"Nước lớn phải lấy chữ nhân để đối xử với nước nhỏ, với thái độ nhường nhịn, không hẹp hòi, không áp đặt. Nước nhỏ thì dùng trí để giao hảo với nước lớn, tôn trọng nước lớn, xem nước lớn là đàn anh nhưng vẫn giữ tinh thần độc lập, có bản sắc riêng và có những lãnh đạo tài trí".- GS. Trần Văn Thọ.
LTS: Thưa quí vị độc giả, Việt Nam và Trung Quốc là hai quốc gia láng giềng "núi liền núi, sông liền sông". Trong quá khứ và hiện tại, có nhiều lúc mối quan hệ này đồng chí hướng, nhiều lúc không thật hài hòa, đặc biệt hiện nay hai nước đang khúc mắc trong vấn đề chủ quyền biển, đảo.
Đối thoại trí thức Việt-Trung là sáng kiến của GS. Trần Văn Thọ (Đại học Wesada, Nhật Bản). Giáo sư hy vọng qua các cuộc đối thoại, trí thức hai nước sẽ hiểu biết, tin tưởng nhau hơn và họ sẽ tác động tích cực đến các tầng lớp dân chúng khác để nhân dân hai nước hòa hiếu với nhau, điều kiện để cùng chung sống hòa bình. Nhằm cung cấp thêm tư liệu để độc giả suy ngẫm, Tuần Việt Nam giới thiệu cuộc trò chuyện của nhà báo Thu Hà với GS. Trần Văn Thọ xung quanh các cuộc đối thoại trí thức Việt-Trung vừa được tổ chức tại Tokyo (Nhật Bản).
Kỳ 1 của loạt bài xoay quanh vấn đề Quan hệ Việt-Trung: Bài học lịch sử về điều kiện để có quan hệ tương kính.
Nhà báo Thu Hà: Thưa giáo sư Trần Văn Thọ, được biết ông là người nêu sáng kiến về sự cần thiết phải có đối thoại trí thức giữa Việt Nam và Trung Quốc. Thực ra thì giới trí thức trên thế giới luôn có rất nhiều cơ hội để chia sẻ quan điểm, góc nhìn. Không biết vì sao ông nghĩ rằng những cuộc đối thoại giữa trí thức Việt Nam và Trung Quốc cần phải đặt thành vấn đề vào thời điểm hiện nay?
GS. Trần Văn Thọ: Quan hệ giữa Việt Nam (VN) và Trung Quốc (TQ) từ khoảng năm 2007 có nhiều diễn tiến xấu. Một trong những nguyên nhân lớn là tình hình khẩn trương ở Biển Đông. Phản ứng của dân chúng VN, đặc biệt là giới trí thức như ta đã biết nhưng dân chúng TQ hình như nhiều người cũng cho rằng họ đúng. Tháng 3 năm 2010 nhân dịp thăm Quảng Châu tôi có gặp một số giáo sư ở Đại học Trung Sơn. Tuy mục đích cuộc gặp là trao đổi về kinh tế Á châu nhưng cũng có hai người tìm cách nhắc đến Biển Đông và cho rằng VN quá khích, xâm phạm chủ quyền của TQ.
Ngoài ra, mỗi năm đến tháng 2, cuộc chiến tranh biên giới 1979 lại khơi dậy tình cảm phức tạp không phải chỉ của người VN đối với TQ mà cả phía TQ đối với VN nữa. Rõ ràng đó là cuộc chiến do Đặng Tiểu Bình phát động, nhưng nhiều người TQ vẫn tin đó là cuộc "phản kích tự vệ"(!). Thêm vào đó, quan hệ kinh tế Việt -Trung phát triển một chiều cũng gây lo ngại và tạo tình cảm bất tín của VN đối với hàng nhập ào ạt từ TQ, đối với hành vi của thương nhân, doanh nghiệp TQ tại VN. Nhưng người TQ không hiểu sự tình cho rằng tình cảm bất tín đó là do người VN vốn không ưa TQ và quên ơn TQ đã giúp VN trong quá trình giành độc lập.
Các trí thức tham gia chương trình đối thoại Việt-Trung. |
Ai cũng có thể nhận thấy tình hình này rất bất lợi cho cả hai nước, nhưng đặc biệt là đối với VN, một nước nhỏ và yếu hơn. Đáng lo hơn nữa là nhiều vấn đề do lịch sử để lại, không dễ giải quyết một sớm một chiều, ảnh hưởng lâu dài đến con đường phát triển của VN. VN vừa phải củng cố nội lực, tranh thủ sức mạnh của thời đại, vừa phải cố gắng xây dựng quan hệ hữu nghị lâu dài với nước láng giềng lớn mạnh này trên cơ sở tương kính, tin tưởng lẫn nhau. Đặc biệt sự tương kính, hiểu biết và tin tưởng lẫn nhau phải bén rễ trong lòng của các tầng lớp dân chúng.
Từ nhận định đó tôi chợt nghĩ đến sự cần thiết phải có đối thoại giữa trí thức VN và TQ với hy vọng là qua các cuộc đối thoại, trí thức hai nước sẽ hiểu biết, tin tưởng nhau hơn và họ sẽ tác động tích cực đến các tầng lớp dân chúng khác. Tôi nghĩ đã gọi là trí thức thì, ngoài trình độ hiểu biết, phải khách quan, khoa học, trung thực và có tinh thần xây dựng, có trách nhiệm với xã hội. Do đó đối thoại giữa các trí thức hy vọng mang lại kết quả tốt.
Nhà báo Thu Hà: Vâng, có lẽ ý tưởng này thiết thực trong bối cảnh giữa hai quốc gia láng giềng đang còn nhiều điểm khúc mắc. Xin được hỏi, về phía các học giả Trung Quốc và quốc tế họ hưởng ứng thế nào với sáng kiến của GS?
GS. Trần Văn Thọ: Tôi cho rằng, các cuộc đối thoại như thế này giúp ta hiểu biết hơn về suy nghĩ của một số trí thức TQ (và VN), đồng thời gợi mở một số vấn đề VN cần quan tâm trong quá trình cải thiện quan hệ với nước láng giềng phương Bắc. Rất may là ở Đại học Wvaseda, nơi tôi đang giảng dạy có giáo sư Lưu Kiệt, chuyên về sử cận đại, người Trung Quốc, phóng khoáng và có tinh thần trách nhiệm với công việc chung. Giáo sư Lưu Kiệt cũng thấy ý nghĩa của chương trình đối thoại Việt-Trung và đồng ý đứng tên chung trong dự án này. Bước tiếp theo, tôi viết thư cho Giám đốc của Quỹ giao lưu quốc tế Nhật Bản, đề nghị ông ủng hộ chương trình này. Rất mừng là ông đã đánh giá cao ý tưởng và đồng ý đưa dự án vào chương trình tài trợ cho tài khóa 2011, nếu kết quả tốt sẽ tài trợ cho tài khóa 2012.
Từ mùa hè năm ngoái đến nay hội nghị trù bị và hội nghị chính thức lần thứ nhất đã được tổ chức tại Tokyo. Chúng tôi định các hội nghị chính thức tiếp theo sẽ tổ chức tại Trung Quốc và Việt Nam. Chúng tôi cũng dự định kết quả các cuộc đối thoại sẽ in thành sách bằng tiếng Việt và tiếng Trung và phổ biến rộng rãi tại hai nước. Dự định là như vậy nhưng chưa biết sẽ thực hiện được tới đâu vì còn phụ thuộc vào ngân sách và một số yếu tố khác.
Quan hệ Việt-Trung thời phong kiến: Nhân và trí là quan trọng
Nhà báo Thu Hà: Nhìn lại các cuộc đối thoại, giáo sư thấy ý kiến hai bên có gì đặc biệt? Trước hết nói về quan hệ hai nước từ thời xưa có điểm gì đáng chú ý?
GS. Trần Văn Thọ: Chúng tôi cùng nhìn lại mối quan hệ giữa hai nước cả trong quá khứ và hiện tại. Nhìn chung, về quan hệ Việt-Trung thời phong kiến, ý kiến hai bên không khác nhiều, ngoài phần báo cáo về nội dung sách giáo khoa lịch sử của phía VN là có gây tranh luận. Trong các bản báo cáo đặc biệt có một số nội dung đối với tôi khá mới và thú vị...
Nhà báo Thu Hà: Điểm mới và thú vị ông tìm thấy trong các cuộc đối thoại này là gì ạ?
GS. Trần Văn Thọ: Giáo sư Bộ Bình (Bu Ping) của Viện Khoa học xã hội TQ trong bản báo cáo tại hội nghị trù bị năm ngoái nhấn mạnh là trong các triều đại Tống, Nguyên, Minh, Thanh, vì nhiều nguyên nhân đã phát sinh chiến tranh giữa hai nước nhưng đó chỉ là những giai đoạn rất ngắn.
Ông lấy một ví dụ điển hình là trong chiến tranh năm 1789 mà ông gọi là Chiến tranh Thanh Nguyễn, Tôn Sĩ Nghị từ lúc cho quân xuất phát tiến qua VN đến khi bại trận ở Thăng Long chỉ có 70 ngày. Theo ông, hầu hết thời gian từ khi Đinh Bộ Lĩnh lập ra nước Đại Cồ Việt (968) với tư cách là quốc gia độc lập đến nay, dân tộc hai nước sống trong hòa bình, giao lưu hữu hảo là chính, tuy quan hệ có tính cách giữa nước lớn và nước nhỏ, biểu hiện bằng sách phong và triều cống. Và sự gắn bó ấy đã phát triển lên cao vào thời đại hai bên cùng tranh đấu chống thực dân và đế quốc. Ông còn nhấn mạnh là "Tình hữu nghị gắn bó hai dân tộc được nhuộm bằng máu trong đấu tranh, nhân dân hai nước và con cháu sau này phải giữ gìn mãi mãi". Tôi nghĩ những trí thức như giáo sư Bộ Bình rất có tinh thần xây dựng và thực sự mong hai nước ngày càng có quan hệ tốt.
Về sách phong và triều cống, bản báo cáo của Phó giáo sư Nguyễn Minh Tường (Viện Khoa học xã hội VN) cũng đưa ra mấy chi tiết mới. Theo giáo sư Tường, từ thời Đinh Tiên Hoàng (cụ thể là từ năm 970) cho đến năm 1225, chưa có triều cống mà chỉ là sính (sính lễ). Chế độ triều cống chỉ chính thức bắt đầu từ năm 1225 (thời Trần Thái Tông), nhưng cũng không được thực hiện nghiêm ngặt, lúc có lúc không. Chỉ từ thời nhà Lê, bắt đầu năm 1428, mới thực sự có triều cống theo đúng như khái niệm đó quy định (chế độ triều cống này chấm dứt năm 1884).
"Sính" là quà thăm hỏi, không định kỳ hạn, không bắt buộc, thường được tiến hành khi hai bên muốn giao hảo thân thiết, còn "Cống là thuế, là phải nộp những sản vật quý như vàng, bạc, sừng tê, ngà voi... cho các nước lớn mạnh, có tính chất bắt buộc". Nhưng trong sử TQ thì không phân biệt hai khái niệm sính và cống. Trong giai đoạn VN cho là chỉ có "sính" họ cũng ghi là "cống". Về giai đoạn "cống", giáo sư Tường có nhận định thêm là "Cho dù phải cầu phong và triều cống, cho dù Trung Quốc có quyền sách phong cho Việt Nam, nhưng đó chỉ là hình thức nghi lễ ngoại giao, trong thực tế, ông vua Việt Nam vẫn toàn quyền cai trị đất nước mình".
Rất tiếc là tôi vẫn chưa rõ tại sao VN chỉ thực sự thực hiện triều cống nghiêm túc từ thời nhà Lê. Trong quan hệ Việt Trung, giai đoạn 970-1428 khác với giai đoạn sau như thế nào. Tôi định có dịp sẽ hỏi thêm giáo sư Nguyễn Minh Tường.
Nhà báo Thu Hà: Ôn lại lịch sử thời xưa có rút ra được bài học gì cho ngày nay không, thưa giáo sư?
"Nước lớn phải lấy chữ nhân để đối xử với nước nhỏ, với thái độ nhường nhịn, không hẹp hòi, không áp đặt. Nước nhỏ thì dùng trí để giao hảo với nước lớn, tôn trọng nước lớn, xem nước lớn là đàn anh nhưng vẫn giữ tinh thần độc lập, có bản sắc riêng và có những lãnh đạo tài trí".
GS. Trần Văn Thọ
|
GS. Trần Văn Thọ: Như tôi đã nói, về quan hệ hai nước thời phong kiến hai bên không khác nhiều. Đặc biệt hai bên có vẻ nhất trí ở tư tưởng của Mạnh Tử về chữ "nhân" và chữ "trí" (hiểu theo ý rộng hơn nguyên nghĩa) và đây là bài học ngày nay nên tham khảo.
Nước lớn phải lấy chữ nhân để đối xử với nước nhỏ, với thái độ nhường nhịn, không hẹp hòi, không áp đặt. Nước nhỏ thì dùng trí để giao hảo với nước lớn, tôn trọng nước lớn, xem nước lớn là đàn anh nhưng vẫn giữ tinh thần độc lập, có bản sắc riêng và có những lãnh đạo tài trí. Thái độ ấy của nước lớn và nước nhỏ là điều kiện để thiên hạ thái bình và để có quan hệ hữu hảo giữa hai nước. Văn cảnh này liên tưởng đến một câu chuyện thú vị trong bản báo cáo của giáo sư Tường kể về thái độ của Hoàng đế Càn Long nhà Thanh đối với vua Quang Trung. Nhờ tài trí mà Quang Trung được Càn Long rất nể trọng đến nỗi biết Quang Trung không đích thân sang chầu nhà Thanh mà đưa người khác giả mình sang TQ, Càn Long cũng làm ngơ.
Bản báo cáo của phó giáo sư Đào Tố Uyên (Đại học Sư phạm Hà Nội) về sách giáo khoa lịch sử VN là gây tranh cãi nhiều nhất. Giáo sư Uyên giới thiệu những nội dung chính trong giáo trình ở bậc đại học, cao đẳng và sách giáo khoa phổ thông, liên quan đến quan hệ VN-TQ từ thời cổ trung đại đến cuối thế kỷ 19 và nhấn mạnh là tuy bị phương Bắc xâm lược nhiều lần, VN vẫn giữ được độc lập, trong các thời kỳ bị TQ đô hộ, nhân dân VN vẫn liên tục đấu tranh giành độc lập và chống đồng hóa của phong kiến phương Bắc. Tuy nhiên, một giáo sư Nhật đã bình luận là bản báo cáo thiếu phần nói về những mặt tích cực trong quan hệ Việt-Trung, trong đó VN đã du nhập văn hóa, tư tưởng, ngôn ngữ từ TQ mà so với những thời kỳ có chiến tranh, quan hệ mang lại hiệu quả tốt cho việc dựng nước của VN dài hơn nhiều.
Ý kiến của giáo sư Nhật được phía TQ đồng tình. Một học giả TQ còn nói thêm là trong các cuộc chiến tranh không phải lúc nào TQ cũng xâm lược VN, chẳng hạn Lý Thường Kiệt đã đem quân sang Quảng Tây hồi thế kỷ 11. Đúng là do phải cổ võ tinh thần yêu nước, nỗ lực giữ nước trong giai đoạn chống ngoại xâm, sách giáo khoa lịch sử VN có khuynh hướng nhấn mạnh những nội dung như bản báo cáo nói trên.
Trong phần thảo luận, giáo sư Uyên có bổ túc là VN và TQ là hai nước láng giềng nên sự giao lưu và ảnh hưởng văn hóa lẫn nhau là điều đương nhiên. Trong thời kỳ Bắc thuộc, để thực hiện chính sách đồng hóa VN, TQ đã mở trường dạy học chữ Hán và truyền bá tư tưởng Nho giáo. Nhưng với tinh thần tự cường dân tộc, nhân dân Việt Nam đã tiếp thu một cách chủ động và sáng tạo, chẳng hạn dùng chữ Hán để Việt hóa âm đọc cho dễ nhớ, dễ học. Từ chữ Hán VN cũng sáng tạo ra chữ nôm và sử dụng chữ Hán để sáng tác các tác phẩm văn học, viết và xây dựng các công trình văn hóa như các tác phẩm sử học, y học, hệ thống văn bia bằng chữ Hán...
Cũng trong phần thảo luận này, giáo sư Nguyễn Quang Ngọc ((Đại học Quốc gia Hà nội) có phát biểu là, vì VN bị ngoại xâm nhiều nên phải nhấn mạnh nỗ lực giữ nước trong sách giáo khoa lịch sử, và không riêng gì TQ, lịch sử VN cũng nói nhiều đến các cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ.
Theo phát biểu của giáo sư Đỗ Tiến Sâm (Viện Khoa học Xã hội VN) ở hội nghị trù bị năm ngoái, trong quá khứ, VN đã phải đương đầu với 16 cuộc chiến, trong đó 12 cuộc là do các triều đại phong kiến TQ gây ra.
Nói chung trao đổi ý kiến về quan hệ hai nước thời xa xưa cũng rất hữu ích. Đặc biệt chữ "nhân" và chữ "trí" được nhiều người nhắc lại nhiều lần.
Thu Hà
Mời theo dõi tiếp kỳ 2: Thăng trầm quan hệ Việt-Trung
.Quan hệ Việt-Trung: Bài học từ lịch sử (kỳ 1)
-Thăng trầm quan hệ Việt – Trung
- Giáo sư Đỗ Tiến Sâm cho rằng, người VN đều mong muốn được sống hòa bình với nước láng giềng phương bắc nhưng luôn phải tìm hiểu kỹ các chính sách và hành động của TQ.
Tuần Việt Nam giới thiệu phần 2 cuộc trò chuyện giữa nhà báo Thu Hà và GS Trần Văn Thọ, ĐH Waseda, Nhật Bản về đối thoại trí thức Việt – Trung mới diễn ra tại Nhật.
Nhà báo Thu Hà: Thưa GS, trong lịch sử quan hệ Việt-Trung, giai đoạn thời cận hiện đại chắc là phức tạp?
GS. Trần Văn Thọ: Thời cận hiện đại đúng là có nhiều vấn đề phức tạp và có sự khác biệt nhiều giữa ý kiến của trí thức VN và TQ.
Bản báo cáo của GS Phan Kim Nga (Pan Jine), Viên Khoa học Xã hội TQ, chia quan hệ Việt Trung thành 4 giai đoạn: (1) Từ thế kỷ thứ 10 đến giữa thế kỷ 19: Quan hệ triều cống giữa nước nhỏ và nước lớn, (2) Từ đầu thế kỷ 20 đến đầu thập niên 1970: Hai nước sát cánh nhau trong việc chống thực dân cũ và mới, (3) Từ cuối thập niên 1970 đến cuối thập niên 1980: giai đoạn đối đầu, và (4) Từ 1991 đến nay là giai đoạn hợp tác toàn diện, phát triển nhanh, nhưng trong đó từ cuối năm 2007 xảy ra một số sự kiện phức tạp làm cho quan hệ hai nước có nhiều mặt căng thẳng và có khả năng phát triển theo xu hướng xấu.
Quan hệ cá nhân giữa lãnh đạo hai nước là nền tảng quan trọng nhất trong việc TQ giúp VN chống Pháp và Mỹ |
Nhà báo Thu Hà: Như vậy tác giả cho rằng giai đoạn 2 là giai đoạn tốt nhất và giai đoạn 3 là xấu nhất?
GS. Trần Văn Thọ: Các trí thức khác phía TQ hầu như có cùng quan điểm này. Đặc biệt nửa sau của giai đoạn 2 được xem là “vừa là đồng chí vừa là anh em”.
Cùng quan điểm cho rằng giai đoạn (2) là thời đại hai nước Việt Trung có quan hệ tốt nhất, Phó giáo sư Lưu Chí Cường (Liu Zhiqing) thuộc Đại học Dân tộc Quảng Tây đặc biệt phân tích quan hệ cá nhân giữa Hồ Chí Minh với Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai. Tác giả cho rằng “quan hệ cá nhân đó đã trở nên nền tảng quan trọng nhất trong việc TQ giúp VN chống Pháp và Mỹ”. Bài viết của vị này rất công phu, tham khảo rất nhiều sách, báo, hồi ký, tư liệu, chủ yếu do học giả và cựu lãnh đạo đảng Cộng sản TQ viết, gồm cả những công trình nghiên cứu dựa trên tư liệu hồ sơ ngoại giao mới được công khai.
Theo giáo sư Lưu Chí Cường, quan hệ giữa các lãnh tụ hai nước bắt đầu từ năm 1922 tại Paris. Năm đó, Hồ Chí Minh kết bạn với Chu Ân Lai và giới thiệu nhiều thanh niên TQ gia nhập Đảng Cộng sản Pháp. Cũng theo tác giả, sau này (năm 1956) Chu Ân Lai có nói “Hồ Chí Minh là người dẫn đường cho tôi”. Năm 1926 Chu Ân Lai giới thiệu Hồ Chí Minh với Mao Trạch Đông tại Trường đào tạo Phong trào nông dân ở Quảng Châu và từ đó quan hệ giữa Hồ Chí Minh với hai lãnh tụ của TQ ngày càng mật thiết và tin cậy nhau. Tác giả dành nhiều trang viết về sự giúp đỡ mà tác giả đánh giá là chí tình và có hiệu quả của Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai đối với các hoạt động của Hồ Chí Minh ở Trung Quốc và Liên Xô từ giữa thập niên 1920 đến năm 1950, như thành lập VN Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội (1925), thoát khỏi nhà tù của Tưởng Giới Thạch (1942), v.v..
Còn nhiều khác biệt
GS. Trần Văn Thọ: Xin nói thêm về bản báo cáo của giáo sư Lưu Chí Cường. Trong giai đoạn VN chống Pháp 1946-1954, ngoài Nhật ký Trần Canh (cố vấn TQ trong chiến tranh chống Pháp) xuất bản năm 1984, tác giả dùng nhiều tư liệu công bố, xuất bản tại Trung Quốc trong thời gian từ khoảng năm 2000 trở về sau như bài viết “Chúng tôi cũng sùng bái Hồ Chí Minh” của Hồng Tả Quân (Kiến Thức thế giới, số 3 năm 1999), “Tình nghĩa Trung Quốc của Hồ Chí Minh” của Lý Quần Anh (Kiến thức thế giới, số 2 năm 2007), Hồ Chí Minh và Mao Trạch Đông của Viện Khoa học xã hội Quảng Tây (NXB Kiến thức thế giới, 2007), “Những ngày tháng cuối cùng của thủ tướng Chu Ân Lai và Hồ Chí Minh” của Hồng Tả Quân (Bách niên triều, số 3, 2008), v.v..
Có lẽ trong khoảng 10 năm gần đây Trung Quốc chú trọng nghiên cứu, công bố nhiều tư liệu liên quan đến Hồ Chí Minh và quan hệ Việt Trung trong giai đoạn 1920-70. Từ các tư liệu này, Lưu Chí Cường cho rằng trong chiến tranh chống Pháp, Trung Quốc đã giúp đỡ Việt Nam chí tình và yếu tố lớn nhất là sự tin cậy, thân tình giữa Hồ Chí Minh với Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai.
Về Hội nghị Geneve, tác giả cho rằng “dưới sự thúc đẩy của Chu Ân Lai, hai nước Trung Việt đã đạt được thỏa thuận chung” phản ảnh trong nội dung của bản hiệp định và đánh giá đó là bản hiệp định hợp với tình hình thực tế lúc đó và có lợi cho VN. Từ nhận định đó tác giả không tán thành ý kiến của một học giả Đài Loan cho rằng “Hiệp định Geneve là mâu thuẫn lần thứ nhất giữa hai Đảng”.
Bài viết giới thiệu nhiều giai thoại về các cuộc gặp giữa Hồ Chí Minh với Chu Ân Lai và Mao Trạch Đông, về các cuộc đối thoại giữa Trần Canh và Hồ Chí Minh, v.v.. Có cả nhiều ảnh tư liệu về các cuộc gặp giữa các lãnh tụ hai nước. Trong phần kết luận, tác giả cho rằng phong cách cá nhân đã làm cho các lãnh đạo hai nước đối xử với nhau chân thành, rất quân tử. Cuối cùng tác giả cho rằng hiện nay quan hệ hai nước trên căn bản là hòa bình, hữu hảo nhưng cũng đang đối mặt với những thách thức mà thách thức này bắt nguồn từ sự thiếu tin cậy, thiếu sự hiểu biết giữa hai bên.
Về cá nhân tôi rất mến giáo sư Lưu Chí Cường, một học giả trẻ có năng lực và thành thật trong nghiên cứu. Bản báo cáo về quan hệ cá nhân giữa Hồ Chí Minh với Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai rất công phu. Tuy nhiên nghĩ tới sự phản bội ở Hội nghị Geneve và nhất là chính họ đã trực tiếp quyết định và chỉ đạo đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam năm 1974, ta có thể đặt nhiều nghi vấn về thái độ của họ trong quan hệ với lãnh tụ của VN. Nhưng ở hội nghị đối thoại trí thức hai nước chúng tôi không có thì giờ đi xa hơn nội dung bản báo cáo của giáo sư Lưu Chí Cường.
Nhà báo Thu Hà: Giai đoạn mà mối quan hệ giữa hai nước “vừa là đồng chí, vừa là anh em” trở nên xấu đi được giới học giả hai nước phân tích như thế nào? Thưa giáo sư?
Nói về giai đoạn xấu nhất trong quan hệ Việt Trung, một phó giáo sư của Đại học Thanh Hoa (theo yêu cầu vị này, tôi xin không nêu tên ở đây) trong hội nghị trù bị năm ngoái cho rằng giai đoạn Việt Nam theo đuổi chính sách nhất biên đảo, ngả về Liên Xô là xấu nhất. Theo vị này, VN đã nghi ngờ viện trợ của TQ trong giai đoạn chống Pháp, chống Mỹ là cách nước này khống chế hơn là thực tâm giúp.
Vấn đề Campuchia cũng là một trở ngại làm quan hệ hai nước xấu đi.
Nhà báo Thu Hà: Đó là ý kiến riêng của trí thức Trung Quốc, vậy trí thức Việt Nam đã phản biện như thế nào? Thưa Giáo sư?
GS. Trần Văn Thọ: Giáo sư Chu Hảo cho rằng, trên bản chất, quan hệ Việt Trung chỉ cần chia ra 3 giai đoạn:
1) Thời kỳ chế độ quân chủ của VN từ năm 938 đến năm 1884 mà nét đặc trưng là quan hệ triều cống của nước nhỏ đối với nước lớn.
2) Thời kỳ thuộc địa (là chủ yếu) của cả hai nước từ 1885 đến 1949, giai đoạn này hai quốc gia ít có ảnh hưởng qua lại lẫn nhau.
3) Thời kỳ quan hệ giữa hai nhà nước xã hội chủ nghĩa từ năm 1950 đến nay. Đây là một giai đoạn hết sức đặc biệt: trên danh nghĩa thì "vừa là đồng chí vừa là anh em", nhưng trên thực tế thì có rất nhiều mảng tối được đặc trưng bởi sự không thành thật, nói một đằng làm một nẻo.
Giáo sư Chu Hảo nhấn mạnh Việt Nam luôn ghi nhớ sự giúp đỡ chí tình, kể cả bằng xương máu của nhân dân Trung Quốc trong hai cuộc chiến tranh vệ quốc cảu Việt Nam. Đồng thời, ông cũng không quên nhắc một thực tế khác, khi có lúc Việt Nam đã phải nếm vị đắng trong quan hệ với nước này, như đàm phán Geneva 1954, hay gặp gỡ Mỹ - Trung 1972.
Những vấn đề mới trong quan hệ Việt - Trung, trong đó có nhập siêu lớn của VN với TQ làm quan hệ căng thẳng |
Quan hệ “16 chữ” và “4 tốt”, nhưng không phải có những lúc, thực tế trái với tinh thần của những khẩu hiệu ngoại giao tốt đẹp ấy.
Nhà báo Thu Hà: Cuối cùng, hai bên có tìm được tiếng nói chung khi lý giải lịch sử hay không?
GS. Trần Văn Thọ: Có lẽ nhiều người phía TQ không nhất trí với quan điểm này nhưng cũng không có tích cực phản luận, ngoại trừ ý kiến của phó giáo sư Lưu Chí Cường cho rằng sự phát triển nhanh trong quan hệ ngoại thương và đầu tư trong nhiều năm qua giữa hai nước là kết quả của tinh thần “hợp tác toàn diện”, 4 trong 16 chữ.
Còn giáo sư Phan Kim Nga thì cho rằng những sự kiện phức tạp gần đây trong quan hệ hai nước là do những nguyên nhân khác, cụ thể như sau: Tranh chấp trên biển (hai nước đều đưa ra những cơ sở lịch sử và pháp lý để chứng minh chủ quyền của mình, có sự khác nhau trong lý giải về Luật biển công ước năm 1982), kinh tế và thương mại (nhập siêu của VN đối với TQ quá lớn), nhận thức về lịch sử (nhất là lịch sử cận hiện đại), và các thách thức mới.
Nhà báo Thu Hà: Các thách thức mới ấy là gì, theo quan điểm của vị học giả Trung Quốc, thưa Giáo sư?
GS. Trần Văn Thọ: Trong những thách thức mới, giáo sư Phan Kim Nga nhấn mạnh bốn điểm. Một là, khi thực lực kinh tế hai nước tăng lên, ý thức dân tộc cũng tăng làm cho tranh chấp chủ quyền nổi lên.
Hai là, trụ cột quan trọng để giữ gìn quan hệ tốt đẹp của hai nước là ý thức hệ chủ nghĩa cộng sản nhưng bây giờ suy nghĩ của người dân hai nước có khuynh hướng khác trước nên trụ cột đó dần dần mất đi.
Ba là, cơ cấu dân số Việt Nam thay đổi, tỉ lệ người sinh ra sau năm 1975 chiếm phần lớn và họ dần dần không biết đến “hình ảnh nhân dân hai nước Trung Việt cùng đổ máu, giúp đỡ nhau chống thực dân và xây đắp nên tình hữu nghị vừa là đồng chí vừa là anh em”.
Bốn là, theo vị học giả này, khi kinh tế phát triển, tài nguyên sẽ cạn kiệt và ý thức bảo vệ môi trường tăng lên nên VN có khuynh hướng thúc đẩy phát triển hướng ra biển, làm cho tranh chấp trên biển tăng lên.
Từ phân tích này, tác giả cho rằng cần phải tìm kiếm, xây dựng những trụ cột mới để cho quan hệ hai nước phát triển tốt đẹp.
Lưu Chí Cường và Phan Kim Nga là những nhà nghiên cứu về Việt Nam, viết và nói tiếng Việt giỏi, theo tôi họ là những trí thức có lương tâm. Ta thấy họ cố gắng lý giải vấn đề theo hướng tích cực, cố gắng tìm những yếu tố khách quan để giải thích tình trạng hiện nay và tránh phân tích các yếu tố liên quan đến chiến lược, chính sách của lãnh đạo Trung Quốc.
Nhà báo Thu Hà: Như vậy là trí thức Việt Nam và Trung Quốc vẫn còn rất khác nhau khi nhìn lại giai đoạn kém hữu hảo trong mối quan hệ giữa hai quốc gia.
GS. Trần Văn Thọ: Liên quan đến vấn đề này, trong hội nghị trù bị năm ngoái, giáo sư Đỗ Tiến Sâm (Viện Khoa học Xã hội VN) cho rằng, do yếu tố lịch sử và địa lý, mọi người VN đều mong muốn được sống hòa bình với nước láng giềng phương bắc nhưng luôn phải tìm hiểu kỹ các chính sách và hành động của TQ.
Theo giáo sư Sâm, mặc dù khi bình thường hóa quan hệ năm 1991, lãnh đạo hai nước đã chủ trương “khép lại quá khứ, hướng tới tương lai”, sau đó lần lượt đề ra “phương châm 16 chữ”, “tinh thần bốn tốt” và gần đây đặt quan hệ “đối tác hợp tác chiến lược toàn diện”, nhưng sự tin cậy lẫn nhau giữa nhân dân hai nước chưa đủ tốt, nhất là người VN vẫn cảnh giác đối với TQ khi thấy nhiều sự kiện trên thực tế đi ngược lại các phương châm tốt đẹp ấy. Đặc biệt các dự án hợp tác của TQ tại VN và các hành động của TQ ở Biển Đông gây nên bức xúc trong dư luận tại VN.
Đúng là có sự khác biệt về nhận thức giữa trí thức VN và trí thức TQ về những chủ trương, phương châm có tính cách khẩu hiệu hiện nay.
Thu Hà
Mời đón đọc kỳ 3: Chủ quyền biển Đông: Ta phải tự quyết định số phận của mình
Chủ quyền biển Đông: Ta phải tự quyết định số phận mình"Vấn đề Biển Đông là phức tạp. Nhưng khi trí thức hai nước cùng có nhận định cần gìn giữ hòa bình khu vực và cần có quan hệ hữu nghị giữa hai nước họ sẽ cùng nỗ lực làm cho vấn đề không phức tạp hơn".
Mời đón đọc kỳ 3: Chủ quyền biển Đông: Ta phải tự quyết định số phận của mình
Chủ quyền biển Đông: Ta phải tự quyết định số phận mình"Vấn đề Biển Đông là phức tạp. Nhưng khi trí thức hai nước cùng có nhận định cần gìn giữ hòa bình khu vực và cần có quan hệ hữu nghị giữa hai nước họ sẽ cùng nỗ lực làm cho vấn đề không phức tạp hơn".
Nhà báo Thu Hà: Xin được chuyển sang câu chuyện hiện tại đang rất nóng liên quan đến chủ quyền ở Biển Đông. Vấn đề này có được giới trí thức hai nước bàn thảo trong cuộc đối thoại không, thưa giáo sư?
GS. Trần Văn Thọ: Trước cuộc đối thoại, chúng tôi có đề nghị cả hai bên Việt và Trung chuẩn bị bản báo cáo về đề tài này nhưng cuối cùng chỉ có phía VN có bản báo cáo của giáo sư Nguyễn Quang Ngọc (Đại học Quốc gia Hà Nội). Tuy nhiên trong ngày hội thảo, phía TQ đã tham gia thảo luận sôi nổi.
Nhà báo Thu Hà: Vâng. Giáo sư Ngọc là người có nhiều bài viết, nghiên cứu chuyên sâu về chủ quyền của Việt Nam ở biển Đông.
GS. Trần Văn Thọ: Theo tôi, nội dung bản báo cáo của giáo sư Ngọc rất có sức thuyết phục và có nhiều điểm mới lạ đối với tôi. Ngoài bản tóm tắt 3 trang theo yêu cầu của ban tổ chức, tác giả còn chuẩn bị một bài viết dài, kèm theo nhiều bản đồ, chụp lại từ các tư liệu trong nghiên cứu của các học giả phương Tây. Tôi đặc biệt chú ý mấy điểm sau:
Thứ nhất, người phương Tây đã xác định Hoàng Sa là của Chiêm Thành. Nhiều bản đồ hàng hải phương Tây đánh dấu ở khu vực quần đảo Hoàng Sa cái tên rất có ý nghĩa là Baxos de Chapar (bãi đá ngầm Chămpa) và Pulo Capaa (đảo của Chămpa). Nhiều bản đồ phương Tây cuối thể kỷ 16 đã vẽ rõ và chính xác các quần đảo Paracels (Hoàng Sa) và khu vực duyên hải miền Trung tương đương với tỉnh Quảng Ngãi sau này là Costa da Pracel (Bờ biển Hoàng Sa).
Thứ hai, địa giới Đại Việt đến trước thời điểm quân Minh xâm lăng đã được mở rộng đến Quảng Ngãi. Năm 1490 Lê Thánh Tôn cho hoàn thành bản đồ toàn quốc trong đó cho đánh dấu vị tri của Bãi Cát Vàng. Chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635) đẩy mạnh giao thương quốc tế, phát triển thương cảng Hội An, mở rộng lãnh thổ xuống miền Đông Nam bộ, đặt ra đội Hoàng Sa khai thác và quản lý khu vực Bãi Cát Vàng và một phần Bãi Cát Dài ở phía Nam. Chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) đặt ra đội Bắc Hải (dưới sự kiểm quản của Đội Hoàng Sa) có trách nhiệm khai thác hóa vật, kiểm tra, kiểm soát thục thi chủ quyền.
Thứ ba, năm 1803 Gia Long lập đội Hoàng Sa có chức năng khai thác và quản lý đảo nầy. Liên tục trong các năm 1815 và 1816, vua sai đội nầy ra đảo Hoàng Sa thăm dò đường biển. Hoạt động của vua Gia Long được nhiều người phương Tây chứng kiến và đề cao. Chẳng hạn, trong hồi ký của Jean Baptiste Chaigneau (1769-1825) nói là đến năm 1816 nhà vua đã chiếm được hòn đảo này. Giám mục Jean Louis Taberd thì cho rằng người Đàng Trong gọi khu vực Paracels là Cồn Vàng, khẳng định Paracels thuộc An Nam.
Nhà báo Thu Hà: Và trí thức phía Trung Quốc đã phản ứng như thế nào?
GS. Trần Văn Thọ: Giáo sư Yang Daqing (Dương Đại Khánh), người đang dạy học ở Mỹ nói rằng, các sách báo của Trung Quốc mà ông đã đọc được lại nói ngược lại, rằng tư liệu của TQ và của các học giả phương Tây chứng minh rằng Tây Sa (Hoàng Sa của Việt Nam) và Nam Sa (Trường Sa của Việt Nam) là của TQ. Tuy nhiên ông không đi vào chi tiết cụ thể mà chủ trương rằng, cùng tham khảo các nguồn tư liệu giống nhau nhưng VN và TQ lại rút ra các kết luận trái ngược nhau. Đây là điểm các nhà nghiên cứu hai nước nên cùng hợp tác nghiên cứu để xem chân lý nằm ở đâu.
Còn giáo sư Yu Xiangdong (Vu Hướng Đông), Viện trưởng Viện nghiên cứu Việt Nam tại Đại học Trịnh Châu (Hà Nam), thì cho rằng TQ có đầy đủ tư liệu chứng minh Tây Sa và Nam Sa là của TQ (thực ra là Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam - pv), rằng những tư liệu mà giáo sư Ngọc đưa ra chỉ liên quan đến những đảo nhỏ nằm gần bờ biển VN.
Nhà báo Thu Hà: Giáo sư Ngọc của Việt Nam đã trả lời họ ra sao ạ?
GS. Trần Văn Thọ: GS Nguyễn Quang Ngọc cho rằng, trước những chứng cứ không thể phủ nhận về chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa, các nhà nghiên cứu Trung Quốc như Hàn Chấn Hoa, Đới Khả Lai, Lý Quốc Cường, Vu Hướng Đông... đã tìm cách chứng minh Hoàng Sa và Trường Sa chỉ là các đảo ven bờ biển miền Trung Việt Nam.
Tiêu biểu nhất và gần đây nhất là Giáo sư Vu Hướng Đông trong luận án Tiến sĩ mới bảo vệ tại Đại học Hạ Môn năm 2008 đã đưa ra lập luận rằng vì Đội Hoàng Sa (do Gia Long lập) dùng người ở đảo Lý Sơn (tức là Cù Lao Ré, cách cửa biển Sa Kỳ khoảng 20 km, nay là huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi) cho nên có thể suy ra Lý Sơn chính là đảo Hoàng Sa. Ngoài ra, họ cho rằng Trường Sa chỉ là các dải cát mang tên Đại Trường Sa, Tiểu Trường Sa trong đất liền thuộc bờ biển tỉnh Thừa Thiên - Huế ngày nay. Với các chủ trương đó, họ cho rằng họ công nhận VN có chủ quyền nhưng chủ quyền của VN chỉ là các đảo ven bờ, còn các đảo ở giữa Biển Đông (mà họ gọi là Tây Sa, Nam Sa) hoàn toàn không phải là Hoàng Sa, Trường Sa (như tài liệu của VN) và Pracels, Sprattly (như tài liệu của phương Tây).
Nói khác đi, họ chủ trương là các đảo ở Tây Sa và Nam Sa là chủ quyền của họ, không liên quan gì đến Hoàng Sa, Trường Sa hay Paracels, Spratly cả. Tuy nhiên, theo giáo sư Ngọc, tất cả các nguồn tư liệu thư tịch và bản đồ cổ của Việt Nam, phương Tây và của cả Trung Quốc đều phân biệt một cách rạch ròi Hoàng Sa và Trường Sa ở giữa Biển Đông với các đảo ven bờ VN. Đây là điều ai cũng có thể nhận ra nếu thực sự muốn nghiên cứu nghiêm túc.
Sau đó, giáo sư Nguyễn Quang Ngọc có nói thêm là khi Pháp chuyển giao cho Bảo Đại toàn bộ Nam kỳ có bao gồm cả Hoàng Sa và tại Hội nghị San Francisco (1951), thủ tướng Trần Văn Hữu của chính quyền Bảo Đại có tuyên bố chủ quyền của VN tại quần đảo Hoàng Sa và không có ai phản đối.
Nhà báo Thu Hà: Là người khởi xướng đối thoại trí thức thức Việt - Trung và cũng là người chủ trì hai cuộc đối thoại vừa rồi, chúng tôi xin được biết quan điểm của giáo sư về những vấn đề đang còn tranh cãi giữa học giả hai nước?
GS. Trần Văn Thọ: Với tư cách là người trong ban chủ tọa và vì thì giờ rất ít cần ưu tiên cho các vị đến từ VN và TQ, tôi chỉ phát biểu lúc khai mạc và lúc tổng kết, nhưng về vấn đề Biển Đông tôi thấy có một điểm quan trọng mà hai bên không ai nói tới nên mới chen vào hỏi một câu về quần đảo Hoàng Sa (của VN). Đó là sự kiện TQ dùng vũ lực chiếm quần đảo Hoàng Sa năm 1974 từ VN Cộng hòa.
Câu hỏi của tôi đặt ra chủ yếu cho giáo sư Vu Hướng Đông, đó là cho đến thời điểm đó, Hoàng Sa thuộc chủ quyền của VN Cộng hòa. Nếu TQ chủ trương Hoàng Sa là của họ, vậy trước năm 1974 vì bối cảnh nào, và vào năm nào, chủ quyền Hoàng Sa lại chuyển từ TQ sang VN Cộng hòa? Nhưng giáo sư Vu Hướng Đông không trả lời trực tiếp câu hỏi nầy, chỉ nói lại ý kiến đã phát biểu rằng năm 1974 TQ có hành động quân sự là để thu hồi lại chủ quyền vốn có của mình và nói thêm là "Từ xưa đến nay nhiều tài liệu lịch sử cũng như nghiên cứu của các học giả TQ như Hàn Chấn Hoa và Đới Khả Lai đã chứng minh chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Tây Sa và Nam Sa".
Sau hội thảo tôi có viết thư cho giáo sư Vu Hướng Đông nhắc lại câu hỏi nói trên và đề nghị ông trả lời bổ túc vì nghĩ rằng ở hội thảo thì giờ có ít, trả lời chưa đủ. Ông có phản hồi nhưng rất tiếc hoàn toàn không có sức thuyết phục. Ông bảo "năm 1946 TQ đã cử tư lệnh hải quân đến chiếm lại Hoàng Sa, nhưng trong thập niên 1950s, chính phủ miền nam VN với sự yểm trợ của Mỹ đã xâm phạm quần đảo này". Tôi lại hỏi tiếp, vậy trước năm 1946 do bối cảnh nào mà Hoàng Sa chuyển chủ quyền từ TQ sang VN, và năm cụ thể nào trong thập niên 1950 Mỹ đã giúp chính quyền Sài Gòn chiếm Hoàng Sa của TQ. Nhưng tiếc là giáo sư Vu Hướng Đông không trả lời thêm nữa.
Trong hội thảo, phía VN có đề nghị bên TQ có bài báo cáo chi tiết về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa như bản báo cáo của giáo sư Nguyễn Quang Ngọc.
Nhà báo Thu Hà: Rõ ràng, giữa trí thức hai nước vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau. Ông có nghĩ rằng, những trí thức tham gia đối thoại sẽ thoải mái chia sẻ quan điểm, góc nhìn với nhau không?
GS. Trần Văn Thọ: Từ kết quả hai hội nghị đối thoại trí thức Việt Trung, kể cả sự cảm nhận về những vấn đề nổi lên trong quá trình chuẩn bị, tôi có mấy nhận xét và suy nghĩ như sau:
Bảy giáo sư TQ tham gia đối thoại dĩ nhiên không thể nói là đại biểu cho suy nghĩ chung của trí thức TQ nhưng có lẽ cũng không ít người có cùng quan điểm như họ. So với suy nghĩ, nhận định của trí thức VN, rõ ràng có nhiều điểm khác nhau. Nhưng tùy vấn đề, qua đối thoại và nỗ lực tìm hiểu, quan điểm hai bên có thể xích lại gần hơn. Quan hệ Việt - Trung trong thời phong kiến nhìn chung nhận định hai bên không khác lắm. Quan hệ hai nước trong giai đoạn 1950-1972 là điểm có nhiều tranh cãi nhưng cùng với độ lùi của thời gian và với nhiều tư liệu được công khai, khoảng cách về nhận thức sẽ thu hẹp.
Về giai đoạn từ giữa thập niên 1970 đến hết thập niên 1980 mà đỉnh điểm là chiến tranh biên giới năm 1979, cả lãnh đạo hai nước đều không muốn nhắc đến với lý do là "muốn cùng khép lại quá khứ để hướng tới tương lai". Trong giới trí thức TQ có lẽ có nhiều nhận định khác nhau. Một số suy nghĩ giống ý kiến chính thống của nhà nước TQ, nhất là của giới cầm quyền thời đó. Nhưng cũng có người khách quan hơn. Năm 2005 trong một hội nghị ở Indonesia tôi gặp một giáo sư kinh tế nổi tiếng thuộc Viện khoa học xã hội của TQ. Trong khi trò chuyện lúc giải lao, tự nhiên ông ta nhắc đến chiến tranh 1979 và nói "trong sự kiện đáng tiếc đó, cả TQ và VN đều có sai lầm". Theo tôi, những trí thức chân chính của TQ không ai cho đó là "phản kích tự vệ" như nhiều người quá khích của TQ chủ trương. Về vấn đề này ta cũng có thể hy vọng rằng cùng với độ lùi của thời gian và với nhiều tư liệu được công khai, trí thức hai nước sẽ có quan điểm không khác nhau nhiều.
Vấn đề Biển Đông là phức tạp nhất. Theo tôi, nhiều trí thức TQ không nghĩ là chủ trương của nhà nước họ là có sức thuyết phục (ý kiến bảo vệ chủ trương của TQ mạnh mẽ như giáo sư Vu Hướng Đông tại hội nghị có lẽ không nhiều), nhưng họ không dám công khai nói ngược lại với chủ trương đó. Do đó, tôi không hy vọng các cuộc đối thoại trí thức Việt Trung sẽ góp phần giải quyết vấn đề biển Đông.
Tuy nhiên khi trí thức hai nước cùng có nhận định cần gìn giữ hòa bình khu vực và cần có quan hệ hữu nghị giữa hai nước họ sẽ cùng nỗ lực làm cho vấn đề không phức tạp hơn.
Những trí thức TQ chuyên nghiên cứu về VN vì mục đích học thuật nhìn chung có thiện cảm với ta và có lẽ họ thật sự mong hai nước giữ quan hệ hữu hảo. Đa số họ có nỗ lực đào xới, làm rõ những mặt tích cực trong quan hệ Việt Trung và tìm những khả năng mới để góp phần cải thiện quan hệ hai nước. Hai giáo sư Phan Kim Nga và Lưu Chí Cường trong cuộc đối thoại lần này là những điển hình.
Tôi cũng đã từng gặp nhiều người khác nữa. Dĩ nhiên nhiều người trong nhóm này họ chưa thấy hết những phức tạp trong quan hệ hiện nay.
Về những trí thức nói chung, nghĩa là những người không chuyên nghiên cứu về VN, thì có vẻ không hoặc ít quan tâm đến quan hệ Việt - Trung. Mời những người này tham gia các hội nghị đối thoại Việt Trung rất khó. Điều này cũng dễ hiểu.
Phải cải cách để phát triển và được thế giới nể trọng
Nhà báo Thu Hà: Như GS đã nói, cuộc đối thoại trí thức Việt-Trung sẽ gợi mở một số vấn đề VN cần quan tâm trong quá trình cải thiện quan hệ với nước láng giềng phương Bắc. Từ hai cuộc đối thoại đã được thực hiện, giáo sư có gợi mở gì nhằm giúp cải thiện mối quan hệ Việt-Trung hiện nay?
GS. Trần Văn Thọ: Thứ nhất, trong lịch sử, VN được TQ tôn trọng, nể trọng thật sự khi có những người lãnh đạo tài năng, trí tuệ và có tầm nhìn. Tại hội nghị vừa qua, Quang Trung và Hồ Chí Minh được nói tới như những trường hợp điển hình. VN còn có Trần Nhân Tông, Nguyễn Trãi và nhiều người khác.
Ở cấp thấp hơn, trong lịch sử ta cũng có các sứ giả được TQ nể trọng như Phùng Khắc Khoan, Lê Quí Đôn,... Những bậc tiền nhân này tiếp xúc với TQ không có mặc cảm là người nước nhỏ, mà với tư thế ngang hàng với lãnh đạo và các tầng lớp tinh hoa của TQ. Họ đường đường là những con người có văn hóa, tự tin, bản lĩnh, trí tuệ, một mặt kính trọng nước láng giềng lớn mạnh và có nền văn hóa vĩ đại nhưng mặt khác bám chặt quyền lợi của đất nước, dân tộc mình với quan điểm và chủ trương riêng trong quá trình phát triển của đất nước.
"Quân tử hòa nhi bất đồng" (lắng nghe, tôn trọng ý kiến người khác và tìm cách xây dựng quan hệ tốt với họ nhưng vẫn giữ chủ trương, suy nghĩ của riêng mình, không thỏa hiệp vô nguyên tắc) cũng có thể áp dụng trong quan hệ đối xử với nước láng giềng đặc biệt này.
VN ngày nay muốn được TQ nể trọng cũng cần nhiều người có những tố chất như thế.
Thứ hai, về lâu dài VN muốn được TQ và các nước khác nể trọng phải từng bước vững chắc phát triển thành một nước giàu, mạnh, văn minh, hài hòa với môi trường, với xã hội và thế giới. Rất tiếc hiện nay VN chưa có những điều kiện để đạt được mục tiêu đó. Chỉ có cải cách triệt để mới giải quyết được các vấn đề này.
So với TQ, VN nhỏ và yếu hơn. Nhưng VN có thể đi trước TQ về chất lượng thể chế nếu có quyết tâm cải cách. Và đây là điều kiện cần để VN cải thiện vị trí so với TQ.
Mới đây có một bài bình luận về VN trên báo Asahi, tờ nhật báo lớn, có uy tín tại Nhật. Tác giả bài báo, một nhà bình luận, phê phán truyền thông Nhật Bản là không tích cực đăng các tin tức về tình hình dân chủ, tự do ngôn luận tại VN, và kêu gọi người Nhật phải quan tâm mặt này khi đánh giá về nước VN. Từ khi VN nhận viện trợ từ các nước tư bản tiên tiến (1993), Nhật Bản luôn luôn là nước viện trợ nhiều nhất cho VN. Gần đây, đối với Nhật, VN cũng đã trở thành nước nhận viện trợ nhiều nhất của họ. Đầu tư của Nhật tại VN cũng tiếp tục tăng. Người Nhật nói chung nhìn VN qua những tiêu chí đó. Do đó, bài bình luận trên báo Asahi chắc chắn ảnh hưởng đến suy nghĩ của người Nhật.
Thứ ba, đối thoại giữa trí thức hai nước Việt Trung như chúng tôi tổ chức đã cho thấy một số kết quả. Nếu được tổ chức với qui mô lớn và thường xuyên hơn chắc chắn sẽ có hiệu quả tốt về lâu dài trong quan hệ hai nước. Nhà nước, doanh nghiệp và các đoàn thể khác tại VN nên tạo điều kiện thúc đẩy, hỗ trợ các chương trình đối thoại độc lập của trí thức, song song với giao lưu cấp nhà nước hay các hội nghị "quan phương".
Khác với các hội nghị "quan phương", đối thoại giữa những trí thức có quan điểm độc lập, với tinh thần khoa học, trọng sự thực sẽ là cơ sở bền vững tạo sự tin tưởng, tin cậy lâu dài.
Đặc biệt VN cần tạo điều kiện để lôi cuốn được sự quan tâm của giới trí thức không chuyên nghiên cứu về VN. Các nhà nghiên cứu về VN của TQ thường có điều kiện và có nhu cầu sang VN nhiều, có nhiều cơ hội giao lưu với học giả phía VN nhưng những trí thức nói chung thì các cơ hội này rất ít và họ cũng ít quan tâm nếu không có sự chủ động của phía VN.
Thu Hà