Áo và Tiệp Khắc là hai quốc gia bị Đức cưỡng chiếm đầu tiên ngay cả trước khi Thế chiến thứ hai bùng nổ. Trong lúc Đức chiếm Áo không gây nhiều phản ứng vì Áo có nhiều liên hệ với Đức về lịch sử, ngôn ngữ, văn hóa và chính bản thân Hitler vốn là người Áo, việc cưỡng chiếm Tiệp Khắc là một biến cố lớn vì Tiệp Khắc là một nước độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và được xem là một trong số mười cường quốc châu Âu thời đó.
Suốt thời gian dài hơn sáu năm dưới ách thống trị của Đức Quốc Xã, nhân dân Tiệp đã chịu đựng vô số thương vong, thiệt hại. Hàng trăm ngàn người bị giết và hàng trăm ngàn người khác bị đày ải trong các trại tập trung. Thế nhưng phải chăng ngày đó Tiệp Khắc yếu đến mức không bắn được phát súng nào?
Không. Trước Thế chiến thứ hai, thừa hưởng các thành tựu kỹ thuật của thời đế quốc Áo Hung, Tiệp Khắc là một trong sốt ít quốc gia có một quân đội đông đảo nhất và được trang bị tối tân nhất châu Âu. Việc Tiệp Khắc rơi vào tay Đức nhẹ nhàng như chiếc lá mùa thu phát xuất từ ba lý do chính. Hai lý do khách quan:
(1) Bành trướng về hướng đông là chủ trương truyền thống của Đức,
(2) Chính sách nhân nhượng (appeasement policy) của các lãnh đạo chủ hòa châu Âu đứng đầu là Thủ tướng Anh Neville Chamberlain, và một lý do chủ quan:
(3) Tiệp Khắc là một quốc gia ô hợp, phân hóa, suy yếu, có nhiều chính khách làm tôi mọi cho ngoại bang và giới lãnh đạo chính phủ không có quyết tâm bảo vệ chủ quyền đất nước.
Bành trướng về hướng đông là chủ trương truyền thống của Đức.
Sau giai đoạn cách mạng 1848, Đức trở thành cường quốc. Sức mạnh của Đức thể hiện không chỉ trong các lãnh vực kinh tế, quân sự, dân số mà cả khoa học. Tổng số giải Nobel các khoa học gia Đức được tặng thưởng trong giai đoạn 47 năm tồn tại nhiều hơn tổng số giải Nobel của các khoa học gia Anh, Pháp, Nga và Mỹ cộng lại. Năm 1871, Đế Quốc Đức bao gồm 27 khu vực, dưới sự lãnh đạo của Otto von Bismarck đã vượt qua đế quốc Anh. Giống như mọi đế quốc khác trong lịch sử, để tiếp tục lớn mạnh cần phải có tài nguyên thiên nhiên.
Đức là quốc gia nằm ngay giữa châu Âu và về mặt địa lý chính trị, suốt nhiều thế kỷ, các chế độ quân chủ Đức cũng chủ trương các quốc gia phía Đông trong đó có Tiệp Khắc, Ba Lan, Hungary là hàng rào an ninh của Đức để đương đầu với hai nước lớn khác là Pháp và Nga.
Sau khi sáp nhập Áo vào tháng Ba năm 1938 không cần dùng đến võ lực, Hitler tập trung vào chiến lược chiếm Tiệp Khắc bất chấp sự chống đối của nhiều tướng lãnh cao cấp trong đó có tướng Ludwig Beck, Tổng Tham Mưu Trưởng quân đội Đức. Bản thân của Hitler cũng đánh giá Tiệp rất cao nên không dám công khai đưa quân vượt biên giới xâm lăng quốc gia này. Vì vùng Sudetenland có đông dân Đức và có nguồn dự trữ nguyên liệu lớn nhất của Tiệp Khắc, Hitler nghĩ đến việc chiếm vùng Sudetenland trước và dùng khu vực giàu có này làm bàn đạp thôn tính toàn bộ Tiệp Khắc.
Chính sách nhân nhượng (appeasement policy) của các các lãnh đạo Anh, Pháp đứng đầu là Thủ tướng Nevill Chamberlain đã “khuyến khích” Đức chiếm Tiệp Khắc.
Sau Thế chiến thứ nhất, dù thắng hay bại, các quốc gia đều phải chịu đựng một thời kỳ suy thoái kinh tế trầm trọng. Khuynh hướng chủ hòa chế ngự trong sinh hoạt chính trị tại các cường quốc dân chủ và lãnh tụ hàng đầu của khuynh hướng này là thủ tướng Anh, Nevill Chamberlain. Thủ tướng Nevill Chamberlain tìm cách hòa giải mối thù địch với Đức. Khi Đức sáp nhập Áo, Chamberlain không có phản ứng cụ thể nào.
Khi Hitler công khai bày tỏ ý định sáp nhập vùng Sudetenlan của Tiệp Khắc đang có hơn ba triệu người gốc Đức, vào lãnh thổ Đức, vấn đề trở nên phức tạp vì Tiệp Khắc có liên minh quân sự với Pháp và Pháp có liên minh quân sự với Anh. Thủ tướng Anh Nevill Chamberlain qua trung gian của Sir Horace Wilson chuẩn bị đàm phán với Đức và qua trung gian của Lord Runciman thuyết phục Tiệp Khắc nhượng bộ. Trong lúc Hitler thông đồng với các nước nhỏ như Hungary và Ba Lan để xẻ thịt Tiệp, Tổng thống Mỹ Franklin Roosevelt tuyên bố chủ trương trung lập của Mỹ về tranh chấp Sudetenland.
Ngày 15 tháng Chín năm 1938, Thủ tướng Nevill Chamberlain bay sang Đức để thương thuyết với Hitler. Các cuộc thương thuyết giằng co cho đến sáng sớm 30 tháng 9 năm 1939, thỏa hiệp Munich được ký kết giữa Đức, Anh, Pháp và Ý, trong đó, cho phép Đức sáp nhập vùng Sudetenland trù phú và chiến lược vào lãnh thổ Đức.
Tiệp Khắc không được mời tham dự hội nghị và chỉ được Anh Pháp thông báo kết quả. Chính phủ Tiệp nghĩ rằng Tiệp Khắc không có hy vọng gì thắng được Đức bằng sức mạnh của riêng mình, đã đồng ý với nội dung của thỏa hiệp Munich. Theo thỏa hiệp này, tướng Đức Wilhelm Keitel được cử vào chức thống đốc quân sự vùng Sudetenland. Những người dân Tiệp không phải gốc Đức phải rời Sudetenland trong vòng 10 ngày và không được mang theo bất cứ một món sở hữu nào. Câu Phản bội Tiệp Khắc để chỉ sự phản bội của đồng minh đối với Tiệp ra đời từ đó.
Mất Sudetenland, Tiệp Khắc không chỉ bỏ trống biên giới chiến lược phía nam mà còn mất 70% dự trữ sắt thép, 70% điện và 3 triệu công dân Tiệp. Trong lúc hiệp ước Munich là một thành quả ngoại giao lớn của Nevill Chamberlain, đối với Hitler lại là một bước lùi. Mục tiêu của Hitler không phải chỉ chiếm vùng Sudetenland mà cả nước Tiệp như Wilson Churchill tiên đoán. Đầu năm sau, Hitler lần lượt chiếm các vùng Bohemia, Moravia và phần còn lại của Tiệp Khắc.
Cả hai lý do trên không thể làm Tiệp Khắc mất một cách nhanh chóng nhưng chính sâu mọt và phản bội ngay trong lòng nước Tiệp và một chính phủ phân hóa, yếu kém, thiếu quyết tâm mới là những lý do chính làm tan rã Tiệp Khắc.
Rất nhiều sâu mọt trong nội bộ Tiệp và đứng đầu là Konrad Henlein lãnh đạo của đảng Sudeten gốc Đức.
Konrad Henlein một thầy giáo bậc trung học, lúc đó đang hoạt động dưới danh nghĩa đảng Sudeten quy tụ đa số dân Tiệp gốc Đức. Konrad Henlein sinh tại Bohemia, Tiệp Khắc có cha là người Đức và mẹ là người Czech. Đảng Sudeten của Konrad Henlein thông đồng với đảng Quốc Xã Đức và được đảng này tài trợ và huấn luyện. Mỗi tháng đảng Sudeten nhận 15 ngàn Đức Mã để trang trải các chi phí hoạt động. Ngày 28 tháng Ba năm 1938, Hiter gọi Konrad Henlein sang Đức và đích thân ra chỉ thị cho tên Tiệp gian này phải đưa ra những điều kiện mà Tiệp Khắc không thể thỏa mãn được. Mặc khác, Joseph Goebbels, Bộ trưởng Tuyên truyền của Đức Quốc Xã, tung một chiến dịch tuyên truyền ồ ạt về việc chính phủ Tiệp bạc đãi, đàn áp dân gốc Đức trong vùng Sudetenlan và xúi dục người dân Tiệp gốc Đức đứng lên đòi quyền tự trị.
Về lại Tiệp, Tiệp gian Konrad Henlein đòi chính phủ Tiệp phải để vùng Sudetenlan hoàn toàn tự trị, thay đổi chính sách đối ngoại của chính phủ Tiệp và toàn quyền phổ biến lý thuyết Quốc Xã. Dĩ nhiên, đòi hỏi tự trị còn có thể đàm phán được nhưng việc tự do tuyên truyền tư tưởng Quốc Xã khó có thể chấp nhận. Khi đàm phán bắt đầu, Tiệp gian Konrad Henlein và đảng của y lại tạo nhiều xáo trộn bạo động trong vùng và tiếp tục làm khó dễ chính phủ trung ương cho đến khi hiệp ước Munich được ký kết. Ngày 1 tháng Mười năm 1938, các đơn vị tiền phương của quân đội Đức vượt qua biên giới Tiệp giữa tiếng hò reo ủng hộ của các đảng viên đảng Sudeten, và cũng trong lúc đó hàng chục sư đoàn Tiệp được trang bị đầy đủ được chính phủ ra lịnh rút lui. Phía sau đoàn quân Đức là các đơn vị mật vụ Gestapo và lực lượng anh ninh SS. Chỉ trong thời gian ngắn 10 ngàn người dân Tiệp, kể cả dân nói tiếng Đức nhưng chống Hitler, bị đày vào các trại tập trung vừa mới xây ở Sudetenland.
Konrad Henlein gia nhập lực lượng an ninh Đức và tham gia vào đảng Quốc Xã. Mặc dù sinh ra, lớn lên trên đất Tiệp, Konrad Henlein đã góp phần quan trọng trong việc rước voi Đức giày lên Tiệp Khắc. Y được thưởng nhiều chức vụ và được cho phép làm công dân Đức. Sau khi Tiệp Khắc được đồng minh giải phóng, tên Tiệp gian phản quốc Konrad Henlein bị bắt và y đã tự sát bằng cách cắt gân máu ở cổ tay.
Kẻ phản bội thứ hai là tổng thống bù nhìn Emil Hacha. Sau khi Edvard Benes, tổng thống thứ hai của Tiệp Khắc từ chức, tân tổng thống Emil Hacha là một người nhu nhược. Buổi tối ngày 11 tháng Ba năm 1939, Hitler cho triệu Hacha đến Bá Linh và thông báo cho ý định chiếm toàn bộ Tiệp Khắc bằng võ lực và hứa nếu Hacha chịu hợp tác, Tiệp Khắc sẽ được hưởng quyền tự trị rộng rãi còn nếu nghịch sẽ bị đoàn quân Hitler tấn công Tiệp bằng mọi phương tiện trong đó có cả việc không quân của Đức cày nát thủ đô Prague. Emil Hacha quy thuận Hitler. Dưới thời Đức Quốc Xã chiếm đóng y được giữ chức vụ tổng thống bù nhìn nhưng buộc phải tuyên thệ trung thành trước Hitler. Mặc dù có nhiều tài liệu cho thấy Emil Hacha trong thời gian phục vụ Hitler cũng lén lút giúp cho phong trào kháng chiến chống Đức thuộc chính phủ lưu vong của Edvard Benes nhưng công không đủ để chuộc tội cho y. Sau khi Prague được giải phóng vào tháng Năm năm 1945, Emil Hacha bị bắt và chết hơn hai tháng sau đó trong hoàn cảnh bí mật. Y được chôn trong một ngôi mộ không đề bia tại nghĩa trang Vinohrady. Hiện nay, tại nghĩa trang Vinohrady có một tấm bảng ghi dấu nơi chôn của Emil Hacha.
Jozef Tiso là một kẻ phản quốc đội lốt tôn giáo. Mặc dù thụ phong linh mục nhưng y cũng là một trong những đảng viên nòng cốt của đảng Nhân Dân Slovak. Lợi dụng sự suy yếu của Tiệp Khắc sau hiệp ước Munich, đảng Nhân Dân Slovak do Tiso lãnh đạo tuyên bố Slovak tự trị trong vòng Tiệp Khắc. Vào 13 tháng Ba năm 1939, giống như vừa đe dọa Emil Hacha vài hôm trước đó, Hitler triệu Jozef Tiso đến Bá Linh và buộc y phải tuyên bố Slovak độc lập, tách rời khỏi Tiệp Khắc, nếu không Hitler sẽ thúc giục Hungary và Ba Lan chiếm đóng phần lãnh thổ còn lại của Slovakia. Jozef Tiso cũng tuân phục Hitler và trở nên một cộng tác viên trung thành cho chế độ Quốc Xã. Từ năm 1939 đến năm 1945, Tiso là tổng thống bù nhìn Slovakia chư hầu của Đức. Đảng Nhân Dân Slovak do y lãnh đạo liên kết chặt chẽ với đảng Quốc Xã Đức và chia sẻ quan điểm diệt Do Thái. Khi hồng quân Liên Xô tiến vào chiếm Slovakia tháng Tư năm 1945, Tiso bị bắt và bị kết án phản quốc. Jozef Tiso bị treo cổ ngày 18 tháng Tư năm 1947. Chính phủ Tiệp Khắc chôn y tại một nơi bí mật.
Chính phủ Tiệp Khắc nhu nhược không quyết tâm bảo vệ đất nước. Phân hóa và thiển cận trong thành phần lãnh đạo của hai sắc dân Slovak và Czecho trong chính phủ Tiệp đã làm thượng tầng kiến trúc lãnh đạo sụp đổ nhanh chóng.
Tiệp Khắc trong giai đoạn năm 1938-1939 đứng trước những khó khăn và áp lực quá lớn không những từ quốc tế mà ngay cả tại trong nội bộ Tiệp, nhưng thay vì đoàn kết để đương đầu với ngoại xâm, các sắc dân Tiệp đã phân hóa, chia rẽ và tiếp tay làm yếu khả năng đối đầu với Đức.
Xét về tương quan quân sự. Theo tổng kết của Giáo sư Sử học Carroll Quigley, đại học Georgetown dựa theo các tài liệu thuộc văn khố quân sự Mỹ sau Thế chiến thứ hai, trong giai đoạn đầu thù địch Đức Tiệp bùng nổ, Đức có 36 sư đoàn nhưng không được trang bị đầy đủ trong lúc Tiệp Khắc có 35 sư đoàn thiện chiến và được trang bị một trăm phần trăm hỏa lực. Vào tuần lễ thứ ba của tháng Chín năm 1939, quân đội Tiệp Khắc đã có một triệu quân với 34 sư đoàn tinh nhuệ trong lúc toàn bộ quân Đức để phối trí tại hành lang châu Âu chỉ có từ khoảng 31 đến 36 sư đoàn. Về không quân, vào tháng Chín năm 1938, Đức trội hơn Tiệp Khắc chút ít. Đức có 1500 máy bay trong lúc Tiệp có gần 1000 chiếc nhưng nếu tính cả Anh, Pháp số lượng phi cơ của ba nước cộng lại vượt xa Đức. Liên Xô ủng hộ Tiệp nên cũng gởi 36 phi cơ chiến đấu đến Tiệp qua ngã Rumania. Về chiến xa, tăng của Đức còn yếu hơn tăng của Tiệp Khắc. Ngoại trừ loại tăng thuộc thế hệ Mark III có trang bị pháo 37 li, phần lớn tăng thế hệ Mark II của Đức chỉ trang bị đại liên. Tiệp Khắc có mấy trăm xe tăng hạng nặng 38 tấn trang bị pháo 75 li hiện đại nhất thời đó.
Nếu đánh nhau với Đức trong một cuộc chiến tranh quy ước, chưa chắc Tiệp đã thua. Mà dù có thua, Tiệp Khắc cũng kéo dài cuộc chiến được một hai năm đủ thời gian cho quốc tế can thiệp hay tìm cách lôi kéo các nước châu Âu vào ván cờ sinh tử. Khi tràn ngập Tiệp Khắc vào tháng Ba năm 1939, Đức tịch thu của Tiệp 469 xe tăng, 1500 phi cơ chiến đấu đủ loại, 43 ngàn súng máy và nhiều triệu súng trường. Số lượng vũ khí đó Đức đã phải tốn hàng năm mới sản xuất được.
Tiệp Khắc, một quốc gia có điều kiện kỹ thuật tiên tiến nhất châu Âu và từng là một phần của đế quốc Áo Hung hùng mạnh đã bị Hitler xóa tên khỏi bản đồ thế giới không tốn một viên đạn. Với một quân lực cả triệu người và phương tiện đầy đủ nhưng chỉ vì sự yếu hèn của cấp lãnh đạo, Tiệp Khắc trở thành đỉa thịt bò tươi trong bữa cơm chiều của nhiều khách lạ.
Sau khi Tiệp bị Hitler cưỡng chiếm, hàng ngàn người dân Tiệp yêu nước phải tự phát rút vào chiến tranh du kích chỉ bằng vài tạc đạn và vài khẩu súng ngắn. Nguồn tiếp tế quá xa và kho súng đạn khổng lồ đã bị tịch thu, họ đã phải chiến đấu trong điều kiện hết sức khó khăn. Hàng trăm ngàn người Tiệp đã chết dưới bàn tay sắt của tử thần SS Reinhard Heydrich. Tướng SS Reinhard Heydrich, cai trị Bohemia và Moravia (vùng đất Tiệp sau khi sáp nhập vào Đức) được các sử gia đánh giá là tên tướng độc ác nhất trong hàng tướng lãnh công an mật vụ SS Đức. Y là một trong những kiến trúc sư của kế hoạch tiêu diệt dân Do Thái Holocaust. Hitler ca ngợi Heydrich là “con người có trái tim bằng sắt”. Y bị kháng chiến quân Tiệp ám sát tại Prague vào cuối tháng Năm năm 1942. Đức trả thù tàn bạo. Hai làng Lidice và Lezaky, tình nghi che giấu kháng chiến quân, bị đốt thành tro, tất cả đàn ông đều bị bắn chết, chỉ còn một ít phụ nữ và trẻ em bị đày vào các trại tập trung.
Sự chịu đựng của nhân dân Tiệp đã để lại nhiều bài học cho Việt Nam khi đương đầu với chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc.
Tương tự như Đức Quốc Xã đối với Tiệp Khắc, Trung Quốc chủ trương bành trướng xuống vùng Đông Á
Như đã trình bày trong bài “Hiểm họa Trung Quốc và bài học Thổ Nhĩ Kỳ”, vì các lý do an ninh, chính trị, kinh tế, Trung Quốc phải tìm mọi cách khống chế biển Đông. Hai nỗi lo lớn của giới lãnh đạo CS Trung Quốc là sợ bị bao vây từ bên ngoài và diễn biến hòa bình bên trong nội bộ Trung Quốc. Nhìn quanh, họ chỉ thấy kẻ thù. Thật vậy, hầu hết các quốc gia dân chủ trong vùng từ Ấn Độ đến Nhật Bản, Đài Loan, Nam Hàn, Thái Lan, tuy mức độ khác nhau nhưng đều là các quốc gia đang có những mâu thuẫn căn bản với Trung Quốc, không những về quyền lợi kinh tế mà cả chế độ chính trị. Sự lệ thuộc về chính trị của Việt Nam vào Trung Quốc không chỉ giúp giữ an toàn phòng tuyến phía nam mà còn tránh sự sụp đổ dây chuyền trong trường hợp cách mạng dân chủ tại Việt Nam diễn ra trước. Tuy nhiên, khác với Đức Quốc Xã, Trung Quốc không dám tung một cuộc tấn công toàn lực như Hitler chuẩn bị cho Tiệp mà chủ trương gậm nhấm từng phần đất, từng ngọn núi và từng hải lý của Việt Nam.
Nắm được yếu điểm của CSVN, trong lúc tiếp tục phát triển kinh tế, mở rộng ngoại giao với hầu hết các quốc gia từ năm 1978, Đặng Tiểu Bình vẫn tiếp tục phát động chiến tranh xoi mòn biên giới Việt Nam như trận Cao Bằng năm 1980, Lạng Sơn và Hà Tuyên năm 1981, Vị Xuyên Hà Tuyên năm 1984, Lão Sơn Hà Giang năm 1984, Vị Xuyên lần nữa vào năm 1985 và năm 1986. Trên mặt biển Trung Quốc tiếp tục xâm phạm chủ quyền Việt Nam, bắn thủng ghe tàu, thành lập thành phố Tam Sa, đưa hàng ngàn tàu đánh cá ra khơi, tàn sát ngư dân Việt Nam.
Lãnh đạo CS Trung Quốc biết những hành động lấn ép đó không đủ mạnh, đủ lớn để làm quốc tế lưu tâm. Không một Hội Đồng An Ninh Liên Hiệp Quốc nào rảnh rỗi để bàn chuyện vài chiếc ghe đánh cá của ngư dân Việt Nam bị “tàu lạ” húc ngoài Quảng Ngãi hay đặt vấn đề tại sao các tàu đánh cá Trung Quốc cứ tiếp tục thả lưới trong vùng biển Việt Nam. Những sự kiện ghe tàu đó đối với các cường quốc là chuyện vặt nhưng với một nước nhỏ như Việt Nam nơi có nhiều triệu dân gắn liền với ngư nghiệp lại là chuyện lớn. Đặc tính hèn hạ, nhỏ mọn đó của Trung Quốc là sản phẩm của chế độ độc tài CS và đừng ai hy vọng gì các đặc tính đó thay đổi một khi chế độ sinh ra chúng còn tồn tại.
Đàm phán với Trung Quốc ư? Đàm phán đa phương quốc tế Trung Quốc không tham dự nhưng đàm phán song phương là rơi vào chiếc bẫy của Trung Quốc. Nếu ai theo dõi chuyện Trung Quốc và Liên Xô tranh cãi nhau về chủ quyền của các đảo Trân Bảo, Ẩn Long và Hắc Hạt Tử trong khu vực sông Ussuri sẽ thấy. Các phiên họp tranh cãi chủ quyền kéo dài tới 20 năm, từ thập niên 1970 cho đến 1990 nhưng không đem lại kết quả nào. Mỗi lần có một cuộc họp giữa hai nước, phái đoàn Trung Quốc chở theo một toa xe lửa chứa đầy tài liệu và đồ vật để chứng minh chủ quyền Trung Quốc trên các đảo này. Trung Quốc biết dù chở cả xe bằng chứng cũng chưa hẳn thuyết phục được Liên Xô nhưng chỉ muốn kéo dài thời gian đàm phán để chờ đợi thời cơ.
Tương tự như Hitler, lãnh đạo CS Trung Quốc lợi dụng chính sách ngoại giao mềm của Mỹ
Trong bài viết Tranh chấp Mỹ – Trung, một cảnh giác cho lòng yêu nước tôi có dịp trình bày chính sách Mỹ hiện nay là sự bước tiếp nối của chính sách ngăn chận thời Chiến tranh lạnh trong điều kiện toàn cầu hóa. Nhiều người Việt lầm lẫn nghĩ rằng hàng không mẫu hạm George Washington hùng mạnh thả neo ngoài khơi Đà Nẵng là để bảo vệ Việt Nam. Thật ra, cả Trung Quốc và Mỹ đều biết dù áp dụng chính sách nào hay dù có thái độ nào, xung đột võ trang giữa hai cường quốc lớn nhất thế giới có phụ thuộc quá sâu, quá phức tạp về kinh tế không thể xảy ra trong một giai đoạn ngắn tới đây.
Về phía Trung Quốc, không giống Đức Quốc Xã cần chiến tranh để phục hồi và phát triển, Trung Quốc phải đương đầu với hàng loạt khó khăn trên trong cũng như bên ngoài, việc phát động một cuộc chiến tranh quy mô ở Á châu và Thái Bình Dương như Hitler đã làm với Tiệp Khắc là một điều giới lãnh đạo CS Trung Quốc không dám thực hiện. Hơn ai hết, giới lãnh đạo CS Trung Quốc biết họ phải cần nhiều chục năm kỹ thuật và một ngân sách hải quân khổng lồ mới mong đuổi kịp Mỹ. Ngoài ra, chủ nghĩa Cộng Sản đã chết, Trung Quốc hiện đang sống nhờ vào chủ nghĩa dân tộc cực đoan và Thế chiến thứ nhất 1914-1918 dẫn đến tự sụp đổ của Đế Quốc Đức, Đế Quốc Áo Hung, Đế Quốc Ottoman đã dạy họ một bài học: Các đế quốc gây chiến trên nền tảng của chủ nghĩa dân tộc cực đoan chẳng những không thắng mà đều tan rã từ bên trong.
Về phía Mỹ, ngoài các lý do kinh tế, riêng trong lãnh vực quân sự cũng không phải dễ dàng. Chính phủ Mỹ trong lúc muốn duy trì ảnh hưởng trong vùng, cũng không muốn bị cuốn vào các xung đột mang màu sắc chủ nghĩa dân tộc đối đầu với chủ nghĩa dân tộc như trường hợp Trung Quốc và Việt Nam. Tháng Giêng 2011, Tổng thống Barack Obama trải thảm đỏ tiếp đón Chủ tịch Trung Cộng Hồ Cẩm Đào như quốc khách với 21 phát đại bác chào mừng. Trong buổi tiếp tân, TT Obama ca ngợi “sự hợp tác tốt đẹp giữa hai nước”. Khi trả lời buổi phỏng vấn dành cho tờ Wall Street Journal, Hồ Cẩm Đào công nhận sự quan trọng trong quan hệ tốt giữa Trung Quốc và Hòa Kỳ. Họ Hồ cũng nhấn mạnh đến việc hai quốc gia phải “hành động phù hợp với quyền lợi căn bản của nhân dân hai nước, và tôn trọng quyền lợi chung của hòa bình và phát triển thế giới”.
Dân biểu Ileana Ros-Lehtinen, thuộc đảng Cộng Hòa, Chủ tịch Ủy ban Ngoại Giao Hạ Viện trong một văn bản công bố cho báo chí sau đó, đã nghiêm khắc phê bình Trung Quốc không xứng đáng là một cường quốc vì nhiều lý do và một trong những lý do, Trung Quốc đã ngang nhiên xem Biển Đông như là “quyền lợi chính” và xem thường quyền hàng hải và lãnh thổ của các quốc gia vùng Đông Nam Á. Các lãnh đạo Cộng Hòa cũng tố cáo TT Obama đã thực thi chính sách “Nhân nhượng” của Nevill Chamberlain để đối phó với Trung Quốc. Dĩ nhiên, TT Barack Obama phủ nhận những lời kết án này.
Tương tự như Đức Quốc Xã đối với Tiệp Khắc, Trung Quốc nắm chắc các thành phần lãnh đạo cam thân làm nô bộc cho ngoại bang và không quyết tâm bảo vệ chủ quyền đất nước.
Trung Quốc biết rất rõ tham vọng cố bám vào chiếc ghế quyền lực của giới lãnh đạo CSVN. Chủ trương “hợp tác hổ tương bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các quốc gia” của lãnh đạo CSVN chỉ là một khẩu hiệu tuyên truyền che đậy sự sợ hãi trước đàn anh CS Trung Quốc. Ngay cả các cường quốc Anh, Nhật, Pháp cũng không chủ trương như vậy đừng nói chi là những nước mang số phận sân sau như Việt Nam. Các nước nhỏ như Phần Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Điển, Đài Loan, Nam Hàn vượt qua được những nhược điểm khách quan và chủ quan của đất nước họ bởi vì họ biết cách vận dụng chính sách đối ngoại của các cường quốc để phục vụ cho sự phát triển của đất nước. Không chỉ Thổ Nhỉ Kỳ cần Anh Quốc mà Anh Quốc cũng cần Thổ Nhĩ Kỳ và tương tự không chỉ Đài Loan cần Mỹ nhưng Mỹ cũng cần Đài Loan.
Quan hệ Trung Quốc và Việt Nam không giống như quan hệ giữa Mỹ và Philippine hay Mỹ và Nam Hàn. Giới lãnh đạo CSVN không có vị trí độc lập về chính sách đối ngoại. Mọi chính sách trước khi đưa ra đều phải đo lường phản ứng từ phía Trung Quốc. CS Trung Quốc và CS Việt Nam chia sẻ nhau một lịch sử lâu dài từ ngày đảng Cộng sản hai nước được thành lập. Hai đảng gắn bó về cả vật chất lẫn tinh thần. Câu nói của Mao “Nhiệm vụ trung tâm và hình thức cao nhất của cách mạng là nắm lấy quyền lực thông qua đấu tranh võ trang và giải quyết vấn đề bằng chiến tranh” là tư tưởng chỉ đạo của đảng CSVN trong khi vạch định đường lối suốt hai cuộc chiến. Năm 1950, Trung Quốc là nước đầu tiên công nhận Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Cả hai nước đã thừa nhận sự đóng góp của và người của Trung Quốc vào mục đích thiết lập chế độ Cộng sản tại Việt Nam. Nợ máu xương chồng chất. Tuy không dính dáng gì đến dân tộc Việt Nam nhưng nhân dân Việt Nam đã và đang phải trả bằng máu của bao nhiêu thế hệ từ trước năm 1975 cho đến nay và chưa biết ngày nào mới trả hết.
Bài học từ chủ nghĩa dân tộc cực đoan
Bài học lớn nhất mà nhân loại học được từ Thế chiến thứ hai là sự thụ động, tiêu cực của con người trước hiểm họa của chủ nghĩa dân tộc cực đoan.
Những kẻ chịu trách nhiệm cho cái chết của 70 triệu người không chỉ là Adolf Hitler, Benito Mussolini và Kideki Tojo nhưng còn là Thủ tướng Anh Neville Chamberlain và Tổng thống Pháp Édouard Daladier. Chính người dân Đức đã bỏ phiếu cho Hitler và người dân Anh đã nhảy nhót vui mừng khi lãnh thổ Tiệp rơi vào tay của Đức. Trong một thời gian ngắn trước Thế chiến thứ hai, không chỉ Đức thôi mà cả nước yếu kém hơn Tiệp như Ba Lan, Hungary cũng dự phần vào bữa tiệc nấu bằng thịt xương Tiệp Khắc. Thế chiến thứ hai có thể đã không xảy ra hay xảy ra với mức độ tác hại thấp hơn nếu số lớn nhân loại ngày đó không thỏa hiệp, không đồng lõa với cái ác.
Từ đó để thấy, việc ngăn chận chủ nghĩa dân tộc cực đoan Trung Quốc ngày nay phải là trách nhiệm hàng đầu của nhân loại yêu chuộng hòa bình và công lý bởi vì lịch sử chứng minh chủ nghĩa dân tộc cực đoan dẫn đến chiến tranh ngay cả trong trường hợp các kẻ chủ trương cực đoan không muốn. Chưa từng có một trường hợp nào ngược lại. Giới lãnh đạo CS Trung Quốc là những người nhúm lên ngọn lửa dân tộc cực đoan nhưng lửa cháy mạnh hay yếu tùy thuộc vào nhiều yếu tố có khi không nằm trong vòng kiểm soát của họ.
Các chủ trương đồng hóa và diệt chủng các dân tộc yếu thế là phó sản của chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Từ giai đoạn sau cách mạng Pháp 1789 đến Thế chiến thứ nhất rồi Thế chiến thứ hai cho tới các cuộc chiến đẫm máu vùng Balkans giữa các nước thuộc liên bang Nam Tư cũ, máu nhân loại đã đổ liên tục vì chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Sau cực tả là cực hữu, bản đồ thế giới chưa bao giờ thay đổi nhanh chóng như trong vòng một phần tư thế kỷ vừa qua.
Các nhà phân tích thường dựa vào hậu quả hơn là tìm hiểu nguyên nhân nên không lấy làm lạ ít người so sánh Hitler với Đặng Tiểu Bình. Đa số vẫn đánh giá họ Đặng như một nhà lành đạo CS tiến bộ, mở cửa hiện đại hóa, làm dịu căng thẳng giữa hai khối. Tuy nhiên, quan điểm của Hitler và Đặng Tiểu Bình có nhiều điểm giống nhau hơn cả giữa Hitler và Stalin, Hitler và Mussolini hay Hilter và Mao bởi vì cả hai đã dùng chủ nghĩa dân tộc như một phương tiện để kích thích “niềm kiêu hãnh quốc gia”, vẽ lên trong nhận thức con người về “một loại đất nước huy hoàng tưởng tượng”, làm gia tăng nhất thời sức mạnh kinh tế và tạo áp lực thường xuyên trên các nước yếu hơn trong vùng.
Nhân loại nguyền rủa Hitler, kết án Mao và phỉ nhổ Stalin, tuy nhiên, nếu chiến tranh bùng nổ tại Á Châu, với dân số 1.3 tỉ người mà bầu nhiệt huyết được đun sôi bằng ngọn lửa hận thù, hậu quả của chủ nghĩa dân tộc cực đoan Trung Quốc do Đặng Tiểu Bình nhóm lên từ năm 1978 sẽ khủng khiếp đến dường nào. Giữa Hitler và Đặng Tiểu Bình ai tàn ác hơn ai, chưa biết được.
Có hy vọng nào cho dân tộc Việt Nam?
Nhìn lại Việt Nam, chưa bao giờ dân tộc lại phải chịu đựng sự phân hóa, chia rẽ trầm trọng như hôm nay. Một người Việt quan tâm đến tiền đồ dân tộc nào cũng đau lòng nhận ra điều đó. Tuy nhiên, dù có thể còn khác nhau trong cách trả lời, chúng ta không thể không đồng ý rằng, để cứu đất nước, trước hết phải tháo gỡ chiếc gông độc tài chuyên chính ra khỏi cổ người dân và trả lại cho họ những quyền bẩm sinh mà ai cũng có, đó là quyền làm người, quyền quyết định sinh mệnh của chính mình và của dân tộc mình. Bởi vì, chỉ có một Việt Nam đoàn kết dưới ngọn cờ dân chủ, tự chủ, cường thịnh mới mong thắng được chủ nghĩa bá quyền Trung Quốc.
Trần Trung Đạo
—————————————————————-
Tham khảo:
- David Faber, Munich, 1938 Appeasement and World War II, Simon & Schuster, New York 2009
- William L. Shirer, The Rise and Fall of the Third Reich, 1995
- Mark Mazower, Hitler ‘s Empire, How The Nazis Ruled Europe, The Penguin Press, New York 2008
- Carl K. Savich, Nationalism and War, MarkNews. com, 2008
- Richard J. Evan, The Third Reich in power, The Penguin Press, New York 2005
- History of Germany, Wikipedia, the free encyclopedia
- Interview with Dr. Carroll Quigley, Georgetown University, The Courier, December 12, 1952
- Hitler’s Plan for Eastern Europe, Selections from Janusz Gumkowkski and Kazimierz Leszczynski
- World War II database, Munich Conference and the Annexation of Sudetenland
- Yang Kuisong, Changes in Mao Zedong’s Attitude toward the Indochina War, 1949-1973, Woodrow Wilson International Center for Scholars, 2002
---Trần Trung Đạo: Hiểm họa Trung Quốc và bài học Tiệp Khắc
*******************************
Trung Quốc - Cường quốc không có đồng minh
*****************************************
Báo Mỹ: TQ không quan tâm tới đàm phán, sẽ dùng vũ lực chiếm biển Đông
Tại sao Trung Quốc lại có phản ứng giận dữ như vậy? - Thời báo phố Wall đặt nghi vấn. Một phần nguyên nhân này xuất phát từ việc giới lãnh đạo Bắc Kinh cần phải xem xét một cách cứng rắn các khó khăn liên quan tới vấn để chủ quyền trước thềm đại hội đảng CSTQ khóa 18 sắp tới, đại hội này sẽ bầu ra các nhà lãnh đạo thế hệ kế tiếp của Trung Quốc.
Cơ sở này ngay lập tức đã bộc lộ sơ hở. Trung Quốc có thể có một số tấm bản đồ cổ còn sót lại, nhưng thực tế những thổ dân, thương nhân người Mã Lai, Ấn Độ và Ả Rập đã đi qua vùng biển này trước cả khi người Hán bắt đầu khám phá nó. Và trong các tấm bản đồ mà Trung Quốc và các nước khác từng vẽ từ thời kỳ cổ đại đến thế kỷ 20 đều cho thấy những hòn đảo không người nằm ở vị trí nguy hiểm đối với tàu bè không thuộc chủ quyền của Trung Quốc.
Một số học giả cho rằng Bắc Kinh chỉ tìm cách kiểm soát Biển Đông từ những năm 1970 khi tiềm năng dầu mỏ và khí đốt của khu vực này được phát hiện. Thực tế không chỉ như vậy. Tấm bản đồ năm 1947 đã cho thấy Biển Đông là một vấn đề tranh chấp quốc tế từ trước đó.
Bên cạnh đó, Bắc Kinh còn dùng lực lượng hải quân và lực lượng dân quân làm leo thang căng thẳng. Trong bế tắc với Manila về tranh chấp chủ quyền đối với bãi cạn Scarborough trong tháng 5/2012, gần 100 tàu Trung Quốc đã được huy động tới vùng biển này hoạt động trái phép một thời gian - theo tuyên bố của chính phủ Philippines. Năm ngoái, tàu Hải giám Trung Quốc còn ngang nhiên xâm phạm thềm lục địa và cắt cáp của tàu nghiên cứu Việt Nam như cách họ cố gắng làm với tàu USNS Impeccable vào năm 2009.
Xung đột trên biển Đông: Mỹ cần phản ứng mạnh hơn
China is increasingly making its presence felt in the South China Sea, with larger navy patrols and a newly strengthened army garrison on a tiny island.
TQ 'muốn dẹp bất đồng về Biển Đông'
-Báo Mỹ: Đừng để Trung Quốc đâm “sát sườn”
--
Kupchan vs Newton.... (Mafiovi)
- Kupchan vs Newton: "The twenty-first century will not belong to America, China, Asia, or anyone else. It will be no one's world. For the first time in history, the world will be interdependent--but without a center of gravity or global guardian...."
I'm far from what you call slavery's mentality, Messrs, but the Gravitation what Great Newton said about is Universal exactly in the sense that it's right not only in nature.
The difference only: in Human society, "the Gravitation" is not whether map of your country is big, not how much her population. "the Gravitation" is in nation's values.
These values are
- hard values and
- soft ones
And - you guys - for now, in both of these values America still is Number One. If I plus to it the EU, Japan, Israel, Vietnam, I think here is no reason to see a world "without a center of gravity.".
Moreover, in this world - as I said - and exactly in the moment when we face so-called declining America, This America - rinse brain you guys - have more chance than ever to win heart and mind of mankind.
The League of Freedom - that's new institution we should create for leading (with the America) mankind to these common values, Messrs.
-Biển Đông: điểm mặt 3 quan chức Ngoại giao TQ cay cú chỉ trích Mỹ
Biển Đông: báo chí Trung Quốc điên cuồng "nã đạn" vào Mỹ
Phản ứng của TQ về "thông điệp biển Đông" của Mỹ chỉ là ngụy biện!
Biển Đông: Bị vạch mặt, TQ tức tối triệu tập khẩn Đại biện lâm thời Mỹ
- Về một số ý kiến tiêu biểu của các học giả trong, ngoài nước về nội dung và hiệu lực ràng buộc của công hàm 1958(Trương Nhân Tuấn).
- Trung Quốc nhắm đến mục tiêu Biển Đông (Heritage Foundation/ TCPT). – Trung Quốc ‘vỡ mộng’ cái gọi là ‘thành phố Tam Sa’ (VTC). – TQ ‘muốn dẹp bất đồng về Biển Đông’ – (BBC). – Trung Quốc sẽ có đối thủ mạnh trên Biển Đông (VnMedia). – Trung Quốc vận động để có lợi thế tranh chấp Biển Ðông(Petrotimes). - Vũ lực – biện pháp chủ yếu trong tranh chấp lãnh thổ với láng giềng (VNE). - Người Philippines không tin Trung Quốc (SGGP). - NHÀ NGHIÊN CỨU BIỂN ĐÔNG – THẠC SĨ HOÀNG VIỆT: “Độc chiếm biển Đông là chiến lược nhất quán của Trung Quốc” (LĐ). - Làm rõ vùng tranh chấp ở Biển Đông (ĐV). - Trung Quốc đang đánh mất tất cả vì Biển Đông? (VnMedia). - Viễn cảnh chiến tranh Mỹ – Trung (TN).
- Carl Thayer – Biển Đông: Trung Quốc có lợi thế hơn trong tuyên bố chủ quyền? (Thayer Consultancy/ Ba Sàm).
- Trung Quốc ngừng nhập nhiều hàng từ Việt Nam (DVT/ TP).
Suốt thời gian dài hơn sáu năm dưới ách thống trị của Đức Quốc Xã, nhân dân Tiệp đã chịu đựng vô số thương vong, thiệt hại. Hàng trăm ngàn người bị giết và hàng trăm ngàn người khác bị đày ải trong các trại tập trung. Thế nhưng phải chăng ngày đó Tiệp Khắc yếu đến mức không bắn được phát súng nào?
Không. Trước Thế chiến thứ hai, thừa hưởng các thành tựu kỹ thuật của thời đế quốc Áo Hung, Tiệp Khắc là một trong sốt ít quốc gia có một quân đội đông đảo nhất và được trang bị tối tân nhất châu Âu. Việc Tiệp Khắc rơi vào tay Đức nhẹ nhàng như chiếc lá mùa thu phát xuất từ ba lý do chính. Hai lý do khách quan:
(1) Bành trướng về hướng đông là chủ trương truyền thống của Đức,
(2) Chính sách nhân nhượng (appeasement policy) của các lãnh đạo chủ hòa châu Âu đứng đầu là Thủ tướng Anh Neville Chamberlain, và một lý do chủ quan:
(3) Tiệp Khắc là một quốc gia ô hợp, phân hóa, suy yếu, có nhiều chính khách làm tôi mọi cho ngoại bang và giới lãnh đạo chính phủ không có quyết tâm bảo vệ chủ quyền đất nước.
Bành trướng về hướng đông là chủ trương truyền thống của Đức.
Sau giai đoạn cách mạng 1848, Đức trở thành cường quốc. Sức mạnh của Đức thể hiện không chỉ trong các lãnh vực kinh tế, quân sự, dân số mà cả khoa học. Tổng số giải Nobel các khoa học gia Đức được tặng thưởng trong giai đoạn 47 năm tồn tại nhiều hơn tổng số giải Nobel của các khoa học gia Anh, Pháp, Nga và Mỹ cộng lại. Năm 1871, Đế Quốc Đức bao gồm 27 khu vực, dưới sự lãnh đạo của Otto von Bismarck đã vượt qua đế quốc Anh. Giống như mọi đế quốc khác trong lịch sử, để tiếp tục lớn mạnh cần phải có tài nguyên thiên nhiên.
Đức là quốc gia nằm ngay giữa châu Âu và về mặt địa lý chính trị, suốt nhiều thế kỷ, các chế độ quân chủ Đức cũng chủ trương các quốc gia phía Đông trong đó có Tiệp Khắc, Ba Lan, Hungary là hàng rào an ninh của Đức để đương đầu với hai nước lớn khác là Pháp và Nga.
Sau khi sáp nhập Áo vào tháng Ba năm 1938 không cần dùng đến võ lực, Hitler tập trung vào chiến lược chiếm Tiệp Khắc bất chấp sự chống đối của nhiều tướng lãnh cao cấp trong đó có tướng Ludwig Beck, Tổng Tham Mưu Trưởng quân đội Đức. Bản thân của Hitler cũng đánh giá Tiệp rất cao nên không dám công khai đưa quân vượt biên giới xâm lăng quốc gia này. Vì vùng Sudetenland có đông dân Đức và có nguồn dự trữ nguyên liệu lớn nhất của Tiệp Khắc, Hitler nghĩ đến việc chiếm vùng Sudetenland trước và dùng khu vực giàu có này làm bàn đạp thôn tính toàn bộ Tiệp Khắc.
Chính sách nhân nhượng (appeasement policy) của các các lãnh đạo Anh, Pháp đứng đầu là Thủ tướng Nevill Chamberlain đã “khuyến khích” Đức chiếm Tiệp Khắc.
Sau Thế chiến thứ nhất, dù thắng hay bại, các quốc gia đều phải chịu đựng một thời kỳ suy thoái kinh tế trầm trọng. Khuynh hướng chủ hòa chế ngự trong sinh hoạt chính trị tại các cường quốc dân chủ và lãnh tụ hàng đầu của khuynh hướng này là thủ tướng Anh, Nevill Chamberlain. Thủ tướng Nevill Chamberlain tìm cách hòa giải mối thù địch với Đức. Khi Đức sáp nhập Áo, Chamberlain không có phản ứng cụ thể nào.
Khi Hitler công khai bày tỏ ý định sáp nhập vùng Sudetenlan của Tiệp Khắc đang có hơn ba triệu người gốc Đức, vào lãnh thổ Đức, vấn đề trở nên phức tạp vì Tiệp Khắc có liên minh quân sự với Pháp và Pháp có liên minh quân sự với Anh. Thủ tướng Anh Nevill Chamberlain qua trung gian của Sir Horace Wilson chuẩn bị đàm phán với Đức và qua trung gian của Lord Runciman thuyết phục Tiệp Khắc nhượng bộ. Trong lúc Hitler thông đồng với các nước nhỏ như Hungary và Ba Lan để xẻ thịt Tiệp, Tổng thống Mỹ Franklin Roosevelt tuyên bố chủ trương trung lập của Mỹ về tranh chấp Sudetenland.
Ngày 15 tháng Chín năm 1938, Thủ tướng Nevill Chamberlain bay sang Đức để thương thuyết với Hitler. Các cuộc thương thuyết giằng co cho đến sáng sớm 30 tháng 9 năm 1939, thỏa hiệp Munich được ký kết giữa Đức, Anh, Pháp và Ý, trong đó, cho phép Đức sáp nhập vùng Sudetenland trù phú và chiến lược vào lãnh thổ Đức.
Tiệp Khắc không được mời tham dự hội nghị và chỉ được Anh Pháp thông báo kết quả. Chính phủ Tiệp nghĩ rằng Tiệp Khắc không có hy vọng gì thắng được Đức bằng sức mạnh của riêng mình, đã đồng ý với nội dung của thỏa hiệp Munich. Theo thỏa hiệp này, tướng Đức Wilhelm Keitel được cử vào chức thống đốc quân sự vùng Sudetenland. Những người dân Tiệp không phải gốc Đức phải rời Sudetenland trong vòng 10 ngày và không được mang theo bất cứ một món sở hữu nào. Câu Phản bội Tiệp Khắc để chỉ sự phản bội của đồng minh đối với Tiệp ra đời từ đó.
Mất Sudetenland, Tiệp Khắc không chỉ bỏ trống biên giới chiến lược phía nam mà còn mất 70% dự trữ sắt thép, 70% điện và 3 triệu công dân Tiệp. Trong lúc hiệp ước Munich là một thành quả ngoại giao lớn của Nevill Chamberlain, đối với Hitler lại là một bước lùi. Mục tiêu của Hitler không phải chỉ chiếm vùng Sudetenland mà cả nước Tiệp như Wilson Churchill tiên đoán. Đầu năm sau, Hitler lần lượt chiếm các vùng Bohemia, Moravia và phần còn lại của Tiệp Khắc.
Cả hai lý do trên không thể làm Tiệp Khắc mất một cách nhanh chóng nhưng chính sâu mọt và phản bội ngay trong lòng nước Tiệp và một chính phủ phân hóa, yếu kém, thiếu quyết tâm mới là những lý do chính làm tan rã Tiệp Khắc.
Rất nhiều sâu mọt trong nội bộ Tiệp và đứng đầu là Konrad Henlein lãnh đạo của đảng Sudeten gốc Đức.
Konrad Henlein một thầy giáo bậc trung học, lúc đó đang hoạt động dưới danh nghĩa đảng Sudeten quy tụ đa số dân Tiệp gốc Đức. Konrad Henlein sinh tại Bohemia, Tiệp Khắc có cha là người Đức và mẹ là người Czech. Đảng Sudeten của Konrad Henlein thông đồng với đảng Quốc Xã Đức và được đảng này tài trợ và huấn luyện. Mỗi tháng đảng Sudeten nhận 15 ngàn Đức Mã để trang trải các chi phí hoạt động. Ngày 28 tháng Ba năm 1938, Hiter gọi Konrad Henlein sang Đức và đích thân ra chỉ thị cho tên Tiệp gian này phải đưa ra những điều kiện mà Tiệp Khắc không thể thỏa mãn được. Mặc khác, Joseph Goebbels, Bộ trưởng Tuyên truyền của Đức Quốc Xã, tung một chiến dịch tuyên truyền ồ ạt về việc chính phủ Tiệp bạc đãi, đàn áp dân gốc Đức trong vùng Sudetenlan và xúi dục người dân Tiệp gốc Đức đứng lên đòi quyền tự trị.
Về lại Tiệp, Tiệp gian Konrad Henlein đòi chính phủ Tiệp phải để vùng Sudetenlan hoàn toàn tự trị, thay đổi chính sách đối ngoại của chính phủ Tiệp và toàn quyền phổ biến lý thuyết Quốc Xã. Dĩ nhiên, đòi hỏi tự trị còn có thể đàm phán được nhưng việc tự do tuyên truyền tư tưởng Quốc Xã khó có thể chấp nhận. Khi đàm phán bắt đầu, Tiệp gian Konrad Henlein và đảng của y lại tạo nhiều xáo trộn bạo động trong vùng và tiếp tục làm khó dễ chính phủ trung ương cho đến khi hiệp ước Munich được ký kết. Ngày 1 tháng Mười năm 1938, các đơn vị tiền phương của quân đội Đức vượt qua biên giới Tiệp giữa tiếng hò reo ủng hộ của các đảng viên đảng Sudeten, và cũng trong lúc đó hàng chục sư đoàn Tiệp được trang bị đầy đủ được chính phủ ra lịnh rút lui. Phía sau đoàn quân Đức là các đơn vị mật vụ Gestapo và lực lượng anh ninh SS. Chỉ trong thời gian ngắn 10 ngàn người dân Tiệp, kể cả dân nói tiếng Đức nhưng chống Hitler, bị đày vào các trại tập trung vừa mới xây ở Sudetenland.
Konrad Henlein gia nhập lực lượng an ninh Đức và tham gia vào đảng Quốc Xã. Mặc dù sinh ra, lớn lên trên đất Tiệp, Konrad Henlein đã góp phần quan trọng trong việc rước voi Đức giày lên Tiệp Khắc. Y được thưởng nhiều chức vụ và được cho phép làm công dân Đức. Sau khi Tiệp Khắc được đồng minh giải phóng, tên Tiệp gian phản quốc Konrad Henlein bị bắt và y đã tự sát bằng cách cắt gân máu ở cổ tay.
Kẻ phản bội thứ hai là tổng thống bù nhìn Emil Hacha. Sau khi Edvard Benes, tổng thống thứ hai của Tiệp Khắc từ chức, tân tổng thống Emil Hacha là một người nhu nhược. Buổi tối ngày 11 tháng Ba năm 1939, Hitler cho triệu Hacha đến Bá Linh và thông báo cho ý định chiếm toàn bộ Tiệp Khắc bằng võ lực và hứa nếu Hacha chịu hợp tác, Tiệp Khắc sẽ được hưởng quyền tự trị rộng rãi còn nếu nghịch sẽ bị đoàn quân Hitler tấn công Tiệp bằng mọi phương tiện trong đó có cả việc không quân của Đức cày nát thủ đô Prague. Emil Hacha quy thuận Hitler. Dưới thời Đức Quốc Xã chiếm đóng y được giữ chức vụ tổng thống bù nhìn nhưng buộc phải tuyên thệ trung thành trước Hitler. Mặc dù có nhiều tài liệu cho thấy Emil Hacha trong thời gian phục vụ Hitler cũng lén lút giúp cho phong trào kháng chiến chống Đức thuộc chính phủ lưu vong của Edvard Benes nhưng công không đủ để chuộc tội cho y. Sau khi Prague được giải phóng vào tháng Năm năm 1945, Emil Hacha bị bắt và chết hơn hai tháng sau đó trong hoàn cảnh bí mật. Y được chôn trong một ngôi mộ không đề bia tại nghĩa trang Vinohrady. Hiện nay, tại nghĩa trang Vinohrady có một tấm bảng ghi dấu nơi chôn của Emil Hacha.
Jozef Tiso là một kẻ phản quốc đội lốt tôn giáo. Mặc dù thụ phong linh mục nhưng y cũng là một trong những đảng viên nòng cốt của đảng Nhân Dân Slovak. Lợi dụng sự suy yếu của Tiệp Khắc sau hiệp ước Munich, đảng Nhân Dân Slovak do Tiso lãnh đạo tuyên bố Slovak tự trị trong vòng Tiệp Khắc. Vào 13 tháng Ba năm 1939, giống như vừa đe dọa Emil Hacha vài hôm trước đó, Hitler triệu Jozef Tiso đến Bá Linh và buộc y phải tuyên bố Slovak độc lập, tách rời khỏi Tiệp Khắc, nếu không Hitler sẽ thúc giục Hungary và Ba Lan chiếm đóng phần lãnh thổ còn lại của Slovakia. Jozef Tiso cũng tuân phục Hitler và trở nên một cộng tác viên trung thành cho chế độ Quốc Xã. Từ năm 1939 đến năm 1945, Tiso là tổng thống bù nhìn Slovakia chư hầu của Đức. Đảng Nhân Dân Slovak do y lãnh đạo liên kết chặt chẽ với đảng Quốc Xã Đức và chia sẻ quan điểm diệt Do Thái. Khi hồng quân Liên Xô tiến vào chiếm Slovakia tháng Tư năm 1945, Tiso bị bắt và bị kết án phản quốc. Jozef Tiso bị treo cổ ngày 18 tháng Tư năm 1947. Chính phủ Tiệp Khắc chôn y tại một nơi bí mật.
Chính phủ Tiệp Khắc nhu nhược không quyết tâm bảo vệ đất nước. Phân hóa và thiển cận trong thành phần lãnh đạo của hai sắc dân Slovak và Czecho trong chính phủ Tiệp đã làm thượng tầng kiến trúc lãnh đạo sụp đổ nhanh chóng.
Tiệp Khắc trong giai đoạn năm 1938-1939 đứng trước những khó khăn và áp lực quá lớn không những từ quốc tế mà ngay cả tại trong nội bộ Tiệp, nhưng thay vì đoàn kết để đương đầu với ngoại xâm, các sắc dân Tiệp đã phân hóa, chia rẽ và tiếp tay làm yếu khả năng đối đầu với Đức.
Xét về tương quan quân sự. Theo tổng kết của Giáo sư Sử học Carroll Quigley, đại học Georgetown dựa theo các tài liệu thuộc văn khố quân sự Mỹ sau Thế chiến thứ hai, trong giai đoạn đầu thù địch Đức Tiệp bùng nổ, Đức có 36 sư đoàn nhưng không được trang bị đầy đủ trong lúc Tiệp Khắc có 35 sư đoàn thiện chiến và được trang bị một trăm phần trăm hỏa lực. Vào tuần lễ thứ ba của tháng Chín năm 1939, quân đội Tiệp Khắc đã có một triệu quân với 34 sư đoàn tinh nhuệ trong lúc toàn bộ quân Đức để phối trí tại hành lang châu Âu chỉ có từ khoảng 31 đến 36 sư đoàn. Về không quân, vào tháng Chín năm 1938, Đức trội hơn Tiệp Khắc chút ít. Đức có 1500 máy bay trong lúc Tiệp có gần 1000 chiếc nhưng nếu tính cả Anh, Pháp số lượng phi cơ của ba nước cộng lại vượt xa Đức. Liên Xô ủng hộ Tiệp nên cũng gởi 36 phi cơ chiến đấu đến Tiệp qua ngã Rumania. Về chiến xa, tăng của Đức còn yếu hơn tăng của Tiệp Khắc. Ngoại trừ loại tăng thuộc thế hệ Mark III có trang bị pháo 37 li, phần lớn tăng thế hệ Mark II của Đức chỉ trang bị đại liên. Tiệp Khắc có mấy trăm xe tăng hạng nặng 38 tấn trang bị pháo 75 li hiện đại nhất thời đó.
Nếu đánh nhau với Đức trong một cuộc chiến tranh quy ước, chưa chắc Tiệp đã thua. Mà dù có thua, Tiệp Khắc cũng kéo dài cuộc chiến được một hai năm đủ thời gian cho quốc tế can thiệp hay tìm cách lôi kéo các nước châu Âu vào ván cờ sinh tử. Khi tràn ngập Tiệp Khắc vào tháng Ba năm 1939, Đức tịch thu của Tiệp 469 xe tăng, 1500 phi cơ chiến đấu đủ loại, 43 ngàn súng máy và nhiều triệu súng trường. Số lượng vũ khí đó Đức đã phải tốn hàng năm mới sản xuất được.
Tiệp Khắc, một quốc gia có điều kiện kỹ thuật tiên tiến nhất châu Âu và từng là một phần của đế quốc Áo Hung hùng mạnh đã bị Hitler xóa tên khỏi bản đồ thế giới không tốn một viên đạn. Với một quân lực cả triệu người và phương tiện đầy đủ nhưng chỉ vì sự yếu hèn của cấp lãnh đạo, Tiệp Khắc trở thành đỉa thịt bò tươi trong bữa cơm chiều của nhiều khách lạ.
Sau khi Tiệp bị Hitler cưỡng chiếm, hàng ngàn người dân Tiệp yêu nước phải tự phát rút vào chiến tranh du kích chỉ bằng vài tạc đạn và vài khẩu súng ngắn. Nguồn tiếp tế quá xa và kho súng đạn khổng lồ đã bị tịch thu, họ đã phải chiến đấu trong điều kiện hết sức khó khăn. Hàng trăm ngàn người Tiệp đã chết dưới bàn tay sắt của tử thần SS Reinhard Heydrich. Tướng SS Reinhard Heydrich, cai trị Bohemia và Moravia (vùng đất Tiệp sau khi sáp nhập vào Đức) được các sử gia đánh giá là tên tướng độc ác nhất trong hàng tướng lãnh công an mật vụ SS Đức. Y là một trong những kiến trúc sư của kế hoạch tiêu diệt dân Do Thái Holocaust. Hitler ca ngợi Heydrich là “con người có trái tim bằng sắt”. Y bị kháng chiến quân Tiệp ám sát tại Prague vào cuối tháng Năm năm 1942. Đức trả thù tàn bạo. Hai làng Lidice và Lezaky, tình nghi che giấu kháng chiến quân, bị đốt thành tro, tất cả đàn ông đều bị bắn chết, chỉ còn một ít phụ nữ và trẻ em bị đày vào các trại tập trung.
Sự chịu đựng của nhân dân Tiệp đã để lại nhiều bài học cho Việt Nam khi đương đầu với chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc.
Tương tự như Đức Quốc Xã đối với Tiệp Khắc, Trung Quốc chủ trương bành trướng xuống vùng Đông Á
Như đã trình bày trong bài “Hiểm họa Trung Quốc và bài học Thổ Nhĩ Kỳ”, vì các lý do an ninh, chính trị, kinh tế, Trung Quốc phải tìm mọi cách khống chế biển Đông. Hai nỗi lo lớn của giới lãnh đạo CS Trung Quốc là sợ bị bao vây từ bên ngoài và diễn biến hòa bình bên trong nội bộ Trung Quốc. Nhìn quanh, họ chỉ thấy kẻ thù. Thật vậy, hầu hết các quốc gia dân chủ trong vùng từ Ấn Độ đến Nhật Bản, Đài Loan, Nam Hàn, Thái Lan, tuy mức độ khác nhau nhưng đều là các quốc gia đang có những mâu thuẫn căn bản với Trung Quốc, không những về quyền lợi kinh tế mà cả chế độ chính trị. Sự lệ thuộc về chính trị của Việt Nam vào Trung Quốc không chỉ giúp giữ an toàn phòng tuyến phía nam mà còn tránh sự sụp đổ dây chuyền trong trường hợp cách mạng dân chủ tại Việt Nam diễn ra trước. Tuy nhiên, khác với Đức Quốc Xã, Trung Quốc không dám tung một cuộc tấn công toàn lực như Hitler chuẩn bị cho Tiệp mà chủ trương gậm nhấm từng phần đất, từng ngọn núi và từng hải lý của Việt Nam.
Nắm được yếu điểm của CSVN, trong lúc tiếp tục phát triển kinh tế, mở rộng ngoại giao với hầu hết các quốc gia từ năm 1978, Đặng Tiểu Bình vẫn tiếp tục phát động chiến tranh xoi mòn biên giới Việt Nam như trận Cao Bằng năm 1980, Lạng Sơn và Hà Tuyên năm 1981, Vị Xuyên Hà Tuyên năm 1984, Lão Sơn Hà Giang năm 1984, Vị Xuyên lần nữa vào năm 1985 và năm 1986. Trên mặt biển Trung Quốc tiếp tục xâm phạm chủ quyền Việt Nam, bắn thủng ghe tàu, thành lập thành phố Tam Sa, đưa hàng ngàn tàu đánh cá ra khơi, tàn sát ngư dân Việt Nam.
Lãnh đạo CS Trung Quốc biết những hành động lấn ép đó không đủ mạnh, đủ lớn để làm quốc tế lưu tâm. Không một Hội Đồng An Ninh Liên Hiệp Quốc nào rảnh rỗi để bàn chuyện vài chiếc ghe đánh cá của ngư dân Việt Nam bị “tàu lạ” húc ngoài Quảng Ngãi hay đặt vấn đề tại sao các tàu đánh cá Trung Quốc cứ tiếp tục thả lưới trong vùng biển Việt Nam. Những sự kiện ghe tàu đó đối với các cường quốc là chuyện vặt nhưng với một nước nhỏ như Việt Nam nơi có nhiều triệu dân gắn liền với ngư nghiệp lại là chuyện lớn. Đặc tính hèn hạ, nhỏ mọn đó của Trung Quốc là sản phẩm của chế độ độc tài CS và đừng ai hy vọng gì các đặc tính đó thay đổi một khi chế độ sinh ra chúng còn tồn tại.
Đàm phán với Trung Quốc ư? Đàm phán đa phương quốc tế Trung Quốc không tham dự nhưng đàm phán song phương là rơi vào chiếc bẫy của Trung Quốc. Nếu ai theo dõi chuyện Trung Quốc và Liên Xô tranh cãi nhau về chủ quyền của các đảo Trân Bảo, Ẩn Long và Hắc Hạt Tử trong khu vực sông Ussuri sẽ thấy. Các phiên họp tranh cãi chủ quyền kéo dài tới 20 năm, từ thập niên 1970 cho đến 1990 nhưng không đem lại kết quả nào. Mỗi lần có một cuộc họp giữa hai nước, phái đoàn Trung Quốc chở theo một toa xe lửa chứa đầy tài liệu và đồ vật để chứng minh chủ quyền Trung Quốc trên các đảo này. Trung Quốc biết dù chở cả xe bằng chứng cũng chưa hẳn thuyết phục được Liên Xô nhưng chỉ muốn kéo dài thời gian đàm phán để chờ đợi thời cơ.
Tương tự như Hitler, lãnh đạo CS Trung Quốc lợi dụng chính sách ngoại giao mềm của Mỹ
Trong bài viết Tranh chấp Mỹ – Trung, một cảnh giác cho lòng yêu nước tôi có dịp trình bày chính sách Mỹ hiện nay là sự bước tiếp nối của chính sách ngăn chận thời Chiến tranh lạnh trong điều kiện toàn cầu hóa. Nhiều người Việt lầm lẫn nghĩ rằng hàng không mẫu hạm George Washington hùng mạnh thả neo ngoài khơi Đà Nẵng là để bảo vệ Việt Nam. Thật ra, cả Trung Quốc và Mỹ đều biết dù áp dụng chính sách nào hay dù có thái độ nào, xung đột võ trang giữa hai cường quốc lớn nhất thế giới có phụ thuộc quá sâu, quá phức tạp về kinh tế không thể xảy ra trong một giai đoạn ngắn tới đây.
Về phía Trung Quốc, không giống Đức Quốc Xã cần chiến tranh để phục hồi và phát triển, Trung Quốc phải đương đầu với hàng loạt khó khăn trên trong cũng như bên ngoài, việc phát động một cuộc chiến tranh quy mô ở Á châu và Thái Bình Dương như Hitler đã làm với Tiệp Khắc là một điều giới lãnh đạo CS Trung Quốc không dám thực hiện. Hơn ai hết, giới lãnh đạo CS Trung Quốc biết họ phải cần nhiều chục năm kỹ thuật và một ngân sách hải quân khổng lồ mới mong đuổi kịp Mỹ. Ngoài ra, chủ nghĩa Cộng Sản đã chết, Trung Quốc hiện đang sống nhờ vào chủ nghĩa dân tộc cực đoan và Thế chiến thứ nhất 1914-1918 dẫn đến tự sụp đổ của Đế Quốc Đức, Đế Quốc Áo Hung, Đế Quốc Ottoman đã dạy họ một bài học: Các đế quốc gây chiến trên nền tảng của chủ nghĩa dân tộc cực đoan chẳng những không thắng mà đều tan rã từ bên trong.
Về phía Mỹ, ngoài các lý do kinh tế, riêng trong lãnh vực quân sự cũng không phải dễ dàng. Chính phủ Mỹ trong lúc muốn duy trì ảnh hưởng trong vùng, cũng không muốn bị cuốn vào các xung đột mang màu sắc chủ nghĩa dân tộc đối đầu với chủ nghĩa dân tộc như trường hợp Trung Quốc và Việt Nam. Tháng Giêng 2011, Tổng thống Barack Obama trải thảm đỏ tiếp đón Chủ tịch Trung Cộng Hồ Cẩm Đào như quốc khách với 21 phát đại bác chào mừng. Trong buổi tiếp tân, TT Obama ca ngợi “sự hợp tác tốt đẹp giữa hai nước”. Khi trả lời buổi phỏng vấn dành cho tờ Wall Street Journal, Hồ Cẩm Đào công nhận sự quan trọng trong quan hệ tốt giữa Trung Quốc và Hòa Kỳ. Họ Hồ cũng nhấn mạnh đến việc hai quốc gia phải “hành động phù hợp với quyền lợi căn bản của nhân dân hai nước, và tôn trọng quyền lợi chung của hòa bình và phát triển thế giới”.
Dân biểu Ileana Ros-Lehtinen, thuộc đảng Cộng Hòa, Chủ tịch Ủy ban Ngoại Giao Hạ Viện trong một văn bản công bố cho báo chí sau đó, đã nghiêm khắc phê bình Trung Quốc không xứng đáng là một cường quốc vì nhiều lý do và một trong những lý do, Trung Quốc đã ngang nhiên xem Biển Đông như là “quyền lợi chính” và xem thường quyền hàng hải và lãnh thổ của các quốc gia vùng Đông Nam Á. Các lãnh đạo Cộng Hòa cũng tố cáo TT Obama đã thực thi chính sách “Nhân nhượng” của Nevill Chamberlain để đối phó với Trung Quốc. Dĩ nhiên, TT Barack Obama phủ nhận những lời kết án này.
Tương tự như Đức Quốc Xã đối với Tiệp Khắc, Trung Quốc nắm chắc các thành phần lãnh đạo cam thân làm nô bộc cho ngoại bang và không quyết tâm bảo vệ chủ quyền đất nước.
Trung Quốc biết rất rõ tham vọng cố bám vào chiếc ghế quyền lực của giới lãnh đạo CSVN. Chủ trương “hợp tác hổ tương bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các quốc gia” của lãnh đạo CSVN chỉ là một khẩu hiệu tuyên truyền che đậy sự sợ hãi trước đàn anh CS Trung Quốc. Ngay cả các cường quốc Anh, Nhật, Pháp cũng không chủ trương như vậy đừng nói chi là những nước mang số phận sân sau như Việt Nam. Các nước nhỏ như Phần Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Điển, Đài Loan, Nam Hàn vượt qua được những nhược điểm khách quan và chủ quan của đất nước họ bởi vì họ biết cách vận dụng chính sách đối ngoại của các cường quốc để phục vụ cho sự phát triển của đất nước. Không chỉ Thổ Nhỉ Kỳ cần Anh Quốc mà Anh Quốc cũng cần Thổ Nhĩ Kỳ và tương tự không chỉ Đài Loan cần Mỹ nhưng Mỹ cũng cần Đài Loan.
Quan hệ Trung Quốc và Việt Nam không giống như quan hệ giữa Mỹ và Philippine hay Mỹ và Nam Hàn. Giới lãnh đạo CSVN không có vị trí độc lập về chính sách đối ngoại. Mọi chính sách trước khi đưa ra đều phải đo lường phản ứng từ phía Trung Quốc. CS Trung Quốc và CS Việt Nam chia sẻ nhau một lịch sử lâu dài từ ngày đảng Cộng sản hai nước được thành lập. Hai đảng gắn bó về cả vật chất lẫn tinh thần. Câu nói của Mao “Nhiệm vụ trung tâm và hình thức cao nhất của cách mạng là nắm lấy quyền lực thông qua đấu tranh võ trang và giải quyết vấn đề bằng chiến tranh” là tư tưởng chỉ đạo của đảng CSVN trong khi vạch định đường lối suốt hai cuộc chiến. Năm 1950, Trung Quốc là nước đầu tiên công nhận Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Cả hai nước đã thừa nhận sự đóng góp của và người của Trung Quốc vào mục đích thiết lập chế độ Cộng sản tại Việt Nam. Nợ máu xương chồng chất. Tuy không dính dáng gì đến dân tộc Việt Nam nhưng nhân dân Việt Nam đã và đang phải trả bằng máu của bao nhiêu thế hệ từ trước năm 1975 cho đến nay và chưa biết ngày nào mới trả hết.
Bài học từ chủ nghĩa dân tộc cực đoan
Bài học lớn nhất mà nhân loại học được từ Thế chiến thứ hai là sự thụ động, tiêu cực của con người trước hiểm họa của chủ nghĩa dân tộc cực đoan.
Những kẻ chịu trách nhiệm cho cái chết của 70 triệu người không chỉ là Adolf Hitler, Benito Mussolini và Kideki Tojo nhưng còn là Thủ tướng Anh Neville Chamberlain và Tổng thống Pháp Édouard Daladier. Chính người dân Đức đã bỏ phiếu cho Hitler và người dân Anh đã nhảy nhót vui mừng khi lãnh thổ Tiệp rơi vào tay của Đức. Trong một thời gian ngắn trước Thế chiến thứ hai, không chỉ Đức thôi mà cả nước yếu kém hơn Tiệp như Ba Lan, Hungary cũng dự phần vào bữa tiệc nấu bằng thịt xương Tiệp Khắc. Thế chiến thứ hai có thể đã không xảy ra hay xảy ra với mức độ tác hại thấp hơn nếu số lớn nhân loại ngày đó không thỏa hiệp, không đồng lõa với cái ác.
Từ đó để thấy, việc ngăn chận chủ nghĩa dân tộc cực đoan Trung Quốc ngày nay phải là trách nhiệm hàng đầu của nhân loại yêu chuộng hòa bình và công lý bởi vì lịch sử chứng minh chủ nghĩa dân tộc cực đoan dẫn đến chiến tranh ngay cả trong trường hợp các kẻ chủ trương cực đoan không muốn. Chưa từng có một trường hợp nào ngược lại. Giới lãnh đạo CS Trung Quốc là những người nhúm lên ngọn lửa dân tộc cực đoan nhưng lửa cháy mạnh hay yếu tùy thuộc vào nhiều yếu tố có khi không nằm trong vòng kiểm soát của họ.
Các chủ trương đồng hóa và diệt chủng các dân tộc yếu thế là phó sản của chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Từ giai đoạn sau cách mạng Pháp 1789 đến Thế chiến thứ nhất rồi Thế chiến thứ hai cho tới các cuộc chiến đẫm máu vùng Balkans giữa các nước thuộc liên bang Nam Tư cũ, máu nhân loại đã đổ liên tục vì chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Sau cực tả là cực hữu, bản đồ thế giới chưa bao giờ thay đổi nhanh chóng như trong vòng một phần tư thế kỷ vừa qua.
Các nhà phân tích thường dựa vào hậu quả hơn là tìm hiểu nguyên nhân nên không lấy làm lạ ít người so sánh Hitler với Đặng Tiểu Bình. Đa số vẫn đánh giá họ Đặng như một nhà lành đạo CS tiến bộ, mở cửa hiện đại hóa, làm dịu căng thẳng giữa hai khối. Tuy nhiên, quan điểm của Hitler và Đặng Tiểu Bình có nhiều điểm giống nhau hơn cả giữa Hitler và Stalin, Hitler và Mussolini hay Hilter và Mao bởi vì cả hai đã dùng chủ nghĩa dân tộc như một phương tiện để kích thích “niềm kiêu hãnh quốc gia”, vẽ lên trong nhận thức con người về “một loại đất nước huy hoàng tưởng tượng”, làm gia tăng nhất thời sức mạnh kinh tế và tạo áp lực thường xuyên trên các nước yếu hơn trong vùng.
Nhân loại nguyền rủa Hitler, kết án Mao và phỉ nhổ Stalin, tuy nhiên, nếu chiến tranh bùng nổ tại Á Châu, với dân số 1.3 tỉ người mà bầu nhiệt huyết được đun sôi bằng ngọn lửa hận thù, hậu quả của chủ nghĩa dân tộc cực đoan Trung Quốc do Đặng Tiểu Bình nhóm lên từ năm 1978 sẽ khủng khiếp đến dường nào. Giữa Hitler và Đặng Tiểu Bình ai tàn ác hơn ai, chưa biết được.
Có hy vọng nào cho dân tộc Việt Nam?
Nhìn lại Việt Nam, chưa bao giờ dân tộc lại phải chịu đựng sự phân hóa, chia rẽ trầm trọng như hôm nay. Một người Việt quan tâm đến tiền đồ dân tộc nào cũng đau lòng nhận ra điều đó. Tuy nhiên, dù có thể còn khác nhau trong cách trả lời, chúng ta không thể không đồng ý rằng, để cứu đất nước, trước hết phải tháo gỡ chiếc gông độc tài chuyên chính ra khỏi cổ người dân và trả lại cho họ những quyền bẩm sinh mà ai cũng có, đó là quyền làm người, quyền quyết định sinh mệnh của chính mình và của dân tộc mình. Bởi vì, chỉ có một Việt Nam đoàn kết dưới ngọn cờ dân chủ, tự chủ, cường thịnh mới mong thắng được chủ nghĩa bá quyền Trung Quốc.
Trần Trung Đạo
—————————————————————-
Tham khảo:
- David Faber, Munich, 1938 Appeasement and World War II, Simon & Schuster, New York 2009
- William L. Shirer, The Rise and Fall of the Third Reich, 1995
- Mark Mazower, Hitler ‘s Empire, How The Nazis Ruled Europe, The Penguin Press, New York 2008
- Carl K. Savich, Nationalism and War, MarkNews. com, 2008
- Richard J. Evan, The Third Reich in power, The Penguin Press, New York 2005
- History of Germany, Wikipedia, the free encyclopedia
- Interview with Dr. Carroll Quigley, Georgetown University, The Courier, December 12, 1952
- Hitler’s Plan for Eastern Europe, Selections from Janusz Gumkowkski and Kazimierz Leszczynski
- World War II database, Munich Conference and the Annexation of Sudetenland
- Yang Kuisong, Changes in Mao Zedong’s Attitude toward the Indochina War, 1949-1973, Woodrow Wilson International Center for Scholars, 2002
---Trần Trung Đạo: Hiểm họa Trung Quốc và bài học Tiệp Khắc
*******************************
Trung Quốc - Cường quốc không có đồng minh
Trao đổi với Pháp Luật TP.HCM, Thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược - Bộ Công an, cho rằng do bản tính bành trướng quá dữ dội và sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn để đạt được mục đích, Trung Quốc không có đồng minh.
Tháng 6 vừa rồi, Quốc hội Việt Nam thông qua Luật Biển. Trên hành tinh này, thử hỏi Trung Quốc xem có quốc gia ven biển nào không có Luật Biển không? Trung Quốc không có Luật Biển thì họ có bảy đạo luật khác để chi phối, bảo vệ chủ quyền trên biển: Luật Hàng hải, Luật Đường cơ sở, Luật Hải dương... Giờ Việt Nam làm Luật Biển cũng giống như nhà có vườn, người ta phải rào chứ” - Thiếu tướng Lê Văn Cương nói.
Hệ thống nói dối lớn nhất hành tinh
. Phóng viên: Trong thời gian căng thẳng vừa qua, báo chí Trung Quốc đã đưa những thông tin rất sai lệch về Việt Nam. Dường như họ đang cố dùng bộ máy truyền thông do nhà nước kiểm soát để kích động dân chúng của họ?
+ Thiếu tướng Lê Văn Cương: Một số nhà báo, học giả Trung Quốc viết trên tờ Hoàn Cầu - một ấn phẩm của nhật báo Nhân Dân - kêu gọi phát động chiến tranh, chỉ có đánh Việt Nam mới giải quyết được vấn đề biển Đông, rằng trên thế giới này duy nhất Việt Nam là nước đi xâm lược, là hung hăng nhất, hiếu chiến nhất. Họ vẽ ra một hình ảnh đất nước Việt Nam như một tội đồ, để lừa dối nhân dân họ, lừa dối quân đội họ và lừa dối cả thế giới.
Trong gần 3 triệu quân nhân, sĩ quan, binh lính Trung Quốc, tôi tin tưởng tuyệt đại đa số không muốn gây hấn. Họ cũng muốn giao hảo. Ngay cả 1,3 tỉ người dân Trung Quốc cũng là người tốt, nhân hậu lắm, họ muốn bang giao, còn chuyện gây chiến họ không được gì cả. Họ là những con bài bị thí, bị lừa dối. Ngay cả hơn 20 ủy viên Bộ Chính trị, mấy trăm ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc không phải ai cũng muốn gây chiến, chỉ là số nhỏ thôi.
Trong cuộc chiến 1979 với Việt Nam cũng vậy, truyền thông Trung Quốc có hàng ngàn bài báo xuyên tạc, nhồi nhét vào đầu người Trung Quốc rằng đó là chiến công oanh liệt của quân giải phóng Trung Quốc phản công quân Việt Nam xâm lược. Đến giờ phút này, số người hiểu thực chất bản chất cuộc chiến chỉ có 1%.
Hôm 17-8 vừa rồi, khi nói chuyện với các nguyên thủ các quốc gia châu Phi tại Bắc Kinh, Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào có nói rằng: Chúng ta kiên quyết phản đối nước giàu lấn lướt nước nghèo, kiên quyết phản đối nước lớn đàn áp nước nhỏ. Nói hay như thế nhưng làm thì ngược lại.
. Cũng đã từng có nhiều người nói về việc hệ thống truyền thông Trung Quốc đưa thông tin sai lệch, “làm hỏng dân”...
+ Chuyện lừa dối của họ là truyền thống, từ thời Đông Chu liệt quốc đến giờ. Họ biến con người thành những con cừu, chỉ thực hiện mệnh lệnh của cấp trên. Đến giờ phút này, truyền thông Trung Quốc là hệ thống nói dối lớn nhất hành tinh, chỉ phục vụ ý đồ chính trị của giới chóp bu. Về khoản này, Mỹ thua Trung Quốc.
Hồi năm 1979, Trung Quốc xâm lược ban ngày ban mặt chứ có phải buổi tối đâu. Nhưng cứ đến kỷ niệm năm chẵn, báo chí Trung Quốc tung ra trung bình khoảng 700-800 bài báo kéo tít gần như nhau: Chiến công oanh liệt của quân giải phóng Trung Quốc phản công quân Việt Nam xâm lược; cuộc phản công chiến lược thắng lợi...
Sẵn sàng dùng thủ đoạn tàn bạo
. Chúng ta vẫn thường nhắc đến chủ nghĩa bành trướng của Trung Quốc. Ông đánh giá như thế nào về độ phổ biến của chủ nghĩa bành trướng trên thế giới?
+ Về mặt khoa học, phàm các dân tộc lớn, nước lớn, đều có nhân tố bành trướng chứ không phải chỉ có Trung Quốc. Mỹ, Nga, Đức, Nhật, Ấn Độ đều như vậy. Đó là đặc điểm có tính phổ biến, như là người giàu, lớn, khỏe thì hay xem thường kẻ nghèo hèn. Một con người cũng thế, một cộng đồng cũng thế mà một dân tộc cũng thế.
Cho nên diễn biến hòa bình không phải chỉ có Mỹ. Tất nhiên gốc tích của diễn biến hòa bình thời hiện đại là từ Mỹ nhưng những thủ đoạn tác động vào các nước khác để đảm bảo có một chính quyền ở đó theo ý mình thì Trung Quốc là cha đẻ, là bậc thầy của thế giới. Cách đây 2.600 năm, chính ông Quản Trọng, người nước Tề thời Xuân Thu, là người đẻ ra diễn biến hòa bình với các thủ đoạn chia rẽ nội bộ, lũng đoạn kinh tế, khoét sâu mâu thuẫn, đưa thông tin vu khống để vua bạc đãi người trung thực, xung quanh nhà vua chỉ còn những loại nịnh thần, ngu dốt thôi. Từ đó đất nước họ suy yếu, ông ta thâu tóm năm nước xung quanh chỉ trong vài năm. Người Mỹ chỉ học mót người Trung Quốc về khoản này.
. Vậy chủ nghĩa bành trướng của Trung Quốc có gì khác biệt dẫn đến việc họ bị thế giới ghét bỏ như ông vừa đề cập?
+ Trung Quốc có hai điểm đặc biệt. Một là máu bành trướng của họ dữ dội, quyết liệt hơn các nước khác.
Hai là về mặt thủ đoạn, họ sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn bất kể tính chất. Người Mỹ, Nhật, EU không bao giờ làm cái trò cho người sang xui nông dân Việt Nam trộn bùn vào chè, đưa về Trung Quốc quay lên truyền hình, chụp ảnh cho cả thế giới xem; họ cũng không bao giờ mua móng trâu, mua rễ quế, mua đỉa, tuồn hàng chất lượng kém, có chất độc sang Việt Nam. Cho nên cả thế giới chăm chăm cảnh giác Trung Quốc. Họ là một cường quốc không có đồng minh.
Khi nào Trung Quốc dùng vũ lực?
. Nghiên cứu các cuộc xung đột vũ trang của Trung Quốc từ năm 1949 đến nay, ông đánh giá thế nào về những yếu tố dẫn các nhà lãnh đạo Trung Quốc đến việc giải quyết các vấn đề quan hệ quốc tế bằng vũ lực?
+ Nó là hợp lưu cộng hưởng của hai dòng: Dòng bành trướng và dòng phục vụ cho lợi ích trước mắt. Cuộc chiến tranh năm 1969 với Liên Xô chính là vật tế thần để họ chứng tỏ với Mỹ rằng tôi không liên kết với Liên Xô. Đến tháng 2-1979, họ biến Việt Nam thành vật tế thần, một lần nữa chứng minh cho Mỹ thấy họ không đồng minh gì với Việt Nam cả. Trước khi đánh Việt Nam, Đặng Tiểu Bình còn đến Washington, đội mũ cao bồi, nói với Tổng thống Mỹ Carter rằng: “Chúng tôi là NATO phương Đông”. Việt Nam thành vật tế thần để Trung Quốc mua bán với Mỹ.
Suốt từ năm 1979 đến năm 1991, Trung Quốc câu kết với Mỹ và phản động quốc tế bóp nghẹt Việt Nam, bao vây cấm vận Việt Nam. Lịch sử Việt Nam lùi mất 30 năm. Đó là một thời kỳ đen tối của lịch sử Việt Nam, khi tất cả mọi lối ra thế giới đều bị Trung Quốc và Mỹ bịt hết.
Bành trướng là chiến lược lâu dài của họ nhưng khi cần sử dụng vũ lực để giải quyết lợi ích trước mắt và phù hợp với chiến lược đó, họ sẵn sàng.
. Chuyện nước lớn, với tư tưởng bành trướng, thỏa thuận với nhau trên lưng nước nhỏ, đã từng xảy ra nhiều trên thế giới. Trong quan hệ giữa Việt Nam, Trung Quốc và các nước khác thì sao, thưa ông?
+ Tôi cho là Việt Nam từng năm lần bị bán đứng.
Lần thứ nhất tại Hội nghị Genève năm 1954. Trung Quốc đã có sự mặc cả với Mỹ, Pháp chứ đúng ra ranh giới hai miền không phải vĩ tuyến 17 mà có thể là 13, nếu không thì là 15. Nhưng để lấy lòng Mỹ và phương Tây, Trung Quốc đã nhân nhượng Mỹ và Pháp kéo lên vĩ tuyến 17. Sau này chính Pháp nói với ta điều ấy.
Lần thứ hai khi Việt Nam gần thắng Mỹ năm 1972, Henry Kissinger đã ký tắt với ông Lê Đức Thọ, hai bên báo cáo cấp cao để chuẩn bị ký Hiệp định Paris. Nhưng sau đó Mao Trạch Đông mời Tổng thống Mỹ Nixon sang ký Thông cáo chung Thượng Hải. Ngày 1-3-1972, Kissinger về Tokyo họp báo, nói một câu nổi tiếng: Bây giờ chúng tôi chỉ còn nhìn về Mạc Tư Khoa để nghiền nát Hà Nội! Sau khi ký xong, những việc tày trời trước đây các tổng thống Mỹ khác không làm được thì Nixon làm được, đó là phong tỏa cảng Hải Phòng, con đường biển duy nhất Việt Nam ra thế giới, cho máy bay đánh sát biên giới Trung Quốc, rồi sau đó là 12 ngày đêm Điện Biên Phủ trên không. Thiệt hại về người và tài sản trong cuộc không chiến của Mỹ ở miền Bắc từ 1-3-1972 đến khi ký Hiệp định Paris bằng cả sáu năm trước cộng lại. Ở miền Nam, ta cũng phải đổ xương máu nữa. Nên thông cáo Thượng Hải thực chất đã được viết bằng máu của người Việt Nam.
Lần thứ ba, họ đánh chiếm Hoàng Sa năm 1974. Không có sự đồng ý của Mỹ thì Trung Quốc không bao giờ dám đánh.
Lần thứ tư, chính Trung Quốc là kẻ chủ mưu gây nên vụ thảm sát hơn 2 triệu người Campuchia. Trung Quốc cung cấp từ A đến Z, lương thực thực phẩm, vũ khí, đạn dược, thuốc men cho Khmer Đỏ. Chiến tranh biên giới Tây Nam 1976-1978 là Trung Quốc mượn Khmer Đỏ để đánh Việt Nam. Sau đấy, khi ta giải phóng Campuchia, Trung Quốc là kẻ lu loa trên thế giới rằng Việt Nam có âm mưu lập “Liên bang Đông Dương”. Kẻ gây ra họa diệt chủng lại vu cáo cho những người cứu người Campuchia khỏi họa diệt chủng.
Lần thứ năm là chiến tranh biên giới năm 1979. Năm lần họ buôn bán trên lưng mình.
Hệ thống nói dối lớn nhất hành tinh
. Phóng viên: Trong thời gian căng thẳng vừa qua, báo chí Trung Quốc đã đưa những thông tin rất sai lệch về Việt Nam. Dường như họ đang cố dùng bộ máy truyền thông do nhà nước kiểm soát để kích động dân chúng của họ?
+ Thiếu tướng Lê Văn Cương: Một số nhà báo, học giả Trung Quốc viết trên tờ Hoàn Cầu - một ấn phẩm của nhật báo Nhân Dân - kêu gọi phát động chiến tranh, chỉ có đánh Việt Nam mới giải quyết được vấn đề biển Đông, rằng trên thế giới này duy nhất Việt Nam là nước đi xâm lược, là hung hăng nhất, hiếu chiến nhất. Họ vẽ ra một hình ảnh đất nước Việt Nam như một tội đồ, để lừa dối nhân dân họ, lừa dối quân đội họ và lừa dối cả thế giới.
Trong gần 3 triệu quân nhân, sĩ quan, binh lính Trung Quốc, tôi tin tưởng tuyệt đại đa số không muốn gây hấn. Họ cũng muốn giao hảo. Ngay cả 1,3 tỉ người dân Trung Quốc cũng là người tốt, nhân hậu lắm, họ muốn bang giao, còn chuyện gây chiến họ không được gì cả. Họ là những con bài bị thí, bị lừa dối. Ngay cả hơn 20 ủy viên Bộ Chính trị, mấy trăm ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc không phải ai cũng muốn gây chiến, chỉ là số nhỏ thôi.
Trong cuộc chiến 1979 với Việt Nam cũng vậy, truyền thông Trung Quốc có hàng ngàn bài báo xuyên tạc, nhồi nhét vào đầu người Trung Quốc rằng đó là chiến công oanh liệt của quân giải phóng Trung Quốc phản công quân Việt Nam xâm lược. Đến giờ phút này, số người hiểu thực chất bản chất cuộc chiến chỉ có 1%.
Hôm 17-8 vừa rồi, khi nói chuyện với các nguyên thủ các quốc gia châu Phi tại Bắc Kinh, Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào có nói rằng: Chúng ta kiên quyết phản đối nước giàu lấn lướt nước nghèo, kiên quyết phản đối nước lớn đàn áp nước nhỏ. Nói hay như thế nhưng làm thì ngược lại.
. Cũng đã từng có nhiều người nói về việc hệ thống truyền thông Trung Quốc đưa thông tin sai lệch, “làm hỏng dân”...
+ Chuyện lừa dối của họ là truyền thống, từ thời Đông Chu liệt quốc đến giờ. Họ biến con người thành những con cừu, chỉ thực hiện mệnh lệnh của cấp trên. Đến giờ phút này, truyền thông Trung Quốc là hệ thống nói dối lớn nhất hành tinh, chỉ phục vụ ý đồ chính trị của giới chóp bu. Về khoản này, Mỹ thua Trung Quốc.
Hồi năm 1979, Trung Quốc xâm lược ban ngày ban mặt chứ có phải buổi tối đâu. Nhưng cứ đến kỷ niệm năm chẵn, báo chí Trung Quốc tung ra trung bình khoảng 700-800 bài báo kéo tít gần như nhau: Chiến công oanh liệt của quân giải phóng Trung Quốc phản công quân Việt Nam xâm lược; cuộc phản công chiến lược thắng lợi...
Sẵn sàng dùng thủ đoạn tàn bạo
. Chúng ta vẫn thường nhắc đến chủ nghĩa bành trướng của Trung Quốc. Ông đánh giá như thế nào về độ phổ biến của chủ nghĩa bành trướng trên thế giới?
+ Về mặt khoa học, phàm các dân tộc lớn, nước lớn, đều có nhân tố bành trướng chứ không phải chỉ có Trung Quốc. Mỹ, Nga, Đức, Nhật, Ấn Độ đều như vậy. Đó là đặc điểm có tính phổ biến, như là người giàu, lớn, khỏe thì hay xem thường kẻ nghèo hèn. Một con người cũng thế, một cộng đồng cũng thế mà một dân tộc cũng thế.
Cho nên diễn biến hòa bình không phải chỉ có Mỹ. Tất nhiên gốc tích của diễn biến hòa bình thời hiện đại là từ Mỹ nhưng những thủ đoạn tác động vào các nước khác để đảm bảo có một chính quyền ở đó theo ý mình thì Trung Quốc là cha đẻ, là bậc thầy của thế giới. Cách đây 2.600 năm, chính ông Quản Trọng, người nước Tề thời Xuân Thu, là người đẻ ra diễn biến hòa bình với các thủ đoạn chia rẽ nội bộ, lũng đoạn kinh tế, khoét sâu mâu thuẫn, đưa thông tin vu khống để vua bạc đãi người trung thực, xung quanh nhà vua chỉ còn những loại nịnh thần, ngu dốt thôi. Từ đó đất nước họ suy yếu, ông ta thâu tóm năm nước xung quanh chỉ trong vài năm. Người Mỹ chỉ học mót người Trung Quốc về khoản này.
. Vậy chủ nghĩa bành trướng của Trung Quốc có gì khác biệt dẫn đến việc họ bị thế giới ghét bỏ như ông vừa đề cập?
+ Trung Quốc có hai điểm đặc biệt. Một là máu bành trướng của họ dữ dội, quyết liệt hơn các nước khác.
Hai là về mặt thủ đoạn, họ sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn bất kể tính chất. Người Mỹ, Nhật, EU không bao giờ làm cái trò cho người sang xui nông dân Việt Nam trộn bùn vào chè, đưa về Trung Quốc quay lên truyền hình, chụp ảnh cho cả thế giới xem; họ cũng không bao giờ mua móng trâu, mua rễ quế, mua đỉa, tuồn hàng chất lượng kém, có chất độc sang Việt Nam. Cho nên cả thế giới chăm chăm cảnh giác Trung Quốc. Họ là một cường quốc không có đồng minh.
Khi nào Trung Quốc dùng vũ lực?
. Nghiên cứu các cuộc xung đột vũ trang của Trung Quốc từ năm 1949 đến nay, ông đánh giá thế nào về những yếu tố dẫn các nhà lãnh đạo Trung Quốc đến việc giải quyết các vấn đề quan hệ quốc tế bằng vũ lực?
+ Nó là hợp lưu cộng hưởng của hai dòng: Dòng bành trướng và dòng phục vụ cho lợi ích trước mắt. Cuộc chiến tranh năm 1969 với Liên Xô chính là vật tế thần để họ chứng tỏ với Mỹ rằng tôi không liên kết với Liên Xô. Đến tháng 2-1979, họ biến Việt Nam thành vật tế thần, một lần nữa chứng minh cho Mỹ thấy họ không đồng minh gì với Việt Nam cả. Trước khi đánh Việt Nam, Đặng Tiểu Bình còn đến Washington, đội mũ cao bồi, nói với Tổng thống Mỹ Carter rằng: “Chúng tôi là NATO phương Đông”. Việt Nam thành vật tế thần để Trung Quốc mua bán với Mỹ.
Suốt từ năm 1979 đến năm 1991, Trung Quốc câu kết với Mỹ và phản động quốc tế bóp nghẹt Việt Nam, bao vây cấm vận Việt Nam. Lịch sử Việt Nam lùi mất 30 năm. Đó là một thời kỳ đen tối của lịch sử Việt Nam, khi tất cả mọi lối ra thế giới đều bị Trung Quốc và Mỹ bịt hết.
Bành trướng là chiến lược lâu dài của họ nhưng khi cần sử dụng vũ lực để giải quyết lợi ích trước mắt và phù hợp với chiến lược đó, họ sẵn sàng.
. Chuyện nước lớn, với tư tưởng bành trướng, thỏa thuận với nhau trên lưng nước nhỏ, đã từng xảy ra nhiều trên thế giới. Trong quan hệ giữa Việt Nam, Trung Quốc và các nước khác thì sao, thưa ông?
+ Tôi cho là Việt Nam từng năm lần bị bán đứng.
Lần thứ nhất tại Hội nghị Genève năm 1954. Trung Quốc đã có sự mặc cả với Mỹ, Pháp chứ đúng ra ranh giới hai miền không phải vĩ tuyến 17 mà có thể là 13, nếu không thì là 15. Nhưng để lấy lòng Mỹ và phương Tây, Trung Quốc đã nhân nhượng Mỹ và Pháp kéo lên vĩ tuyến 17. Sau này chính Pháp nói với ta điều ấy.
Lần thứ hai khi Việt Nam gần thắng Mỹ năm 1972, Henry Kissinger đã ký tắt với ông Lê Đức Thọ, hai bên báo cáo cấp cao để chuẩn bị ký Hiệp định Paris. Nhưng sau đó Mao Trạch Đông mời Tổng thống Mỹ Nixon sang ký Thông cáo chung Thượng Hải. Ngày 1-3-1972, Kissinger về Tokyo họp báo, nói một câu nổi tiếng: Bây giờ chúng tôi chỉ còn nhìn về Mạc Tư Khoa để nghiền nát Hà Nội! Sau khi ký xong, những việc tày trời trước đây các tổng thống Mỹ khác không làm được thì Nixon làm được, đó là phong tỏa cảng Hải Phòng, con đường biển duy nhất Việt Nam ra thế giới, cho máy bay đánh sát biên giới Trung Quốc, rồi sau đó là 12 ngày đêm Điện Biên Phủ trên không. Thiệt hại về người và tài sản trong cuộc không chiến của Mỹ ở miền Bắc từ 1-3-1972 đến khi ký Hiệp định Paris bằng cả sáu năm trước cộng lại. Ở miền Nam, ta cũng phải đổ xương máu nữa. Nên thông cáo Thượng Hải thực chất đã được viết bằng máu của người Việt Nam.
Lần thứ ba, họ đánh chiếm Hoàng Sa năm 1974. Không có sự đồng ý của Mỹ thì Trung Quốc không bao giờ dám đánh.
Lần thứ tư, chính Trung Quốc là kẻ chủ mưu gây nên vụ thảm sát hơn 2 triệu người Campuchia. Trung Quốc cung cấp từ A đến Z, lương thực thực phẩm, vũ khí, đạn dược, thuốc men cho Khmer Đỏ. Chiến tranh biên giới Tây Nam 1976-1978 là Trung Quốc mượn Khmer Đỏ để đánh Việt Nam. Sau đấy, khi ta giải phóng Campuchia, Trung Quốc là kẻ lu loa trên thế giới rằng Việt Nam có âm mưu lập “Liên bang Đông Dương”. Kẻ gây ra họa diệt chủng lại vu cáo cho những người cứu người Campuchia khỏi họa diệt chủng.
Lần thứ năm là chiến tranh biên giới năm 1979. Năm lần họ buôn bán trên lưng mình.
Tất cả những chuyện tranh chấp của Trung Quốc với nước khác, từ xưa đến nay, không có cuộc tranh chấp nào mà Trung Quốc có lý cả. Cuộc chiến năm 1962 với Ấn Độ, họ chiếm của Ấn Độ mấy chục ngàn cây số vuông, không có lý nào cả. Quan hệ với Nhật Bản, Philippines cũng vậy, không có lý nào. Tôi thống kê có 15 cuốn sách, 20 bản đồ cổ khẳng định cực nam của họ chỉ đến đảo Hải Nam thôi. Thiếu tướng Lê Văn Khương |
HỮU LONG thực hiện
*****************************************
Báo Mỹ: TQ không quan tâm tới đàm phán, sẽ dùng vũ lực chiếm biển Đông
(GDVN) - Bắc Kinh đã thể hiện rằng nước này không quan tâm tới một giải pháp thương lượng và sẽ sử dụng vũ lực để đòi quyền sở hữu toàn bộ Biển Đông nếu có thể.
Thứ Sáu tuần trước, quyền Phó phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Mỹ đã lên tiếng cho rằng, quyết định gần đây của Trung Quốc trong việc nâng cấp một đảo nhỏ (Phú Lâm) trên quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam thành cái gọi là "thành phố cấp quận" và thành lập một đơn vị quân sự đồn trú tại đây sẽ gây ảnh hưởng tới việc huy động "các nỗ lực ngoại giao nhằm giải quyết sự bất đồng và có nguy cơ làm tiếp tục leo thang căng thẳng trong khu vực" - tờ Thời báo phố Wall nhận định.
Hoạt động thành lập cái gọi là "thành phố Tam Sa" phía Trung Quốc tổ chức một cách phi pháp, phi lý trên đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam |
Theo tờ báo này, ngay sau khi tuyên bố trên được đưa ra, Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã triệu tập Phó đại sứ Mỹ để "mắng mỏ", các phương tiện truyền thông nhà nước Trung Quốc cũng vào hùa kêu gọi Mỹ "im mồm" và "ngừng xúi giục" làm gia tăng xung đột trong khu vực.
Tại sao Trung Quốc lại có phản ứng giận dữ như vậy? - Thời báo phố Wall đặt nghi vấn. Một phần nguyên nhân này xuất phát từ việc giới lãnh đạo Bắc Kinh cần phải xem xét một cách cứng rắn các khó khăn liên quan tới vấn để chủ quyền trước thềm đại hội đảng CSTQ khóa 18 sắp tới, đại hội này sẽ bầu ra các nhà lãnh đạo thế hệ kế tiếp của Trung Quốc.
Nhưng còn có một lý do khác để giải thích cho điều đó là do sự hung hăng của Trung Quốc trên Biển Đông đã thu hút phản ứng dữ dội từ các nước láng giềng và khiến họ quyết tâm chống lại các hành vi "bắt nạt" của Trung Quốc mạnh mẽ hơn.
Thay vì thừa nhận sai lầm của mình, Bắc Kinh muốn đổ vấy mọi tội lỗi cho Mỹ khi cho rằng Washington chính là "bàn tay hắc ám" đang đầu độc mối quan hệ của Trung Quốc với khu vực Đông Nam Á.
Tuyên bố này có thể xuất phát từ ý định tuyên truyền làm bóp méo sự thật của Trung Quốc, nhưng nó lại gây ra mối nguy hiểm lớn vì vô hình chung sẽ biến Mỹ thành kẻ thù của khu vực - Thời báo phố Wall nhận định.
Tuyên bố này có thể xuất phát từ ý định tuyên truyền làm bóp méo sự thật của Trung Quốc, nhưng nó lại gây ra mối nguy hiểm lớn vì vô hình chung sẽ biến Mỹ thành kẻ thù của khu vực - Thời báo phố Wall nhận định.
Trung Quốc tìm mọi cách nhận vơ Biển Đông là của mình. |
Trong sách trắng Quốc phòng năm 2000, Bắc Kinh nói rằng cái gọi là "quyền chủ quyền không thể chối cãi được" của Trung Quốc đối với quần đảo Trường Sa, một vị trí quan trọng nhất trên Biển Đông, xuất phát từ cơ sở các hoàng đế Trung Hoa là những người đầu tiên khám phá và đặt tên cho quần đảo này là Nam Sa (Trường Sa của Việt Nam). Do đó, cứ theo lý lẽ ấy (bịa đặt, phi lý, phi pháp và vô hiệu - PV) Trung Quốc cho rằng mình là nước đầu tiên có thẩm quyền đưa ra tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo này.
Cơ sở này ngay lập tức đã bộc lộ sơ hở. Trung Quốc có thể có một số tấm bản đồ cổ còn sót lại, nhưng thực tế những thổ dân, thương nhân người Mã Lai, Ấn Độ và Ả Rập đã đi qua vùng biển này trước cả khi người Hán bắt đầu khám phá nó. Và trong các tấm bản đồ mà Trung Quốc và các nước khác từng vẽ từ thời kỳ cổ đại đến thế kỷ 20 đều cho thấy những hòn đảo không người nằm ở vị trí nguy hiểm đối với tàu bè không thuộc chủ quyền của Trung Quốc.
Đế quốc Nhật, mỉa mai thay, mới là nguồn gốc thực sự mà Trung Quốc đã vin vào để đưa ra các tuyên bố đòi chủ quyền trên Biển Đông. Theo ghi nhận của một học giả Trung Quốc sống tại nước ngoài, ông Vương Canh Vũ (Wang Gungwu), những tấm bản đồ của người Nhật vẽ trong chiến tranh thế giới lần thứ 2 cho thấy lúc đó Nhật Bản tuyên bố chủ quyền đối với toàn bộ Biển Đông và thực thể Trung Hoa Dân Quốc đã thừa kế tuyên bố (phi lý, phi pháp và vô hiệu - PV) ấy.
Sự khôi hài thứ 2 là Trung Quốc dùng tấm bản đồ xuất bản năm 1947 bởi chính quyền Tưởng Giới Thạch, trong đó bịa ra một đường hình chữ U với 11 dấu gạch ngang thâu tóm hơn 90% diện tích Biển Đông, để làm cơ sở đòi chủ quyền. Tấm bản đồ này sau đó được chính quyền thời Mao Trạch Đông cho tái bản và đơn giản hóa nó chỉ còn lại 9 gạch để phân định ranh giới lãnh thổ và Bắc Kinh đã dùng làm cơ sở cho tuyên bố đây là "vùng biển lịch sử" của mình.
Giới học giả, phân tích chính trị quốc tế gần như đều nhận định, các căn cứ đòi chủ quyền của Trung Quốc đối với Biển Đông đều phi lý và thiếu cơ sở pháp lý cũng như các cơ sở lịch sử. |
Dẫu vậy, Bắc Kinh vẫn tiếp tục dùng tấm bản đồ này để biện minh cho mình, mặc dù chúng mâu thuẫn với Công ước biển Liên Hợp Quốc 1982 mà nước này đã ký kết và phê chuẩn năm 1996. Ngoài ra, Bắc Kinh còn hành động như thể nước này sở hữu gần như toàn bộ Biển Đông. Thậm chí, năm ngoái Trung Quốc còn lớn tiếng lên án hoạt động thăm dò của Việt Nam ngay tại vùng lãnh thổ và vùng biển thuộc khu đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Đối với Mỹ, Biển Đông là một khu vực quan trọng, nơi 1/3 chuyến tàu thương mại quốc tế đi qua và tự do hàng hải được coi là một lợi ích quan trọng trong chính sách của Washington. Các nước láng giềng của Trung Quốc cũng quan tâm tới vấn đề này bởi họ nhận thức được vấn đề rằng họ đang phải đối mặt trước "sự hung hăng ngày càng tăng" của Bắc Kinh.
Bởi một khi Trung Quốc giành được tất cả những hòn đảo tranh chấp về mình, chiếu theo luật hàng hải quốc tế, các nước láng giềng chỉ còn quyền kiểm soát một vùng biển tương đối nhỏ với rất ít đảo có khả năng duy trì làm nơi ở cho con người - một cơ sở cần thiết để đòi quyền sở hữu dựa trên luật vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý. Và khi đó, sự chồng chéo trong cách phân chia vùng đặc quyền kinh tế giữa các nước sẽ là điều khó tránh khỏi vì đá và bãi cát ngầm hầu như chỉ nằm cách nhau trong bán kính 20km.
Một số học giả cho rằng Bắc Kinh chỉ tìm cách kiểm soát Biển Đông từ những năm 1970 khi tiềm năng dầu mỏ và khí đốt của khu vực này được phát hiện. Thực tế không chỉ như vậy. Tấm bản đồ năm 1947 đã cho thấy Biển Đông là một vấn đề tranh chấp quốc tế từ trước đó.
Trung Quốc cứ mở miệng là vu cáo nước khác "gây hấn" trên Biển Đông, thậm chí còn chụp mũ cả Hoa Kỳ mà cố tình lờ đi một thực tế, Bắc Kinh mới là kẻ thường xuyên khiêu khích trên Biển Đông |
Nhưng chỉ sau khi phát hiện nguồn dầu khí phong phú ở Biển Đông, Trung Quốc mới bắt đầu loạt hoạt động "bắt nạt" của mình để hòng chiếm các đảo. Năm 1974, quân Trung Quốc phát động một cuộc tấn công bất ngờ chiếm đoạt quần đảo Hoàng Sa từ tay lực lượng Hải quân của miền nam Việt Nam. Năm 1988, quân Trung Quốc một lần nữa dùng vũ lực tấn công người Việt Nam trên quần đảo Trường Sa chiếm một số bãi đá. Bắc Kinh cũng cướp Đá Vành Khăn (Mischief Reef) lúc đó Philippines đang chiếm đóng vào năm 1994 mà không cần dùng tới súng đạn.
Luôn lớn tiếng cáo buộc các nước láng giềng khuấy động căng thẳng, nhưng Bắc Kinh lại quên mất rằng, vào tháng 6/2012, chính họ đã thực hiện một hành động khiêu khích lớn nhất kể từ năm 1994 thông qua việc tuyên bố mời dự thầu thăm dò tại 9 lô dầu khí thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam mà gồm cả những khối Việt Nam đang hợp tác thăm dò với nước ngoài.
Điều này là một mối đe dọa đặc biệt đối với Việt Nam bởi Trung Quốc không lôi kéo các công ty đa quốc gia vào hỗ trợ tuyên bố chủ quyền của mình mà còn né tránh các nguy cơ bùng phát xung đột quân sự xung quanh giàn khoan. Bên cạnh đó, Trung Quốc đưa giàn khoan dầu nước sâu vào hoạt động như một cách thức mới để củng cố cho các tuyên bố của mình.
Bên cạnh đó, Bắc Kinh còn dùng lực lượng hải quân và lực lượng dân quân làm leo thang căng thẳng. Trong bế tắc với Manila về tranh chấp chủ quyền đối với bãi cạn Scarborough trong tháng 5/2012, gần 100 tàu Trung Quốc đã được huy động tới vùng biển này hoạt động trái phép một thời gian - theo tuyên bố của chính phủ Philippines. Năm ngoái, tàu Hải giám Trung Quốc còn ngang nhiên xâm phạm thềm lục địa và cắt cáp của tàu nghiên cứu Việt Nam như cách họ cố gắng làm với tàu USNS Impeccable vào năm 2009.
Hàng ngàn tàu cá Trung Quốc đã đổ ra Biển Đông để đánh bắt trong tháng này như một minh chứnh cho chính sách cậy đông hiếp yếu, ỷ lớn hiếp nhỏ mà Bắc Kinh đang sử dụng để độc chiếm Biển Đông. |
Bộ Quốc phòng Trung Quốc còn tuyên bố bắt các tàu tuần tra nước này đã "sẵn sàng chiến đấu" tại vùng biển tranh chấp với Việt Nam. Bắc Kinh nghĩ rằng với đặc quyền của một nước lớn, họ có thể đưa ra những tuyên bố lạ lùng về chủ quyền lãnh thổ và vi phạm luật pháp quốc tế theo ý muốn, còn các nước nhỏ không thể không tuân theo. Điều đó đã được thể hiện trong tuyên bố của Ngoại trưởng Dương Kiết Trì tại Diễn đàn khu vực ASEAN ở Hà Nội tháng 7/2010. Ông Dương mô tả Biển Đông là "lợi ích cốt lõi của quốc gia" và sau đó nói rằng "Trung Quốc là một nước lớn và các nước khác là nước nhỏ, và đó là một thực tế (nước nhỏ phải tuân theo lời nước lớn - PV)".
Vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi các nước Đông Nam Á đã tìm tới sự hỗ trợ từ Washington để chống lại sự xâm lược của Trung Quốc. Bắc Kinh tỏ vẻ ngạc nhiên khi thấy rằng mình một lần nữa bị cô lập trong khu vực vào bao quanh bởi chính các nước láng giềng và các nước này đang thắt chặt quan hệ hợp tác với Mỹ. Và một khi sự bành trướng của Trung Quốc gia tăng, các nước láng giềng sẽ nhận ra rằng chỉ có đoàn kết với có thể thay đổi được hành vi ngang ngược của Bắc Kinh.
Mỹ luôn cố gắng để tránh xảy ra một cuộc đối đầu. Washington đã duy trì lập trường trung lập của mình đối với vấn đề Biển Đông khi nói rằng sẽ không can dự vào tranh chấp trong khu vực này, nhưng vì lợi ích quốc gia, Mỹ phải vào cuộc để các tranh chấp được giải quyết một cách hòa bình.
Tuy nhiên, Bắc Kinh đã thể hiện rằng nước này không quan tâm tới một giải pháp thương lượng và sẽ sử dụng vũ lực để đòi quyền sở hữu toàn bộ Biển Đông nếu có thể. Vì vậy, Washington cần phải vạch trần rằng đường lưỡi bò chỉ là trò hề đối với luật pháp quốc tế và cần thể hiện rõ quan điểm rằng Mỹ sẽ chiến đấu để giữ cho các tuyến đường hàng hải được lưu thông.
Xung đột trên biển Đông: Mỹ cần phản ứng mạnh hơn
China is increasingly making its presence felt in the South China Sea, with larger navy patrols and a newly strengthened army garrison on a tiny island.
TQ 'muốn dẹp bất đồng về Biển Đông'
-Báo Mỹ: Đừng để Trung Quốc đâm “sát sườn”
--
Kupchan vs Newton.... (Mafiovi)
- Kupchan vs Newton: "The twenty-first century will not belong to America, China, Asia, or anyone else. It will be no one's world. For the first time in history, the world will be interdependent--but without a center of gravity or global guardian...."
I'm far from what you call slavery's mentality, Messrs, but the Gravitation what Great Newton said about is Universal exactly in the sense that it's right not only in nature.
The difference only: in Human society, "the Gravitation" is not whether map of your country is big, not how much her population. "the Gravitation" is in nation's values.
These values are
- hard values and
- soft ones
And - you guys - for now, in both of these values America still is Number One. If I plus to it the EU, Japan, Israel, Vietnam, I think here is no reason to see a world "without a center of gravity.".
Moreover, in this world - as I said - and exactly in the moment when we face so-called declining America, This America - rinse brain you guys - have more chance than ever to win heart and mind of mankind.
The League of Freedom - that's new institution we should create for leading (with the America) mankind to these common values, Messrs.
-Biển Đông: điểm mặt 3 quan chức Ngoại giao TQ cay cú chỉ trích Mỹ
Biển Đông: báo chí Trung Quốc điên cuồng "nã đạn" vào Mỹ
Phản ứng của TQ về "thông điệp biển Đông" của Mỹ chỉ là ngụy biện!
Biển Đông: Bị vạch mặt, TQ tức tối triệu tập khẩn Đại biện lâm thời Mỹ
- Về một số ý kiến tiêu biểu của các học giả trong, ngoài nước về nội dung và hiệu lực ràng buộc của công hàm 1958(Trương Nhân Tuấn).
- Trung Quốc nhắm đến mục tiêu Biển Đông (Heritage Foundation/ TCPT). – Trung Quốc ‘vỡ mộng’ cái gọi là ‘thành phố Tam Sa’ (VTC). – TQ ‘muốn dẹp bất đồng về Biển Đông’ – (BBC). – Trung Quốc sẽ có đối thủ mạnh trên Biển Đông (VnMedia). – Trung Quốc vận động để có lợi thế tranh chấp Biển Ðông(Petrotimes). - Vũ lực – biện pháp chủ yếu trong tranh chấp lãnh thổ với láng giềng (VNE). - Người Philippines không tin Trung Quốc (SGGP). - NHÀ NGHIÊN CỨU BIỂN ĐÔNG – THẠC SĨ HOÀNG VIỆT: “Độc chiếm biển Đông là chiến lược nhất quán của Trung Quốc” (LĐ). - Làm rõ vùng tranh chấp ở Biển Đông (ĐV). - Trung Quốc đang đánh mất tất cả vì Biển Đông? (VnMedia). - Viễn cảnh chiến tranh Mỹ – Trung (TN).
- Carl Thayer – Biển Đông: Trung Quốc có lợi thế hơn trong tuyên bố chủ quyền? (Thayer Consultancy/ Ba Sàm).
- Trung Quốc ngừng nhập nhiều hàng từ Việt Nam (DVT/ TP).