-–Nguyễn Quốc Vĩ dịch: Tải về Phần IV- A3 (4)-
4. Chương trình hành động tháng 10 của NSC và thư của Eisenhower gửi Diệm
Thư của Tổng Thống Eisenhower gửi Diệm ngày 24 tháng 10 (được soạn thảo vào tháng Tám và đã cho Pháp xem tại thời điểm đó; được tạm giữ lại cho đến khi tình hình chính trị ở miền Nam Việt Nam được giải quyết phần nào; cuối cùng đã được phê duyệt để gửi đi [cho Diệm] trong cuộc họp tháng mười của NSC-22) đã được Bộ trưởng La Chambre gọi đó là một hành vi vi phạm trực tiếp vào nguyên tắc hợp tác hành động đã thỏa thuận trong tháng Chín. 66/ Đại sứ Pháp Bomlet nói với Ngoại trưởng Dulles rằng "họ cảm thấy (thư gửi) đã cho Diệm toàn quyền hành động mà không cần một điều kiện tiên quyết nào chứng mình rằng Diệm đã thành công trước tiên trong việc hình thành một chính phủ mạnh và ổn định, mặc dù điều kiện tiên quyết này đã là một phần của cơ sở thoả thuận ở Washington". Bonnet thêm rằng bức thư có thể là một hành vi vi phạm các hiệp ước đình chiến và Việt Minh có thể tận dụng lợi thế đó. 67/ Sau đó, khi Đại sứ Dillon đề nghị với Quai d'Orsay [trụ sở Bộ Ngoại Giao Pháp] rằng việc Pháp không ủng hộ Diệm không phải là tất cả những gì cần phải có, La Chambre đã nổi khùng. Không chỉ là một cáo buộc sai lầm, đó còn là một gièm pha trực tiếp đến Tướng Ely, chính phủ ở Paris và vinh quang của Pháp. La Chambre nói cá nhân ông đã bị thuyết phục là Diệm sẽ dẫn miền Nam Việt Nam đến tàn phá nhưng vẫn sẽ ủng hộ Diệm:
Chúng tôi muốn để Việt Nam đi với Hoa Kỳ hơn là giành một chiến thắng mà không có họ... chúng tôi muốn hỗ trợ Diệm dù biết ông ta sẽ thất bại và nhưng giữ Pháp-Hoa Kỳ đoàn kết hơn để chọn một người nào đó, người có thể giữ được Việt Nam cho thế giới Tự Do nếu điều này [Pháp không cùng Hoa Kỳ ủng hộ Điệm] đưa đến việc phá vỡ sự đoàn kết Pháp-Hoa Kỳ. 68/
Đáp lại, Ngoại trưởng Dulles chính thức nói với Mendes-France rằng cả hai việc: lá thư của TT Eisenhower và hành động mạnh mẽ hơn của Hoa Kỳ là "thể hiện những hiểu biết đã đạt được tại Washington." Hoa Kỳ đã không có một "ý tưởng nhỏ nào để đặt lại niềm tin với chính phủ Pháp", nhưng "nhiều quan chức Pháp đã không che giấu niềm tin của họ là Diệm đã thất bại... và... nên được thay thế." Thái độ này đã tạo ra một "bế tắc ở Sài Gòn" nơi đang cần phải một hành động cứng rắn. 69/ La Chambre nhận lời lẽ này với "ít bình luận" gì khác hơn là đề nghị bổ nhiệm Nguyễn Văn Tâm (cha của Tướng Hinh, Thủ Tướng trong giai đoạn 1952-1953 và là một lãnh đạo chuyên đàn áp mạnh mẽ) làm Bộ Trưởng Nội Vụ. La Chambre gọi đây là "con đường để ra khỏi [tình hình] lộn xộn [hiện nay]... () Đây là một người biết làm thế nào để chống lại Cộng Sản." 70/ Như trong quá khứ, Hoa Kỳ đã bác bỏ đề xuất.
5. Hành động: Phái Bộ Collins
Chương trình hành động ban đầu của Hoa Kỳ dựa trên ba giả định: Diệm có thể được thuyết phục để chấp nhận đề nghị chấp nhận của Hoa Kỳ, Hinh [sẳn sàng] tuân phục chính phủ, [từ đó] người Pháp ở tất cả các cấp sẽ hợp tác. Không có gì chứng minh ngay lập tức là [giả định này] có hiệu lực. Vì vậy, Hoa Kỳ đã thông qua một chiến thuật khác. Tướng J. Lawton Collins, đại diện Hoa Kỳ trong Ủy Ban Quân sự của NATO, đã được cử đến Việt Nam vào ngày 08 Tháng Mười Một với chức vụ Đại sứ (Heath trở về với Bộ Ngoại giao). Như Tổng thống Eisenhower đã mô tả, nhiệm vụ của Collins là:
phối hợp và chỉ đạo một chương trình hỗ trợ chính phủ (Diệm) để cho phép nó: (a) thúc đẩy an ninh nội bộ và đạt ổn định chính trị và kinh tế; (b) thiết lập và duy trì quyền kiểm soát trên toàn lãnh thổ; và (c) hiệu quả chống lại Việt Minh xâm nhập và các hoạt động bán quân sự phía Nam của đường phân giới [vĩ tuyến 17]. 71/
Sau phản đối ban đầu về nhiệm vụ của Collins (được [Pháp] xem như là một bước đầu báo hiệu cho việc Hoa Kỳ hoàn tất nghiệm thu Đông Dương), Tướng Ely đã thành lập một quan hệ làm việc gần gũi “với Collins. Một chương trình 7 điểm về những hành động chính trị, quân sự và kinh tế " đã được nhanh chóng thiết kế. Ngày 13 tháng 12, Ely và Collins đã ký một Biên Bản Thông Hiểu đồng ý rằng nước Pháp sẽ trao quyền tự chủ toàn diện cho quân đội Việt Nam ngày 01 tháng Bảy năm 1955 và Hoa Kỳ sẽ đảm nhận nhiệm vụ huấn luyện vào tháng Giêng. Họ đồng ý quân Viễn Chinh Pháp phải ở lại Việt Nam và mức độ hỗ trợ tài chính đề nghị của Collins ($ 100 triệu thông qua tháng mười hai năm 1955, sau đó hỗ trợ sẽ không được dự tính) đã được thông qua bởi Cục Quản Lý Hoạt Động Nước Ngoài và sau đó công bố cho Paris biết. Viện trợ sẽ tùy thuộc việc tham khảo ý kiến với Quốc hội và tùy thuộc vào việc "Ely và Collins và chính phủ hai bên đồng ý về những gì có thể được thực hiện ở Đông Dương." 72/
6. Pháp phản đối Hiệp định Collins-Ely
Paris không hài lòng về con số viện trợ - [đó chỉ là] 1/3 những gì Pháp đã yêu cầu. Do đó, việc thu hồi lực lượng Pháp được đẩy nhanh: trong 150.000 quân dự kiến sẽ ở lại Việt Nam thông qua năm 1955, tất cả rút đi chỉ giữ lại 35.000. Lý do tiền tệ được cho là tối quan trọng nhưng áp lực chính trị và tâm lý về việc rút quân có lẽ là quan trọng hơn. Có ý muốn mạnh mẽ ở Pháp là gửi quân Viễn Chinh Pháp đến Bắc Phi, nơi nó có thể phục vụ lợi ích của Pháp và Liên Hiệp Pháp. Ở Việt Nam, quân Pháp phục vụ thế giới Tự Do [trong nghĩa chống Cộng], nhưng bị người Việt Nam căm hận [vì Pháp là Thực Dân] và sức mạnh hổ trơ rất lớn của nó đã bị bỏ qua, những sức mạnh đã không được quan tâm đủ để trang trải chi phí cho Pháp. 73/
Paris khó chịu hơn bởi Biên Bản Thông Hiểu. Vào tháng Mười, trong cuộc thảo luận với Dulles, Mendes-France đã nói rằng ông ngại rằng việc trao quyền tự chủ cho người Việt Nam vào tháng 7 năm 1955 có thể được thực hiện và việc điều chỉnh nhân sự MAAG cho nhiệm vụ đào tạo mới có thể vi phạm Hiệp Định Genève. Những lập luận này đã được nhắc lại tại ngày cuộc họp ba bên. Tuy nhiên, rắc rối thực sự của Mendes-France đã đồng ý lịch trình rút các huấn luyện viên người Pháp. Cả người Pháp cũng như binh lính Pháp không hiểu tại sao Pháp đã bị từ chối được có ảnh hưởng [ở Việt Nam] trong khi họ lại được yêu cầu hỗ trợ như một gánh nặng như thế tại Việt Nam. Mendes-France và Tướng Ely nhấn mạnh rằng nếu huấn luyện viên người Pháp bị xóa bỏ, Hoa Kỳ sẽ phải tự động nhận trách nhiệm chính cho chính sách của thế giới Tự Do đối với Đông Dương. 74/ (Dulles và Tướng Collins từ chối chấp nhận lối lý luận đó, nhưng khẳng định là không phải Pháp và cũng không phải những người khác đã có những ý định gian dối.)
Collins nhượng bộ trong Biên Bản Thông Hiểu bằng cách đồng ý ngôn ngữ nhẹ nhàng hơn (huấn luyện viên Pháp và Hoa Kỳ sẽ được giải tán khi hiệu quả quân Việt Nam gia tang), để hy vọng làm dịu Paris. Ông đã thất bại. Khi Biên Bản chính thức được chuyển đến Mendes-France để chấp nhận cuối cùng đã bị đình trệ. Trước tiên, ông đã nghiên cứu chặt chẽ để đảm bảo không có xung đột nào dính líu với [Hiệp Định] Genève. Sau đó, ngày 07 tháng 01, Pháp đã gửi lại một bản nháp lại của Biên Bản mà bỏ qua không nói đến thẩm quyền của Tướng O'Daniel trên nhân sự Pháp. 75/
Collins đã rất phiền vì những kỳ đà cản mũi trong tháng Mười Hai, tương đương với một cái tát vào mặt mình của Ely là người có đầy đủ thẩm quyền để đàm phán các thỏa thuận đã được giao. 76/ Collins từ chối "đồng ý (bản nháp làm lại) trừ khi nó được hướng dẫn bởi cơ quan có thẩm quyền cao hơn vì ranh giới quyền hạn không được nêu ra 77/. Tuy nhiên, Ely nghĩ rằng Paris đã phê chuẩn thỏa thuận ban đầu. Ông kêu gọi Collins tiếp tục các cuộc đàm phán với Việt Nam trên những điều chính trong Biên Bản đầu tiên, khuyên Collins theo dõi [đàm phán với VN] mặc dù những lộn xộn đang có giữa Paris và Washington. Vào ngày 19 và 20 tháng Giêng, một trao đổi chính thức về ngôn từ đã hoàn tất thỏa thuận cho Hoa Kỳ gánh chịu nhiệm vụ đào tạo và hỗ trợ tài chính (214.500.000 $) cho quân đội Việt Nam.. lực lượng [VN] sẽ được thu nhỏ lại ở mức 100.000 vào tháng 12 năm 1955. Cả chi phí và khổ cỡ lực lượng đã được bàn tính từ các khuyến nghị tháng Mười Một của Collins trong sự trân trọng dành cho các lập luận của Việt Nam. 78/ Bế tắc giữa Hoa Kỳ và Pháp vẫn kéo dài cho đến 11 tháng Hai năm 1955, khi các điều khoản - nhưng không phải dưới hình thức của thỏa thuận ban đầu - cuối cùng đã được chấp nhận. Ngày hôm sau, Tướng O'Daniel chịu trách nhiệm đào tạo các lực lượng Việt Nam và cơ quan Đào Tạo và Hướng Dẫn Việt Nam (TRIM) đã đi vào hoạt động 79/.
D. Bế tắc Pháp-Hoa Kỳ về Diệm
Giải quyết các vấn đề quân sự trong Chính phủ Hoa Kỳ và giữa Hoa Kỳ và Pháp là một thành tựu khá lớn. Sự khác biệt chính trị l.ai không được giải quyết một cách tương tự. Hỗ trợ hoặc không hỗ trợ Ngô Đình Diệm là vấn đề mà Pháp và Hoa Kỳ chia rẽ.
Như đã nói ở trên, Pháp nhượng bộ lưu giữ Diệm như Thủ tướng Chính phủ chiều theo thúc hối của Hoa Kỳ và do mối quan tâm của Pháp về việc hỗ trợ tài chính cho quân Viễn Chinh Pháp của Hoa Kỳ trong hội nghị tháng Chín tại Washington. Vào giữa tháng Mười, Mendes-France tái khẳng định lại thỏa thuận ngày 29 tháng 9 nhưng cho biết một hình thức khác của chính phủ phải được xem xét trừ khi Diệm thực hiện được một chương trình mạnh mẽ trong vòng hai tháng tới. Vào tháng Mười Hai, khi Mendes-France, Dulles và Eden gặp tnhau ở Paris, Thủ Tướng Pháp cho rằng rõ ràng đã đến lúc phải có một sự thay đổi. Có hai cách để thực hiện sự thay đổi đã được đề xuất. Bảo Đại có thể bổ nhiệm một “Phó Vương” (Viceroy) được toàn quyền sử dụng các quyền hạn của Lãnh Đạo cao nhất của Nhà nước để thống nhất các phe phái chính trị đang chiến đấu. Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn Tâm hoặc Bác sĩ Phan Huy Quát là ứng cử viên cho công việc này. 80/ Hoặc, Bảo Đại tự mình có thể quay trở lại Sài Gòn và thành lập một chính phủ với Hữu như Thủ Tướng, Tâm như Bộ trưởng Nội vụ, Quát nắm Bộ Quốc Phòng. 81/
Pháp muốn Diệm ra khỏi [cơ cấu] quyền lực vì nhiều lý do. Nhà hoạch định chính sách Hoa Kỳ dường như không hoàn toàn đánh giá cao cách Diệm chống Pháp một cách trơ trẽn, là điều phải có, cũng dường như Hoa Kỳ đã không hiểu hoặc cho phép lập trường của Diệm có hiệu lực gây ra chia rẽ trong phe chống Cộng trong Chính phủ Pháp. Điều ít được xem xét là Hoa Kỳ đã phá hoại Pháp bằng cách mô tả chính Hoa Kỳ là người bạn duy nhất của chủ nghĩa dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, Hoa Kỳ đã có thể phải đánh giá cao giá trị các luận cứ của Pháp cho rằng Diệm đã không thể và sẽ không thể thống nhất và ổn định miền Nam Việt Nam.
-
Paris: Diệm không thích hợp để lãnh đạo
Tướng Collins đã hoài nghi về Diệm ngay từ đầu tháng Mười Hai; ông đã bị thuyết phục rằng một thay thế trong chính phủ của Diệm cần phải được coi là khẩn cấp. Việc Diệm từ chối nhận Bác Sĩ Quát làm Bộ trưởng Quốc Phòng đã kích hoạt đề nghị của Collins. Cả Collins và Đại Tá Lansdale đều thúc giục Diệm chấp nhận Quát, đồng ý rằng Quát một mình đã đủ mạnh để thống nhất các lực lượng vũ trang Việt Nam đằng sau chính quyền Sài Gòn. Ngày 13 tháng 12, Collins đã đưa ra năm lý do cho quyết định bất lợi của Diệm:
-
không muốn ủy quyền kiểm soát các lực lượng vũ trang Việt Nam cho bất kỳ người nào mạnh mẽ, (2) sợ Quát là người kế nhiệm tiềm năng, (3) sự phản đối của các giáo phái (họ cũng sợ có người khác mạnh trong vị trí quốc phòng), (4) ảnh hưởng của anh em Luyện và Nhu (lo lắng nhằm vô hiệu hóa sức mạnh của bất kỳ người kế nhiệm tiềm năng nào), (5) mong muốn giữ lại [Dương Văn] Minh (quyền Bộ trưởng Quốc phòng; trung thành với Diệm) trong chính phủ. 82/
Theo Collins,
Dù lý do nào, việc không sử dụng Quát là hình ảnh thu nhỏ của việc thiếu thống nhất giữa người Việt Nam với nhau và một phần ở Diệm là việc thiếu tính lãnh đạo mang chất quyết định.... Chấp nhận hiện trạng với việc nâng Minh lên nắm Bộ Quốc phòng và việc các giáo phái được tăng cường quyền phủ quyết đối với chính phủ chỉ đơn giản là trì hoãn cho đến một ngày kinh hoàng nào đó để thú nhận, nếu có xảy ra, rằng Diệm đã khẳng định được ông ta là loại lãnh đạo có thể thống nhất được đất nước này và có cơ hội cạnh tranh với sự kiểm soát cứng rắn, có hiệu quả, thống nhất của Hồ Chí Minh.
Ba ngày sau, Tướng Collins truyền đạt "phán xét cuối cùng" về tình hình. Ông đã đưa ra bốn khuyến nghị:
A. Tiếp tục hỗ trợ Diệm như trong hiện tại cho một thời gian ngắn nữa, nhưng không có cam kết của Hoa Kỳ cho các chương trình trợ giúp cụ thể;
B. Xem xét khẩn cấp, như giải pháp thay thế là việc Bảo Đại có thể trở về [VN] sớm;
C. Nếu sau một thời gian ngắn thử nghiệm thêm mà Chính Phủ Diệm không hành động thành công để đạt được những tiến bộ đáng kể và nếu sự trở về của Bảo Đại mà Chính phủ Hoa Kỳ chấp nhận, [chúng ta] sẽ tức khắc hỗ trợ việc trở về của ông;
D. Nếu việc trở về của Bảo Đại là không thể chấp nhận được cho Chính Phủ Hoa Kỳ, giả định rằng Chính phủ Diệm tiếp tục chứng tỏ là không có khả năng đoàn kết Việt Nam Tự Do đằng sau một chương trình tích cực, tôi khuyên các vị nên tái đánh giá kế hoạch của chúng tôi về việc hỗ trợ khu vực Đông Nam Á với sự chú ý đặc biệt đến một đề nghị một vừa trước đây. 84/
Đề nghị vừa trước đây, được thực hiện bởi Tướng Collins vào ngày 13 tháng 12, là Hoa Kỳ sẽ dần dần rút khỏi Việt Nam. Collins cho biết đây là "là điều ít mong muốn nhất (nhưng) trong tất cả những gì trung thực và theo quan điểm của những gì tôi đã quan sát ở đây cho đến nay, điều này có thể là giải pháp có giá trị duy nhất." 85/
-
Collins: Diệm không thể lãnh đạo miền Nam Việt Nam
Bộ Ngoại giao đã đồng hành với đề nghị của Collins là tránh các cam kết hỗ trợ cụ thể vào thời điểm hiện tại, nhưng không thể nhìn thấy sự cứu rỗi với Bảo Đại. Một bản ghi nhớ từ Đại sứ Heath, lúc đó đang làm việc tại Cục Viễn Đông mang chỉ dấu tư duy của Bộ Ngoại giao. Trước tiên Heath chú ý đến "sự phản đối rộng lớn" mà Diệm phải đối mặt và việc Pháp không muốn mạnh mẽ ủng hộ ông ấy - ngụ ý rằng tất cả các vấn đề của Diệm không phải chỉ là lỗi của Diệm. Sau đó, ông đã nói về "nỗ lực để đạt được một giải pháp nhanh chóng" của Tướng Collins, những khuyến nghị của Collins hiện nay là dựa trên trường hợp một giải quyết thỏa đáng trước ngày 01 tháng Giêng" qua đó cho thấy rằng nhữmg người không tìm kiếm một giải pháp nhanh chóng có thể không đi đến những kết luận tương tự.
Những gì chứa đựng trong giác thư với giải thích của Heath đã chốt lại chính sách của Bộ trưởng Dulles và suy nghĩ của mình trên những gì nên được thực hiện:
Theo quan điểm của chúng tôi, đề nghị của Tướng Collins đã bỏ qua yếu tố cơ bản là chúng ta đang hỗ trợ một sự tiếp quản của Cộng sản do việc giữ lại viện trợ của chúng ta, ngay cả khi nó nhất thiết phải được trao cho một chính phủ dù là không hoàn hảo. Bộ Trưởng đã phân tích tình hình như là người đang tiến hành một hoạt động mua thời gian. Nếu chúng ta giữ lại sự hỗ trợ của chúng ta cho Việt Nam, nó nên được thực hiện sớm hơn với những viện trợ nhỏ hơn, ở một con số khoảng 1/3 năm ngoái. Trong khi chờ đợi, chúng ta sẽ tiến hành làm những gì có thể để tăng cường Cam-pu-chia, Lào và Thái Lan. Đây là sự hiểu biết của tôi về chính sách của Bộ Trưởng.
Tôi khuyến cáo rằng chúng ta nên thông báo cho Bộ trưởng và Tướng Collins là chúng ta đã nhận ra sự nguy hiểm gây ra bởi chính sách trên, nhưng vì việc thiếu các lựa chọn thay thế hữu ích hơn, chúng ta sẽ tiếp tục hỗ trợ Diệm, bởi vì không có một ai có thể thay thế ông ta để phục vụ mục tiêu của Hoa Kỳ một cách tốt hơn. Điều này bao gồm giải pháp Bảo Đại bị phản đối bởi trên thực tế Bảo Đại không được hổ trợ tại Việt Nam và những gì trong quá đã chứng minh là ông ta không có khả năng để cai trị. Nỗi lo ngại rằng một cam kết tài chính trên $300 triệu cộng với uy tín quốc gia của chúng ta sẽ bị mất trong một canh bạc trong việc giữ lại Việt Nam Tự Do là một lo ngại chính đáng, nhưng việc kềm giữ các hỗ trợ của chúng ta tại thời điểm này gần như chắc chắn sẽ đưa đến một hậu quả còn tồi tệ hơn." 86/
Nội dung của bản ghi nhớ đã được gửi công điện đến Bộ trưởng Dulles, sau đó cho Paris nơi đang xảy ra cuộc thảo luận ba bên là Pháp, Hoa Kỳ và Anh. 87/
-
Đàm phán ba bên vào tháng Mười Hai
-
Pháp đề xuất thay thế Diệm, Dulles có vẻ chấp nhận
Ngày 19 Tháng Mười Hai, Mendes-France mở cuộc đàm phán Đông Dương bằng cách gọi cách tiếp cận của Diệm là "hoàn toàn tiêu cực", "không một cải cách duy nhất được đề nghị (do nhóm làm việc Pháp-Hoa Kỳ tư vấn cho chính phủ [VN] về các vấn đề) đã được Diệm chấp nhận," rằng "Chính phủ Pháp hiện nay đang coi xem... sẽ phải thực hiện một cách tiếp cận mạnh mẽ đến Diệm," Khẳng định lại thỏa thuận trước đây của mình với Dulles" mà luận cứ là chúng ta phải làm tối đa để giúp Chính phủ Diệm thành công", Mendes-France:
bây giờ... ông [Mendes-France] đã không còn chắc chắn, ngay cả làm tối đa có thể giúp được gì [cho Diệm]. Ông nói rằng chúng ta phải có một phương án thay thế trong tâm trí. Nếu không thay đổi gì về mục đích mà chúng ta đã nêu là hỗ trợ Chính phủ Diệm miễn là nó tồn tại, chúng ta cũng phải chuẩn bị trong tâm trí chúng ta để thay thế. 88/
Dulles đồng ý
nhiệm vụ ở miền Nam Việt Nam là khó khăn (nhưng) các yếu tố cơ bản là thuận lợi. Mọi người đều chống chủ nghĩa cộng sản và có nguồn tài nguyên tự nhiên lớn... họ đã nhận được viện trợ từ nước ngoài nhiều hơn so với miền Bắc...tình hình đã được cải thiện nhiều bây giờ khi có hợp tác đầy đủ giữa chính quyền Pháp và Hoa Kỳ. Vấn đề không nên được tiếp cận theo tinh thần chủ bại. Chỉ có vấn đề nghiêm trọng mà chúng ta chưa giải quyết là lãnh đạo bản địa. Chúng ta không thể mong đợi nó được giải quyết một cách lý tưởng vì không có truyền thống trong người dân bản địa: chính phủ tự trị. Chúng ta phải sống cùng với một cái gì đó ít tốt hơn so với tốt nhất... (Hoa Kỳ) sẽ không lặp lại việc không cam kết Diệm trong bất kỳ ý nghĩa nào mà không thể nói khác lại được. Chúng tôi đã chấp nhận Diệm vì chúng ta biết không có ai tốt hơn. Những gì xảy ra đã xác nhận những lo ngại của chúng ta về những giới hạn của Diệm nhưng chưa có thay thế nào cho ông ta đã được đề xuất. Những đề nghị trong quá khứ thay đổi từng tháng đến từng tháng. Bây giờ lời tuyên bố rằng chỉ có Bảo Đại mới có thể cứu vãn tình hình. Nếu đó là trường hợp, chúng ta thực sự sẽ tuyệt vọng sau đó.... Chúng ta nên tiếp tục ủng hộ Diệm nhưng gây áp lực nhiều hơn vào ông ta để làm những thay đổi mà chúng tôi thấy cần thiết. 89/
Mendes-France đề nghị Hoa Kỳ và Pháp tiếp cận Bảo Đại và đề cập đến kế hoạch “Phó Vương” để thay thế Diệm. Dulles chống lại [ý đó] bằng cách nói rằng Hoa Kỳ và Pháp có thể sử dụng Bảo Đại nhưng "chúng ta phải đi gặp ông ta với những ý tưởng riêng đã được chuẩn bị của chúng ta và không... chứ không đơn giản là chấp nhận ông ấy". Dulles không mong đợi bất kỳ “Phó Vương” nào để có thể quyết định thay thế Diệm và cài đặt bộ máy [chính quyền] để thực hiện ý tưởng của chúng ta... công việc của chúng ta (là) để tạo ra cỗ máy này ". Ông nói thêm,
Chúng ta phải đưa ra tất cả những áp lực của chúng ta trên Diệm để có được những điều thực hiện trước khi xem xét các giải pháp thay thế... Ông yêu cầu Mendes đừng ngoan cố đóng khung tâm trí của chúng ta vào giải pháp thay thế có thể. Chúng tôi đã không lặp lại là [chúng ta sẽ] không làm, nhưng theo nghiên cứu của chúng tôi, việc thay thế phải được thực hiện trên cơ sở cẩn thận và hiện nay chúng ta vẫn phải hỗ trợ cho Diệm. 90/
Mendes-France đã đồng ý. Ông đã tóm tắt lập trường của mình như sau:
Đầu tiên, hỗ trợ Diệm, thứ hai, nghiên cứu lựa chọn thay thế. Collins và Ely nên được hướng dẫn để tiếp tục khám phá những khả năng bao gồm cả Bảo Đại với sự thận trọng kín đáo...Về điểm 3, nên yêu cầu Ely và Collins nghiên cứu vấn đề thời gian tính. Bao lâu trễ hơn nữa có thể được dung thứ?... Chúng ta phải thiết lập thời hạn.... 91/
Tiếp theo, Dulles đồng ý nhưng đưa thêm điểm thứ tư:
Nếu Hoa Kỳ phải quyết định rằng nếu sau nhiều tìm kiếm mà không có lựa chọn nào tốt hơn Diệm, chúng ta phải xem xét đầu tư nhiều hơn bao nhiêu để chúng ta chuẩn bị thực hiện ở Đông Dương. Chính sách của chúng tôi sẽ phải được thẩm định lại. Các Ủy ban của Quốc hội... sẽ được tư vấn. Mansfield tin tưởng Diệm.... Ngay cả chỉ có chút cơ hội thành công tại Việt Nam cũng là xứng đáng để chi ra một giá trị đầu tư đáng kể. Hoa Kỳ cũng đã có suy nghĩ về những gì đã xảy ra ở các quốc gia lân cận - Cam-pu-chia, Lào, Thái Lan và Mã Lai. Tình hình với Hoa Kỳ là khác với thời Pháp. Pháp đã đầu tư trong cuộc sống và có tài sản ở Việt Nam, trong khi chúng tôi chỉ quan tâm đến hiệu ứng mà số phận của Việt Nam sẽ tác động trên phần còn lại của khu vực Đông Nam Á. 92/
-
Tuy nhiên, Dulles báo cáo, không có lãnh đạo nào phù hợp để được xem xét
Sau cuộc họp ba bên, Dulles báo cáo đánh giá của ông về kết quả cuộc họp cho Sài Gòn. Ông cho biết ông đã đồng ý với Mendes-France trên bốn điểm liên quan đến Diệm nhưng đã không đồng ý về một thời hạn để thay thế Diệm. Thay vào đó, "Collins và Ely sẽ báo cáo về tình hình tổng thể vào cuối tháng Giêng."
Dulles gọi là "đầu tư tại Việt Nam là đúng đắn ngay cả đó chỉ để mua thời gian nhằm xây dựng sức mạnh ở những nơi khác trong khu vực" và kết luận:
Chúng ta sẽ phải duy trì chính sách linh hoạt và tiến hành một cách cẩn thận theo từng giai đoạn tại Việt Nam.... Trong hoàn cảnh hiện tại và trừ khi tình hình (ở Việt Nam) rõ ràng là vô vọng và sẽ nhanh chóng tan rã, chúng ta không có sự lựa chọn nhưng vẫn tiếp tục viện trợ Việt Nam và hỗ trợ của chính quyền Diệm. Hiện không có nhà lãnh đạo phù hợp nào khác mà chúng tôi được biết. 93/
Pháp đã tin rằng Dulles đã thực sự cam kết là Hoa Kỳ sẽ xem xét một sự thay đổi mà trong đó Bảo Đại sẽ được kết nối lúc giữa tháng Giêng. Washington chối bỏ là có chuyện đó và những phản đối của Paris cũng không thể làm Bộ Ngoại Giao [Hoa Kỳ] nhúc nhích. Tuy nhiên, Hoa Kỳ và Pháp đã đồng ý rằng các cuộc đàm phán ba bên đã giao cho Collins và Ely nhiệm vụ nghiên cứu các lựa chọn thay thế. 94/
-
Hoa Kỳ tìm kiếm giải pháp thay thế
Sau khi thông báo cho Paris là Hoa Kỳ không cam kết hoặc một thời hạn hoặc một thay thế có liên quan đến Bảo Đại, Hoa Kỳ sẽ tiến hành nghiên cứu các lựa chọn thay thế. Bộ trưởng Quốc phòng Wilson hỏi Hội Đồng Tham Mưu Trưởng Liên Quân đánh giá về những tác động trên những cam kết quân sự cho khu vực Đông Nam Á trên cơ sở là nếu miền Nam Việt Nam bị mất, tiếp tục viện trợ, nhưng giảm đi mức độ, cho quốc gia đó và một khung những hành động trong khoản thời gian đó. 95/ Hội Đồng Tham Mưu Trưởng Liên Quân phản ứng bằng cách gọi lựa chọn thay thế của Wilson là không đầy đủ, mà phải xem xét tăng viện trợ lên, và tổ chức của một chương trình đơn phương để trực tiếp hướng dẫn cho Chính phủ Việt Nam thông qua một "hệ thống cố vấn" là một trong những cân nhắc của Hoa Kỳ. Nếu các chương trình này không đủ để đảm bảo việc lưu giữ miền Nam Việt Nam với thế giới Tự Do, Hoa Kỳ có thể triển khai lực lượng để duy trì miền Nam Việt Nam hoặc đơn phương hoặc như một phần của một lực lượng Hiệp Ước Manila "hoặc Hoa Kỳ có thể thu hồi tất cả các hỗ trợ cho Việt Nam và tập trung vào việc cứu vãn phần còn lại của khu vực Đông Nam Á."
Không có phương án hành động cụ thể nào đã được đề nghị nhưng Hội Đồng Tham Mưu Trưởng Liên Quân dự đoán sự mất mát của Cam-pu-chia và Lào sẽ tiếp nối việc cộng sản chiếm trọn miền Nam Việt Nam, họ cảm thấy một chương trình viện trợ được mở rộng sẽ là việc cần thiết để giữ một chính phủ thân thiện ở Thái Lan. Trong bất kỳ trường hợp nào, những cơ hội mà các lực lượng vũ trang của Hoa Kỳ sẽ được yêu cầu để hỗ trợ chính sách của Hoa Kỳ ở Đông Nam Á sẽ phải tăng lên rất nhiều nếu Việt Nam sụp đổ. Các Tham Mưu Trưởng kết luận bằng cách nói rằng "một quyết định vững chắc ở cấp quốc gia để thực hiện các chính sách của Hoa Kỳ ở Đông Nam Á là bắt buộc, đề nghị... chống lại một sự bảo vệ “thụ động” cho khu vực này và... khuyến nghị thông qua một khái niệm hành động mang tính tấn công chống lại sức mạnh quân sự của kẻ thù xâm lược." 96/
5. Tháng 1 năm 1955: US tái khẳng định ủng hộ Diệm
Những khuyến nghị của Tướng Collins với Hội đồng An Ninh Quốc gia vào ngày 20 tháng năm 1955 nhấn mạnh vị trí quan trọng của miền Nam Việt Nam nằm trong bối cảnh chính sách của Hoa Kỳ đối với khu vực Đông Nam Á. Cũng như Dulles và Hội Đồng Tham Mưu Trưởng Liên Quân trước khi đến phiên mình, Collins cho biết:
Với quan điểm về tầm quan trọng của Việt Nam đối với tất cả các nước Đông Nam Á, tôi tin chắc rằng Hoa Kỳ nên [chấp nhận] chi ra rộng rãi về tiền bạc, vật tư và những nỗ lực cần thiết để củng cố đất nước và giúp họ giữ lại Độc Lập. Tôi không thể đảm bảo rằng Việt Nam sẽ vẫn còn [là nước] tự do ngay cả với sự trợ giúp của chúng ta. Nhưng tôi biết rằng không có viện trợ cho chúng ta, Việt Nam chắc chắn sẽ bị mất vào tay Cộng Sản. Nếu những cơ hội thành công là rất khó để tính toán, hậu quả của việc chấm dứt viện trợ của Hoa Kỳ chắc chắn sẽ xảy ra không chỉ ở Việt Nam mà trên khắp khu vực Đông Nam Á. Rút [hổ trợ] như vậy sẽ đẩy nhanh tốc độ phát triển của Cộng sản ở toàn vùng Viễn Đông và có thể dẫn đến việc mất cả khu vực Đông Nam Á vào tay Cộng Sản. Theo tôi, các cơ hội thành công là không những là đáng cho canh bạc, chúng ta không chấp nhận bỏ cuộc để mặc cho Việt Nam Tự Do thua trận. 97/.
Collins lạc quan về Diệm nhiều hơn như ông đã có một tháng trước đó. Diệm đã cho thấy một số tiến bộ: Tướng Minh được cử làm Bộ trưởng Quốc phòng và dường như Minh lo toan công việc đầy đủ; Diệm đã tung ra một chiến dịch chống tham nhũng (và đóng cửa song bài Đại Thế Giới [của Bảy Viễn], Diệm đã tuyên chiến với Bình Xuyên) và đã có một số tiến bộ trong cải cách ruộng đất. Collins đề nghị tiếp tục hỗ trợ cho Diệm:
Với cân nhắc, tôi tin rằng Diệm là người chính trực, tinh thần quốc gia mạnh mẽ, kiên trì và những phẩm tính tâm linh làm cho Diệm là Thủ Tướng tốt nhất có thể có để lãnh đạo Việt Nam... chống lại chủ nghĩa cộng sản... Duyệt xem tất cả các yếu tố, mặc dù tình hình ở Việt Nam không phải là sáng sủa, [nhưng] tôi tin rằng nếu Diệm được hỗ trợ và hướng dẫn chặc chẽ của Hoa Kỳ và có được sự hợp tác tích cực, hay ít nhất là thuận tình, của Pháp thì chính phủ của Diệm sẽ có một triển vọng thành công hợp lý. 98/
Kết quả của các khuyến nghị của Collins là NSC thông qua một chính sách mạnh mẽ tại Việt Nam: Hoa Kỳ sẽ tiếp tục hỗ trợ chính phủ Diệm và tiếp tục thúc hối Pháp thực hiện cam kết của họ theo như thoả thuận Smith – La Chambre. NSC đã phê duyệt về nguyên tắc các chương trình viện trợ quân sự và kinh tế nhằm thực hiện các khuyến nghị của Collins (khoảng $500 triệu USD) và quyết tâm tìm kiếm khẳng định lại quyền hạn của Manila, quyết tâm phản ứng theo Hiệp ước SEATO nếu chiến tranh được nối lại. 99/. Dulles đã quyết định "lao vào" và bắt đầu viện trợ trực tiếp cho Việt Nam vào ngày 01 tháng 01 năm 1955. Chương trình viện trợ là phải linh hoạt và trơn tru, điều chỉnh theo hoàn cảnh và có thể ngừng bất cứ lúc nào, như hiện nay" 100/
E. khủng hoảng mùa Xuân, 1955
Với sự hậu thuẫn mạnh mẽ Hoa Kỳ, Diệm đã tiến hành giải quyết cuộc khủng hoảng giáo phái vào mùa xuân năm 1955. Không giống như cuộc khủng hoảng với đảo chính quân sự vào mùa thu năm 1954 và cuộc khủng hoảng nội các với Quát vào tháng Mười Hai, cuộc khủng hoảng giáo phái đã được giải quyết bởi những hành động mạnh mẽ một mình của Diệm. Tiếp theo là sự kết thúc của bất kỳ sự hiện diện thật sự nào của Pháp tại Việt Nam.
1. Vấn đề quân đội các giáo phái
Các giáo phái đã im lìm nhưng không yên tĩnh kể từ khi Bộ trưởng Cao Đài và Hòa Hảo đã tham gia nội các vào tháng 9 năm 1954. Sự kết thúc của trợ cấp Pháp cho các quân đội giáo phái vào tháng Hai đã hất họ ra khỏi chứng tự mãn. Diệm đồng ý chia một phần những gì mà quân đội [quốc gia] đã nhận được từ Pháp để làm dễ dàng việc chuyển tiếp cho khoảng 40,000 binh sĩ trở về đời sống sống dân sự. Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi đó là: ông sẽ không chấp nhận các nhóm vũ trang riêng biệt trong hệ thống quân đội quốc gia Việt Nam và đứng riêng ngoài tổ chức chính trị của Sài Gòn. Tuy nhiên lãnh đạo các giáo phái có những mục tiêu khác nhau. Họ muốn bảo toàn lực lượng quân sự của họ bằng cách tích hợp, nguyên vẹn, càng nhiều đơn vị có thể được vào trong quân đội quốc gia. (Với một lực lượng quân đội Việt Nam độ 100.000, chỉ một số ít người có thể được thu vào, trong tháng Giêng chỉ có 6.000 quân giáo phái đã được nhận) Thứ hai, các giáo phái muốn chính phủ hỗ trợ đáng kể cho binh sĩ của họ bị buộc phải rời khỏi quân đội. Quan trọng nhất, họ muốn các khu vực ảnh hưởng của họ được công nhận và muốn Diệm đảm bảo là sẽ không xâm phạm lãnh thổ của họ. Diệm không đồng tình bất cứ phần nào của yêu cầu thứ ba này. 101/
Từ tháng mười hai, một nhóm Pháp-Hoa Kỳ đứng đầu là Đại tá Lansdale và được chỉ đạo "hãy kiếm một giải pháp hòa bình" cho vấn đề này đã làm việc như điên, tìm thấy một giải pháp và kêu gọi mau chóng thông qua.Tướngng Collins và Ely đã quyết định tiến hành nghiên cứu thêm về vấn đề. Lansdale của phản ứng:
Chúng tôi đã cảnh báo với họ rằng thời gian còn lại là rất ít, các giáo phái gần như đang khởi sự hành động quân sự và một giải pháp hòa bình phải được đưa ra ngay lập tức hoặc sẽ không còn cơ hội. Cơ hội đã bị mất. 102/
2. Mặt Trận [Liên Minh] thách thức Diệm
[Cơ hội] bị mất bởi vì lãnh đạo các giáo phái Hòa Hảo và Cao Đài cùng bắt tay Bảy Viễn vào tháng Hai, đồng ý bỏ qua những hận thù giữa họ và cùng tham gia chung trong Mặt Trận Đoàn Kết Các Lực Lượng Quốc Gia. Vào tháng ba, Mặt Trận yêu cầu Diệm thành lập chính phủ đoàn kết quốc gia rộng rãi. Tám thành viên giáo phái trong nội các cùng từ chức (mặc dù hai Tướng Cao Đài là Thế và Phương đã sớm thay đổi ý của họ). Một đại biểu Mặt trận Thống Nhất đã cố gắng thuyết phục Bảo Đại rút quyền Thủ Tướng của Diệm, nhưng kịp thời xuất hiện một bức thư riêng của Tổng thống Eisenhower [gửi Bảo Đại] phác thảo ra những mục tiêu và những tiến bộ ở Việt Nam đã chứng minh là thuyết phục hơn. Bức thư hoặc đã làm yên tâm Bảo Đại rằng Hoa Kỳ sẽ không loại Diệm ra khỏi bối cảnh chính trị, hoặc đã làm cho nhà vua phải suy nghĩ hai lần về việc tham gia với các giáo phái và do đó sẽ làm phát sinh cơn thịnh nộ của Hoa Kỳ. Dù lý do nào, Bảo Đại đã từ chối can thiệp thay mặt cho Mặt trận. 103/ Diệm gọi Chương trình của Mặt Trận là một tối hậu và quyết không nhượng bộ.
Pháp muốn Bảo Đại làm trung gian giữa Diệm và Mặt trận Đoàn Kết. Hoa Kỳ muốn đưa ra một tuyên bố chung nói với các giáo phái là cả Hoa Kỳ và Pháp đều phản đối bạo lực và cảnh báo họ rằng quân viễn chinh Pháp sẽ chặn lại bất kỳ chuyển động nào của quân Hòa Hảo để vào Sài Gòn củng cố cho Bình Xuyên. Ely và Paris từ chối khoản cảnh báo: quân đội Pháp sẽ chỉ lo bảo vệ cuộc sống và tài sản của các công dân Pháp và người nước ngoài. 104/
3. Những thách thức của Bình Xuyên với Diệm
Trong thời gian này, Lansdale đã hội kiến gần như hàng đêm với Diệm. Ông báo cáo Diệm
đã cố gắng một cách tuyệt vọng để được Pháp và Hoa Kỳ giúp đỡ nhằm loại bỏ việc Bình Xuyên đang kiểm soát An Ninh. Phản ứng Pháp và Hoa Kỳ cho vấn đề này là họ tư vấn [Diệm] tiến hành từ từ, hành động một cách thận trọng. Các sự kiện đã không cho phép điều này. 105/
Trước rạng sáng ngày 28 Tháng 3, một đại đội quân nhảy dù trung thành với Diệm đã tấn công và chiếm trụ sở cảnh sát trung tâm [Tổng Nha Cảnh Sát Saigon] do Bình Xuyên kiểm soát. Ngày hôm sau, Diệm nói với Bộ trưởng Quốc Phòng [Dương Văn] Minh là ông đã lên kế hoạch để lật đổ Cảnh sát trưởng Lại Văn Sang là người của Bình Xuyên ngay chiều hôm đó - 29 tháng 3 - và thay thế bằng một người trung thành với chế độ của ông. Minh khẳng định ít nhất là Diệm phải tham khảo ý kiến nội các trước khi hành động. Diệm từ chối và Minh từ chức. Tuy nhiên các đại diện của Tướng Ely đã thuyết phục được Diệm hoãn lại việc bất cứ hành động nào chống lại lực lượng Cảnh Sát. 106/
Đêm ngày 29 qua ngày 30 Tháng Ba, Bình Xuyên tấn công trở lại. Đạn súng cối rơi vào sân dinh [Độc Lập trước đó được gọi là dinh Norodom] và quân Bình Xuyên đã cố gắng lấy lại quận. Họ bị đẩy lui bởi Quân đội quốc gia. Quân đội Việt Nam sau đó di chuyển để tấn công các nơi của An Ninh để trả đũa nhưng dường như đã bị các sĩ quan Pháp tạm thời cắt xăng dầu và đạn dược để giữ quân đội quốc gia về thế phòng ngự. Trận đấu kết thúc lúc 3:30 giờ sáng ngày 30 Tháng Ba. 107/
Tướng Ely phản đối việc quân đội Việt Nam tấn công chống lại trụ sở Tổng Nha Cảnh Sát, không phải vì nó có thể thất bại, nhưng vì không thích đáng. Việc đáng xem là Diệm không có khả năng đánh bại các giáo phái nhanh chóng và dứt khoát trong cả nước. Nếu lực lượng quân sự được sử dụng để chứng minh một điểm nhỏ, một cuộc nội chiến đẫm máu và quy mô chắc chắn sẽ xảy ra. Ely tức giận với thái độ của Diệm. Ely cảm thấy Thủ Tướng đang chuyển mình về phía hoang tưởng tự đại và sẵn sàng để "đưa các thành phố vào binh đao và lửa đạn để xác lập quyền lực của mình." 108/ Collins thông cảm với Ely, nhưng cũng cảm thấy nếu Diệm không chứng minh được là ông có thể kiểm soát Sài Gòn ông sẽ bị buộc phải thỏa mãn yêu cầu của các giáo phái. 109/
-
Dulles do dự
Dulles trả lời như ông đã cho biết vào tháng Mười Hai: ông không thể thấy việc thay Diệm sẽ giải quyết được vấn đề giáo phái với bất kỳ người kế nhiệm nào mà người này xứng đáng với sự hỗ trợ của Hoa Kỳ dành cho họ. Một sự thay đổi Thủ tướng sẽ làm tổn hại uy tín của Hoa Kỳ trên khắp vùng Viễn Đông: Hoa Kỳ sẽ bị buộc tội là đầu môi chót lưỡi với chính nghĩa của chủ nghĩa dân tộc ở Châu Á, khi từ bỏ một lãnh tụ quốc gia vì bị áp lực bởi bởi "lợi ích của thực dân". Thêm nữa, tình cảm những người ủng hộ Diệm trong Quốc hội [Hoa Kỳ] là một vấn đề. Dự luật An Ninh Hổ Tương đang được tranh luận và Mansfield đã cho biết rõ ràng rằng Quốc hội sẽ ngại ngùng khi biểu quyết các quỹ thích hợp cho Việt Nam mà không có Diệm. Mặc dù có những khó khăn, Dulles cuối cùng đã đồng ý xem xét một sự thay đổi nếu cá nhân Collins sẽ về Washington để tham khảo ý kiến. 116/
-
Paris: thời của Diệm là chấm dứt
Đồng thời Paris đã nhanh chóng mất kiên nhẫn. Đã đến lúc phải hình thành một chính phủ đáp ứng các lực lượng chi phối chính trị ở Việt Nam, phải từ bỏ chính sách không thực tế của Hoa Kỳ về việc duy trì và củng cố Diệm, Pháp cho biết. Hình thành một Hội Đồng Tư Vấn Tối Cao đã được đề xuất, đại diện của Diệm và những người ủng hộ ông, các giáo phái, trí thức, chính trị gia và quân đội. Hội Đồng sẽ quyết định chính sách và một nội các gồm các nhà kỹ trị phi chính trị do Diệm đứng đầu và thành lập nó. 117/ Tuy nhiên, Hoa Kỳ đã bác bỏ kế hoạch này nói rằng Diệm nên được cho phép tấn công Bình Xuyên bằng vũ lực ; và Pháp và Hoa Kỳ nên ủng hộ Diệm - về mặt đạo đức và cả hậu cần. 118/
Sau đó, Washington gửi Quai d'Orsay [Trụ sở Bộ Ngoại Giao Pháp] một số câu hỏi để trả lời được thiết kế để gợi ra những kế hoạch cụ thể của Pháp cho sự thay đổi trong chính phủ Việt Nam. Paris đáp lại rằng: những câu hỏi cần được trả lời chung [bởi Pháp và Hoa Kỳ] hoặc nỗ lực chung Pháp-Hoa Kỳ tại Việt Nam sẽ kết thúc và Pháp sẽ phải nói công khai rằng Hoa Kỳ đã đảm nhận trách nhiệm duy nhất cho sự phát triển tại Việt Mam. 119/ Tuy nhiên, vào giữa tháng Tư, Pháp điền vào một phần câu hỏi – để trống phần [tên] người sẽ thay Diệm (chỉ có cả hai cùng tham khảo mới có thể quyết định điều này). Paris đề xuất Collins và Ely lập một bảng danh sách các ứng cử viên cho những vị trí quan trọng. Chính phủ Hoa Kỳ và Pháp sẽ đồng ý về danh sách cuối cùng, yêu cầu Bảo Đại để triệu tập đại diện của các phe phái khác nhau tại Cannes và trên cơ sở của khuyến nghị Pháp-Hoa Kỳ, thương lượng một giải pháp giải quyết bế tắc giữa phe Bình Xuyên và Diệm. Hỗ trợ của các giáo phái sẽ được đảm bảo bởi [sự có mặt] các thành viên của họ trong một Hội Đồng Tối Cao và một chương trình bồi thường, danh dự và hội nhập của quân giáo phái vào quân đội quốc gia. 120/
-
Kế hoạch của Bảo Đại
Ngày 21 tháng 4, Bảo Đại công bố kế hoạch của mình để giải quyết cuộc khủng hoảng, tương tự đáng kể như kế hoạch của Paris. Bảo Đại muốn triệu hồi các đại biểu đến Cannes, bổ nhiệm Bác sĩ Quát làm thủ tướng, yêu cầu Quát lập một nội các gồm các nhà kỹ trị và một Hội Đồng Tối Cao các nhân sĩ. Ngày 26 tháng 4, Bảo Đại cho biết ông sẽ thực hiện đề án đơn phương, trừ khi Hoa Kỳ có một số phản ứng ngày hôm sau. 121/ Trong khi đó, Collins đã rời Sài Gòn để về tham vấn với Dulles. Lansdale báo cáo về một cuộc họp được tổ chức ngay trước khi ông ra đi:
Ông (Collins) bảo Lansdale không phải lo lắng bởi về những tin đồn báo chí rằng Hoa Kỳ sẽ ngừng hỗ trợ Diệm. Lansdale hỏi sau đó nếu yêu cầu của mình là vẫn tiếp tục hỗ trợ Diệm, Collins trả lời có. Những thành viên của đoàn công tác trong nước [VN] trong chỗ riêng đều cảm thấy rằng Diệm cần được chúng ta hỗ trợ, rằng quân đội quốc gia đã sẵn sàng hỗ trợ Diệm và có khả năng đánh bại Xuyên Bình. 122/
f. Dulles quyết định: Hoa Kỳ sẽ xem xét một sự thay đổi của chế độ
Collins và Bộ trưởng Dulles đã họp vào ngày 27 tháng 4. Dulles đã đồng ý xem xét việc chuyển hỗ trợ qua Quát hoặc Đỗ và một công điện về việc này đã được gửi đến Sài Gòn. 123/ Nhưng Dulles xác định là sẽ không thảo luận điều này với Pháp cho đến khi ông nhận được một báo cáo đầy đủ và thẳng thắn về ý định của Pháp. Đó là một tuyên bố để đưa ra một sự bảo đảm rõ ràng là [Hoa Kỳ] sẽ ủng hộ hết lòng cho bất kỳ thoả thuận chính trị mới nào ở Sài Gòn và giải quyết “sự mơ hồ nào đó "trong chính sách của Pháp đối với Bắc Việt Nam. Cho đến khi tuyên bố này được công khai, Hoa Kỳ sẽ không để lộ sự thay đổi con tim [của mình] đối với Diệm. 124/
5. Diệm tiến hành chống Bình Xuyên
Tiếp đến, thỏa thuận ngưng bắn đã bị tan vỡ. Ngày 28 tháng 4, Diệm nói với Lansdale:
Quân đội và nhân dân đổ lỗi cho người Pháp (đối với cuộc khủng hoảng giữa chính phủ và Bình Xuyên) bởi vì họ đã nhìn thấy các xe bọc thép và quân lính của Pháp trên đường phố rõ ràng là đã sẵn sàng cho hành động chống lại người Việt Nam. Các ông (Lansdale và một trợ lý) đã nói: ”chúng tôi thấy rằng người Việt vẫn cần một nhà lãnh đạo, rằng Diệm là người lãnh đạo, rằng Hoa Kỳ vẫn ủng hộ ông ấy”.
Chiều hôm đó, thư ký riêng của Diệm gọi là Lansdale. Ông cho biết,
…dinh đang bị tấn công năng nề dưới hỏa lực súng cối, rằng Thủ Tướng đã nói chuyện với Tướng Ely trên một đường dây khác. Ely nói rằng ông không thể nghe thấy bất kỳ tiếng nổ nào và Thủ Tướng đã đưa ống nghe về phía các tiếng nổ để Ely có thể nghe thấy chúng. Hải (tên người thư ký) bắt đầu hỏi phải nên làm gì, thì ngưng hỏi để nói rằng Tổng thống đã ra lệnh cho quân đội quốc gia tấn công trở lại và đã thông báo Ely. Ông bèn gác máy. 125/
Chống lại lời khuyên của Pháp, Hoa Kỳ và hầu hết các cố vấn của nội các, Diệm đã ban hành một nghị định kết án Cảnh sát trưởng Lại Văn Sang đã có "những hành vi sai trái với chức vị công rất nghiêm trọng" và bổ nhiệm Đại tá Nguyễn Ngọc Lễ thay thế Sang. Sang từ chối từ chức, nói chỉ Bảo Đại mới có thẩm quyền để cách chức anh ta. Quân Bình Xuyên ở Chợ Lớn dường như đã nổ súng vào một đơn vị quân đội quốc gia và đạn pháo của Bình Xuyên một lần nữa được bắn vào dinh. Tuy nhiên, trong vòng chín giờ sau khi Diệm ra lệnh cuộc tấn công, Quân đội Quốc gia đã đẩy Xuyên Bình vào trở lại Chợ Lớn. Súng nổ dồn dập (do Bình Xuyên, theo Lansdale), hàng trăm người bị thiệt mạng hoặc bị thương. 126/