- -Tải về : Bí mật Ngũ Giác Đài phần III (8)
111. C. 2. THAM KHẢO
1. J. M. Mackintosh, Strategy and. Tactics of Soviet Foreign Policy (New York: Oxford., 1963), pp. 83-84.
2. In a talk with Nong Kimny, Cambodian Foreign Minister, July 14; in Johnson tel. SECTO 616 from Genève, July 15, 1954 (SECRET).
3. In a talk with Mendes-France, June 24; in Dillon tel. from Paris. priority No. 5035, June 24, 1954 (TOP SECRET).
4. Ibid.. và điện thoại ưu tiên của Johnson.SECTO 517, 24 Tháng Sáu, 1954, từ Genève (bí mật), báo cáo về cuộc trò chuyện giữa Mendes-France và Chu tại Berne. Chu đánh giá chuyện này theo cách nào đó bằng cách thúc giục các bên kháng chiến ở hai nước phải đưa ra những phương cách thích hợp để tái hội nhập vào xã hội của mình. Dillon tel. from Paris priority No. 5035, June 24, 1954 (TOP SECRET).
5. Dillon tel. from Paris priority No. 5035, June 24, 1954 (TOP SECRET).
6. Ibid.. See also Johnson priority tel. SECTO 517, June 24, 1954, from Genève (SECRET).
7. Những quan điểm này đã được trình bày, ví dụ: Seymour Topping đã nêu lên trường hợp ông Huang Hua trong một lần họp mà Topping mô tả là nghiêm trọng đến chết người và không có những nhận xét có tính tuyên truyền. “Khi Huang nói về khả năng có những căn cứ của Mỹ ở Đông Dương hay những hiệp ước chống cộng sản ở Đông Nam Á, ông này đã trở nên rất kích động, khoa tay, và tiếng Anh tuyệt vời thường ngày của ông đã bị phá vỡ, buộc ông ta phải làm việc thông qua thông dịch viên. " Xem điện thoại của Smith. SECTO 661 từ Genève, ngày 19 tháng bảy năm 1954 (TOP SECRET). Xem thêm điện thoại ưu tiên Johnson. SECTO 517 từ Genève, 24 tháng 6 năm 1954 (bí mật); Smith ưu tiên điện thoại. SECTO 463 từ Genève, ngày 17 tháng sáu 1954 (bí mật) và Smith điện thoại. SECTO 636 từ Genève, 17 Tháng Bảy, 1954 (bí mật ). Smith điện thoại. SECTO 635 từ Genève, 17 Tháng Bảy, 1954 (bí mật).
8. Smith tel. SECTO 635 from Geneva, July 17, 1954 (SECRET). Thật thú vị, cũng tại hội nghị này, Chou cho thấy nó sẽ được chấp nhận cho Campuchia để có cố vấn quân sự Pháp hoặc Anh, nhưng không phải là Mỹ.
9. Central Intelligence Agency, Memorandum: Asian Communist Employment of Neotiations as a Political Tactic, RSS' No. 0017/66, p. 40 (SECRET/No Foreign Dis/ Controlled. Dis )
10. U. S. VerbMin/Indochina Restricted. 1, pp. 4-5 (CONFIDENTIAL).
11. In Smith tel. SECTO 267 from Genève, May 20, 1954 (SECRET).
12. CIA Memorandum RS 0017/66 (cited previously), p. 39 (SECRET/No Foreign Dis/Controlled Dis.).
13. Ibid.., p. 41.
14. Lacouture and Devillers, pp. 238-39.
15. Ibid.., pp. 239-40.
16. CIA Memo: "Asian Communist Employment of' Negotiations as a Political Tactic" (SECRET), RSS 00l7/66.
17. Lacouture and Devillers, pp. 257-58.
18. Smith from Genève tel. SECTO 632, July l7, 1954 (SECRET).
19. Lacouture and Devillers, p. 268.
20. Smith from Genève priority tel. SECTO 638, July l8, 1954 (SECRET).
21. Smith f'rom Genève tel. SECTO 632, July l7, 1954 (SECRET).
22. Ibid..
23. Smith from Genève tel. SECTO 645, July l8, 1954 (SECRET).
24. Ibid..
25. See, e.g. Lacouture and Devillers, p. 213.
26. Ibid.., p. 215.
27. Đây là yêu cầu của Việt Minh trong cuộc đàm phán bí mật với người Pháp. Báo cáo trong điện thoại ưu tiên của Smith. từ Genève DULTE 187, L6, 1954 (TOP SECRET).
28. Smith f'rom Genève tel. DULTE 193, June 17, 1954 (TOP SECRET).
29. Smith tel. DULTE 193 from Genève, June 17, 1954 (TOP SECRET). See also Lacouture and Devillers, pp. 217 and 219.
30. Trong lần nói chuyện với Smith ngày 19 tháng Sáu, Molotov thảo luận về Pathet Lào và phong trào kháng chiến của Campuchia và cho biết ông đã nhìn thấy khả năng của một thoả thuận, miễn là không bên nào (tức là Pháp hoặc ViệtMinh) “chịu chấp nhận quan điểm của bên kia hay để qua một bên những suy nghĩ cực đoan. " Molotov nói rằng khoảng 50% lãnh thổ Lào không được kiểm soát bởi chính phủ hoàng gia (một cách đặt vấn đề lạ lùng), với một phong trào nhỏ hơn ở Campuchia nhiều. Giọng lưỡi của bản báo cáo Smith về cuộc trò chuyện này cho biết Molotov thấy không có bất cứ chướng ngại nào về việc rút "quân tình nguyện" Việt Minh. Smith điện thoại.DULTE 202 f'rom Genève, 19 tháng Sáu 1954 (TOP SECRET).
31. Johnson f'rom Genève tel. SECTO 514, June 23, 1954 (SECRET).
32. See e.g. Smith f'rom Genève priority tel. SECTO 637, July l7, 1954 (SECRET).
33. Smith f'rom Genève priority tel. SECTO 638, July l8, 1954 (SECRET).
- Diễn giải lý thuyết và thực hành khác nhau
a. Điều khoản về bầu cử tạo ra những tranh cãi
Tranh cãi nghiêm trọng nhất về Hiệp định là tập trung vào điêu khoản quy định cuộc bầu cử (Điều 7) của Tuyên Bố cuối cùng. Tuyên Bố rõ ràng là đã dự kiến một cuộc bầu cử để quyết định về một nước Việt Nam thống nhất sẽ được tổ chức vào tháng Bảy năm 1956. Khi "giới tuyến quân sự là tạm thời và không nên trong bất kỳ cách nào được hiểu như một ranh giới chính trị hay lãnh thổ được thiết lập," việc phân vùng [ghi trong Hiệp Định] Genève là một biện pháp tạm thời, thiết thực. Hội nghị dự định sau đó cho phép nhân dân Việt Nam "được hưởng các quyền tự do cơ bản được bảo đảm của các tổ chức dân chủ", và để đưa ra một giải pháp chính trị cho đất nước của họ "trong tương lai gần." Giải quyết đó, các thành viên tham dự [Hội Nghị] tuyên bố, nên xảy ra (1) "trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ" và (2) thông qua cuộc tổng tuyển cử tựdo bằng cách bỏ phiếu kín... vào tháng Bảy năm 1956, dưới sự giám sát của một ủy ban quốc tế gồm đại diện của các nước thành viên của Ủy Hội Kiểm Soát Quốc Tế... Những tham khảo về vấn đề này [bầu cử] sẽ được tổ chức giữa các đại diện có thẩm quyền của hai miền kể từ ngày 20 tháng Bảy năm 1955 trở đi. "
b. Nhìn trên thực tế là thấy đã khác
Khó khăn liên quan đến điều khoản bầu cử của Tuyên bố cuối cùng, cũng như toàn bộ Hiệp định, không phải là ở tinh thần của nó, nhưng là ở thực tiễn áp dụng của họ. Ở đây còn là vấn đề phỏng đoán xem là các thành viên của Hiệp Định đã thực sự nghĩ rằng một giải pháp chính trị để thống nhất đất nước đã bị hoãn lại chỉ có hai năm, hay liệu họ đã cảm thấy việc phân vùng đó, ngay cả với những nguy cơ xảy ra một cuộc đối đầu quân sự mới, trong thực tế là giải pháp tốt nhất và duy nhất có thể có được trong bối cảnh các mục tiêu mâu thuẫn và các áp lực tại Genève? Nước Anh, cũng như Nga, qua việc phân vùng họ đã đạt được mục tiêu của mình là tái lập lại sự ổn định, tuy mong manh, trong khu vực Đông Nam Á. Trung Quốc không đạt được một vùng đệm rộng như họ đã tìm cách, nhưng có lẽ đã hài lòng với việc thành lập lãnh thổ của VNDCCH, họ có thể đã không (vào thời đó) quan tâm nghiêm túc hơn về khả năng sẽ có mối đe dọa trong tương lai từ miền Nam Việt Nam, khi mà Hiệp định đã bác bỏ một sự hiện diện quân sự mở rộng của Mỹ ở đó. Hoa Kỳ xem việc mất miền Miền Bắc Việt Nam như là một thảm họa chính trị, và ngay lập tức làm việc vể thực hiện những hiệp ước nhằm ngăn chặn sự mất mát lãnh thổ châu Á vào tay Cộng Sản, nhưng Mỹ đã chấp nhận việc phân vùng như là tất cả những gì có thể vớt vát từ một tình hình quân sự xấu. Chính sách Đông Nam Á của Mỹ sau những hậu quả của Hội nghị Genève được tập trung vào việc tổ chức các quốc gia châu Á chống lại sự xâm lăng nhiều hơn nữa của cộng sản. Hai bên Việt Nam phải đối mặt với nhau ở một khu phi quân sự. VNDCCH, điều động một cơ sở hạ tầng Việt Minh ở miền Nam, chờ đợi cuộc bầu cử, hoặc chờ cho các lực lượng chính trị tham ăn ở miền Nam đánh chìm Chính phủ Sài Gòn vào hỗn loạn trước khi cuộc bầu cử bắt đầu. Nam Việt Nam bắt đầu nỗ lực để hoàn toàn kiểm soát vùng nông thôn của mình, và không ngừng chỉ trích việc VNDCCH đã đối xử các người dân muốn di cư [về Nam] một cách phi dân chủ.
c. Những quan điểm chính thức trong Hiệp định
Trên bề mặt, tuy nhiên, các bên tham gia Hiệp định Genève, với ngoại lệ là Chính phủ Việt Nam, đã chính thức đăng ký với quan điểm cho rằng phân vùng là, như Tuyên bố cuối cùng nói, chỉ là tạm thời. Hơn nữa, và cũng ngoại trừ Chính phủ Việt Nam, tất cả các bên tham gia đều kết luận rằng phân vùng là cách thực tế duy nhất để tách các chiến binh hai bên ra, đáp ứng rộng rãi các yêu cầu quân sự và chính trị khác nhau của Pháp và Việt Minh, và ký kết một hiệp ước đình chiến.
d. Chuyện gì sẽ xảy ra đã có thể dự báo trước
Nhưng khẳng định như vậy là không ảnh hưởng đến ý nghĩa thực tế của các tài liệu Genève. Bằng cách tạo ra hai chế độ chịu trách nhiệm chính quyền dân sự" (Điều 14.a. của Hiệp định đình chiến Việt Nam), bằng cách tổ chức việc tập kết hai phe quân sự vào trong hai khu vực và cho người dân được tự do chọn vùng và bằng cách xếp đặt một cuộc bầu cử quốc gia trong hai năm, các thành viên Hội Nghị, dù họ đã dự định bất cứ điều gì, đã không giải quyết tương lai chính trị cho Việt Nam. Việc chia cắt Việt Nam ở vĩ tuyến 17 được thiết kế để tạo điều kiện thuận lợi cho các hiệp ước đình chiến, nhưng trong thực tế, nó cũng tạo điều kiện cho sự phát triển của chính phủ hai “nước” theo triết lý thù địch với nhau về chính trị, về chính sách đối ngoại, và về hệ thống kinh tế - xã hội. Như vậy, việc thống nhất đất nước thông qua bầu cử ở Việt Nam là xa vời như với Hàn Quốc hay Đức. "Bầu cử", như Victor Bater đã nhận xét…2/ " thực sự có thể quyết định vấn đề tiếp sau [bầu cử] là sự cùng tồn tại trong một số hoàn cảnh, trên cơ sở tối thiểu của những thỏa thuận chính trị “cùng tồn tại” có thể đo lường được. Nhưng chúng [thỏa hiệp cùng tồn tại] không có khả năng được chấp nhận bởi cả hai nhà nước đối lập, hay chỉ với một bộ phận của nhà nước, khi triết lý đối nghịch đã dính vào." Nếu Hiệp định Genève bị thất bại, thì kẻ phá hoại Genève chính là các thành viên Hội Nghị, những người đã mặc nhiên công nhận cách giải quyết chính trị lý tưởng là không tương thích với việc chia cắt đất nước và tâm lý của người Việt Nam mà chính họ đã tiến hành ngày 21 Tháng bảy 1954.
III. D. 3. THAM KHẢO
1. Future elections in Vietnam are mentioned. in Article 14 of the Vietnam Cease-Fire Agreements almost as a political aside
2. Bator, "One War -- Two Vietnams," Military Review, XLVII, No.6 (June, 1967), 87.
--------------------- Hết phần Bí Mật Ngũ Giác Đài III – Hiệp Định Genève -------------------------
III. D. Những ý định của Hiệp định Genève
TÓM LƯỢC
Một trong những tranh cãi chủ yếu xung quanh Hội nghị Genève là có liên quan đến ý định đình chiến và Tuyên bố cuối cùng. Trong khi đã rõ ràng rằng trên thực tế vấn đề đình chiến đã được Pháp và Việt Minh thiết kế để chấm dứt thù địch, thì mục tiêu chính trị của các bên tham chiến, và những người tham gia Hội nghị phát biểu trong bản Tuyên bố cuối cùng, là đáng nghi ngờ. Vấn đề chính trong tranh chấp là có hay không có sự chú tâm vào việc thống nhất Việt Nam, và nếu có, các hành động về sau này của Mỹ và Chính phủ Việt Nam đã cản trở ý định đó [thống nhất Việt Nam] làm họ như có lỗi trong chiến tranh hiện nay [chiến tranh giữa hai miền Quốc Gia Nam-VNDCCH].
Trung Quốc và Nga, nói chung, hài lòng với kết quả của Hội nghị Genève, thậm chí mặc dù họ đã bị buộc phải chấp nhận một giải quyết khác một cách đáng kể từ những yêu cầu ban đầu của họ. Từ khi mà những nước lớn đó chỉ quan tâm trong việc đạt được mục tiêu chính trị của họ mà không gây ra một phản ứng mạnh từ phương Tây thống nhất, là chấm dứt chiến tranh trên các điều khoản thậm chí tối thiểu thuận lợi sẽ cho phép họ có thời gian để củng cố lợi ích của mình và mở rộng vùng kiểm soát của họ sâu hơn vào khu vực Đông Nam Á với những rủi ro ít hơn. Họ nhận ra rằng VNDCCH đã không nhận được các nhượng bộ tương xứng với sức mạnh quân sự và kiểm soát chính trị, nhưng những người Cộng sản, có thể đã tính toán sai về cam kết của Mỹ trong tương lai với Nam Việt Nam, có lẽ họ đã tin rằng họ có thể chuyển chiến đấu từ chiến trường một cách an toàn vào lĩnh vực chính trị. Tuy nhiên, việc giải quyết cuối cùng đã làm tổn hại nghiêm trọng những mong đợi và các mục tiêu của VNDCCH: đường phân vùng là ở vĩ tuyến 17, chứ không phải là 13, cuộc bầu cử được dự kiến sau hai năm, mà không phải ngay lập tức, và phải được giám sát bởi một một cơ quan quốc tế chứ không phải bởi các bên tham chiến; và các phong trào Cộng sản tại Lào và Campuchia đã bị từ chối công nhận và hỗ trợ, không được quyết định bởi Hội nghị.Tuy nhiên, bất chấp những thất bại và thất vọng, VNDCCH dường như đã tính toán là sẽ thu hồi toàn bộ Việt Nam trong một diễn trình tương đối ngắn, hoặc thông qua một trưng cầu dân ý về việc thống nhất đất nước, hoặc đương nhiên khi Chính phủ Việt Nam sụp đổ vì rối loạn nội bộ. (Tab 1)
Đối với Vương quốc Anh cũng như Pháp, kết quả cuối cùng tại Genève là đạt yêu cầu chính của họ. Vụ đổ máu đã chấm dứt, sự nguy hiểm của cuộc xung đột mở rộng đã được ngăn chặn. Mỹ nghĩ thế nào về Hiệp định là điều khó khăn để hiểu được. Ngay sau khi kết thúc hội nghị, đại diện Mỹ, Phó Bộ Trưởng Ngoại Giao [Mỹ] Walter Bedell Smith, phát biểu rằng đó là kết quả tốt nhất có thể trong các trường hợp. Cả ông và Tổng thống Eisenhower tuyên bố rằng “Hoa Kỳ sẽ nghiêm túc xem xét bất kỳ xâm lược mới nào vi phạm thỏa thuận [Genève] là những đe dọa nghiêm trọng cho hòa bình và an ninh của Thế Giới." Tổng thống Kennedy trong tháng 12 năm 1961 sử dụng trích dẫn của nội dung bài viết này như là biện minh cho việc hỗ trợ cho miền Nam Việt Nam. Nhưng mục đích của những tuyên bố của Mỹ vẫn còn mơ hồ. Có thể lập luận rằng mục đích của Mỹ không phải là cam kết lâu dài của họ, nhưng nỗ lực để ngăn chặn VNDCCH khỏi tấn công Chính phủ Việt Nam trong thời gian hai năm trước khi đến cuộc bầu cử. Theo lập luận này, chính quyền Eisenhower đã chấp nhận bất kỳ kết quả nào nếu đảm bảo rằng cuộc bỏ phiếu được tự do. Một phản biện khác cho rằng Smith đã ném xuống chiếc găng tay để thách đấu với Cộng Sản. Một hành động của NSC ngay sau Hội nghị đã coi Hiệp định một "thảm họa lớn cho lợi ích của Mỹ" và kêu gọi hành động chính trị để cứu vãn khỏi bị thiệt hại hơn nữa. Nói cách khác, trong khi các chi tiết cụ thể của Hiệp định là phù hợp vị trí đàm phán với Mỹ, Mỹ đánh giá tổng thể của Hội nghị về việc sắp xếp lại lãnh thổ đã mang lại cho những người Cộng sản. Dưới cái nhìn này, tuyên bố của Smith đã đánh dấu điểm xuất phát cho những nỗ lực phối hợp để đưa ra một hệ thống an ninh tập thể cho Việt Nam và tất cả các nước Đông Nam Á. Những nỗ lực đó đã lên đến đỉnh điểm trong Hiệp ước Manila tháng Chín, năm 1954 (SEATO), và chương trình viện trợ cho Ngô Đình Diệm. (Tab 2)
Có nhiều giải thích khác nhau về tinh thần của Hiệp định tùy theo lợi ích của các thành phần tham dự ở Genève. Tuy nhiên, rất khó để tin rằng bất kỳ ai trong những người tham gia đã kỳ vọng rằng Hiệp định Genève sẽ đưa đến một nước Việt Nam độc lập và thống nhất. Các quốc gia Cộng sản Liên Xô, Cộng sản Trung Quốc, và VNDCCH dường như đã giả định rằng sự phát triển của một chế độ ổn định ở miền Nam là rất khó xảy ra, và rằng VNDCCH cuối cùng cũng sẽ giành quyền kiểm soát của cả nước. Trong bất kỳ trường hợp nào, họ đều gióng lên những bằng chứng là Chính phủ Việt Nam không thể kéo dài được hai năm trước khi có cuộc bầu cử. Cũng có thể rõ ràng, kế tiếp, là thái độ hòa giải của các quốc gia Cộng sản tại hội nghị có thể giải thích được rằng họ đã tự cho rằng các điều khoản cụ thể mà họ chịu thỏa thuận là ít quan trọng hơn là hòa hoãn [Tự Do, Cộng Sản] – họ sẽ thành công thừa kế trong tương lai, tuy chậm, nhưng không thể tránh khỏi. Mặt khác phản ứng và kỳ vọng của phương Tây, không có nghi ngờ gì, là khá khác nhau. Trong khi Pháp chỉ quan tâm đến việc giải thoát mình ra khỏi một thất bại quân sự, họ cũng không ít quan tâm trong việc duy trì vị trí văn hóa và kinh tế của họ tại Việt Nam. Ngay cả Vương quốc Anh đã đưa ra tất cả các dấu hiệu cho thấy họ muốn ngăn chặn Cộng sản chiếm đóng toàn bộ [VN]. Do đó, những cường quốc này, như Mỹ, đều muốn chấm dứt chiến tranh, nhưng không phải với sự hy sinh toàn bộ Việt Nam vào tay Cộng Sản. Như vậy, tinh thần của Hiệp định có thể ít đáng kể hơn so với lời lẽ ghi trong Hiệp định. Nói cách khác, bằng cách chia đất nước tại vĩ tuyến 17, với mỗi khu vực theo một "chính quyền dân sự” riêng biệt, bằng cách tập kết các lực lượng và phong trào của miền Bắc và miền Nam, và bằng cách trì hoãn cuộc bầu cử trong hai năm, các bên tham dự đã gây nguy hiểm cho Hiệp Định Geneve, nếu không nói là loại bỏ, công cuộc thống nhất đất nước Việt Nam. Dù các bên có ý đồ gì, hiệu quả thực tế của các điều kiện cụ thể ghi trong Hiệp định là một quốc gia bị vĩnh viễn chia đôi. (Tab 3)
THẢO LUẬN
III. D. Tab l – Thành quả cho phe Cộng sản
Tab 2 - Thành quả cho phương Tây
Tab 3 – Tinh thần và hậu quả trên thực tế của Genève
III.D. 1 THÀNH QUẢ CHO PHE CỘNG SẢN
Mục Lục và Nội Dung
|
|
|
1 | Các cường quốc Cộng sản chính đạt được mục tiêu của họ |
|
| a. Cộng sản xem việc tiếp quản toàn bộ [VN] là không thể tránh khỏi b. Trung Quốc không chống việc phân vùng vĩnh viễn c. Trung Quốc dự kiến tạo ra một vùng đệm (thường trực) d. Kinh tế nội địa của Trung Quốc được bảo vệ e. Ngăn ngừa được mối đe dọa Mỹ sẽ can thiệp mạnh mẽ f. Triển vọng có được một sự ổn định trong ngắn hạn làm Nga hài lòng g. Nga dự kiến sẽ ảnh hưởng được quan điểm của Pháp về EDC
|
|
2 | Các cường quốc Cộng sản chính thấy một số thất bại của họ |
|
| a. Không đạt được việc hợp nhất toàn bộ Đông Dương Cộng sản b. Không ngăn được ảnh hưởng của Mỹ ở Đông Dương |
|
3 | VNDCCH đánh giá những thắng lợi và mất mát của mình |
|
| a. Đạt được nhiều thành quả nhưng phải trả giá b. VNDCCH được bảo đảm củng cố về lãnh thổ c. Kế hoạch bầu cử của VNDCCH nhắm đến cuối cùng là việc chiếm lĩnh toàn bộ Việt Nam |
|
4 | VNDCCH hài lòng về kết quả của Hội Nghị Genève |
|
III.D. 1 THÀNH QUẢ CHO PHE CỘNG SẢN
- Các cường quốc Cộng sản chính đạt được mục tiêu của họ
Qua đánh giá từ các bài bình luận công khai của lãnh đạo các phái đoàn cộng sản - Molotov và Chu – [đã cho thấy] Trung Quốc và Liên Xô hài lòng với kết quả tại Genève. Giải pháp chung cuộc dường như là đã đáp ứng hầu hết các mục tiêu riêng của họ, không chỉ đơn giản là về quyền lợi nhỏ của họ ở Đông Dương, mà còn rộng hơn nhìn về lợi ích toàn cầu của họ. Việt Minh, tuy nhiên, chấp nhận, một giải pháp mà nó xem ra khác rất đáng kể không những so với yêu cầu ban đầu của họ và sánh với mức kiểm soát bằng quân sự trên thực tế của họ tại Việt Nam, nhưng khác ngay cả với vị trí thỏa hiệp của họ. Tuy nhiên, ngay cả Việt Minh đã tỏ ra hài lòng với kết quả của Genève. Lý do là - niềm tin rằng thời gian sẽ đứng về phía họ.
-
- Cộng sản xem việc tiếp quản toàn bộ [VN] là không thể tránh khỏi
Trong phiên họp khoáng đại cuối cùng vào ngày 21 tháng 7, các đại biểu Liên Xô, Trung Quốc và VNDCCH đều đồng ý, Hiệp định, nếu được thực hiện, chiến sự sẽ kết thúc, và VNDCCH được chính thứa có một vùng lãnh thổ cơ sở ở miền Bắc. Phạm vi hoạt động sau đó là xếp đặt cho cuộc tổng tuyển cử tại Việt Nam và đưa đến việc tiếp quản mà cộng sản mong muốn. Tình hình chính trị ở Nam Việt Nam là bấp bênh. Ngoài ra, còn nhiều đơn vị vũ trang của các giáo phái và của các nhóm khác thù địch với chính quyền trung ương của Bảo Đại, người liên tục dựa trên Pháp. Những người cộng sản chắc chắn có lý do chính đáng đi đánh giá rằng miền Nam Việt Nam không thể trở nên đủ vững trong thời hạn hai năm, trước khi có cuộc tổng tuyển cử là điều đã được quy định trong bản Tuyên bố cuối cùng, đặt ra như là một giải pháp thay thế khả thi cho VNDCCH. Những người cộng sản đã có lý do tốt để tin rằng một chế độ ổn định trong khu vực phía Nam sẽ không bao giờ được hình thành, vì vậy việc VNDCCH sẽ nắm quyền kiểm soát trên cả nước là gần như mặc định.
-
- Trung Quốc không chống việc phân vùng vĩnh viễn
Điều thú vị, tuy nhiên, Trung Quốc chấp nhận quan điểm cho rằng Hiệp định Genève đã, ít nhất là tạm thời - và, có lẽ sẽ là vĩnh viễn, tạo ra hai thực thể chính trị riêng biệt. Vào đầu tháng Sáu, Chu nói với Jean Chauvel rằng Trung Quốc công nhận sự tồn tại cả của Việt Minh và chính phủ Việt Nam. Trong lần nói chuyện về một giải pháp chính trị cuối cùng, Chu Ân Lai lại một lần nữa tuyên bố rằng phải cần đạt được điều này qua các cuộc đàm phán trực tiếp giữa hai chính phủ của Việt Nam. 1/ Cho đến nay, như Trung Cộng đã quan tâm, việc phân vùng không phải chỉ đơn giản là một sự phân chia vùng trách nhiệm hành chính - nó dính líu đến điều khoản của hiệp ước đình chiến tại Việt Nam (Điều 14a) đưa ra việc thành lập các "chính quyền dân sự" của "các bên" được tập kết trong hai khu vực, nhưng đó là việc thành lập các cơ quan chính phủ ở miền Bắc và miền Nam Việt Nam. Điều vẫn còn chưa rõ ràng, tất nhiên, là [phân vùng] thường trực sẽ như thế nào mà Chu đã riêng tư sắp xếp [với ai] đó.
-
- Trung Quốc dự kiến tạo ra một vùng đệm (thường trực)
Ngoài Việt Nam ra, Trung Quốc dường như tin rằng thỏa thuận cuối cùng sẽ ngăn cản được việc ba nước Đông Dương tham gia vào hệ thống an ninh của Mỹ. Khi Chu truyền đạt đến Eden mối quan tâm của mình về sự tham gia của Lào, Việt Nam và Campuchia trong tổ chức Hiệp ước khu vực Đông Nam Á, Bộ trưởng Ngoại giao [Eden] nói rằng theo ông biết, không có đề nghị nào cho những quốc gia [đó] tham gia. 2/ Ngày hôm sau, Eden nói với Molotov rằng một hiệp ước an ninh trong khu vực Đông Nam Á là không thể tránh khỏi và hoàn toàn phù hợp với chính sách của Anh, nhưng ông nói thêm rằng không có đánh giá nào được đưa ra mà bao gồm cả Cam-pu-chia và Lào (một bình luận mà Smith coi như là một "sai lầm ", vì Mỹ hy vọng sẽ sử dụng ý tưởng bao gồm họ [Campuchia, Lào] như là một đe dọa hầu đạt được một giải quyết tốt hơn [hiệp định Genève]). 3/ Khi hội nghị bế mạc, Trung Quốc cảm thấy đủ yên tâm về vấn đề này; ngày 23 tháng 7, một nhà báo Trung Quốc tâm sự: "Chúng tôi đã giành được chiến dịch đầu tiên là làm cho tất cả các khu vực Đông Nam Á trung lập." 4/
-
- Kinh tế nội địa của Trung Quốc được bảo vệ
Trung Quốc, vào thời điểm này, đã lo lắng rất nhiều với các vấn đề nội bộ của mình, và lo lắng để củng cố ở nhà trước khi tiến xa hơn vào châu Á. Chiến tranh Triều Tiên đã làm trầm trọng thêm những bức xúc về vấn đề kinh tế và chính trị bên trong Trung Quốc, Bắc Kinh đã có những nỗ lực để thúc đẩy tái thiết kinh tế vượt ra ngoài khả năng giới hạn của Trung Quốc. Họ đã hài lòng rằng tình hình Đông Dương sau Genève đã cho phép, ít nhất là tạm thời, đảm bảo rằng mọi nỗ lực lớn của họ có thể được chuyển vào trong nước mà không sợ những xáo trộn dọc theo biên giới phía Tây Nam của Trung Quốc.
-
- Ngăn ngừa được mối đe dọa Mỹ sẽ can thiệp mạnh mẽ
Liên Xô và Trung Quốc đã thận trọng theo dõi các nỗ lực lẻ tẻ của Mỹ, đầu tiên, để giữ cho vấn đề Đông Dương ở Genève, và thứ hai, để ngăn chận các quốc gia phương Tây tham gia vào hành động thống nhất nhằm ngăn chặn toàn bộ Đông Dương lọt vào tay Cộng Sản. Có một yếu tố không thể tiên đoán được liên quan đến hành động của Mỹ ở Đông Nam Á, là Hoa Kỳ và Vương quốc Anh đã cố tình nuôi dưỡng đến một mức độ lớn (với những bước đi có tính toán như các cuộc đàm phán quân sự song phương tại Washington), nhưng cũng được nhấn mạnh bởi số lượng quá mức và đa dạng của những tuyên bố công khai về Đông Dương đã được Washington đưa ra, chính thức và bán chính thức, trong tháng Sáu và tháng Bảy, trong khi Hội nghị Genève đang diễn ra. Bắc Kinh và Moscow, sau đó, đã có một số lý do để tin rằng họ đã đi bước trước bằng ngoại giao trong việc ngăn chận can thiệp quân sự của Mỹ.
-
- Triển vọng có được một sự ổn định trong ngắn hạn làm Nga hài lòng
Chính phủ Liên Xô đã không quan tâm đến việc thúc đẩy các mục tiêu của Trung Quốc ở Đông Nam Á. Họ cũng không muốn thấy sự gia tăng ảnh hưởng của Mỹ trong khu vực này. Vì những lý do này, lợi ích lớn mà Liên Sô quan tâm là tập trung trong việc Pháp phải rút ra khỏi Đông Dương - nhưng tính toán sao để ngăn cản bất cứ sự lớn mạnh nào của Mỹ hoặc Trung Quốc nhảy vào thay thế cho Pháp. Đo đó, việc tạo ra một nhà nước trung lập tại Việt Nam (hoặc thậm chí tạo ra hai nữa nước đối lập với nhau) là một đáp ứng ngay tức khắc những yêu cầu của Liên Xô, trong những cách tốt nhất có thể trong những tình huống như thế - và nó là giải pháp trong ngắn hạn của Liên Xô, cũng như các đoàn đại biểu khác, đang tìm kiếm tại Genève. Tương lai sẽ tự thân nó giải quyết vấn đề.
-
- Nga dự kiến sẽ ảnh hưởng được quan điểm của Pháp về EDC
Cho dù không phải là mối quan hệ nhân quả có thể được chứng minh với độ chính xác bất kỳ, thực tế là người Pháp đã không phê chuẩn các hiệp định Cộng Đồng Phùng Thủ Âu Châu (EDC: European Defense Community) đã được đưa ra biểu quyết trước Quốc Hội Pháp một tháng sau khi Hội Nghị Genève kết thúc. Phản ứng tại Liên Xô được mô tả là "tưng bừng", ca ngợi việc Pháp từ chối [EDC] là "một sự kiện quan trọng trong lịch sử chính trị của châu Âu." 5/ Sự kiện này, tiếp theo ngay sau khi Hội Nghị Genève chấm dứt, được Liên Xô nhìn, ít nhất là một phần, đã bị ảnh hưởng bởi chiến lược cộng sản đưa Pháp ra khỏi bị dính cạm bẩy ở Genève.
- Các cường quốc Cộng sản chính thấy một số thất bại của họ
-
- Không đạt được việc hợp nhất toàn bộ Đông Dương Cộng sản
Ít nhất là trong tương lai gần nhất, việc cộng sản củng cố ở toàn Đông Dương là không cần đặt lại vấn đề. Bất kể như thế nào, việc không thể tránh khỏi cộng sản bành trướng trong vùng, các chuyển biến đã tạm thời ngăn chặn họ ở vĩ tuyến 17. Thực vậy, phe cộng sản không được chuẩn bị để chấp nhận những rủi ro để theo đuổi ưu thế thực sự của mình, nếu không phải trên chiến trường, thì đó là vấn đề tâm lý. Khẳng định của phe cộng sản tại Genève rằng Việt Minh kiểm soát 3/4 diện tích của Việt Nam là gần với sự thật. Quyết định từ bỏ việc vùng kiểm soát địa phương trên khắp Việt Nam phải được xem là một mất mát.
-
- Không ngăn được ảnh hưởng của Mỹ ở Đông Dương
Một mục tiêu chính về chính trị và quân sự của Trung Quốc là ngăn ngừa việc thiết lập các căn cứ Mỹ ở Đông Nam Á. Mục tiêu này, song song với mục tiêu của Liên Xô là ngăn chặn ảnh hưởng của Mỹ ở châu Âu, là một phần quan trọng của chiến lược tổng thể của Trung Quốc tại Genève. Tuy nhiên, nếu Chính phủ Trung Quốc xem các quy định Genève như một bước đầu tiên hướng tới việc trung lập khu vực Đông Nam Á, thì tính toán này đã nhanh chóng bị thất bại. Chính phủ Lào và Cam-pu-chia trong tuyên bố ngày 21 tháng 7, đã dành chỗ cho việc ký kết liên minh và đóng quân của lực lượng nước ngoài trên lãnh thổ của họ. Để giảm bớt sự phản đối kịch liệt của cộng sản, cả hai nước tuyên bố sẽ không liên minh trong bất cứ cách nào mà nó "không phù hợp với các nguyên tắc của Hiến chương Liên Hiệp Quốc", cũng không cho phép căn cứ nước ngoài nào đặt trên đất nước của họ khi an ninh của họ không bị đe dọa. 6/ Tuy nhiên, các đại biểu của họ đã phát biểu, ngay cả trước khi Hội nghị bắt đầu, rằng việc bảo vệ đất nước của họ chống lại xâm lược là điều mong muốn. Hai khu vực của Việt Nam, ngược lại, đã rõ ràng bị cấm không cho phép thành lập các căn cứ quân sự nước ngoài và cấm gia nhập các liên minh quân sự (Điều 19 của thỏa thuận đình chiến). Người Trung Quốc, bởi vì họ không thể có được một sự đảm bảo của Hiệp định, không thể ngăn chặn việc Mỹ sau đó đưa Cam-pu-chia và Lào trong vòng chu vi an ninh của SEATO thông qua Nghị định thư, một phương cách được Bộ trưởng Smith đề cập đến tại Genève. 7/ Sau đó, Mỹ đã tỏa ô dù an ninh này lên cả Miền Nam Việt Nam.
- VNDCCH đánh giá những thắng lợi và mất mát của mình
-
- Đạt được nhiều thành quả nhưng phải trả giá
Trong điều kiện thuận lợi, hiệp định quân sự đã ký ngày 21 tháng 7 bởi Tạ Quang Bửu, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng của VNDCCH, và Chuẩn Tướng Delteil, Tư lệnh Lực lượng Liên hiệp Pháp ở Đông Dương, nhường toàn quyền kiểm soát cho VNDCCH trên tất cả các lãnh thổ phía Bắc Việt Nam cho đến đường chia cắt thiết lập ở khoảng vĩ tuyến 17. Pháp nỗ lực để dành lại các vùng đất các giáo phận Công Giáo và chung quanh Hải Phòng nhưng đã bị từ chối, và tất cả các lực lượng Pháp phải rút đi qua ngõ Hải Phòng trong vòng 300 ngày. Hơn nữa, Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị xác định đường ranh giới là tạm thời và theo quy định tại Điều 7, một cuộc Tổng tuyển cử sẽ được tổ chức vào tháng Bảy, 1956. Do đó, VNDCCH mong đợi một chiến thắng pháp lý có thể qua các hòm phiếu trong vòng hai năm.
Tuy nhiên, thất vọng của Việt Minh cũng rất nặng nề. Cụ thể là Đoàn kết dân tộc đã bị tổn hại bởi việc tạo ra hai vùng chia cắt bởi một khu vực phi quân sự ở vĩ tuyến 17, chứ không phải là vĩ tuyến 13 hay 14. Giải pháp chính trị nhanh chóng trong vòng sáu tháng cũng bị bàn cải bỏ đi, cuộc bầu cử không được tổ chức trong vòng hai năm, và thậm chí phải được quốc tế, chứ không phải người Việt, giám sát. Cuối cùng, Việt Minh đã bị buộc phải nhượng bộ hoàn toàn đòi hỏi của mình là ủng hộ các lực lượng Pathet Lào và Khmer Tự Do. Tại Lào và Campuchia, cũng như tại Việt Nam, ủy ban kiểm soát quốc tế chứ không phải là do người bản xứ đã được thừa nhận. Cái gọi là lực lượng kháng chiến hoặc sẽ phải bị rút đi (tại Lào, sau khi được tập kết tạm thời) hoặc xuất ngũ (Campuchia) ngay tại chỗ. Việt Minh chỉ có thể cứu vãn bằng những lời hứa với các chính phủ Lào và Cam-pu-chia - trong tuyên bố riêng của họ ngày 21 Tháng Bảy rằng "công dân" của hai nước sẽ có thể tham gia với tư cách là ứng cử viên hoặc cử tri trong các cuộc bầu cử được tổ chức trong năm 1955. Việt Minh đã chấp nhận những kết quả này mặc dù chúng cũng đã vượt ra ngoài vị trí thỏa hiệp mà họ đã đưa ra trong suốt các cuộc đàm phán.
-
- VNDCCH được bảo đảm củng cố về lãnh thổ
Việt Minh không hề muốn trả lại những vùng đất đáng kể ngoài khu vực đồng bằng Bắc Bộ mà họ đang kiểm soát trên thực tế. Trong tháng Sáu và tháng Bảy, theo bản đồ của CIA, lực lượng Việt Minh nắm giữ phần lớn của Trung Kỳ (ngoại trừ các thành phố cảng) và nhiều vùng đáng kể khác ở đồng bằng sông Cửu Long. Do đó, đòi hỏi tất nhiên của họ gồm tất cả lãnh thổ nằm phía bắc mà đường chia cắt theo hướng Tây Bắc từ vĩ tuyến 13 đến vĩ tuyến 14 (từ bờ biển Tuy Hòa đến biên giới Campuchia tại Pleiku). 8/ Đòi hỏi đó dựa trên thế quân sự trên trực tế của họ là nhiều hơn đề xuất của Pháp là lập đương phân chia ở vĩ tuyến 18. Tuy nhiên, người Pháp không bao giờ đồng ý để cho cộng sản kiểm soát vùng biên giới với cả Campuchia và Lào. Tuy nhiên quyết định cuối cùng về đường chia cắt Đất Nước là ở vĩ tuyến 17 là thành công trong mức độ là đã trao cho VNDCCH các quyền chính trị tuyệt đối, không bị thách thức để kiểm soát một nữa nước Việt Nam – một tình thế mà sau đó Việt Minh đã bắt đầu xem là bước đầu tiên rất quan trọng trong một chuỗi hoạt động chính trị để đạt được những mục tiêu tương xứng với sức mạnh quân sự của họ: một cuộc chinh phục nhanh chóng (“giải phóng") phần còn lại của đất nước
-
- Kế hoạch bầu cử của VNDCCH nhắm đến cuối cùng là việc chiếm lĩnh toàn bộ Việt Nam
Tuy vẫn giữ mong muốn được mau chóng giải quyết chính trị cho “toàn cõi Việt Nam", Việt Minh, trong khi đồng ý để phân vùng, họ chỉ muốn việc phân vùng là tạm thời và tổng tuyển cử phải được mau chóng nối tiếp. Vì vậy, đại biểu Việt Minh đã tranh cải, lập luận rằng việc tổ chức tổng tuyển cử phải được tiến hành trong vòng sáu tháng sau khi lệnh đình chiến được ký kết. Ngược lại, Pháp phản bác rằng tổng tuyển cử sẽ được tổ chức 18 tháng sau khi đã hoàn thành quá trình tập kết, hay giữa tháng thứ 22 và 23 sau khi đình chiến. 9/ Thỏa thuận, với thúc hối của Liên Xô và Trung Quốc, đã được hoàn tất với những gì quan trọng nhất mà các cuộc đàm phán về cuộc tổng tuyển: ấn định thời điểm và bảo đảm cho tổng tuyển cử được tiến hành. Trong một ý nghĩa rất thực, mặc dù, khoảng thời gian hai năm đó đối với Chính phủ Việt Nam là vô giá, và chiến lược phe cộng sản về vấn đề này dường như đã phản tác dụng.
- VNDCCH hài lòng về kết quả của Hội Nghị Genève
Việt Minh rõ ràng đã tin rằng - và không có một chức quyền Pháp nào tại chỗ mà nghi ngờ điều này - rằng họ có khả năng loại bỏ người Pháp ra khỏi Bắc Bộ với một cuộc tổng tiến công và sẽ tiến tới đạt nhiều thắng lợi hơn nữa ở miền Nam chống lại một quân đội Pháp-Việt suy yếu và mất tinh thần. Chiến thuật vừa đánh vừa đàm đã được Việt Minh đưa ra áp dụng là một chiến thuật có khả năng được theo đuổi trong hai năm (như Trung Quốc tại Hàn Quốc) để đảm bảo việc kiểm soát lãnh thổ lớn hơn. Liệu cuối cùng Việt Minh có dự kiến chinh phục toàn bộ Việt Nam trước khi đạt được thoả thuận với người Pháp là điều không biết được, nhưng, cũng như người Pháp, Việt Minh có thể xem quyền kiểm soát tối đa về lãnh thổ và dân số như là những bảo đảm cho họ đối với cuộc bầu cử trong tương lai. Các phóng viên bao sân Hợi Nghị Genève đã trích dẫn các nhận xét cay đắng của phái đoàn VNDCCH sau phiên họp cuối cùng, khi thỏa thuận đã được công bố cho công chúng. Tuy nhiên, có lý do để tin rằng, trong thực tế, Việt Minh đã "hài lòng với kết quả đạt được tại Genève.” Sự hài lòng này xuất phát một phần từ một vài tính toán sai lầm của VNDCCH, khi họ đã đánh giá thấp các cam kết trong tương lai của Mỹ đối với Việt Nam và họ cũng đánh giá thấp khả năng sống sót của Diệm và Chính phủ của ông. Dường như VNDCCH cũng đã cảm thấy những thiệt hại của họ tại Genève, cơ bản là sự chậm trễ đó sẽ xếp đặt lại lịch trình thời gian ở Đông Dương, nhưng giá phải trả bằng thời gian tính ra cũng đáng so với việc khẳng định vùng lãnh thổ mà họ kiểm soát và nga)n ngừa được các hành động thống nhất của phương Tây tại Việt Nam. Không giống như những tuyên bố của Chính phủ Việt Nam và Hoa Kỳ trong khi và sau khi Hội Nghị Genève kết thúc, đại diện Việt Minh đã công khai ủng hộ không hạn chế các thỏa thuận quân sự và Tuyên bố cuối cùng.
III. D. 1. THAM KHẢO
1. Dillon priority tel. No. 5035 from Paris, June 24, 1954 (TOP SECRET).
2. Smith tel. SECTO 636 from Genève, July 17, 1954 (SECRET).
3. Smith NIACT tel. SECTO 639 from Genève, July 18, 1954 (SECRET).
4. CIA Memorandum RSS 0017/66, p. 46 (SECRET/NoFornDis/Controlled Dis).
5. Mackintosh, pp. 84-85.
6. The declarations may be found. in Great Britain, Foreign Office, Documents Relatin to British Involvement in the Indo-China Conflict 19 5-1965, Misc. No. 25, Cmnd.• 283 London: H.M.S.O., 1965, pp. 76 (Cambodia) and 79 (Laos).
7. Trong một cuộc nói chuyện với Bộ trưởng Ngoại giao Campuchia Sam Sary, Philip Bonsal đề nghị rằng sẽ không thể đảm bảo an ninh cho Cam-pu-chia bởi một cơ chế Hội nghị mà cộng sản có quyền phủ quyết. Bonsal cho biết, tuy nhiên, một khi lệnh ngưng bắn đã được ký kết, một trong những điều đó không ngăn cản Campuchia hợp tác với các quốc gia không cộng sản trong các vấn đề quốc phòng ", ông tự tin rằng Hoa Kỳ và các nước khác quan tâm đến việc thảo luận với Chính phủ Campuchia" về vấn đề an ninh. (Điện thoại ưu tiên SECTO Johnson 627. từ Genève, July 16, 1954, bí mật.) Một vài ngày sau đó, khi Sam Sary cùng Nông Kimny (Đại sứ tại Mỹ) cùng đi gặp Smith, ông Thứ trưởng đề nghị Phnom Penh nên nêu rõ, tại Hội nghị, ý định không cho phép có căn cứ nước ngoài trên lãnh thổ của mình và không tham gia vào liên minh quân sự nào. Đồng thời, mặc dù, Campuchia sẽ được tự do nhập khẩu vũ khí và sử dụng giảng viên và kỹ thuật quân sự Pháp. Trong khi Cam-pu-chia có lẽ sẽ không được tự do tham gia SEATO đang dự tính, họ vẫn có thể hưởng lợi từ nó. Smith "đảm bảo với Bộ trưởng Ngoại giao Campuchia, theo quan điểm của chúng tôi, bất kỳ sự xâm lăng nào công khai hoặc bí mật chống lại lãnh thổ Campuchia sẽ đưa hiệp hội [SEATO] vào hoạt động mặc dù Campuchia không phải là thành viên. Tôi ủng hộ việc các thành viên Liên Hiệp Pháp sẽ cung cấp đầy đủ các phương tiện cho Campuchia để đảm bảo họ nhận được vũ khí của Pháp, một số đó sẽ là của Mỹ, cũng như các huấn luyện viên và chuyên viên kỹ thuật cần thiết, một số trong đó cũng có thể là người Mỹ được đào tạo.” Nông Kimny “tự hạn chế mình” để tuyên bố rằng Campuchea sẽ dựa rất nhiều vào Mỹ để bảo vệ mình chống lại sự xâm lược và Campuchia mong muốn xuất hiện từ hội nghị hiện nay được tự do tối đa để hành động nghĩa là các biện pháp mà Cam-pu-chia có thể làm để bảo đảm quốc phòng của mình. " Điện thoại. Giây TO 650 từ Genève, 18 tháng 7 1954 (MẬT).
8. See Chauvel's report in Johnson's priority tel. SECTO 553 from Genève, July 2, 1954 (TOP SECRET). Also: Lacouture and, Devillers, p. 238.
9. Dillon from Paris tel. No. 32, July 2, 1954 (TOP SECRET).