế, biến chính quyền hành dân thành chính quyền thương dân, biến các vụ xử lý hậu quả thành các thành tích chính trị. Hàng loạt các tựa bài mỹ miều được dùng để che đậy những sai phạm đầy dẫy của chế độ. Vì vậy, khi vụ việc gây chấn động ở Sơn Tây được phơi bày, thì phóng sự về tình trạng và số phận của trẻ em nô lệ đã bị gạt ra ngoài, nhường chỗ cho các phóng sự về ông Hồ Cẩm Đào, ông Ôn Gia Bảo và các quan chức cao cấp khác đang chỉ đạo này kia. Câu chuyện về các ông bố bà mẹ đi tìm con cũng phải nhường chỗ cho câu chuyện về công cuộc giải cứu của chính quyền địa phương. Cuối cùng thì sự độc quyền truyền thông của chế độ lại một lần nữa làm được phép lạ: lời nói và việc làm của các quan chức chính quyền cấp cao và cấp thấp trở thành sự kiện truyền thông, trở thành trung tâm của sự chú ý, trong khi tiếng nói của những nạn nhân, nếu có may mắn lọt ra ngoài, chỉ được xuất hiện trên Internet.
CÂU HỎI THỨ TƯ: Tại sao không ai làm gì để chấm dứt các hoạt động kinh tế ngầm ở Trung Quốc, mặc dù nó khiến người lao động nhập cư bị bóc lột và gây ra nạn lao động trẻ em, bắt cóc trẻ em?
Việc lạm dụng lao động nhập cư, kể cả trẻ em, đang tăng dần. Nhiều vụ mới liên tục xuất hiện. Tình trạng này không chỉ tiếp diễn, mà còn mỗi ngày một thêm trầm trọng. Đơn giản là vì càng thấy những tội ác tương tự bị làm ngơ thì tội ác càng trở nên hấp dẫn đối với các doanh nhân vốn lợi dụng kẻ yếu để làm giàu, và cho các nhóm lợi ích, gồm cả các quan chức tham nhũng, kẻ đứng sau lưng đám doanh nhân, che ô dù cho họ để được bù lại một phần miếng bánh lợi nhuận. Quan chức chính quyền che đậy việc mình làm bằng những mỹ từ như “phát triển kinh tế địa phương” và “bảo vệ trật tự công cộng”. Nhưng sự thật là tại Trung Quốc, thế giới ngầm và chính quyền đã ăn vào nhau và nhập thành một. Có thể nói, các phần tử tội phạm đã được quan chức hóa, và các quan chức đã được tội phạm hóa. Một số ông trùm của thế giới ngầm đang giữ các chức danh trong Quốc hội hoặc trong Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân, trong khi các quan chức dân sự lại lệ thuộc vào thế giới ngầm để kiểm soát xã hội.(3)
Quan chức chính quyền và thế giới ngầm cũng có chung trách nhiệm về những vi phạm trắng trợn kia và về cả vỏ bọc chính trị đang bảo vệ họ – thế nhưng chính quyền trung ương lại dường như không có công thức nào để khống chế bất cứ điều gì. Không ai biết chính quyền trung ương không thể can thiệp hay không muốn can thiệp, nhưng dù gì đi nữa thì nó đã không can thiệp – và nhờ vậy mà sự móc ngoặc giữa thế giới ngầm và chính quyền đã diễn ra không hề bị cản trở ở nhiều địa phương. Điều này khiến ta phải thắc mắc không biết ở cấp độ cao nhất của chính quyền, tình trạng tương tự có xảy ra hay không.
CÂU HỎI THỨ NĂM: Làm thế nào Quốc hội và Hội đồng Nhân dân các cấp lại có thể ngoảnh mặt làm ngơ trước tình trạng lạm quyền xấu xa đến thế?
Theo luật, Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất. Khoảng 3000 đại biểu được giao trách nhiệm giám sát mọi nhánh hoạt động của chính quyền, và đại biểu của tất cả các Hội đồng Nhân dân cấp dưới, với tổng số khoảng 3 triệu người, cũng có trách nhiệm tương tự tại cấp độ của mình. Tại sao, với rất ít ngoại lệ, số đại biểu đông đảo này lại kém hiệu quả đến thế?
Báo chí kể câu chuyện về một Đại biểu Quốc hội duy nhất từ HàNam, suốt 9 năm trời đã làm tất cả những gì có thể về vụ lò gạch. Nhưng ông chỉ có một mình, không có bất cứ ai của Quốc hội, hay của các Hội đồng Nhân dân các cấp cộng tác với ông. Ai cho phép các Đại biểu Quốc hội vừa hành xử như thế vừa tự xưng mình là cơ quan thể hiện ý nguyện của nhân dân, và làm thế nào các Đại biểu nhân dân lại có can đảm nói rằng họ “đại diện” cho bất cứ ai?
Trong hệ thống chính trị Trung Quốc, sự thiếu giám sát của Quốc hội hay Hội đồng Nhân dân đi song song với sự lạm quyền của các cơ quan nhà nước. Sự cộng sinh này có được là do Quốc hội, hay Hội đồng Nhân dân, và chính quyền có chung một nguồn gốc, đó là quyền lực độc tài của Đảng. Cả hai đối tượng đều có chung ưu tiên hàng đầu là phục vụ quyền lực kia, chứ không phải phục vụ nhân dân.
Nông dân chiếm 80 phần trăm dân số nhưng chỉ có 20 phần trăm ghế đại diện tại Quốc hội, trong khi thị dân, chiếm 20 phần trăm dân số, lại có số ghế bốn lần hơn. Nhưng sự chênh lệch này cũng chẳng có ý nghĩa gì, vì thực ra có ai được đại diện đúng nghĩa đâu. Ủy ban Thường trực Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc bổ nhiệm Chủ tịch Quốc hội, và Bí thư Đảng cũng là Chủ tịch các Hội đồng Nhân dân tại mọi tầng cấp bên dưới. Hơn 70 phần trăm Đại biểu Hội đồng Nhân dân đều là Đảng viên hay quan chức nhà nước.
Vì mọi quyền lực của Quốc hội hay Hội đồng Nhân dân đều đến từ Đảng, nên các Đại biểu trở thành những kẻ a dua, tán thành không suy nghĩ trong bàn tay quyền lực của Đảng. Và khi các “Đại biểu nhân dân” tại mọi cấp độ đều là các quan chức nhà nước – từ Thủ tướng, Chủ tịch tỉnh, Chủ tịch thành phố, Giám đốc sở, Chủ tịch huyện, Chủ tịch thị trấn, Chủ tịch xã, cho tới mọi cấp độ bên dưới nữa – thì làm thế nào để họ “giám sát” việc sử dụng quyền lực mà họ đang nắm giữ trong tay? Không hề có sự phân biệt tách bạch nào giữa quyền hành chính và quyền giám sát. Uông Đông Di là ví dụ điển hình. Uông là cha của chủ lò gạch tai tiếng Vương Bân Bân ở thôn Thảo Thánh, thị trấn Quảng Thắng Tự, huyện Hồng Đỗng, thành phố Lâm Phần, tỉnh Sơn Tây. Ông có quyền hành chính với tư cách là Bí thư Đảng tại thôn Thảo Thánh, và quyền “giám sát” với tư cách là Phó Chủ tịch Hội đồng Nhân dân huyện Hồng Đỗng.
CÂU HỎI THỨ SÁU: Tại sao, từ khi Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo lên cầm quyền, Trung Quốc lại chứng kiến hàng loạt các thảm họa, mặc dù tất cả đều có thể xử lý được trước khi vượt quá tầm kiểm soát?
Ví dụ về thảm họa có nhiều: Khủng hoảng bệnh SARS năm 2003; vụ ô nhiễm nước sông Tùng Hoa năm 2005; hàng loạt vụ hoảng loạn liên tiếp năm 2006 về thực phẩm nhiễm độc và thuốc giả… Mẫu số chung cho tất cả các thảm họa này là quyền lực độc tôn của một chế độ toàn trị, chế độ ấy làm ngơ không hành động và rồi xoay sở mọi cách để che đậy sự vô dụng của mình. Nếu không có nỗ lực của các công dân có lương tâm – họ phổ biến thông tin trên Internet, mà nhà nước không thể ngăn chặn hết được, và qua đó đưa vấn đề ra ánh sáng, tạo áp lực buộc chính quyền Hồ-Ôn phải hành động – thì hậu quả của các khủng hoảng kia còn trầm trọng hơn nữa. Internet thực sự là món quà Thượng Đế dành cho người dân Trung Quốc.
Đặc biệt trong vụ lò gạch này, chế độ Hồ-Ôn không thể nào đùn đẩy trách nhiệm cho chính quyền địa phương nào “khác” mình được, vì chính quyền địa phương chẳng qua chỉ là tạo vật của chính quyền trung ương mà thôi. Lập luận cho rằng thông tin bị “che đậy”, hoặc “không nhận được” là hoàn toàn không thuyết phục. Câu chuyện sau đây là một ví dụ:
Ngày 8 tháng 3, 2007, bà Tại Ái Tri, sống tại thành phố Trịnh Châu, tỉnh Hà Nam, lên đường đi tìm đứa con 15 tuổi tên Vương Hâm Lỗi. Cuối tháng đó, bà và phụ huynh một trẻ mất tích khác, đến từ huyện Mạnh ở HàNam, cùng đi Sơn Tây tìm con. Họ đến hơn 100 lò gạch nhưng không tìm thấy con. Đến đầu tháng 4, bà Tại lại đi Sơn Tây lần nữa, lần này cùng với năm phụ huynh có con mất tích khác, nhưng thêm một lần nữa, họ không tìm thấy gì.
Đến ngày 9 tháng 5, phóng viên Phó Chân Chung của Đài Truyền hình HàNamtheo chân sáu phụ huynh kia trong chuyến thứ ba của họ đến Sơn Tây. Phóng viên Phó bí mật quay cảnh lao động tại lò gạch và hoàn thành một phim tài liệu truyền hình có tên “Tàn ác, lời không thể tả, trầm trọng, thước không thể đo.” Sau khi phóng sự được phát hình, hơn 1000 phụ huynh đã liên hệ với Đài Truyền hình yêu cầu giúp đỡ. Ngày 5 tháng 6, một bài viết xuất hiện trên Internet, tại Diễn đàn Đại Hà, tỉnh Hà Nam, dưới tiêu đề “Thế giới ngầm lại hoành hành! Lời kêu cứu tuyệt vọng từ 400 ông bố có con bị bán vào các lò gạch tỉnh Sơn Tây”. Đến ngày 10 tháng 6, bà Tại Ái Tri gửi thư cầu cứu đến Thủ tướng Ôn Gia Bảo.
Chỉ sau khi những việc vừa kể gây xôn xao thì báo đài, truyền thông toàn quốc mới bắt đầu chú ý đến vấn đề lao động nô lệ tại các lò gạch. Ba tháng tròn trôi qua uổng phí, kể từ 18 tháng 3 đến 15 tháng 6, ngày chế độ Hồ-Ôn cuối cùng mới đưa ra được vài chỉ thị liên quan.
Đáng nổi đóa hơn nữa nếu tính đến việc này: Ngay từ rất sớm, từ năm 1998, tức chín năm trước khi các phụ huynh ở Hà Nam hành động, Chủ tịch thị trấn, ông Trần Tiên Giáo, thị trấn Tân Quan, Hà Nam, Đại biểu Hội đồng Nhân dân Hà Nam, đã tìm hiểu về vấn đề trẻ em lao động nô lệ tại các lò gạch tỉnh Sơn Tây, Hà Bắc và các nơi khác. Ông Trần đã giải cứu hàng trăm lao động bị bắt làm nô lệ, trong số có nhiều trẻ em. Sau đó, thấy quy mô của vấn đề quá lớn, ông đã quyết định cầu cứu chính quyền trung ương. Ngày 8 tháng 9, 2006, ông viết thư cho Thủ tướng Ôn Gia Bảo đề nghị phải có một dự án tổng thể trên phạm vi toàn quốc để giải quyết một lần tận gốc vấn đề lao động nô lệ tại các lò gạch.
Nhưng lá thư của đại biểu Trần mất hút như hòn đá rớt xuống biển. Ông không nhận được bất cứ trả lời nào từ Ôn Gia Bảo, hay bất cứ ai. Hãy tưởng tượng điều gì sẽ xảy ra nếu ông Ôn ngay thời điểm nhận thư đã ra tay làm điều gì đó. Rất có thể là việc đưa các lò gạch vi phạm ra ánh sáng, việc phá vỡ các băng đảng điều hành chúng, việc giải cứu các lao động nô lệ, việc kỷ luật các quan chức vô trách nhiệm, tất cả đã có thể diễn ra ít nhất sáu tháng trước thực tế. Thay vì đùn đẩy trách nhiệm cho các quan chức cấp thấp hơn, nên chăng chế độ Hồ-Ôn phải xin lỗi nạn nhân vì sai phạm của chính họ trong việc không trả lời thư của người Đại biểu nhân dân kia? Và nếu đây là cách họ ứng xử với thư cầu cứu của một đại biểu nhân dân có vị trí uy tín như thế, thì chúng ta có thể nói gì về cách họ xử sự khi nhận được kiến nghị của những người dân bình thường?
Vở diễn yêu thích của chế độ Hồ-Ôn từ ngày lên nắm quyền chính là vở “chúng-tôi-yêu-nhân-dân”. Họ hát rằng: Này, chúng tôi đã bãi bỏ luật lệ giam giữ tùy tiện gọi là luật “tạm giữ rồi trả về”, chúng tôi đã thay đổi hệ thống bao che trong vụ SARS, chúng tôi đã đưa “nhân quyền” vào hiến pháp, chúng tôi đã hủy bỏ thuế nông nghiệp, chúng tôi đã ngược xuôi khắp nước chứng tỏ sự quan tâm, đã giúp người lao động nhập cư có đồng lương hợp lý hơn, đã giúp nông dân bán được vụ đào, chúng tôi đã đón giao thừa trong hầm mỏ, đã đi giày cũ, đã khóc nhiều lần trước nỗi khổ của người dân, vân vân và vân vân. Sau một thời gian, nhờ nắm độc quyền báo chí và truyền thông trong tay, một nền báo chí và truyền thông ra rả tường trình công việc của họ hàng ngày, hàng tháng, hàng năm, cuối cùng thì họ cũng xây dựng được một hình ảnh nhất định về việc chăm sóc nhân dân. Nhưng, hình ảnh này là thứ họ mang trên mặt, trước ống kính truyền hình. Sự vô cảm của họ nằm sâu trong xương, và qua những vụ làm ăn diễn ra trong chiếc hộp đen bí mật.
Nói cho cùng thì họ chính là những thành viên cao cấp nhất của nhóm cai trị tư nhân trên cả nước, và ưu tiên thứ nhất của họ phải luôn luôn là bảo vệ quyền lợi – quyền lực và đặc lợi – đã có của nhóm tư nhân này. Họ không thể nào thực sự đặt ý dân lên thành ưu tiên một, hoặc đưa nỗi khổ của dân, quyền lợi chung của dân lên hàng đầu. Đối với họ, công tác đầu tiên của báo chí truyền thông là phải nêu bật những thành tích chính trị của Đảng, và tô vẽ mọi sự dưới một thứ ánh sáng chói lọi nhất có thể. Thật không thể tưởng tượng được ngày nào đó báo chí truyền thông trở nên độc lập, khám phá và phơi bày hết vấn đề này đến vấn đề khác. Vụ trẻ em lao động nô lệ trong các lò gạch, thêm một lần nữa, minh họa cho sự điêu ngoa trong lời tuyên bố đạo đức giả về việc “đi đến tận cùng sự việc”, hoặc “lấy dân làm gốc”.
Lý do khiến chế độ vô cảm đến thế không phải vì những con người trong chế độ ấy đều vô cảm, lạnh lùng. Vấn đề nằm ở chỗ chính hệ thống độc tài toàn trị là một hệ thống tàn nhẫn. Hệ thống này không thể tự điều chỉnh để tôn trọng sự sống hoặc cổ xúy cho nhân quyền. Một nhóm lãnh đạo đặt việc duy trì quyền lực độc tôn của mình làm ưu tiên cao nhất thì không thể xoay chiều để đặt sự sống còn của người dân, hoặc của trẻ em, lên vị trí cao hơn được. Nói cho cùng, chính vì hệ thống không hề đối xử với con người như những con người, nên những vụ việc dựng tóc gáy như trên mới có thể xảy ra. Quyền lực toàn trị lạnh lùng như băng giá. Nó buộc con người phải tập trung vào quyền lực và chỉ quyền lực mà thôi, và điều này làm cho sự cảm thông ấm áp giữa người với người không còn chỗ đứng.
Lịch sử cai trị của Đảng Cộng sản tại Trung Quốc cho thấy họ trung thành triệt để với lề lối toàn trị này. Trừ khi hệ thống thay đổi tại Trung Quốc, những thảm họa như vụ lò gạch sẽ chẳng bao giờ bị bứng tận gốc rễ; thực ra, ngay cả cành lá của cây thảm họa này cũng khó lòng mà rớt xuống, nói chi đến gốc rễ.
Viết tại nhà ở Bắc Kinh, 16 tháng 7, 2007.
(Phổ biến lần đầu trên Ren yu renquan (Người và quyền con người) số 8, 2007. Bản dịch từ Trung văn của Perry Link(4))
L. H. B.
Dịch giả gửi trự tiếp cho BVN.
Chú thích:
(1) Vụ lò gạch đen ở Sơn Tây xảy ra năm 2007, thì năm 2009, một vụ tương tự lại xảy ra ở An Huy. Tham khảo tại đây: http://www.anninhthudo.vn/Quoc-te/Lo-gach-den-va-nhung-toi-ac-kho-dung/348931.antd.
Một số quan chức bị kiểm điểm trong vụ Sơn Tây sau đó lại được trọng dụng ở nơi khác, ít lâu sau. Hiện tượng này không hiếm thấy. Tham khảo tại đây: http://dantri.com.vn/c12/s36-326906/khong-the-che-mat-nhan-dan.htm
(2) Tử tội Triệu Nghiêm Băng [Zhao Yanbing] tự thú đã giết hại một công nhân tâm thần làm việc tại lò gạch. Tham khảo: http://www.theage.com.au/news/world/china-strikes-back-at-brickyard-slavery/2007/07/17/1184559787575.html
(3) Ở một đoạn khác trong cuốn “No Enemies, No Hatred”, trang 214-215, Lưu Hiểu Ba còn cho biết:
“Cuộc hôn nhân giữa chính quyền và giới kinh doanh là điều đã rõ ràng, ai cũng biết, nhưng trong thời gian gần đây, chúng ta còn thấy sự liên minh giữa chính quyền và thế giới ngầm nữa. Ở một số địa phương, liên minh này khắng khít đến nỗi không thể phân biệt được ai với ai. Thế giới ngầm hối lộ để mua chuộc chính quyền, và chính quyền mượn tay thế giới ngầm để kiểm soát những người chống đối. Quan chức Đảng ngày càng ứng xử như những bố già trong thế giới ngầm, họ bác bỏ mọi chỉ trích hay bất đồng. Họ có thể dùng guồng máy quyền lực của nhà nước để cắt cổ bạn, và dùng thủ đoạn của thế giới ngầm để bịt miệng bạn.”
(4) Bản dịch của Perry Link có lẽ gần nguyên bản hơn, còn nhiều đoạn mang văn phong Trung Quốc, trong khi bản dịch của J. Latourelle có tính phỏng dịch hơn. Tham khảo: http://www.hrichina.org/crf/article/3201
-------
Người đàn ông không mặt bxvn1
Phạm Toàn chọn dịch và giới thiệu
Nhà báo Luke Harding – tác giả bài điểm sách Người đàn ông không mặt – Cuộc thăng chức khó tin của Vladimir Putin (The Man without a Face – The Unlikely Rise of Vladimir Putin) của Masha Gessen.
Ông cũng là tác giả cuốn Nhà nước mafia (The Mafia State) được xuất bản bởi Guardian Books.
Đôi lời – Ngày 9 tháng 3 năm 2012, trên tờ báo Anh The Guardian có bài điểm sách rất hay của nhà báo Luke Daniel Harding về cuốn sách của Masha Gessen viết về đương kim tổng thống Vladimir Putin. Chậm ba tháng, song trong tay đã có bài báo do bà vợ chuyển đến theo đường link này http://www.guardian.co.uk/books/2012/mar/09/man-without-face-gessen-review. Đọc và chợt nghĩ: những nhà báo ngày ngày đêm đêm chui ra chui vào những trụ sở bóng loáng, những cơ quan thông tin đường bệ trong những tòa nhà cao ngất ngưởng, những ban bệ lý luận kín tiếng nhưng còn hoành tráng gấp bội … tất cả hẳn là đã có bài viết này trước mình nhiều ngày. Nhưng chẳng thấy ở đâu giới thiệu sất. Thì mình làm cái việc họ không làm vậy. Đơn giản thôi: góp phần bóc trần sự dối trá ở bất kỳ chỗ nào mỗi khi có thể.
Và cũng còn một động cơ này nữa: nhắc khéo độc giả rằng chuyện Tàu Cộng bắt nạt các nước (trong đó có Việt Nam) ở Biển Đông, chuyện quan hệ dở ông dở thằng dở lưu manh dở đồng chí, đều bắt nguồn sâu hơn và xa hơn.
P. T.
Nhà báo Luke Harding
Luke Daniel Harding (sinh năm 1968) là nhà báo Anh phụ trách chuyên mục chính trị của báo The Guardian. Ông là phóng viên của tờ The Guardian ở Nga từ năm 2007 cho tới khi bị trục xuất khỏi nước này vào năm 2011 vì loạt bài mạnh mẽ của ông. Cuốn sách “Nhà nước Mafia” (Mafia State) ông in năm 2011 bàn đến hệ thống chính trị ở nước Nga dưới quyền Vladimir Putin, một hệ thống được ông mô tả là nhà nước mafia.
Tháng Hai năm 2011, Harding bị từ chối tái nhập cảnh vào Nga. Thế là ông trở thành nhà báo nước ngoài đầu tiên bị trục xuất khỏi Nga kể từ khi chấm dứt chiến tranh lạnh. Báo The Guardian gắn việc tống ông ra khỏi Nga với loạt bài thẳng thừng về nước Nga, kể cả chuyện đồn đãi về tài sản của Vladimir Putin và việc Putin biết rõ vụ ám sát cựu điệp viên Nga Alexander Litvinenko. Giám đốc tổ chức theo dõi kiểm duyệt Index on Censorship John Kampfner bình luận rằng “Cách cư xử của chính phủ Nga đối với Luke Harding là nhỏ mọn và trả thù, và là bằng chứng của tình trạng tự do ngôn luận thảm hại ở đất nước này.” Elsa Vidal, người đứng đầu bộ phận Châu Âu và Trung Á của tổ chức Theo dõi tự do truyền thông thì nói: “Đây là một bước gây sốc nghiêm trọng chưa từng có kể từ Chiến tranh lạnh [...] Đây là một mưu toan buộc các phóng viên làm việc cho các tờ báo nước ngoài ở Moxkva phải tự kiểm duyệt.”
Việc trục xuất Harding diễn ra trước chuyến thăm Anh quốc của bộ trưởng ngoại giao Nga Sergei Lavrov, dẫn tới những gợi ý của nghị sĩ đảng Lao động Chris Bryant rằng chính phủ Anh nên rút lại lời mời Lavrov. Ngày 9 tháng Hai, Nga đảo lại quyết định không cấm Harding nhập cảnh nhưng lại chỉ cho ông này visa ngắn hạn thôi. Harding chọn phương án không xin visa nữa, và quay lại Anh quốc vào tháng Năm. Harding khẳng định rằng trong thời gian ở Nga, ông bị cơ quan An ninh Liên bang (FSS) quấy rầy về tâm lý rất nặng nề vì cơ quan này rất không ưng những bài Harding viết.
Thế nhưng ngoại trưởng Nga vẫn lem lém trả lời báo chí rằng “… ông ấy có visa đấy chứ! Nhưng ông ấy không tới nhận! Không chịu tới nhận…”
Harding hiện nay làm việc tại trụ sở báo The Guardian tại London.
Chân dung Vladimir Putin trong chiến dịch tranh cử với hàng chữ “Bầu cho Putin! Có thế thôi!” Ảnh: Natalia Kolesnikova/AFP/Getty Images
Người đàn ông không mặt – điểm sách
(Masha Gessen, “Cuộc thăng chức khó mà tin được của Vladimir Putin” (The Unlikely Rise of Vladimir Putin).
Putin đã trở lại rồi, nhưng liệu ông ta nấn ná được bao lâu?
Có một mối đồng thuận mới, ấy là chế độ của Vladimir Putin đã hết đời rồi. Song, tuần vừa rồi, viên cựu gián điệp của KGB lại đã được “tái đắc cử” tổng thống Nga trong thắng lợi ròn rã. Tháng Nam, ông ta sẽ quay lại điện Kremlin làm một nhiệm kỳ thứ ba – chàng Dmitry Medvedev bị đá đít xuống làm thủ tướng, và sớm muộn sẽ bị tống khứ khỏi sân khấu. Vào mùa hè này, Putin sẽ qua Anh quốc, cái quốc gia châu Âu ít được ông ta ưu ái nhất, để sẽ ngồi vào chiếc ghế đại quan khách thế vận hội Olympic 2012.
Như Masha Gessen thừa nhận trong công trình nghiên cứu sáng láng của bà về nhà lãnh đạo vĩnh cửu của nước Nga, tẩy được Putin đi sẽ là việc làm rất khó. Chắc chắn là trong ba tháng vừa rồi những người Nga trung lưu đã đứng lên chống lại ông ta với số lượng chưa từng thấy trong quá khứ. Ngòi nổ là cuộc tuyển cử bịp bợm trắng trợn vào Hạ viện Nga (Duma quốc gia) hồi tháng Mười hai. Vào ngày thứ Hai, hàng nghìn người đã tụ tập tại quảng trường Pushkin để chống lại tuyên bố thắng cử của phe Putin. Nước Nga hiện nay bị chia rẽ thành ba phe: những người chống Putin cuồng nhiệt, những người ủng hộ ông ta, coi là không có một lối thoát nào khác nữa, và những người thờ ơ bất cần.
Vấn đề đặt ra cho các biểu tình viên, Gessen viết, là ở chỗ chẳng hề có một chế tài đơn giản nào để buộc Putin phải ra đi, không có “mối quan hệ nhân-quả rõ rệt nào giữa những cuộc biểu tình trên đường phố và cuộc tan rụng cuối cùng sẽ xảy đến với chế độ (Putin)”. Giống như thời Liên Xô trước đây, nước Nga thiếu hẳn những thiết chế độc lập chẳng hạn như một Tòa án tối cao khả dĩ làm trung gian thương thuyết giữa phe cầm quyền và phe đối lập đang mỗi ngày một đông lên. Trải 12 năm qua, nền dân chủ ở nước Nga đã bị ép cho nhão ra rồi.
Tiếng thế nhưng Gessen vẫn là người lạc quan. Trong lời bạt cuốn sách của mình, bà mô tả những cuộc biểu tình tháng Mười hai như là những cuộc vui đột ngột người nọ người kia ném tuyết vào nhau. Bà tin tưởng rằng chế độ này đã “đến ngày tận số” và “quả bóng Putin rồi sẽ vỡ tung”. Bà viết, “chuyện đó có thể xảy ra trong vòng nhiều tháng thậm chí trong vòng vài ba năm” và bà tiên báo rằng phong trào biểu tình đường phố sẽ còn tiếp tục “cho tới khi những người cầm quyền nhận thấy họ chỉ là một thiểu số thảm hại đáng khinh”. Hay đấy, ô kê, rất có thể.
Thế nhưng bây giờ đây chẳng có ai biết rõ khi nào hoặc thực ra là bằng cách gì Putin sẽ bị tống khứ đi. Trong bài nói có cả nước mắt khi thắng cử tổng thống, Putin dựng chuyện ông ta mới phá vỡ một cuộc đảo chính do phương Tây chống lưng. Và cũng chẳng ai biết rõ đâu là ẩn dụ hay nhất để khơi gợi những sự kiện bi tráng đang ngầm diễn ra tại Moxkva. (Lúc này ở đây vẫn còn quá lạnh để có thể nói với nhau về một “Mùa Xuân Nga”; có lẽ dùng chữ “Cách Mạng Tuyết” thì hay hơn. Nhưng chẳng có cách mạng gì sất: tâm trạng đám đông vẫn đang là một cuộc chơi vui và giễu cợt nhiều hơn là tâm trạng phá-tan-tành-các-chiến-lũy.)
Và cũng có vô vàn lý do làm ta thất vọng đến cùng cực khi nghĩ tới những cách thức Putin sẽ dùng để nghiền kẻ thù kiểu con trăn nuốt thức ăn ấy. Gessen là một nhà báo người Nga gốc Mỹ hoàn hảo, sinh sống ở Moxkva, tuổi đời tròn 24 khi Liên bang Xô viết yêu dấu của Putin sụp đổ tan tành. Là một người tìm tòi lì lợm, bà đã viết một cuốn sách dũng cảm, nghiền nát vô vàn huyền thoại và giai thoại quy tập xung quanh đề tài bà chọn.
Tóc hoa râm, vẻ giản dị và dường như không thể nào bị hủ hóa, Putin là con người không có mặt, sẵn sàng cho thiên hạ thêu dệt gì về ông ta cũng được. Boris Berezovsky, kẻ cai trị đất nước Nga trong hậu trường, đã tình cờ moi được Putin ra khỏi cả đám khả dĩ trở thành ứng viên lãnh đạo nước Nga, tin tưởng rằng ông ta là kẻ dễ sai khiến. Các nhà lãnh đạo phương Tây thì ban đầu chỉ nghĩ rằng ông này là một nhà cải cách tự do phóng túng. Và tiếp sau hình ảnh ông Yeltsin run lẩy bẩy, thì nhiều người Nga bình thường thấy ở Putin một kẻ cứu nguy sẽ làm cho đất nước khỏi thua các kẻ thù.
Thế nhưng theo Gessen, thực sự những gì làm thành động lực tâm lý của Putin lại hoàn toàn là hoang sơ. Ông ta ra đời trong một gia đình lao động ở Leningrad sống sót khỏi cuộc vây hãm của quân Đức phát xít. Cái “chú bé thần kỳ” này từ rất sớm đã quyết định gia nhập KGB. Trong một chương viết làm người đọc mê đắm, Gessen làm rõ những gì Putin thực sự hành động ở Dresden, nơi ông ta làm việc cho tới cuối những năm 1980 trong vai gián điệp nằm vùng.
Tại Đông Đức, Putin hoạt động trong vai trò kích động mọi người viết đơn thư tố cáo lẫn nhau (“pen-pusher”); ông ta đã bổ sung vào cả núi thông tin vô dụng do KGB tạo ra. Nhưng Gessen cũng lần ra được một cựu thành viên của một “phe” thuộc Hồng Quân Liên Xô người đã gặp Putin vào thời kỳ u ám ấy. Cái người Tây Đức có lập trường “triệt để” này đã tặng Putin nhiều món quà: một đài radio Grundig hiện đại nhất và một bộ nghe nhạc stereo Blaupunkt cho xe hơi của Putin. Người sĩ quan Stasi này đinh ninh rằng ai được những món đồ như thế đều sẽ rất thích. Nhưng Putin không bao giờ nói cám ơn cả – một thí dụ có từ sớm cho thấy ông ta có mối quan hệ vô cùng “ích kỷ” đối với tiền bạc.
Gessen đi sâu được vào những vụ khác cho thấy sự tham nhũng của cá nhân Putin. Những thời điểm đó nằm sát ngay giai đoạn hậu kỳ-Xô viết khi Putin – giờ đây đã về nước với ít tiền mặt và một máy giặt cũ để khoe khoang về những cuộc phiêu lưu của mình tại Đông Đức – và làm việc trong tư cách trợ lý cho ông thị trưởng ồn ào của St Petersburg, Anatoly Sobchak. Ông Sobchak này thường được thiên hạ coi là một “nhà dân chủ”. Nhưng khi những kẻ cứng rắn trong KGB tìm cách lật đổ Gorbachev thì ông này để lộ ra cách chơi quân bài “đặt vây các cửa”; ông ta nói về dân chủ không phải vì ông tin vào nền dân chủ, mà vì ông nhận thấy dân chủ là chìa khóa để có cuộc sống tử tế hơn.
Khi làm phó thị trưởng phụ trách quan hệ quốc tế, Putin nghĩ ra một mẹo tổ chức cho thành phố xuất nguyên liệu thô sang Đức để đổi lấy thực phẩm nhập khẩu đang cần thiết vô cùng. Nguyên liệu xuất đi rồi, nhưng thực phẩm vẫn bí ẩn nằm ở dâu đó không bao giờ tới. Tiền mà người Đức giữ – $92 triệu đô là ít – cũng mất tăm. Gessen cho rằng ngay từ giai đoạn đầu này Putin đã biển thủ công quỹ, và đến cuối những năm 1990, không nghi ngờ gì nữa, ông ta đã trở thành “triệu phú”.
Cùng lúc, Sobchak giải tán hội đồng thành phố và cài “rệp” khắp trụ sở các nhà báo hàng đầu của St Petersburg. Ông này tổ chức ra cả một hệ thống “chính trị” dân chủ bị oán ghét vô cùng. Toàn bộ những thứ đó đem lại cho Putin một khuôn mẫu điều hành toàn trị mà ông ta sẽ sử dụng sau này. Một khi đã đặt chân vào điện Kremlin, ông ta khởi động “hệ thống khép kín” của riêng mình, Gessen diễn giải, ông ta xây dựng hệ thống “kiểm soát toàn diện” – đặc biệt kiểm soát dòng tiền tệ và dòng thông tin.
Phần lớn nửa sau cuốn sách của Gessen nói về những chuyện quen thuộc với nhiều người: vụ đè bẹp Yukos hãng dầu mỏ tư nhân lớn nhất nước Nga, bỏ tù ông chủ hãng này Mikhail Khodorkovsky; và vụ dùng phóng xạ polonium ám sát Alexander Litvinenko. Tới dây thì phần lớn nhân dân đã thức tỉnh để nhận ra Putin thực sự là người thế nào – một con người “nhỏ bé và thích trả thù”, như lời của chính Gessen, “kẻ sẵn sàng lao vào những cuộc trả thù điên dại, kẻ nhăm nhăm nhòm ngó chiếm đoạt tài sản nhà khác, và là “Bố già” của tầng lớp mafia đang cai trị đấtnước”.
Gessen vẫn tỏ ra lạc quan nghĩ rằng sớm muộn Putin sẽ chui vào lịch sử những Sa hoàng và chuyên chế bị tống khứ của nước Nga. Còn riêng tôi thì nghĩ rằng ông ta sẽ vẫn còn chung sống với chúng ta một thời gian nữa.
L. D. H.