Thứ Năm, 19 tháng 5, 2016

“7 tội ác lớn nhất” của Mao Trạch Đông được phơi bày sau 39 năm ngày ông mất

--Trung Quốc quyết quên đi Cách mạng Văn hóaNgày 16.5.2016 đánh dấu kỷ niệm 50 năm phát động Cách Mạng Văn Hóa tại Trung Quốc, thế nhưng truyền thông nước này hoàn toàn không nhắc đến sự kiện từng ảnh hưởng nghiêm trọng đến đất nước này.


Ngày 16.5.1966, một tài liệu được lưu truyền trong đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đã mở đầu cho cuộc Cách mạng Văn hóa nhằm chống lại âm mưu thay thế đảng bằng "một chế độ độc tài của giai cấp tư sản".

Tiếp theo đó là một thời gian dài đầy biến động, đổ máu và tình trạng trì trệ kinh tế tại Trung Quốc chỉ kết thúc khi Mao Trạch Đông qua đời tháng 9.1976.

Hồng vệ binh đứng trên pháp luật
Một đội Hồng vệ binh với cuốn "Mao tuyển" trên tay

Ngày 8.8.1966, Ủy ban Trung ương ĐCSTQ thông qua "quyết định liên quan đến cuộc Cách mạng Văn hóa Vô sản" với 16 điểm. Quyết định này quy định rằng cuộc Cách mạng văn hóa Vô sản là "một cuộc cách mạng lớn đụng chạm đến tất cả mọi người và thiết lập một giai đoạn mới trong sự phát triển của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong nước, một giai đoạn sâu rộng hơn".

Theo thông cáo 16 điểm trên, lãnh đạo Trung Quốc lấy phong trào sinh viên sẵn có và phát triển nó lên một cấp độ chiến dịch đại chúng toàn quốc, kêu gọi sự tham gia của không những sinh viên mà còn cả công nhân, nông dân, quân nhân, trí thức cách mạng và các cán bộ cách mạng để tiến hành nhiệm vụ chuyển đổi cấu trúc thượng tầng bằng cách treo các áp phích ký tự lớn và tổ chức các cuộc tranh luận sôi nổi.

Ngày 16.8.1966, hàng triệu Hồng vệ binh từ khắp đất nước tập trung tại Bắc Kinh để có cơ hội thấy mặt chủ tịch Mao. Ngay trên đầu cổng Thiên An Môn, chủ tịch Mao Trạch Đông và Lâm Bưu đã xuất hiện và diễn thuyết trước 11 triệu Hồng vệ binh và nhận được rất nhiều tràng reo hò từ đám đông. Mao ca ngợi hành động của Hồng vệ binh trong các chiến dịch gần đây là "phát triển chủ nghĩa xã hội và dân chủ".

Tiếp theo đó, hàng loạt vụ tấn công vào những người được khép tội là "phản cách mạng" được lực lượng Hồng vệ binh tiến hành. Nhiều người đã phải tự tử vì không chịu nổi sự sỉ nhục, bị giết hại hoặc đưa về nông thôn làm việc trong Cách mạng Văn hóa.

Trong Chiến dịch tiêu hủy 4 cái cũ, tất cả những gì liên quan đến tôn giáo đều bị Hồng vệ binh triệt bỏ thẳng tay. Nhiều công trình tôn giáo như chùa chiền, nhà thờ, tu viện Hồi giáo và các nghĩa trang đều bị đóng cửa, đôi khi còn bị cướp phá hoặc bị đập bỏ.

Hành động kinh khủng của Hồng vệ binh không bị ngăn chặn và kiểm soát mà còn được chủ tịch Mao Trạch Đông ca ngợi. Ngày 22.8.1966, ông ban hành một thông cáo chung, trong đó quy định cấm mọi sự can thiệp từ phía công an vào hoạt động của Hồng vệ binh.

Người nào dám ngăn cản hành động của lực lượng Hồng vệ binh sẽ bị ghép tội "phản cách mạng". Vì vậy có thể nói vào thời Cách mạng Văn hóa, lực lượng Hồng vệ binh đứng trên mọi luật pháp, lực lượng này có quyền sinh sát đối với mọi tần lớp trong xã hội.

Thậm chí kể cả những lãnh đạo cấp cao nhất của đảng như Lưu Thiếu Kỳ, Bành Đức Hoài cũng bị Hồng vệ binh đưa ra xử với cáo buộc "phản cách mạng".

Truyền thông Trung Quốc "quên mất" Cách mạng Văn hóa

Trong khi Trung Quốc vẫn không ngừng nhắc đến sự kiện tại Nam Kinh từ hồi thế chiến thứ 2 để hạch tội Nhật Bản thì sự kiện Cách mạng Văn hóa lại không hề được nhắc đến vì tránh ảnh hưởng đến hình tượng của Cố chủ tịch Mao Trạch Đông.

Tờ Global Times, một phụ san của Nhân dân Nhật báo đã bỏ qua hoàn toàn sự kiện Cách mạng Văn hóa và thay vào đó là bản tin về sự tức giận của Trung Quốc trước báo cáo cảnh cáo Trung Quốc của Lầu Năm Góc.

Beijing Times thì đưa lên trang nhất của mình câu chuyện về những nỗ lực của cảnh sát để tìm kiếm trẻ em bị mất tích.

Không chỉ không đăng tưởng niệm sự kiện, học giả Trung Quốc còn bị cấm nói chuyện về chủ đề "nhạy cảm" này.

"Các nhà nghiên cứu Trung Quốc không được chấp nhận trả lời phỏng vấn liên quan đến cuộc Cách mạng Văn hóa", một học giả nói với The Globe and Mail của Canada.

"Họ nghĩ rằng nếu chúng ta tiếp xúc với các mặt tối của Cách mạng Văn hóa sẽ làm dấy lên những nghi ngờ hệ thống chính trị", ông Wang Youqin một chuyên gia nghiên cứu về thời kỳ Cách mạng Văn hóa nói với The Guardian.

Roderick MacFarquhar, một chuyên gia Cách mạng Văn hóa tại Đại học Harvard nói rằng Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình cảnh giác với mọi người muốn sử dụng Cách mạng Văn hóa để "khơi gợi sự thật khó chịu" trong quá khứ của đảng.

Thiên Hà (theo The Guardian)

Trung Quốc lần đầu thừa nhận Cách mạng Văn hóa là 'hoàn toàn sai lầm'


“7 tội ác lớn nhất” của Mao Trạch Đông được phơi bày sau 39 năm ngày ông mất

Ngày 9/9/2015 là tròn 39 năm ngày mất của cựu thủ lĩnh Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) Mao Trạch Đông. Truyền thông của ĐCSTQ đã có bài xã luận: “Khách quan và công bằng mà nói, ông Mao là người vĩ đại, chứ không phải là thần vĩ đại”. Có người chế nhạo trên mạng rằng, đối với các bình luận của truyền thông ĐCSTQ, chúng ta phải hiểu ngược lại mới đúng.
mao-trach-dong


Ngày 10/9, “Thời báo Hoàn Cầu”_ cơ quan truyền thông của ĐCSTQ có bài xã luận rằng: Chính quyền ĐCSTQ biểu thị sự tán dương và tôn trọng “hết sức khách quan” đối với “cống hiến” của Mao Chủ tịch đồng thời cũng “xác nhận” những “sai lầm” của ông. Sau khi chụp lên ông những danh hiệu khác nhau, bài viết đi đến kết luận rằng: “Ông Mao Trạch Đông không phải là người mà một cá nhân hay một nhóm người là có năng lực đánh giá, có thể đánh giá ông thì chỉ có toàn bộ nhân dân Trung Quốc.”
Sau khi bài viết được công bố, cộng đồng mạng lập tức bình luận về sự việc này. Một độc giả tại thành phố Chương Châu tỉnh Phúc Kiến châm biếm rằng: Xã luận của ” Thời báo Hoàn cầu” chúng ta phải hiểu ngược lại thì mới đúng.
Một độc giả tại thành phố Thẩm Quyến, tỉnh Quảng Đông thẳng thắn cho rằng: Chủ nghĩa ngoại lại của Mao đã làm trì hoãn Trung Quốc những 200 năm.
Độc giả tại Thành phố Thành Đô, Tứ Xuyên thì bày tỏ: Chỉ có toàn bộ nhân dân Trung Quốc mới có thể đánh giá Mao Trạch Đông, vậy thì mang hết “công lao vĩ đại” và những “sai lầm” của ông ta, toàn bộ viết ra một cách chân thực, rồi đưa cho 1,4 tỷ người Trung Quốc bỏ phiếu. Như thế chẳng phải đưa ra được một đáp án công bằng nhất hay sao?
Có bình luận chỉ ra rằng, ĐCSTQ chỉ vì sự thống trị của chính mình, cho nên luôn luôn không dám thừa nhận sai lầm của Mao Trạch Đông, thực tế đáng xấu hổ nhất chính là lấy từ “tội ác” đổi thành “sai lầm” một cách xảo quyệt.
7 tội ác lớn nhất của Mao Trạch Đông
Tháng 12/2014 trên mạng có lưu truyền một bài viết ký tên tác giả là Trang Quế Tam, tổng kết 7 tội ác lớn nhất của nhân loại do ông Mao Trạch Đông gây ra. Cựu lãnh đạo Trung Quốc Mao Trạch Đông nắm quyền 27 năm, lấy đấu tranh giai cấp làm cương lĩnh chủ yếu để tiến hành con đường cực tả. Trên đường lối đó, ông đã dùng dẫn dụ và cưỡng bức để gây ra biết bao thảm họa vô cùng tàn nhẫn cho xã hội mà mỗi thảm cảnh có thể được coi như là lớn nhất của nhân loại.
1. Năm 1957 “Phản cánh hữu”, chụp mũ và giám sát 550.000 người phe cánh hữu, lấy những lời phát biểu của những người phe cánh hữu lập hồ sơ, khống chế nội bộ phe cánh hữu, tổng số gần 1 triệu người. Những người trong phe cánh hữu này hầu hết là thành phần tri thức, họ trong khi phê đấu đã tự sát nhiều đến mức không kể xiết. Đây là cuộc chiến chống lại nhiều người trí thức nhất của nhân loại.[ads1]
2. Năm 1958 “Đại nhảy vọt”, để hùa theo cách làm liều lĩnh của Mao Trạch Đông, toàn quốc hưởng ứng một cách quá khích. Các nơi đua nhau phóng đại sản lượng thu hoạch mùa vụ, sáng tạo ra con số không tưởng, sản lượng trên một mẫu là 5.000 – 60.000 kg lương thực, thậm chí ông còn “nghiêm trọng” đặt ra vấn đề “lương thực nhiều quá ăn không hết thì phải làm sao?” Đây là chuyện hoang đường nhất của lịch sử loài người.
3. Theo thống kê của Hồ sơ giải mật Quốc gia, từ mùa xuân năm 1958 đến mùa xuân năm 1962, tại Trung Quốc có 37 triệu 500 nghìn người chết đói. Người dân cho rằng, nếu như tính cả người chết đói, chạy nạn bị thất lạc, trẻ sơ sinh chết do không đủ sữa, chết do bị bội thực, chết vì đói rét, vì quá đói đi ăn trộm đồ ăn bị đánh chết, không cho chạy nạn bị đánh chết… Nếu như tính tất cả những nguyên nhân đó, thì con số người chết ước chừng 60 triệu người. Mao Trạch Đông đứng đầu về thảm họa liên quan đến tính mạng con người, là điều thê thảm nhất của nhân loại.
4. Năm 1957 sau khi chống lại phe cánh hữu, phần tử cánh hữu và cả người nhà bị đưa về nông thôn, họ đều bị giám sát lao động, đồng thời bất kể lúc nào cũng có thể bị lôi ra phê đấu, để làm tài liệu sống cho đấu tranh giai cấp. Các vùng nông thôn rộng lớn này biến thành một trại giam khổng lồ, không cần tường bao, không có thời hạn thi hành án. Mao Trạch Đông khai sáng ra một trại giam khổng lồ chưa từng có trong lịch sử, cũng như tương lai.
5. Mao Trạch Đông thông qua rất nhiều thủ đoạn, khi mới đề xuất thì rất rõ ràng, nhưng khi kết thúc thì rất đen tối, thực thi sự sùng bái cá nhân, mê tín cá nhân. “Sáng xin chỉ thị, chiều phải báo cáo”, “Kính nghênh hồng bảo thư”… Mê tín cá nhân và sùng bái cá nhân của Mao Trạch Đông đã lừa gạt con người mấy thế hệ, từ cổ chí kim, trong nước ngoài nước không ai sánh nổi.
6. Tháng 9/1962, bà Giang Thanh, vợ của ông Mao từ hậu trường bước ra khoa tay múa chân nói về việc chính trị quốc gia. Năm 1965 Mao Trạch Đông và bà ta ở trong phòng kín mưu đồ, đưa ra “Bình tân biên lịch sử kịch < hải thụy bãi quan>”, Giang Thanh được đề cử lên làm Phó Tổ trưởng Cách mạng Văn hóa Trung ương, sau đó lên làm Cố vấn Cách mạng Văn hóa Quân ủy, rồi Ủy viên Cục Chính trị. Ngoài Mao Trạch Đông ra, bà Giang Thanh trở thành cánh tay đắc lực với quyền lực vượt qua tất cả các lãnh đạo trong Trung ương ĐCSTQ. Bà Giang Thanh đã lợi dụng quyền lực mà Mao Trạch Đông giao cho để làm vô số việc ác, chuyện xấu và các vụ bê bối. Mao Trạch Đông trao quyền lực lớn nhất cho vợ của mình, chuyện này cũng chưa từng có trong lịch sử.
7. Mao Trạch Đông phát động kẻ thù chính trị đả kích Đại Cách mạng Văn hóa, khiến cho Trung Quốc lâm vào đại loạn. Trong 10 năm Đại Cách mạng Văn hóa, hơn 20 triệu người bị giết chết, tự sát và thảm sát. Đây là tội ác giết người vô tội, tàn khốc và vô nhân tính lớn nhất trong lịch sử nhân loại.
Thiên Minh biên dịch theo NTDTV





-Một chút sự thật về ‘nhị đại’ (Kỳ I)  (Petrotimes) - Trong lịch sử cận đại Trung Quốc có 2 cuộc đại cách mạng về sản xuất và chính trị được coi là lớn nhất trong lịch sử từ cổ chí kim, đó là Đại nhảy vọt và Đại cách mạng văn hóa. “Nhị đại” này đã làm chết hàng chục triệu người dân Trung Quốc và những hệ lụy của nó cho đến nay vẫn còn. Các nhà nghiên cứu đặt ra nhiều câu hỏi là tại sao một bộ máy nhà nước hoàn chỉnh như vậy lại bị Mao Trạch Đông lũng đoạn. Sự duy ý chí của Mao Trạch Đông khi tiến hành “nhị đại” này xuất phát từ đâu?
Kỳ I: Mao Trạch Đông phát động Đại nhảy vọt để làm gì?
Từ số này, Báo Năng lượng Mới xin giới thiệu với bạn đọc một chút sự thật về “nhị đại”.

Sau khi thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (1/10/1949), những tưởng từ đây ước mong được sống yên ổn, hòa bình của người dân sẽ thành hiện thực, nhưng chẳng bao lâu sau khi Mao Trạch Đông chính thức đưa ra đường lối "Ba ngọn cờ hồng'' với “Đường lối chung”, “Đại nhảy vọt” (trong công nghiệp) và “Công xã nhân dân” (trong nông nghiệp), Trung Quốc từng bước bị lún sâu vào một cơn khủng hoảng trầm trọng. Đại nhảy vọt được sinh ra từ sự duy ý chí của Mao Trạch Đông khi Chủ tịch cho rằng, có thể giải phóng năng suất chưa từng có từ nền kinh tế Trung Quốc và bản thân là người lãnh đạo Cộng sản tốt nhất và vĩ đại nhất. Ngày 15/6/1953, Mao Trạch Đông chủ trì định ra đường lối chung của Đảng trong thời kỳ quá độ - một bước ngoặt sang tả - Trung Quốc đi theo con đường chủ nghĩa xã hội không tưởng dựa vào bạo lực. Sau đó, Mao Chủ tịch phát động Đại nhảy vọt - tiến hành cuộc thực nghiệm chủ nghĩa xã hội không tưởng lớn chưa từng thấy. Trong cuộc họp Ban Bí thư ngày 20/4/1955, Mao Trạch Đông cho rằng, cả nước đã có 670.000 hợp tác xã nên cần ngừng phát triển để củng cố. Nhưng chỉ hơn 10 ngày sau, Mao Trạch Đông lại thay đổi ý kiến, yêu cầu tăng gấp rưỡi số hợp tác xã hiện có vào cuối năm 1957. Hơn 1 tháng sau lại đưa ra mục tiêu mới: tăng gấp đôi (lên 1,3 triệu) vào mùa xuân năm 1956. Cơ sở để Mao Trạch Đông đưa ra quyết định kể trên là cao trào xã hội chủ nghĩa đang xuất hiện ở nông thôn Trung Quốc.
Tại Hội nghị Trung ương 6 khóa 7 bàn về hợp tác hóa nông nghiệp (tháng 10/1955), Mao Trạch Đông kêu gọi phải làm cho phong kiến, đế quốc, tư bản và sản xuất nhỏ “tuyệt chủng” trên trái đất. Sau hội nghị trên, những ai dám nói thẳng, nói thật, nêu lên hiện trạng sản xuất và đời sống ở nông thôn đều bị phê phán, bị quy là hữu khuynh, nhiều người bị cách chức. Do đó, mới đến cuối tháng 11/1955, cả nước đã thực hiện hợp tác hóa với 116,74 triệu hộ nông dân tham gia hợp tác xã, chiếm 96,1% số hộ nông dân. Thế là kỳ tích xuất hiện: chỉ 4 năm đã hoàn thành kế hoạch cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, vốn dự định làm trong 15 năm. Sau mùa hè năm 1955, cao trào hợp tác hóa nông nghiệp ảnh hưởng mạnh mẽ đến công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa trong ngành thủ công nghiệp và công thương nghiệp tư bản tư doanh. Đến cuối năm 1956, ngành này đã cơ bản hoàn thành việc chuyển sang kinh tế tập thể, 92% số người làm nghề thủ công đã được tổ chức trong gần 10.000 hợp tác xã. Từ cuối năm 1955, Thượng Hải, tiếp đó là Bắc Kinh, Thiên Tân, cùng nhiều tỉnh và thành phố khác đã xuất hiện cao trào công ty hợp doanh trong toàn ngành công thương. Đến tháng 6/1956, đã hoàn thành toàn diện công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp và công thương nghiệp tư bản trong cả nước.

Trùng khánh tổ chức diễu hành trong thời cách mạng văn hóa
Giới học giả cho rằng, động cơ cá nhân khiến Mao Trạch Đông vội vã từ bỏ lý luận đúng đắn là nôn nóng muốn làm lãnh tụ của phong trào Cộng sản quốc tế. Sau khi Stalin từ trần, Mao Trạch Đông cho rằng, trời sẽ trao nhiệm vụ lớn cho ông ta. Muốn lãnh đạo phong trào cộng sản và phe xã hội chủ nghĩa, mà Trung Quốc lại thực hiện hình thái xã hội lạc hậu so với các nước xã hội chủ nghĩa khác thì không đủ tư cách làm lãnh tụ, do đó, phải nhanh chóng trở thành một nước XHCN hùng mạnh. Đó là nguồn gốc khiến Mao Trạch Đông mắc phải chứng bệnh nóng vội trong việc giải quyết những vấn đề hữu quan. Ngoài ra, muốn làm lãnh tụ thế giới, làm người cầm cờ của phong trào cộng sản, phải làm tốt mọi việc của Trung Quốc, tạo ra kỳ tích chấn động thế giới trong một thời gian ngắn. Khi đó, Mao Trạch Đông đã quyết tâm tập trung lương thực có trong tay để chi viện cách mạng thế giới, giúp ông trở thành lãnh tụ vĩ đại của phong trào Cộng sản quốc tế.
Giới bình luận cho rằng, đường lối “Ba ngọn cờ hồng” là biểu hiện của tư tưởng duy ý chí, nóng vội, chủ quan, muốn đốt cháy giai đoạn trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc. Đường lối này đã gây ra hậu quả nghiêm trọng. Cuối năm 1958, nạn đói diễn ra trầm trọng nhưng đồng ruộng lại bị bỏ hoang, các nhà máy, xí nghiệp phải đóng cửa vì thiếu nguyên liệu. Năm 1958 và 1959, Trung Quốc bị chấn động bởi các dự án lao động phá hủy khổng lồ và điên cuồng nhảy vào sản xuất gang thép. Nông nghiệp bị gián đoạn do sự chuyển đổi lao động và áp dụng sai các chương trình trồng trọt với mật độ dày hơn, khôi phục lại vùng đất khó trồng trọt và tưới tiêu quá mức. Nhưng lãnh đạo địa phương lại cho rằng, sản lượng nông nghiệp sẽ tăng lên do hệ thống xã hội chủ nghĩa mới, các con số bị thổi phồng khi báo cáo lên lãnh đạo. Mọi chuyện trở nên đen tối rất nhanh khi cán bộ địa phương làm sạch kho thóc để đáp ứng mục tiêu trưng dụng và chứng minh khả năng, lòng nhiệt huyết và sự trung thành của họ đối với cấp trên.
Từ năm 1956, khi cách mạng Trung Quốc có những bước phát triển mạnh mẽ thì nội bộ Đảng và không ít lãnh đạo bắt đầu nảy sinh những bất đồng trên các vấn đề về đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội, cũng như các vấn đề quốc tế. Tình trạng bất ổn định của Trung Quốc thực sự bắt đầu từ năm 1958, khi Mao Trạch Đông chính thức phát động “Ba ngọn cờ hồng”. Chủ tịch Mao Trạch Đông cho rằng, con người vững được nhờ có bộ xương sống, đất nước phải mạnh về gang thép - Trung Quốc phải vượt Liên Xô và Mỹ trong lĩnh vực này. Tư tưởng “giản dị” này đã khiến 100 triệu người, chủ yếu là nông dân phế bỏ ruộng mùa trong năm đầu của Đại nhảy vọt để xây dựng hàng trăm nghìn lò đúc gang, thép. Nhưng vì không hiểu biết về kỹ thuật đúc gang, thép và không đủ tiêu chuẩn kỹ thuật nên sản phẩm làm ra không dùng được phải vứt bỏ.
Mao Trạch Đông biết rõ Chu Ân Lai là người có lương tâm, mà dựa vào một Thủ tướng như vậy thì không thể hoàn thành Đại nhảy vọt. Để vô hiệu hóa Chu Ân Lai, Mao thành lập 5 tổ trực thuộc Bộ Chính trị và Ban Bí thư, đó là Tổ Kinh tế - Tài chính do Trần Vân làm Tổ trưởng, Tổ Chính pháp do Bành Chân làm Tổ trưởng, Tổ Ngoại sự do Trần Nghị làm Tổ trưởng, Tổ Văn giáo do Lục Định Nhất làm Tổ trưởng, Tổ Khoa học do Nhiếp Vinh Trăn làm Tổ trưởng. Mao Trạch Đông trực tiếp chỉ huy 5 tổ trên và điều này đồng nghĩa với việc vai trò của Thủ tướng Chu Ân Lai trở nên mờ nhạt, bị tước quyền lãnh đạo, nhất là việc xây dựng kinh tế đất nước.
Đại nhảy vọt đã đưa ra một loạt chính sách phi lý như “đạt sản lượng lương thực 75.000 kg/ha”, “nhân đôi sản lượng thép” và “vượt Anh trong vòng 10 năm và Mỹ trong vòng 15 năm”. Đại nhảy vọt đã khiến người dân tham gia sản xuất thép, nông dân bỏ hoang ruộng vườn. Những chính sách này đã gây ra nạn đói khắp đất nước, nhưng lại được giải thích một cách chính thức là “3 năm thiên tai”. “Ba năm thiên tai” 1960, 1961 và 1962 được nói đến trong sách giáo khoa thực chất là hậu quả trực tiếp của những chiến dịch nhằm gia tăng sản lượng lúa gạo trên toàn quốc. Nạn đói lớn được miêu tả: Nhiều ngôi làng nhỏ bị chết sạch vì người dân bị chết đói. Người ta ăn tất cả mọi thứ, gia đình nào cũng có người chết. Xác chết nằm ngổn ngang khắp nơi khiến người ta bắt đầu ăn thịt lẫn nhau, kể cả người còn sống và thân nhân. Nhưng tin tức bị bưng bít, dân quân canh gác ngày đêm để không cho người dân đi xin ăn và báo cáo với giới chức cấp cao. Khi nông dân cướp ngũ cốc trong kho lương thực vì quá đói thì họ bị bắn với lý do “phần tử phản cách mạng”.
Theo chỉ thị của Mao Trạch Đông. Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng họp tại Bắc Đới Hà từ ngày 17 đến 30/8/1958 để thảo luận 17 vấn đề, chủ yếu là công xã nhân dân về luyện gang thép. Ngày 29/8/1958, Hội nghị Bắc Đới Hà ra nghị quyết về thành lập các công xã nhân dân. Cơ sở thành lập công xã nhân dân là hợp tác liên xã, liên huyện, tổ chức quân sự hóa, hành động chiến đấu hóa, sinh hoạt tập thể hóa, nâng cao hơn nữa giác ngộ cộng sản chủ nghĩa của 500 triệu nông dân. Quy mô công xã nói chung 2.000 hộ là thích hợp, cũng có thể nhiều xã hợp nhất, khoảng 7.000 hộ, thậm chí trên 20.000 hộ. Thành phần tổ chức là phát triển toàn diện nông lâm ngư nghiệp, nghề phụ, chăn nuôi kết hợp công - nông - thương - học - binh. Theo đó, các hợp tác xã hợp nhất thành công xã phải nộp toàn bộ tài sản công hữu. Xã viên phải nộp lại đất phần trăm, toàn bộ tư liệu sản xuất của xã viên thuộc sở hữu của công xã, song có thể giữ lại một ít gia súc, gia cầm. Căn cứ vào nhu cầu, công xã có thể dỡ dần nhà riêng của xã viên để lấy vật liệu sử dụng, nhà mới dựng thuộc sở hữu của công xã, xã viên ở phải trả tiền thuê nhà. Do nhận toàn báo cáo không trung thực, sai sự thật nên Mao Chủ tịch tưởng lương thực quá nhiều, ngoài nuôi người và gia súc, chẳng biết để làm gì.
Ngày 19/11/1958, Mao Trạch Đông quyết định giảm diện tích trồng lương thực từ 122 triệu ha xuống 100 triệu ha, trong đó diện tích trồng lúa nước giảm 9,1%, tiểu mạch giảm 8,5%. Hai ngày sau, tại Hội nghị Vũ Xương, Mao nêu vấn đề “quá độ lên chủ nghĩa cộng sản”. Khắp mọi nơi, trên các bức tường ở đường phố nhiều áp phích chữ lớn như "Công xã Nhân dân, đó là gia đình của chúng ta. Không nên đặc biệt quan tâm đến gia đình nhỏ bé", "Cha mẹ là người gần gũi nhất, yêu thương nhất trên đời, nhưng làm sao có thể so với Mao Chủ tịch và Đảng Cộng sản", "Cuộc sống riêng tư là thứ yếu, vì thế phụ nữ không thể đòi hỏi chồng phải hiến dâng quá nhiều năng lực” kêu gọi công nhân, nông dân, viên chức và sinh viên học sinh hăng hái tăng gia làm việc và tình nguyện hưởng ít lương hơn. Người dân cùng nhau tập họp từ trong nhà ra đồng và từ ngoài đồng ngoan ngoãn theo lệnh người chỉ huy trở về làng. Xã hội tiến hành theo lối sống tập thể, những hình thức quan hệ cá nhân và xã hội có từ trước đều bị thủ tiêu. Tất cả đều là của chung, từ nhà đất, vườn tược đến cả bàn chải đánh răng cũng là của chung.
Trong 8 tháng (từ 11/1958 đến 6/1959), Mao Trạch Đông triệu tập Hội nghị Trung ương 6 và Hội nghị Trung ương 7 khóa 8 cùng các Hội nghị Trịnh Châu, Vũ Xương, Thượng Hải để “tổng kết, rút kinh nghiệm”, đồng thời giải thích sự cần thiết phải cưỡng chế mấy chục triệu người làm gang thép, cũng như không cho nêu ý kiến khác đối với nhà ăn tập thể. Nhưng tại Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng họp ở Thượng Hải (từ 25/3 đến 1/4/1959), Bành Đức Hoài đã dám nói thẳng những điều mắt thấy, tai nghe. Theo đó, Đại nhảy vọt đã sai từ gốc rễ và hậu quả của nó chẳng những ảnh hưởng đến việc không có cách nào huấn luyện quân đội chuẩn bị chiến tranh, mà nghiêm trọng hơn là ảnh hưởng đến vận mệnh và tương lai của đất nước. Sau cuộc họp, Chu Ân Lai sợ Bành Đức Hoài quá thẳng thắn sẽ mang vạ vào thân nên đã gặp riêng để góp ý: Tình hình bây giờ không còn như thời kỳ chiến tranh, do đó phương pháp công tác và tư tưởng đều phải thay đổi cho phù hợp.
Ngày 10/7/1959, Chủ tịch Mao Trạch Đông đã triệu tập cuộc gặp những người lãnh đạo địa phương để nhấn mạnh: Đảng chỉ có thể giải quyết các vấn đề của mình bằng sự thống nhất về tư tưởng, đường lối chung, Đại nhảy vọt để đuổi kịp nước Anh trong vòng 15 năm tới. Mao Trạch Đông quyết định triệu tập Hội nghị công tác tại Lư Sơn để khẳng định, phải kiên trì đường lối chung, Đại nhảy vọt, công xã nhân dân. Chiều 14/7/1959, “Thư gửi Chủ tịch” của Bành Đức Hoài được chuyển đến bàn làm việc của Mao và sau khi đọc kỹ ông đã chuyển Ban Thư ký Hội nghị in phát cho từng người, làm văn kiện của hội nghị.
Từ ngày 17 đến 22/7/1959, các tổ thảo luận thư của Bành Đức Hoài và Mao Trạch Đông quyết định hy sinh Ủy viên Bộ Chính trị, Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Quốc phòng, nguyên soái thứ hai, anh hùng đánh thắng đế quốc Mỹ vì dám đề cập đến sai lầm của Đại nhảy vọt. Với tư cách cá nhân, ngày 14/7/1959, Bành Đức Hoài đã gửi cho Chủ tịch Mao Trạch Đông một lá thư viết tay khá dài, trong đó cho rằng, những lò luyện gang thép gia đình có những mặt tích cực và tiêu cực. Bởi đã huy động người để tìm kiếm những khoáng sản cần thiết cho việc luyện gang thép trong cả nước. Nhiều người lĩnh hội được kỹ thuật mới và cán bộ được trau dồi thêm khả năng tổ chức của họ. Nhưng một số lượng lớn người được huy động tìm kiếm khoáng sản đã dẫn đến tình trạng phung phí quá nhiều sức lao động. Bành Đức Hoài cho rằng, tiêu cực nhiều hơn tích cực, đồng thời nhấn mạnh, phải rút kinh nghiệm Đại nhảy vọt bởi kế hoạch này đã khuyến khích những khuynh hướng quá tả, bóp méo ghê gớm những con số thống kê trong sản xuất và sự lạc quan tếu, do đó Đảng phải phân định rạch ròi đúng sai và nâng nhận thức về tư tưởng lên một mức độ cao hơn nhằm tránh ảnh hưởng xấu đến sự thống nhất và những chính sách sau này của đảng.
Được biết, mở đầu sự công kích của Bành Đức Hoài tại Hội nghị Lư Sơn là nhằm vào Mao Trạch Đông, sau đó là sự phản công của phái thân Chủ tịch chống lại Bành Đức Hoài để đưa Lâm Bưu lên giữ chức Bộ trưởng Quốc phòng. Ngày 16/7/1959, mặc độc chiếc quần ngủ trắng, chân đi dép, không tất. Chủ tịch Mao Trạch Đông đã họp với Thường vụ Bộ Chính trị. Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Chu Đức và Trần Vân là những thành viên duy nhất có mặt ở Lư Sơn lúc đó. Đặng Tiểu Bình và Lâm Bưu vắng mặt trong cuộc họp này vì bị ốm. Tại cuộc họp này, Chủ tịch Mao Trạch Đông đã chỉ trích bức thư của Bành Đức Hoài cùng lời đe dọa: Nếu đảng bị chia bè kéo cánh, ông sẽ thành lập một đảng mới của nông dân, nếu quân đội bị phân hóa, ông sẽ xây dựng một đội quân khác. Sau cuộc họp kể trên, lá thư của Bành Đức Hoài được gửi đến đảng bộ địa phương các cấp để thảo luận. Rất ít người dám đồng tình với Bành Đức Hoài, nhưng cũng có một vài người tỏ ra can đảm.
Ngày 19/7/1959, Hoàng Khắc Thành, Tổng tham mưu trưởng và cũng là bạn thân của Bành Đức Hoài đã liên kết với Châu Tiểu Châu, Bí thư thứ nhất tỉnh Hồ Nam, người từ lâu lo ngại về cuộc khủng hoảng kinh tế, đã lên tiếng ủng hộ Bành Đức Hoài. Cả hai đều ca ngợi dụng ý của lá thư, tuy một số đoạn trong thư lời lẽ khá gay gắt. Ngoài ra còn có Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Trương Văn Điền, người dám công kích quyết liệt phong cách lãnh đạo của Chủ tịch Mao Trạch Đông và Đại nhảy vọt trong một bài phát biểu dài vì cho rằng, thà nói lên sự thật rồi chết còn hơn sống thảm hại như một vật vô tri, vô giác.
Ngày 23/7/1959, Chủ tịch Mao Trạch Đông lại triệu tập cuộc họp mở rộng Bộ Chính trị để lên án một số thành phần trong và ngoài đảng đang câu kết với nhau để công kích sự lãnh đạo của đảng, đồng thời bác bỏ từng điểm trong lá thư của Bành Đức Hoài. Bành Đức Hoài đã chất vấn Chủ tịch Mao Trạch Đông: Tại sao lại phân phát bức thư của mình cho những người tham dự cuộc họp mà không được sự đồng ý của ông, bởi lá thư này được gửi với tư cách cá nhân. Chủ tịch Mao Trạch Đông nói, Bành Đức Hoài không cấm ông làm chuyện này. Sau đó, một quyết định nghiêm khắc của đảng đã được thông qua, theo đó Bành Đức Hoài, Hoàng Khắc Thành, Châu Tiểu Châu, Trương Văn Điền bị quy là hữu khuynh. Tư tưởng bức thư của Bành Đức Hoài gửi Chủ tịch Mao Trạch Đông đã bị bóp méo đến mức không nhận ra. Phó thủ tướng và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng không phát biểu một lời nào chống đảng, chống Mao Trạch Đông, nhưng Chủ tịch lại đưa bức thư này ra như một bằng chứng của âm mưu thâm độc chống đảng. Do đó, Bành Đức Hoài và những người ủng hộ ông phải giải thích khi nào và với mục đích gì họ đã tham gia âm mưu chống đảng?
Sáng 27/7/1959, Lưu Thiếu Kỳ họp các tổ trưởng truyền đạt chỉ thị của Mao Chủ tịch “tiếp tục phê phán tập đoàn chống đảng Bành Đức Hoài”. Uông Đông Hưng tuyên bố với lực lượng bảo vệ: Bành Đức Hoài không được tự tiện đi vào nơi ở của Mao Trạch Đông và Lưu Thiếu Kỳ. Với lời lẽ gay gắt, Lâm Bưu phê phán Bành Đức Hoài là kẻ có dã tâm, có âm mưu, độc đoán chuyên quyền, giả dối, háo danh, chẳng coi ai ra gì, lợi dụng hình thức thẳng thắn để mê hoặc người khác, trong và ngoài đảng, trong và ngoài nước bàn tán Bành Đức Hoài là phần tử đầu cơ…
Ngày 16/8/1959, Hội nghị ra nghị quyết nêu rõ: Cần đưa Bành Đức Hoài, Trương Văn Thiên, Hoàng Khắc Thành, Chu Tiểu Châu ra khỏi các cương vị công tác của họ trong Bộ Quốc phòng, Ngoại giao và tỉnh Hồ Nam, song vẫn giữ các chức vụ của họ trong Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương. Hội nghị Lư Sơn chứng minh: Ai không đi theo Mao Chủ tịch, người đó sẽ mắc sai lầm. Ngày 17/8/1959, Mao Trạch Đông triệu tập Hội nghị công tác Bộ Chính trị, các cán bộ cấp cao có mặt tại Lư Sơn đều tham gia. Mao Trạch Đông chỉ nói về tầm quan trọng của lãnh tụ. Sau đó, theo gợi ý trước của Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ nói nhiều về sự cần thiết và đúng đắn của sùng bái cá nhân, phê phán Bành Đức Hoài. Bất chấp các nỗ lực phối hợp của lãnh đạo địa phương trong việc che đậy, nhưng sự thật vẫn bị phơi bày cho dù Chủ tịch Mao Trạch Đông đã đưa ra giải thích phục vụ mục đích của mình: Việc thiếu hụt thóc lúa là kết quả của sự trỗi dậy phản cách mạng ở nông thôn, địa chủ cũ và phú nông thông đồng để che giấu nhà nước về việc bội thu thóc lúa của họ. Tình hình phát triển tới mức nhiều lãnh đạo không hài lòng đối với chính sách của Chủ tịch Mao Trạch Đông. Nhưng Chủ tịch Mao Trạch Đông đã đảo ngược tình thế cho dù tại Hội nghị Lư Sơn hè năm 1959, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Bành Đức Hoài và “lão thần” Trương Văn Thiên chỉ trích Đại nhảy vọt.
(Xem tiếp kỳ sau)
Hồng Thất Công - Tuấn Quỳnh
(Năng lượng Mới số 142, ra thứ Ba ngày 31/7/2012) -Một chút sự thật về ‘nhị đại’ (Kỳ I) (Petrotimes).
>> Một chút sự thật về 'nhị đại' (Kỳ II)

(Petrotimes) - Đại nhảy vọt tuy là một thảm họa bởi đã tạo ra nạn đói lớn giết chết hàng chục triệu người, kéo nền kinh tế đi xuống, nhưng vẫn đẻ ra “Cách mạng văn hóa”. Có người nói rằng “Cách mạng văn hóa” là thời kỳ cực tả điên cuồng nhất tại Trung Quốc.
Kỳ II: "Cách mạng văn hóa" - Bước sửa sai của Đại nhảy vọt!
Tháng 11/1956, Mao Trạch Đông tuyên bố chuẩn bị chỉnh phong, chống các bệnh chủ quan, bè phái, quan liêu. Ngày 27/4/1957, Trung ương Đảng chính thức ra chỉ thị tiến hành chỉnh phong. Ngày 30/4/1957, Mao Trạch Đông gặp lãnh đạo các đảng phái dân chủ và đại diện giới trí thức, động viên họ góp ý kiến, giúp chỉnh phong, sửa chữa khuyết điểm, sai lầm. Nhiều cuộc họp đã được tổ chức để lấy ý kiến phê bình. Đông đảo trí thức ngoài đảng từ giáo viên tiểu học tới giáo sư đại học, nhiều nhân vật có tên tuổi không những ở Trung Quốc mà cả trên thế giới đã thẳng thắn, chân thành, thiện chí chỉ ra những yếu kém, sai lầm của đảng từ trung ương đến địa phương. Nhưng khi nghe báo cáo thì Mao Trạch Đông lại nổi giận bởi ông chỉ định thông qua cuộc vận động này để từng bước xác lập vị trí lãnh đạo tư tưởng của mình trong giới trí thức, nhưng họ lại coi ông là “tiểu trí thức”. Thế là Mao Trạch Đông quyết tâm đánh đổ “những phần tử đại trí thức của giai cấp tư sản”.
Theo thống kê, trong cuộc đấu tranh này, có 552.877 trí thức bị quy là phái hữu, bị đày đọa trong 20 năm. Đến khi sửa sai (1980), chỉ có 96 người thật sự là phái hữu, chiếm 1,8 phần vạn. Hậu quả của đường lối “ba ngọn cờ hồng” buộc các nhà lãnh đạo Trung Quốc phải tìm biện pháp để khắc phục. Trước tình hình khẩn cấp, Hội nghị Trung ương Vũ Xương (tháng 12/1958) đã thành lập các tổ sửa sai để sửa chữa những sai lầm do “Ba ngọn cờ hồng” gây nên và cử Lưu Thiếu Kỳ thay Mao Trạch Đông làm Chủ tịch nước. Từ đây trong nội bộ Đảng và Nhà nước, Chính phủ đã diễn ra những bất đồng và tranh chấp quyền lực rất quyết liệt, phức tạp giữa các phe phái. Ngày 3/9/1958, Mao Trạch Đông tuyên bố, sản lượng lương thực năm nay có thể tăng xấp xỉ gấp 2 lần năm ngoái, từ 185 triệu tấn lên khoảng 370 triệu tấn, nếu năm 1959 lại tăng gấp 2 lần năm nay, sẽ lên 750 triệu tấn. Nhưng sau vụ thu hoạch, đột nhiên các tỉnh báo cáo không nộp đủ lương thực như dự định khiến Mao Chủ tịch sốt ruột nên viết thông tri gửi toàn quốc với nhận định: Vấn đề phổ biến trong cả nước là đội trưởng sản xuất che giấu sản lượng, chia nhau lương thực, tình hình nghiêm trọng, phải giải quyết ngay. Hơn nữa, phải tiến hành một đợt giáo dục kiên quyết mới giải quyết được.

Mao Trạch Đông cùng các lãnh đạo thời kỳ mới lập nước
Mùa xuân 1960, nạn đói tràn lan, nhiều người chết đói hoặc bỏ đi nơi khác kiếm ăn, nhưng Bí thư Khu ủy Lộ Hiến Văn vẫn lên giọng: Không phải thiếu lương thực bởi lương thực rất nhiều, 90% là vấn đề tư tưởng. Lộ Hiến Văn chỉ thị cho cán bộ cơ sở và dân quân phong tỏa mọi nẻo đường, không cho dân chúng bỏ đi nơi khác, chỉ thị cho các cơ quan, nhà máy, xí nghiệp, trường học ở các thị trấn không được đón tiếp người từ vùng nông thôn lên. Bưu cục Tín Dương đã giữ lại trên một vạn lá thư của cán bộ và quần chúng xin cứu đói. Sau khi sự kiện Tín Dương bị phơi bày, để bảo vệ mình, Bí thư thứ nhất Tỉnh ủy Hà Nam Ngô Chi Phố đã ra lệnh bắt Lộ Hiến Văn cùng một số lãnh đạo khác, đồng thời cách chức 982 cán bộ cấp dưới, bắt và đưa ra xét xử 275 người, kết án tử hình Dương Thủ Tích, Bí thư Huyện ủy Cố Sử và Mã Long Sơn, Bí thư Huyện ủy Quang Sơn. Sự kiện kể trên làm chấn động Bắc Kinh, nhưng sau khi xem báo cáo Mao Chủ tịch định hướng: Đây là sự kiện phản cách mạng, do địa chủ, phú nông lọt lưới chui vào đội ngũ cách mạng, phá hoại quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.
Đại nhảy vọt tuy là một thảm họa bởi đã tạo ra nạn đói lớn giết chết hàng chục triệu người, kéo nền kinh tế đi xuống, nhưng vẫn đẻ ra “Cách mạng văn hóa”. Có người nói rằng “Cách mạng văn hóa” là thời kỳ cực tả điên cuồng nhất tại Trung Quốc. Giết chóc đã trở thành một cách đua tranh để người ta bày tỏ vị thế cách mạng của mình bởi mục đích chính của Chủ tịch Mao Trạch Đông trong việc này là tái chiếm quyền lực sau thất bại Đại nhảy vọt. Sau thất bại của Đại nhảy vọt, Mao Trạch Đông vẫn không từ bỏ dã tâm làm lãnh tụ cách mạng thế giới. Trong 5 năm (1957-1962), Trung Quốc đã viện trợ cho nước ngoài tổng cộng 2,36 tỉ NDT. Riêng trong 2 năm 1961-1962 là 1,37 tỉ NDT, nhưng Mao Trạch Đông vẫn không trở thành lãnh tụ của phong trào cộng sản quốc tế mới bởi họ chỉ thừa nhận Mao Trạch Đông là lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Trung Quốc. Trước khi “Cách mạng văn hóa” diễn ra, Trung Quốc chịu tác động rất lớn của tình hình thế giới, trong đó có cả tích cực và tiêu cực. Tích cực là thúc đẩy nhân dân nỗ lực xây dựng và củng cố đất nước về mọi mặt, còn tiêu cực là làm xuất hiện trong nội bộ đảng tư tưởng chủ quan, nóng vội, đốt cháy giai đoạn gây hậu quả nghiêm trọng cho đất nước. “Cách mạng văn hóa” bùng nổ không phải là một lẽ ngẫu nhiên, mà là một quá trình tích hợp của nhiều yếu tố, trong đó mâu thuẫn nội tại có vai trò quyết định, thúc đẩy “Cách mạng văn hóa” diễn ra nhanh chóng hơn. “Cách mạng văn hóa” được chia làm 3 giai đoạn và đột phá khẩu là bài viết phê phán vở kịch “Hải Thụy bãi quan” của Ngô Hàm.
Thất bại của Đại nhảy vọt trở thành cơn ác mộng của Mao Trạch Đông và nếu Lưu Thiếu Kỳ giơ tay hô to “Ba ngọn cờ hồng là sai lầm” thì toàn đảng, toàn dân sẽ cùng hỏi tội Mao Chủ tịch. Không thể ngồi chờ Lưu Thiếu Kỳ triệu tập Đại hội 9 để “thanh toán sai lầm của ba ngọn cờ hồng” nên Chủ tịch Mao quyết định phát động “Cách mạng văn hóa”. Sau Tết nguyên đán năm 1965, Giang Thanh xuống Thượng Hải gặp Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư thứ nhất Thành ủy Thượng Hải Kha Khánh Thi, phần tử tích cực của Đại nhảy vọt. Khi biết Mao Chủ tịch cần tổ chức viết bài phê phán Ngô Hàm để tiếp tục thanh toán Bành Đức Hoài, Kha Khánh Thi mừng lắm, lập tức giới thiệu Trương Xuân Kiều, Bí thư kiêm Trưởng ban Tuyên truyền Thành ủy Thượng Hải với Giang Thanh. Sau Quốc khánh năm 1965, Bành Chân gặp Mao Chủ tịch báo cáo công việc của Tổ “Cách mạng văn hóa” được thành lập từ tháng 7/1964 do ông làm Tổ trưởng, Lục Định Nhất làm Tổ phó, ba thành viên còn lại là Khang Sinh, Chu Dương và Ngô Lãnh Tây. Đồng thời can ngăn Mao Chủ tịch đừng phê phán Ngô Hàm bởi ông là chuyên gia sử học, Phó thị trưởng Bắc Kinh, một trí thức được Bành Chân đánh giá là trung thành với đảng, nhưng bất thành. Sau khi Mao Trạch Đông sửa đến lần thứ ba, ngày 7/11/1965, bài bình vở kịch lịch sử “Hải Thụy bãi quan” ký tên Diêu Văn Nguyên được đăng trên tờ “Văn Hối” Thượng Hải. Vì bảo vệ Ngô Hàm nên Bành Chân đã bị Mao Chủ tịch hạ bệ, Thành ủy Bắc Kinh và Ban Tuyên truyền Trung ương tê liệt, Tổ “Cách mạng văn hóa” 5 người kể trên bị giải tán. Tổ “Cách mạng văn hóa” mới được thành lập với 13 thành viên, gồm Tổ trưởng Trần Bá Đạt, cố vấn Khang Sinh, Tổ phó thứ nhất Giang Thanh, Tổ phó Vương Nhiệm Trọng, Lưu Chí Kiên, Trương Xuân Kiều… Nhưng qua mấy lần thử việc, Giang Thanh đã đuổi hết những người không vừa ý, chỉ để lại Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên, Vương Lực, Quan Phong, Thích Bản Vũ trong Tổ “Cách mạng văn hóa” mới.
Tối 26/11/1965, Giang Thanh gặp La Thụy Khanh, yêu cầu giúp tổ chức cuộc tọa đàm về tình hình văn nghệ trong quân đội, cấp cho bà quân phục và cho đăng lại bài của Diêu Văn Nguyên phê “Hải Thụy bãi quan”, nhưng chỉ được đáp ứng yêu cầu thứ 3 nên rất tức giận. Vì việc này nên mới có cuộc hội kiến giữa Mao Chủ tịch với Lâm Bưu đêm 1/12/1965 và số phận của Lưu Thiếu Kỳ, Bành Chân và La Thụy Khanh được định đoạt. Tại Hội nghị Thường vụ Bộ Chính trị mở rộng tại Thượng Hải (từ 8 đến 15/12/1965), Diệp Quần đăng đàn tố cáo La Thụy Khanh âm mưu cướp quyền lãnh đạo quân đội, ép Lâm Bưu nhường ghế Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Hội nghị ra quyết định tước hết chức vụ của La Thụy Khanh (Bí thư Trung ương Đảng, Phó thủ tướng, Tổng tham mưu trưởng) cho dù “bị cáo” đang đi kiểm tra công tác ở biên giới Tây Nam. Khi nhận được thông báo, La Thụy Khanh cùng vợ đáp máy bay đến Thượng Hải liền bị giam lỏng ngay. Ngày 4/3/1966, Quân ủy Trung ương lập Tổ chuyên án thẩm tra, phê đấu La Thụy Khanh khiến ông tức quá, ngày 18/3/1966, ông nhảy lầu tự sát, nhưng chỉ bị gãy chân. Tháng 4/1966, Mao Trạch Đông yêu cầu họp Bộ Chính trị mở rộng để giải quyết “vấn đề Bành Chân, Lục Định Nhất, La Thụy Khanh, Dương Thượng Côn” bởi Chủ tịch nắm quân đội, quyết tâm dùng “súng chỉ huy đảng” khi cần thiết. Ngày 4/5/1966, Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng họp tại Bắc Kinh, các thành viên Tổ “Cách mạng văn hóa” trung ương đều tham gia. Sau khi chắc chắn thao túng được Ban Chấp hành Trung ương, Mao Chủ tịch ra lệnh triệu tập Hội nghị Trung ương 11 khóa 8 (từ 1 đến 12/8/1966). Trước cuộc họp, Mao Chủ tịch gọi Chu Ân Lai, Đào Chú, Trần Bá Đạt, Khang Sinh đến hỏi ý kiến về người thay thế Lưu Thiếu Kỳ và mọi người nhất trí chọn Lâm Bưu. Tại cuộc họp Thường vụ Bộ Chính trị, Mao Chủ tịch tuyên bố muốn thay người kế vị và giới thiệu Lâm Bưu. Lưu Thiếu Kỳ sớm nhìn ra nước cờ này nên tán thành ngay.
Theo Nghị quyết hôm 12/8/1966 của Hội nghị lần thứ 11 khóa 8, tất cả những đảng viên và quan chức chính phủ đi theo con đường tư bản chủ nghĩa đều bị “đánh” và nhiều lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ và Quốc hội từ trung ương đến địa phương đã bị cáo buộc đang thực hiện “chế độ độc tài của giai cấp tư sản”. “Cách mạng văn hóa” đã khiến cho bộ máy hành chính Trung Quốc tê liệt. Một số cơ quan “cách mạng” mới được thành lập như Hồng vệ binh được toàn quyền “phá hoại, tra tấn và sỉ nhục” khiến trường học bị đóng cửa, kinh tế gián đoạn, nhiều đảng viên bị thanh trừng, giới trí thức bị đàn áp. Đối với hàng triệu Hồng vệ binh, “Cách mạng văn hóa” là đợt nghỉ lễ kéo dài. Theo số liệu thống kê, số nạn nhân trong thời kỳ “Cách mạng văn hóa” lên tới khoảng 100 triệu người. Ngày 18/8/1966, Hội nghị Trung ương XI khóa VIII chính thức thông qua quyết định của Bộ Chính trị về “Cách mạng văn hóa” (gọi tắt là Nghị quyết 16 điều). Đây là văn kiện chính thức đầu tiên của Ban Chấp hành Trung ương về “Cách mạng văn hóa”. Theo đó, tất cả trường trung học và đại học ở Bắc Kinh đều thành lập Hồng vệ binh và phong trào này nhanh chóng lan ra cả nước. Theo thống kê, từ 18/8 đến 26/11/1966, Mao Chủ tịch đã 8 lần tiếp tổng cộng 13 triệu Hồng vệ binh từ các nơi trong cả nước đến Bắc Kinh.
Theo luận điểm của Mao Trạch Đông, “Cách mạng văn hóa” là một cuộc cách mạng nhằm phát động quảng đại quần chúng một cách công khai, toàn diện, từ dưới lên trên nhằm đập tan lực lượng phản động theo chủ nghĩa tư bản trong chính phủ, quân đội và nhiều tầng lớp xã hội khác. Mười năm “Cách mạng văn hóa” đã tàn phá không thương tiếc những thành tựu mà nhân dân Trung Quốc đã tạo dựng trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội… để lại nhiều di hại có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của nhân dân Trung Quốc suốt một thời gian khá dài. Trong thời kỳ “Cách mạng văn hóa”, Trung Quốc cũng áp dụng chính sách đối ngoại bạo lực: Hồng vệ binh làm mưa làm gió trước Đại sứ quán Liên Xô tại Bắc Kinh, gây căng thẳng trên tuyến biên giới với Liên Xô dẫn đến xung đột vũ trang. Thậm chí Trung Quốc còn coi Liên Xô là kẻ thù chính của Trung Quốc, là pháo đài của chủ nghĩa xét lại.

Lưu Thiếu Kỳ - Mao Trạch Đông
Sau khi nắm được đại cục, Tổ “Cách mạng văn hóa” thọc tay vào quân đội khiến Lâm Bưu giãy nảy và cuộc đấu đá nhằm vào các tướng lĩnh nổ ra. Từ 25/2 đến 18/3/1967, Bộ Chính trị mở rộng họp 7 lần, phê phán Trần Nghị, Đàm Chấn Lâm, Từ Hướng Tiền, Lý Phú Xuân, Lý Tiên Niệm, Diệp Kiếm Anh, Nhiếp Vinh Trăn. Giang Thanh chỉ huy việc đấu tố 7 người kể trên, đồng thời tổ chức các cuộc biểu tình thị uy trên đường phố Bắc Kinh chống “Dòng nước ngược tháng 2”. Sự kiện này khiến 4 nguyên soái và 3 Phó thủ tướng trong tình trạng “nửa bị đánh đổ”. Câu nói của Mao Chủ tịch “vị trí của Lâm Bưu cũng không vững” đã ly gián quan hệ giữa Lâm Bưu với các nguyên soái khác, xóa bỏ sự tồn tại Lâm Bưu liên minh với Diệp Kiếm Anh, Từ Hướng Tiền, Nhiếp Vinh Trăn để làm đối trọng với Tổ “Cách mạng văn hóa”. Nhưng khi Lâm Bưu chĩa mũi nhọn vào Từ Hướng Tiền và Phương diện quân số 4 thì Mao Chủ tịch lại đứng ra bảo vệ khiến Lâm Bưu bị cô lập trong quân đội. Trong “Cách mạng văn hóa”, Lâm Bưu từng nói một câu nổi tiếng: Không biết mấy trăm năm nữa Trung Quốc mới có một Mao Chủ tịch vĩ đại!
Ngày 1/8/1967 nhân kỷ niệm 40 năm ngày thành lập quân đội Trung Quốc, tuy Lâm Bưu là Phó chủ tịch Quân ủy Trung ương kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, nhưng Mao Chủ tịch lại giao cho Quyền Tổng tham mưu trưởng Dương Thành Vũ đọc diễn văn tại tiệc chiêu đãi. Xã luận của tạp chí Hồng Kỳ ngày 1/8/1967 viết: Quân đội do Mao Trạch Đông đích thân sáng lập, Lâm Bưu trực tiếp chỉ huy. Khi đọc những dòng chữ này Mao Chủ tịch sầm mặt và chỉ thị cho Chu Ân Lai truyền đạt cho Tổ “Cách mạng văn hóa” việc phải thay đổi phương châm cách mạng văn hóa trong quân đội. Ngày 22/8/1967, Mao Chủ tịch bảo Dương Thành Vũ: Vương Lực, Quan Phong, Thích Bản Vũ phá hoại “Cách mạng văn hóa”, không phải người tốt, cần báo cáo riêng với Chu Ân Lai để bắt 3 tên đó, yêu cầu Thủ tướng phụ trách xử lý. Dương Thành Vũ mấy lần theo Mao Chủ tịch đi các tỉnh, thực hiện các chỉ thị của Chủ tịch, mỗi lần về Bắc Kinh chỉ báo cáo Chu Ân Lai, không báo cáo Lâm Bưu khiến ông ta không thể chấp nhận. Tới tháng 3/1968, Lâm Bưu cùng Giang Thanh ép Mao Trạch Đông tán thành đánh đổ Quyền Tổng tham mưu trưởng Dương Thành Vũ, cử Hoàng Vĩnh Thắng, Tư lệnh Đại quân khu Quảng Châu làm Tổng tham mưu trưởng.
Ngày 12/12/1972, Mao Chủ tịch triệu tập cuộc họp Bộ Chính trị, kiến nghị để Đặng Tiểu Bình tham gia Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và giữ chức Tổng tham mưu trưởng. Mao Chủ tịch không những muốn Đặng Tiểu Bình thay thế Lâm Bưu, mà còn muốn thay thế Chu Ân Lai. Bởi Mao Chủ tịch biết rõ Chu Ân Lai là trở ngại lớn nhất trong việc hoàn thành bố cục gia đình trị. Ngày 9/4/1973, khi vợ chồng Đặng Tiểu Bình đến thăm Chu Ân Lai ở núi Ngọc Tuyền, Thủ tướng đã cho Đặng Tiểu Bình biết những hiểm ác của môi trường công tác, đồng thời nói rõ: Trương Xuân Kiều là tên phản bội, nhưng Mao Chủ tịch không cho điều tra. Mao Trạch Đông hy vọng, Đặng Tiểu Bình có thể hợp tác với Giang Thanh bởi Chủ tịch không có cách nào giải thích với toàn đảng và toàn dân về 8 năm “Cách mạng văn hóa” đã làm chết và đánh đổ bao nhiêu cán bộ. Nhưng ngay từ đầu Đặng Tiểu Bình đã không nghĩ đến việc hợp tác với “bè lũ bốn tên”.
Sau khi bị ép tỏ thái độ về việc phê bình Chu Ân Lai trong sự kiện “tàu vận tải Phong Khánh 10.000 tấn” cuối tháng 9/1974, Đặng Tiểu Bình đã to tiếng với Giang Thanh và đó là xung đột công khai đầu tiên giữa 2 người sau khi Đặng Tiểu Bình trở lại công tác. Lập tức Giang Thanh cử Vương Hồng Văn báo cáo với Mao Trạch Đông, nhưng sau khi nghe xong Chủ tịch liền phê bình ngay. Sau đó, Mao Chủ tịch còn nói với Vương Hải Dung: Giang Thanh có dã tâm, muốn để Vương Hồng Văn làm Chủ tịch Quốc hội để mình làm Chủ tịch Đảng. Sau đó, mặc dù nằm trên giường bệnh, Mao vẫn chỉ thị: Tước mọi chức vụ của Đặng Tiểu Bình, để Hoa Quốc Phong làm Thủ tướng. Việc này diễn ra sau khi Mao Viễn Tân báo cáo với Chủ tịch: Cháu thấy thái độ của Đặng Tiểu Bình đối với “Cách mạng văn hóa” rất không bình thường. Ngày 25/3/1976, Giang Thanh tự ý triệu tập cuộc họp những người lãnh đạo 12 tỉnh và thành phố và gọi Đặng Tiểu Bình là “bậc thầy phản cách mạng”, “đại Hán gian”, “đại diện cho giai cấp tư sản mại bản và địa chủ”.
Nhưng ngày 7/4/1976, để phòng ngừa “bè lũ bốn tên” xúi giục phái tạo phản hãm hại Đặng Tiểu Bình nên Mao chỉ thị Uông Đông Hưng di chuyển vợ chồng ông đến một nơi ở bí mật, bảo vệ nghiêm ngặt. Sở dĩ Mao làm như vậy vì Chủ tịch biết Đặng Tiểu Bình có cơ sở vững chắc trong quân đội, có cơ sở xã hội, được quân đội bảo vệ. Ngày 15/6/1976, khi biết bệnh nặng khó qua, Mao gọi Giang Thanh, Hoa Quốc Phong, Vương Hồng Văn, Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên, Uông Đông Hưng và Vương Hải Dung đến dặn dò. Mao rất chú trọng tên tuổi của mình sau khi chết bởi Lưu Thiếu Kỳ từng nói với Chủ tịch: Để xảy ra thảm kịch người ăn thịt người, ông và tôi sẽ bị ghi vào sử sách. Có học giả thống kê, số người chết đói dưới thời Mao còn nhiều hơn tổng số người chết đói trong hơn 2.000 năm dưới mọi triều đại, nên mỗi khi nghĩ đến điều này, Chủ tịch lại rùng mình ớn lạnh.
(Xem tiếp kỳ sau)
Hồng Thất Công - Tuấn Quỳnh
(Năng lượng Mới số 143, ra thứ Sáu ngày 3/8/2012)

 Một chút sự thật về "nhị đại" (Kỳ III) (08/08)


(Petrotimes) - Theo đánh giá của Trần Vân, một trong những “đại thần nguyên lão” thì Mao Trạch Đông dựng nước có công, xây dựng mắc sai lầm và có tội trong “Cách mạng văn hóa”.
Kỳ III: Những cái chết gây chấn động dư luận
Mặc dù là nhân vật thứ 4 trong Thường vụ Bộ Chính trị (giữ các chức vụ: Thường trực Ban Bí thư, Phó thủ tướng, Trưởng ban Tuyên truyền, Cố vấn Tổ “Cách mạng văn hóa”), nhưng Đào Chú, lão thần với biệt danh “con trâu có cặp sừng mạnh, dám chọi lại bất cứ ai”, người từng phê bình Lưu Thiếu Kỳ, vẫn bị loại sau khi Giang Thanh thấy “ngứa mắt”. Một trong những sai lầm của Đào Chú là chỉ coi Tổ “Cách mạng văn hóa” là một tổ chức lâm thời của Bộ Chính trị, phản cảm với Giang Thanh, muốn khôi phục hoạt động của Ban Bí thư. Sau khi bị đấu tố, Đào Chú bị đánh thương tích đầy người vì dám phản kháng lại Hồng vệ binh. Đầu tháng 8/1968, các bác sĩ phát hiện Đào Chú bị ung thư tuyến tụy phải cắt tá tràng. Trong khi cơ thể chưa bình phục, nhưng ngày 18/10/1969, ông vẫn bị đưa đi đày ở An Huy nên chỉ 43 ngày sau thì ông qua đời. Việc Đào Chú bị đánh đổ với tội danh “phái bảo hoàng lớn nhất” đã khiến không ai dám đứng ra bảo vệ các đảng ủy nữa. Bí thư Tỉnh ủy và Tỉnh trưởng bị cô lập hoàn toàn, bộ máy đảng và chính quyền các cấp bị Hồng vệ binh đánh cho tơi tả.
Sau khi khai hỏa “Cách mạng văn hóa”, Mao Chủ tịch bỏ xuống Hàng Châu nghỉ ngơi, mặc cho Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình chủ trì công tác trung ương. Đây là một âm mưu lớn bởi Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình làm kiểu gì cũng sai, cũng bị Mao Chủ tịch nắm thóp. Khi Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình bị đánh đổ, Ban Bí thư tê liệt, Mao Chủ tịch đã lấy Tổ “Cách mạng văn hóa” Trung ương thay thế Ban Bí thư, vị trí và vai trò thực tế của Giang Thanh tương đương Tổng Bí thư. Sau Hội nghị Trung ương 11 khóa 8, đông đảo cán bộ và quần chúng không sao hiểu nổi việc Mao Trạch Đông phát động “Cách mạng văn hóa” và phê phán đường lối tư sản phản động của Lưu Thiếu Kỳ. Nhưng trước sức ép của Hồng vệ binh, Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình buộc phải thừa nhận “mắc sai lầm về đường lối”. Hồng vệ binh Đại học Thanh Hoa đã tổ chức đại hội phê phán Vương Quang Mỹ, vợ Lưu Thiếu Kỳ cùng hơn 300 cán bộ thuộc “phái đi con đường tư bản chủ nghĩa” trong đó có Bành Chân, Bạc Nhất Ba, Lục Định Nhất, Tưởng Nam Tường. Lưu Thiếu Kỳ bị giam ngay trong Văn phòng Chủ tịch nước bởi Mao muốn giày vò ông trước mắt mình, muốn thấy ông từng bước suy sụp về tinh thần và thể chất cho dù ông vẫn là Chủ tịch nước.
Mao Trạch Đông - Lâm Bưu thời kỳ Đại cách mạng văn hóa
Từ ngày 13 đến 31/10/1968, Hội nghị Trung ương 12 khóa 8 họp tại Bắc Kinh. Trong 97 ủy viên Trung ương khóa 8 có 10 người chết, 47 người bị đánh đổ, chỉ còn 40 người đến họp. Mao Chủ tịch đã bổ sung thêm 10 ủy viên dự khuyết lên chính thức cho quá bán (50/97). Mao Trạch Đông chủ trì hội nghị, thông qua báo cáo thẩm tra về “tội ác” của Lưu Thiếu Kỳ do Giang Thanh đệ trình. Dưới sức ép của Mao Chủ tịch và Lâm Bưu, bằng cách giơ tay biểu quyết, Hội nghị “nhất trí thông qua nghị quyết vĩnh viễn khai trừ Lưu Thiếu Kỳ ra khỏi đảng”, chỉ có một phụ nữ không giơ tay là bà Trần Thiếu Mẫn, Phó chủ tịch Tổng Công hội Trung Quốc. Nghị quyết công bố ngày 31/10/1968, nhưng ngày 24/11/1968, đúng sinh nhật lần thứ 70 của Lưu Thiếu Kỳ, Giang Thanh mới cho công bố băng ghi âm nghị quyết này khiến Chủ tịch nước run bắn toàn thân, mồ hôi ra đầm đìa, thở dốc, huyết áp đột ngột lên 260/130, sốt cao tới 40oC. Tối 17/10/1969, Lưu Thiếu Kỳ trong tình trạng bệnh nặng nhưng vẫn bị cáng ra máy bay quân sự, bí mật đưa đến Khai Phong và nơi giam giữ cuối cùng của Chủ tịch nước là kho bạc cũ của một ngân hàng trước năm 1949. Hai trung đội được cử canh giữ ngày đêm cùng 4 khẩu súng máy đặt trên các nóc nhà xung quanh đề phòng bất trắc. 6 giờ 40 phút sáng 12/11/1969, Lưu Thiếu Kỳ qua đời trong tình trạng không được cấp cứu. Khi vệ sĩ Lý Thái Hòa của Chủ tịch nước đến nhận xác, thi hài Lưu Thiếu Kỳ đặt trên nền đất dưới gian hầm, chân tay khẳng khiu, đầu tóc rối bời, miệng mũi méo xệch, máu ứ bên khóe mép. Sau đó, người ta đặt thi hài Lưu Thiếu Kỳ trên xe quân sự nhỏ, chân thò ra ngoài, bí mật đưa đi hỏa táng, dưới cái tên “Lưu Vệ Hoàng, không nghề nghiệp”. Gần 3 năm sau, ngày 16/8/1972, mấy người con của Lưu Thiếu Kỳ xin thăm bố mẹ, Mao Trạch Đông phê vào báo cáo: Bố đã chết, có thể thăm mẹ.
Mối quan hệ và liên minh giữa Mao Trạch Đông và Lâm Bưu bị rạn nứt và trở mặt sau khi lợi ích của họ mâu thuẫn với nhau. Ngòi nổ cho việc Mao Trạch Đông và Lâm Bưu chống nhau đến từ việc Lâm Bưu để con trai Lâm Lập Quả mới 23-24 tuổi trở thành “lãnh tụ tương lai”. Sau khi nghe báo cáo về tình hình Không quân tâng bốc Lâm Lập Quả, Mao Chủ tịch cho gọi Giang Thanh, Khang Sinh, Trương Xuân Kiều đến thư phòng để tính kế. Ngày 8/3/1970, Uông Đông Hưng truyền đạt với Bộ Chính trị ý kiến của Mao Chủ tịch về việc họp Quốc hội bầu lãnh đạo nhà nước, sửa đổi hiến pháp. Theo đó, Mao Chủ tịch dứt khoát không làm Chủ tịch nước; nếu đặt chức Chủ tịch nước chỉ có Lâm Bưu đảm đương chức vụ này; hoặc tốt nhất không đặt chức Chủ tịch nước nữa. Ngày 11/4/1970, Lâm Bưu nêu 3 ý kiến với Thường vụ Bộ Chính trị: Kiến nghị Mao Trạch Đông làm Chủ tịch nước; về chức danh Phó chủ tịch, có thể đặt, có thể không, có thể nhiều, có thể ít; bản thân không thích nghi với chức Phó chủ tịch. Sau khi Mao Trạch Đông và Lâm Bưu trở mặt thành thù, Lâm Bưu đã nói với gia đình: Mọi người không thấy hắn (Mao Chủ tịch) giống một tên lưu manh sao! Nếu sau này ta thua hắn, thì chỉ thua ở chỗ không đủ lưu manh bằng hắn mà thôi! Trước cuộc họp chính thức tại Hội nghị Lư Sơn tháng 8-1970, Lâm Bưu đã có cuộc nói chuyện riêng rất dài với Mao Chủ tịch và vẫn cho rằng, Giang Thanh giới thiệu Trương Xuân Kiều làm Thủ tướng, để làm Chủ tịch Đảng là dã tâm của bà ta, chứ không phải ý đồ của Mao Chủ tịch.
Ngày 6/11/1970, Mao Chủ tịch cho công bố quyết định thành lập Tổ Tuyên truyền - Tổ chức Trung ương do Khang Sinh làm Tổ trưởng cùng 5 thành viên: Giang Thanh, Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên, Kỷ Đăng Khuê và Lý Đức Sinh với nhiệm vụ phụ trách công tác của Ban Tổ chức Trung ương, Trường Đảng Trung ương, Nhân dân nhật báo, Tạp chí Hồng Kỳ, Tân Hoa Xã, Cục Phát thanh - Truyền hình, Quang minh nhật báo, Cục Biên dịch Trung ương. Đây chính là Tổ “Cách mạng văn hóa” bị xóa sau Đại hội 9 nay sống lại dưới tên gọi khác. Sau thất bại ở Hội nghị Lư Sơn, Lâm Bưu muốn sử dụng vũ lực để chiếm quyền và việc này càng trở nên cấp bách sau quyết định cải tổ Đại quân khu Bắc Kinh ngày 24/1/1971 của Mao Chủ tịch. 21 giờ ngày 8/9/1971, Lâm Lập Quả lên máy bay Trident số 256 về Bắc Kinh, mang theo lệnh viết tay của Lâm Bưu: “Làm theo mệnh lệnh do các đồng chí Lâm Lập Quả và Vũ Trì truyền đạt”. 23 giờ 30 ngày 8/9/1971, tại cứ điểm bí mật trong sân bay Tây Giao (Bắc Kinh), Lâm Lập Quả thông báo quyết định của Lâm Bưu: Tình hình rất khẩn cấp, chúng ta đã quyết định ra tay tại Thượng Hải, đề nghị nghiên cứu 3 biện pháp: dùng súng phun lửa, B.40 tấn công đoàn tàu hỏa của Mao, của Lâm Bưu, hoặc dùng pháo cao xạ 100 ly bắn thẳng vào chuyên xa, hoặc điều Vương Duy Quốc mang theo súng ngắn, nhân lúc gặp Mao Chủ tịch để hạ thủ trên xe lửa. Sau đó, Lâm Lập Quả quay sang nói với Giang Đằng Giao: Ông phải xuống ngay Thượng Hải thống nhất chỉ huy, để Vương Phi chỉ huy tiểu đoàn cảnh vệ trực thuộc Bộ Tư lệnh Không quân đánh vào Điếu Ngư Đài.
Trong khi Lâm Bưu “mài dao”, Mao Chủ tịch cũng cho gọi Tư lệnh Đại quân khu Nam Kinh Hứa Thế Hữu đến ngay Thượng Hải. Sáng 11/9/1971, Hứa Thế Hữu vừa xuống máy bay liền cùng Vương Hồng Văn tới gặp Mao Chủ tịch. 13 giờ 12 phút ngày 11/9/1971, Mao Chủ tịch ra lệnh đoàn tàu lập tức rời Thượng Hải chạy như bay trên tuyến đường sắt Phố Khẩu - Thiên Tân, không cho một ai biết khiến Vương Duy Quốc và đồng đảng không kịp trở tay bởi họ còn đang do dự, đùn đẩy nhau về các phương án mưu sát. 18 giờ 35 phút đoàn tàu đến Nam Kinh, dừng lại 15 phút, Hứa Thế Hữu đứng trên sân ga chỉ huy bảo vệ đoàn tàu. 13 giờ 10 phút ngày 12/9/1971, đoàn tàu về đến ga Phong Đài và khi đó Tư lệnh Đại quân khu Bắc Kinh Lý Đức Sinh, Chính ủy thứ hai Kỷ Đăng Khuê, Chủ nhiệm Ủy ban Cách mạng Bắc Kinh Ngô Đức, Tư lệnh khu cảnh vệ Bắc Kinh Ngô Trung đã có mặt. Sau khi hỏi tình hình, Mao Chủ tịch ra lệnh cho Lý Đức Sinh điều một sư đoàn thuộc Quân đoàn 38 đến cửa Nam Bắc Kinh chờ lệnh. 16 giờ 5 phút ngày 12/9/1971, đoàn tàu về đến ga Bắc Kinh trong sự bảo vệ nghiêm ngặt và Mao Chủ tịch lên ôtô về Trung Nam Hải an toàn.
Chu Ân Lai
Sau khi biết tin từ Vương Duy Quốc (đêm 11/9/1971), Lâm Lập Quả bật khóc, còn Lâm Bưu tái mặt bởi kế hoạch mưu sát Mao Trạch Đông đã hoàn toàn phá sản. Lâm Bưu quyết định thực hiện phương án 2: đem theo 5 ủy viên Bộ Chính trị xuống Quảng Châu lập Trung ương riêng để đối kháng với Mao Chủ tịch. Tám máy bay, trong đó có 2 chiếc Trident, 2 chiếc Il-18, 1 chiếc lên thẳng Skylark được chuẩn bị để thực thi phương án này. Uông Đông Hưng báo cáo với Chu Ân Lai khi đó đang họp tại trụ sở Quốc hội về tình hình đột biến của Lâm Bưu khiến Thủ tướng cho ngừng ngay cuộc họp để gọi điện bảo Ngô Pháp Hiến làm rõ những động thái của cha con họ Lâm. Sau đó Chu Ân Lai gọi điện cho Lý Tác Bằng yêu cầu: Phải có 4 người Chu Ân Lai, Hoàng Vĩnh Thắng, Ngô Pháp Hiến và Lý Tác Bằng cùng ra lệnh, chiếc máy bay ở Sơn Hải Quan mới được cất cánh. Cú điện thoại kể trên của Chu Ân Lai đã phá tan âm mưu của Lâm Bưu chạy xuống Quảng Châu lập Trung ương riêng. Sau khi biết đã hết đường, Lâm Bưu yêu cầu mọi người trong gia đình và thuộc hạ nhanh chóng lấy đồ đạc để đào tẩu. Chiếc xe Hồng Kỳ chống đạn cỡ lớn của Lâm Bưu lao với tốc độ trên 100 km/giờ rời biệt thự và 14 phút sau, chiếc Trident số 256 chở gia đình Lâm Bưu và thuộc hạ do phi công Phan Cảnh Diễn điều khiển cất cánh bay về hướng Irkutsk, trong tình trạng không có lái phụ, hoa tiêu và nhân viên báo vụ.
Sân bay điện báo cáo Lý Tác Bằng và sau khi biết chuyện Chu Ân Lai đã lệnh cho Sở chỉ huy Không quân liên lạc với Phan Cảnh Diễn, yêu cầu bay trở lại. 1 giờ 50 sáng ngày 13/9/1971, chiếc Trident số 256 vượt biên giới, bay vào vùng trời Mông Cổ. Chu Ân Lai ra lệnh cấm không một máy bay nào được cất cánh, nếu không có lệnh của Chủ tịch Mao Trạch Đông, Phó chủ tịch Lâm Bưu, Thủ tướng Chu Ân Lai, Tổng tham mưu trưởng Hoàng Vĩnh Thắng và Tư lệnh Không quân Ngô Pháp Hiến liên danh ký tên. Chiều 14/9/1971, Thủ tướng Chu Ân Lai nhận được báo cáo của Đại sứ Trung Quốc tại Mông Cổ: khoảng 3 giờ sáng 13/9/1971, chiếc máy bay Trident số hiệu 256 của Hãng Hàng không Dân dụng Trung Quốc đã bị rơi tại Mông Cổ, cả 9 người trên máy bay đều chết.
Ngày 6/1/1972, Nguyên soái Trần Nghị từ trần vì bệnh ung thư, tang lễ được tổ chức vào chiều 10/1. Vì có Mao Chủ tịch dự nên sau khi biết tin Chu Ân Lai đã quyết định nâng cấp lễ tang và báo cho tất cả ủy viên Bộ Chính trị có mặt tại Bắc Kinh cùng đi. Ban đầu Mao Trạch Đông nghi ngờ Trần Nghị ăn ở hai lòng, nhưng sau cái chết của Lâm Bưu, Chủ tịch mới thay đổi cách nhìn đối với Nguyên soái. Nhưng vì “đại cục” nên Mao Trạch Đông vẫn không đứng ra bảo vệ Trần Nghị.
Ngày 26/12/1974, Chu Ân Lai gặp riêng Mao Trạch Đông để nói: Trong lịch sử Giang Thanh và Trương Xuân Kiều đều đã phản bội và Chủ tịch tỏ ý đã biết. Và 2 người đạt được thỏa thuận: Mao Trạch Đông bảo đảm quyền lãnh đạo của chính phủ khóa này không rơi vào tay “Bè lũ bốn tên” và Chu Ân Lai giữ kín vấn đề lịch sử của Giang Thanh, Trương Xuân Kiều. Tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa 4 đã bầu Chu Đức làm Chủ tịch Quốc hội, Chu Ân Lai làm Thủ tướng cùng 12 Phó thủ tướng, đứng đầu là Đặng Tiểu Bình. Vì muốn loại bỏ Chu Ân Lai nên sau khi bác sĩ phát hiện Thủ tướng bị ung thư tế bào thượng bì bàng quang, thông qua Uông Đông Hưng, Mao yêu cầu: Phải giữ kín, không cho vợ chồng Thủ tướng biết; Không kiểm tra; Không phẫu thuật; Tăng cường chăm sóc và dinh dưỡng. Vì việc điều trị bị buông trôi tới 9 tháng nên đến tháng 2/1973, Chu Ân Lai tiểu tiện ra máu rất nhiều khiến Diệp Kiếm Anh phải gặp Mao trình bày. Tuy miễn cưỡng cho điều trị, nhưng Mao lại hạn chế các biện pháp trị liệu nên thượng tuần tháng 5/1974, tế bào ung thư di căn, cần nhập viện phẫu thuật. Nhưng Trương Xuân Kiều thay mặt Mao tuyên bố: Không thể phẫu thuật vì không ai có thể làm thay công tác của Chu Ân Lai khi đó. Mãi đến 1/8/1974, Chu Ân Lai mới được đưa vào Bệnh viện 305 để phẫu thuật. Tuy đã cắt hết khối u, vết mổ mau lành, nhưng chỉ 2 tháng sau, Chu Ân Lai lại đi tiểu ra nhiều máu, dấu hiệu tế bào ung thư tiếp tục di căn.
Ngày 8/10/1974, Chu Ân Lai phải phẫu thuật lần hai và sau khi nghe báo cáo, Mao biết rằng những ngày còn lại của Thủ tướng không nhiều. Để thực hiện giấc mơ gia đình trị, Mao Trạch Đông quyết không cho Chu Ân Lai yên tâm dưỡng bệnh, liên tiếp tổ chức đả kích, muốn ông phải ra đi trong sợ hãi. Nhưng “sự kiện ngày 5/4/1975” trên thực tế là một cuộc bỏ phiếu toàn dân “cần Chu Ân Lai, không cần Mao Trạch Đông”. Trước khi bước vào cuộc phẫu thuật lần thứ 4, Chu Ân Lai nắm chặt tay Đặng Tiểu Bình, ráng sức nói lớn trước mặt mọi người: Công tác hơn một năm qua chứng tỏ đồng chí mạnh hơn tôi rất nhiều. Khi bánh xe lăn tới sát cửa phòng mổ, Chu Ân Lai dùng hết sức bình sinh nói: Tôi trung thành với Đảng, trung thành với nhân dân, không phải là phái đầu hàng. Đứng bên chồng, Đặng Dĩnh Siêu bình tĩnh nói với Uông Đông Hưng: Đem lời Chu Ân Lai báo cáo với Chủ tịch. 9 giờ 57 phút ngày 8/1/1976, Chu Ân Lai qua đời, Ban lễ tang gồm 107 người, trong đó có Mao Trạch Đông, nhưng quy cách lễ tang đã bị hạ thấp và Chủ tịch không dự lễ truy điệu.
Sau khi Chu Ân Lai qua đời, Mao yêu cầu Bộ Chính trị thảo luận nhân sự Thủ tướng và hội nghị đưa ra 3 người: Hoa Quốc Phong, Lý Tiên Niệm, Trương Xuân Kiều. Hội nghị còn bầu Giang Thanh làm Phó chủ tịch Đảng, theo đề nghị của Uông Đông Hưng, được Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên, Ngô Quế Hiến phụ họa. Nhưng vì Giang Thanh hoàn toàn không tôn trọng ý kiến của Mao Trạch Đông khi gạt Hoa Quốc Phong, Uông Đông Hưng, Trần Tích Liên ra khỏi hạt nhân lãnh đạo, buộc họ ra tay trước, nhưng phải đợi đến khi Chủ tịch chết. 0 giờ 10 phút ngày 9/9/1976, Mao Trạch Đông qua đời, tang lễ được tổ chức siêu trọng thể. Khi lễ truy điệu Mao Trạch Đông vừa kết thúc, cuộc đấu tranh quyền lực gay gắt đã diễn ra. Được phái nguyên lão đứng đầu là Diệp Kiếm Anh ủng hộ, tối ngày 6/10/1976, Hoa Quốc Phong và Uông Đông Hưng bí mật bắt Giang Thanh, Vương Hồng Văn, Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên và Mao Viễn Tân.
“Bè lũ bốn tên” bị bắt đánh dấu chấm hết cho “Cách mạng văn hóa”. Sau khi “bè lũ bốn tên” bị bắt, người ta thu được bản danh sách lãnh đạo Trung ương theo dự kiến của Giang Thanh: Chủ tịch Đảng: Giang Thanh, Phó chủ tịch Đảng: Trương Xuân Kiều, Vương Hồng Văn, Diêu Văn Nguyên, Tôn Ngọc Quốc, Mao Viễn Tân. Thường vụ Bộ chính trị, ngoài 6 người kể trên, thêm: Tạ Tĩnh Nghi, Trương Thu Kiều, Vương Tú Trân. Chủ tịch Quốc hội: Vương Hồng Văn. Thủ tướng: Trương Xuân Kiều. Theo đánh giá của Trần Vân, một trong những “đại thần nguyên lão” thì Mao Trạch Đông dựng nước có công, xây dựng mắc sai lầm và có tội trong “Cách mạng văn hóa”.
(Xem tiếp kỳ sau)
Hồng Thất Công - Tuấn Quỳnh
(Năng lượng Mới số 144, ra thứ Ba ngày 7/8/2012)


Một chút sự thật về 'nhị đại' (Kỳ IV)

(Petrotimes) - Mặc dù kết thúc từ cuối năm 1976, nhưng phải sau một thời gian tiến hành chính sách “cải cách và cởi mở”, đến năm 1981, Trung Quốc mới chính thức công nhận: “Cách mạng văn hóa” không phải và không thể là một cuộc cách mạng hoặc tiến bộ xã hội theo bất cứ ý nghĩa nào.
Kỳ IV: Những nạn nhân bất đắc dĩ
“Năm 1958 phải nâng sản lượng thép gấp 2 lần năm 1957”, câu nói tùy tiện của Mao Trạch Đông trong lúc tắm đã làm cho cả nền kinh tế quốc dân rối tung lên. Sản lượng thép Trung Quốc năm 1957 là 5,35 triệu tấn, tăng gấp 2 lần là 10,7 triệu tấn. Giữa tháng 8/1958 khi Hội nghị Bắc Đới Hà ra quyết định cuối cùng về vấn đề này, cả nước mới sản xuất được 4,5 triệu tấn thép. Tại hội nghị trên, Mao Trạch Đông nói: Phải chuyên chế, không thể chỉ nói đến dân chủ. Hoàn thành 11 triệu tấn thép là việc lớn liên quan đến lợi ích của toàn dân, phải cố sống cố chết làm cho bằng được. Phải ra sức thu gom sắt phế liệu, có thể tháo dỡ các đường sắt tạm thời không có giá trị kinh tế như đường sắt Ninh Ba, đường sắt Giao Đông! Ngay sau khi nhận thánh chỉ, tại hội nghị những người phụ trách công nghiệp các tỉnh và thành phố họp tại Bắc Đới Hà cuối tháng 8/1958, Bộ trưởng Luyện kim Vương Hạc Thọ đã giao chỉ tiêu cho các tỉnh. Theo đó, trong 4 tháng cuối năm 1958 phải sản xuất 11,5 triệu tấn gang, 7 triệu tấn thép. Trong số những lãnh đạo kể trên, đáng chú ý nhất là Bí thư thứ nhất Tỉnh ủy Hà Nam bởi ông được tờ Nhân dân nhật báo đưa tin: Trước ngày 10/9/1958, mỗi ngày Hà Nam sản xuất 780 tấn gang, cho đến ngày 15/9 đã xây dựng được 45.000 lò luyện gang, huy động 3,6 triệu nông dân cùng 407.000 xe vận tải các loại để một ngày sản xuất 18.693 tấn gang! Thủ tướng Chu Ân Lai không tin thông tin này nên đã cử Cố Minh, Thư ký phụ trách công nghiệp xuống tìm hiểu tình hình bởi từng lưu học ở Nhật Bản, am hiểu sản xuất gang thép.
Bè lũ 4 tên tại tòa
Sau khi nhận được báo cáo của Cố Minh, Chu Ân Lai biết rõ chuyện sản xuất gang thép ở Hà Nam là dối trá. Thứ trưởng Bộ Công nghiệp và Giao thông Cao Dương khi nhận lệnh dẫn một tổ công tác xuống tìm hiểu tình hình luyện gang thép ở Hà Nam liền gửi báo cáo lên Trung ương, thậm chí nêu ý kiến riêng về cách làm phản khoa học này nên đã “lãnh đủ”. Sau khi đọc báo cáo của Thứ trưởng Bộ Công nghiệp và Giao thông, Mao Trạch Đông đùng đùng nổi giận, coi Cao Dương là phần tử cơ hội hữu khuynh, bắt cả vợ con đi lưu đày ở tỉnh Quý Châu. Cuối tháng 7/1958, lực lượng lao động trong ngành gang thép là vài chục vạn người, cuối tháng 8 tăng lên vài triệu, cuối tháng 9 lên 50 triệu, đến cuối năm lên đến 90 triệu, cộng thêm lực lượng chi viện trực tiếp và gián tiếp, tổng số lao động đổ vào ngành gang thép lên đến trên 100 triệu người. Ngày 22/12/1958, Tân Hoa Xã công bố sản lượng năm 1958: 11,08 triệu tấn thép, 13,69 triệu tấn gang, hoàn thành vượt mức nhiệm vụ tăng gấp đôi sản lượng gang thép mà Mao Trạch Đông đề ra. Điều đáng nói là có tới 3,08 triệu tấn thép và 4,16 triệu tấn gang phế phẩm, hoàn toàn không thể gia công sử dụng. Giá thị trường một tấn gang lúc đó là 150 NDT, nhưng làm theo phương pháp thủ công giá thành lên tới 315 NDT và Nhà nước phải trợ giá tới 5 tỉ NDT. Thiệt hại kinh tế trong 3 năm Đại nhảy vọt là 120 tỉ NDT, tương đương khoản tiền định dùng cho 2 kế hoạch 5 năm của Trung Quốc khi đó. Giới chuyên gia nói rằng, Trung Quốc đã chi khoảng 2 tỉ NDT làm các lò luyện kim và đây được coi là “học phí” để nhân dân cả nước học được cách luyện thép - học một nghề thủ công trong khi đây là một ngành đòi hỏi công nghệ và kỹ thuật cao.
Năm 1958, Mao Trạch Đông còn đề xướng thành lập các nhà ăn tập thể, coi đó là biện pháp có hiệu quả để các công xã nhân dân thực hiện tổ chức quân sự hóa, hành động chiến đấu hóa, sinh hoạt tập thể hóa, là vấn đề then chốt để bồi dưỡng tinh thần tập thể và tư tưởng cộng sản chủ nghĩa cho nông dân và các nhà ăn tập thể ồ ạt ra đời. Tính đến cuối năm 1959, nông thôn cả nước đã lập được 3,91 triệu nhà ăn tập thể với hơn 400 triệu người tham gia, chiếm 72,6% số người trong các công xã, riêng tỉnh Hà Nam con số này lên tới 99%. Cơ sở để Mao Trạch Đông đưa ra chủ trương này là lương thực quá nhiều, không biết dùng vào việc gì nữa. Thậm chí Mao Trạch Đông còn tuyên bố, lương thực của Trung Quốc đủ dùng cho tất cả mọi người trên trái đất. Theo báo cáo của Đảng đoàn Bộ Nông nghiệp gửi Bộ Chính trị ngày 25/8/1958 viết: Tổng sản lượng lương thực cả năm 1958 đạt trên 400 triệu tấn, gấp hơn 2 lần năm 1957. Tháng 10/1958, tại Hội nghị hợp tác nông nghiệp các tỉnh Đông Bắc và Tây Bắc, Đàm Chấn Lâm nhấn mạnh con số 400 triệu tấn và khẳng định có khả năng đạt 500 triệu tấn. Lúc đầu nhà ăn tập thể quả có khẩu hiệu chung là “ăn thật no” và “không phải trả tiền”, nhiều nơi đề ra “ăn no, ăn ngon, ăn sạch”, “mỗi bữa 4 món thức ăn”, thậm chí có nơi tuyên bố: phấn đấu 90 bữa ăn/tháng, không bữa nào món ăn trùng lặp, ngang tiêu chuẩn bếp ăn của vua chúa Trung Quốc. Có nơi coi nhà ăn tập thể là khởi điểm để “tiến lên chủ nghĩa cộng sản trong vòng ba năm”.
Nhưng chẳng mấy chốc lương thực, thực phẩm cạn dần, từ thả sức ăn 3 bữa cơm/ngày chuyển sang ăn cháo, rồi cháo loãng, rau dại. Lãnh đạo địa phương không dám giải tán nhà ăn tập thể vì sợ làm sai chỉ thị của lãnh tụ vĩ đại, bị kết tội hữu khuynh, “đi con đường tư bản chủ nghĩa”. Nông dân không thể bỏ nhà ăn tập thể vì toàn bộ khẩu phần lương thực của họ do nhà ăn quản lý, đành mỗi ngày hai lần đến nhận khẩu phần cháo loãng. Huyện Tỉnh Nghiên (Tứ Xuyên) vào lúc thiếu lương thực nghiêm trọng nhất trong năm 1959, bình quân mỗi người một ngày được phân phối không đến 100 gam lương thực, cứ 8 người có một người chết đói. Nửa đầu năm 1959, đi thăm một số tỉnh, Nguyên soái Chu Đức không tán thành nhà ăn tập thể và có nói với Bí thư Tỉnh ủy Quảng Đông Đào Chú: Hai việc lớn nhất năm 1958 là ồ ạt làm gang thép và công xã hóa đã gây thiệt hại rất lớn cho nhà nước và cá nhân. Ý kiến của Chu Đức được lưu truyền rất nhanh trong cả nước và hè năm 1959, Bí thư Tỉnh ủy An Huy Trương Khải Phong ra lệnh giải tán hơn 4.000 nhà ăn tập thể ở huyện Vô Vi. Sự kiện này khiến Mao Trạch Đông đùng đùng nổi giận và trong bút phê báo cáo về vụ này Chủ tịch viết: “Trương Khải Phong đứng trên lập trường giai cấp tư sản, mưu toan phá hoại nền chuyên chính vô sản, chia rẽ Đảng Cộng sản”. Tháng 2/1959, Mao Trạch Đông cử thư ký riêng kiêm Phó văn phòng Trung ương Điền Gia Anh dẫn một tổ công tác xuống Tứ Xuyên điều tra để báo cáo thực trạng nghe và thấy trong chuyến đi này.
Diệp Kiếm Anh
Từ mùa hè 1958, chính quyền và nông dân đã triển khai cuộc đại chiến giành giật lương thực bởi sức ép từ trên xuống nên các nơi đều phải khai tăng sản lượng lương thực lên gấp bội. Thế là khắp nơi diễn ra chiến dịch nông dân cất giấu lương thực dưới nhiều hình thức: chôn dưới hầm, dưới gốc cây, chân tường, vùi trong thức ăn gia súc, thậm chí chia thành gói nhỏ, cài trong tổ chim hoặc đặt dưới hố nước tiểu. Các đội công tác được cử xuống nông thôn truy bức nông dân giao nộp lương thực, phát động mọi người tố giác lẫn nhau, nhiều đội trưởng sản xuất đã bị bắt, bị tra tấn cực kỳ dã man, vì đã đứng về phía nông dân trong việc cất giấu lương thực. Đến mùa xuân năm 1959, 15 tỉnh như Sơn Đông, Giang Tô, Hà Nam, Hà Bắc, An Huy… đã xảy ra nạn đói, trên 25 triệu người không có lương thực. Đến giữa năm 1959, khắp Trung Quốc đầy rẫy người đói khát, tiếng oán hờn thấu tận trời xanh. Do thiếu lương thực, lao động quá sức, từ nửa cuối năm 1959, vùng nông thôn đã xuất hiện tình trạng phù thũng và chết đói, nhiều người bỏ nhà ra đi. Tỉnh ủy Hà Bắc báo cáo: Toàn tỉnh có 44 huyện, 235 công xã đã phát hiện gần 6 vạn người mắc bệnh phù thũng, trên 450 người đã chết. Nhưng Mao Trạch Đông vẫn tiếp tục tổ chức các nhà ăn tập thể khi phân phát báo cáo của Bí thư Tỉnh ủy Quý Châu Chu Lâm: 80% số nhà ăn tập thể ở tỉnh là vững chắc, nhà ăn tập thể là trận địa xã hội chủ nghĩa phải giữ vững, để mất trận địa này, không thể củng cố công xã nhân dân, cũng không thể giữ vững Đại nhảy vọt. Mao Trạch Đông yêu cầu các nơi làm theo Quý Châu. Mao Trạch Đông hiểu rõ chủ nghĩa xã hội không tưởng của mình đã gây hậu quả cực kỳ nghiêm trọng và nếu thực sự cầu thị đánh giá “ba ngọn cờ hồng” (đường lối chung, đại nhảy vọt, công xã nhân dân) thì phải từ chức để tạ lỗi với toàn đảng, toàn dân. Không rõ con số cuối cùng về các nạn nhân là bao nhiêu, nhưng con số ước lượng của các chuyên gia và học giả là hơn 45 triệu người trong giai đoạn từ 1958 đến 1962.
Theo thống kê, số người chết đói ở Trung Quốc trong thời gian 1959-1962 chiếm tới 5,11% dân số cả nước. 6 tỉnh nặng nhất là An Huy (18,37%), Tứ Xuyên (13,07%), Quý Châu (10,23%), Hồ Nam (6,81%), Cam Túc (6,45%) và Hà Nam (6,12%). 6 tỉnh nhẹ nhất là Hà Bắc (1,1%), Giang Tây (1,06%), Thiểm Tây (1,02%), Cát Lâm (0,94%), Chiết Giang (0,55%) và Sơn Tây (0,37%). Sự chênh lệch này liên quan rất lớn tới tố chất của Bí thư thứ nhất Tỉnh ủy - nơi nào càng bám sát “đường lối cách mạng” của Mao Chủ tịch thì tỉ lệ người chết đói càng nhiều. Số người chết đói trong Đại nhảy vọt không bởi thiên tai, mà do nhân họa. Cuối tháng 6/1959, dự trữ lương thực trong cả nước là 17 triệu tấn, đủ đáp ứng nhu cầu của thành thị trong một năm, nhưng Mao Chủ tịch lại quyết định xuất khẩu 4,19 triệu tấn để đổi lấy vàng và USD. Đại nhảy vọt đã khiến mất cân đối giữa tích lũy và tiêu dùng, mất cân đối trong thu chi tài chính và mất cân đối nghiêm trọng giữa sức mua xã hội và khả năng cung cấp hàng hóa, mất cân đối giữa khả năng cung ứng lương thực hàng hóa và nhân khẩu thành thị tăng nhanh, đặc biệt là mất cân đối giữa công nghiệp và nông nghiệp, trong đó công nghiệp gang thép phát triển dị hình: từ năm 1958 đến 1960, công nghiệp nặng tăng trưởng 330%, trong khi nông nghiệp giảm 22,8%.
Sau khi xảy ra sự kiện hàng loạt người chết đói, lãnh đạo các tỉnh lấy ổn định lòng dân làm chính, không nghe theo sự chỉ huy mù quáng của Trung ương nên lãnh đạo Trung ương quyết định triệu tập Hội nghị công tác Trung ương mở rộng, với sự tham gia của những người phụ trách chủ yếu các tỉnh ủy, thành ủy, khu ủy, huyện ủy, các nhà máy, hầm mỏ quan trọng và một số cán bộ lãnh đạo quân đội. Vì có hơn 7.000 người dự nên dư luận gọi là “Đại hội 7.000 người” với chủ đề là “chống chủ nghĩa phân tán”. Tại “Đại hội 7.000 người”, Mao Chủ tịch đã có bài phát biểu dài, nhấn mạnh tập trung thống nhất, khôi phục và tăng cường chế độ tập trung dân chủ, chống chủ nghĩa phân tán. Đồng thời nhấn mạnh: Đại nhảy vọt do toàn Đảng làm, nảy sinh một số vấn đề phải do toàn Đảng chịu trách nhiệm, chứ không đùn đẩy cho người khác. Có thể phục hồi đảng tịch và công tác cho những người bị quy sai là cơ hội hữu khuynh, song đối với những kẻ trùm cơ hội hữu khuynh, chẳng những không phục hồi, mà còn phải lập tổ chuyên án tiếp tục thẩm tra vấn đề “câu lạc bộ quân sự” và tư thông với nước ngoài.
Sau những tháng năm xã hội đại loạn, đấu tranh cướp quyền và chống cướp quyền, 29 tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương đã thành lập chính quyền mới mang tên Ủy ban Cách mạng. Các bí thư tỉnh ủy và tỉnh trưởng hầu hết bị đánh đổ, thay vào đó phần lớn là chỉ huy quân đội tại địa phương và một số người cầm đầu các phái tạo phản. Ngoài việc đấu tố các nhân vật chính trị, quân sự, người ta còn lôi cả những văn nghệ sĩ chân chính ra đấu tố. Ngày 25/8/1966, sinh viên Trường Mỹ thuật Trung ương đã phá hủy và tháo gỡ các tác phẩm điêu khắc quý giá của các triều đại cổ xưa và các tác phẩm mỹ thuật của ngoại quốc. Hồng vệ binh đã bắt ông Tư Mã Thông, Viện trưởng Viện Âm nhạc Trung ương cũng là đệ nhất vĩ cầm của Trung Quốc vì bị buộc tội phản cách mạng.
Cách mạng văn hóa
Tại Hội nghị Trung ương 3 khóa 10 (họp từ 16 đến 21/7/1977) đã ra nghị quyết tước đảng tịch và mọi chức vụ trong và ngoài đảng của Vương Hồng Văn, Trương Xuân Kiều, Giang Thanh và Diêu Văn Nguyên. Ngày 17/3/1980, Ban Bí thư thảo luận vấn đề xét xử tập đoàn Lâm Bưu và tập đoàn Giang Thanh, xác định 16 tội phạm chủ yếu, trong đó 6 người đã chết (Lâm Bưu, Khang Sinh, Tạ Phú Trị, Diệp Quần, Lâm Lập Quả, Chu Vũ Trì) chỉ khởi tố, không xét xử. Mười tội phạm chủ yếu đưa ra xét xử là Giang Thanh, Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên, Vương Hồng Văn, Trần Bá Đạt, Hoàng Vĩnh Thắng, Ngô Pháp Hiến, Lý Tác Bằng, Khưu Hội Tác và Giang Đằng Giao. Lời khai của Giang Thanh tại phiên thẩm vấn sáng 3/12/1980 khiến mọi người sửng sốt: Tôi là con chó của Chủ tịch, Chủ tịch bảo cắn ai, tôi cắn người đó. Mặc dù kết thúc từ cuối năm 1976, nhưng phải sau một thời gian tiến hành chính sách “cải cách và cởi mở”, đến năm 1981, Trung Quốc mới chính thức công nhận: “Cách mạng văn hóa” không phải và không thể là một cuộc cách mạng hoặc tiến bộ xã hội theo bất cứ ý nghĩa nào. Ngày 12/8/1966, Hội nghị lần thứ 11 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa 8 kết thúc ở Bắc Kinh sau khi thông qua quyết định về “Cách mạng văn hóa”. 46 năm sau (12/8/2012), thập kỷ (1966-1976) đầy biến động của “Cách mạng văn hóa” vẫn tiếp tục được đánh giá ở Trung Quốc cũng như trên thế giới theo nhiều cách khác nhau.
Theo Giám đốc Trung tâm Đông phương học tại Học viện Ngoại giao Nga Andrey Volodin, Trung Quốc hoạt động theo lợi ích riêng của mình, thế giới bên ngoài chỉ để tham khảo. Ông Andrey Karneev, Phó giám đốc Viện Á - Phi thuộc Trường đại học Tổng hợp Moskva khẳng định, giới thượng lưu Trung Quốc vẫn chưa thôi sợ hãi thời “perestroika” của Tổng thống đầu tiên và cuối cùng Liên Xô Mikhail Gorbachev bởi đã dẫn tới sụp đổ của Liên Xô sau đó - không muốn bất kỳ sự thay đổi đột ngột nào. Ông Andrey Karneev cũng nhận xét: Trung Quốc từng đánh giá “Cách mạng văn hóa” là thảm họa lớn nhất, là chế độ độc tài phát xít quân sự và đã đẩy ý thức hệ đến mức vô lý. Tuy nhiên “Cách mạng văn hóa” đã tạo thuận lợi cho cuộc cải cách của Đặng Tiểu Bình bởi cả giới lãnh đạo và quần chúng nhân dân đều từng trải qua sự hỗn loạn vô lý của những đàn áp và thanh trừng nên họ sẵn sàng chấp nhận các ý tưởng cải cách. Giới bình luận cho rằng, Trung Quốc nói về cải cách chính trị không phải do lo sợ từ “cách mạng hoa nhài” theo kiểu Arab và cũng không phải do áp lực từ phương Tây. Nhận định này xuất hiện sau tuyên bố của Thủ tướng Ôn Gia Bảo: Trung Quốc cần cải cách chính trị, nếu không sẽ phải đối mặt với nguy cơ lặp lại thảm kịch thời “Cách mạng văn hóa”. Giới truyền thông cho rằng, Trung Quốc đang phải đối mặt với thực tế: Trong nước đã và đang hình thành một thế hệ trẻ có thu nhập tương đối cao, sử dụng Internet, giỏi tiếng Anh, quan tâm đến báo chí nước ngoài, do đó Trung Quốc cần mềm dẻo hơn trước.
Dư luận từng quan tâm tới một Đại nhảy vọt khác của Trung Quốc. Trung Quốc đã thay Nhật Bản để trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, sau Mỹ (năm 2008) và đã trở thành nhà sản xuất hàng đầu thế giới về số người có bằng tiến sĩ cho dù chương trình đào tạo sau đại học mới bắt đầu trở lại từ cuối năm 1978. Tuy nhiên, chương trình tiến sĩ của Trung Quốc khiến nhiều người hoài nghi vì cho rằng, tham nhũng trong hệ thống giáo dục đã tạo nên những “thỏa hiệp, dàn xếp”. Theo thống kê của Giám đốc Ủy ban Học hàm thuộc Hội đồng Nhà nước Trung Quốc, chương trình tiến sĩ đầu tiên của Trung Quốc (năm 1978) chỉ có 18 nghiên cứu sinh và đến năm 1982, số người được trao bằng tiến sĩ đầu tiên mới ở con số 6/18 người kể trên. Nhưng chương trình đào tạo sau đại học đã gia tăng nhanh chóng sau năm 1999do chính sách “công nghiệp hóa” đại học của chính phủ bởi Bắc Kinh cho rằng, chỉ tiêu tuyển sinh cao hơn sẽ tạo ra một thế hệ dân thành thị có giáo dục hơn, thúc đẩy tiêu dùng nội địa và giảm bớt phụ thuộc vào xuất khẩu sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997. Được biết, tỉ lệ tuyển sinh cho các chương trình tiến sĩ hàng năm tăng 23,4% (kể từ 1982) và tới cuối năm 2007, Trung Quốc đã cấp bằng tiến sĩ cho 240.000 người. Điều đáng nói là số lượng giáo sư đủ trình độ cần thiết để giám sát, hướng dẫn chương trình tiến sĩ kể trên lại không đáp ứng yêu cầu đặt ra, khiến người ta quan ngại về chất lượng của những tiến sĩ này. Nhu cầu bằng tiến sĩ phát triển khi Bắc Kinh đưa ra quyết định bổ nhiệm dựa trên nền tảng giáo dục của số ứng cử viên và việc này khiến nhiều quan chức mua bằng. Có cung ắt có cầu - nhiều trường đại học, kể cả một số trường nước ngoài đã thành lập văn phòng tuyển sinh ở Bắc Kinh, Thượng Hải, Quảng Châu và nhiều quan chức có thể sớm nhận bằng tiến sĩ ngay tại nhà mà không cần thi cử. Giáo sư Thái Tề Minh ở Đại học Thanh Hoa cho rằng, hầu hết bằng cấp mà các quan chức có được đều đáng nghi. Việc nhiều quan chức sở hữu những tấm bằng tiến sĩ không minh bạch không chỉ lãng phí nguồn tài nguyên giáo dục, mà còn tạo ra một cuộc khủng hoảng lòng tin trong hệ thống giáo dục.
Hồng Thất Công - Tuấn Quỳnh
(Năng lượng Mới số 145, ra thứ Sáu ngày 10/8/2012)


- Bắc Kinh – Đài Bắc : Khác biệt bản sắc ngày càng sâu rộng – (RFI).
--Thay đổi lãnh đạo Trung Quốc: China's Leaders Head to the Beach (FA 30-7-12)

Tổng số lượt xem trang