-(Toquoc)-Xung đột lợi ích Mỹ-Trung và những thách thức từ sự lớn mạnh của Trung Quốc đang đẩy nhanh tốc độ chạy đua vũ trang giữa hai nước và hé lộ nguy cơ một cuộc Chiến tranh Lạnh mới.
Máy bay Trung Quốc trong một cuộc tập trận
Cuộc ganh đua chiến lược giữa Trung Quốc và Mỹ tại châu Á - Thái Bình Dương đang ngày càng trở nên căng thẳng do Trung Quốc không ngừng lớn mạnh và dùng sức mạnh đó để bắt nạt các đồng minh của Mỹ ở châu Á, ngăn cản sự hiện diện của quân đội Mỹ ở vùng biển Hoa Đông và Biển Đông đồng thời cắt đứt con đường tiếp cận của Mỹ đến những vùng biển chung của thế giới để trở thành bá chủ trong khu vực.
Trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh và ổn định đã tạo thế và lực cho sự lớn mạnh về tầm ảnh hưởng và sự hiện diện về chính trị và quân sự của Trung Quốc trên khắp thế giới. Theo báo cáo mới nhất của Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm, ước tính ngân sách quốc phòng của Bắc Kinh năm 2011 đạt 142,2 tỷ USD. Tuy nhiên, theo con số của chính phủ Trung Quốc công bố, tổng ngân sách quốc phòng của Trung Quốc tăng từ 22,5 tỷ USD lên đến 89,9 tỷ USD trong vòng 11 năm từ năm 2000 đến 2011.
Những động thái gần đây giữa hai bên đã chứng tỏ rằng cả hai đã đưa ra quyết định chắc chắn tham gia vào một cuộc đối đầu lâu dài không những trên lĩnh vực ngoại giao mà cả lĩnh vực quân sự. Trong cuộc đối đầu này, các đối thủ một lần nữa sẵn sàng thể hiện sức mạnh vũ khí hạt nhân, từ đó có thể gây nên nhưng hậu quả toàn cầu.
Nét nổi bật đầu tiên trong cuộc đua này là do Mỹ khởi xướng, sau khi các tin tức cho biết mùa Hè năm ngoái quân đội Mỹ đã hoàn thành kế hoạch chuẩn bị cho một cuộc chiến “trên không – trên biển” lớn. Bằng cách phối hợp chặt chẽ lực lượng trên không và các hạm đội để phá hủy các kế hoạch phòng thủ bờ biển của đối phương, tư tưởng chiến lược của Mỹ là phát động các cuộc tấn công vào sâu lãnh thổ Trung Quốc khiến quân đội Trung Quốc bị tê liệt không thể chống lại các lực lượng Mỹ và nhóm tàu sân bay.
Đầu tháng 8/2012, Đô đốc Dennis Blair – cựu giám đốc Hội đồng Tình báo Quốc gia và quản lý toàn bộ cộng đồng tình báo Mỹ, đã thông qua kế hoạch này. Theo ông, kế hoạch được phát triển nhằm chống lại Trung Quốc, Bắc Triều Tiên và Iran. Mặc dù tài liệu vẫn đang được giữ bí mật, nhưng các nguồn tin khẳng định đây là kế hoạch nhằm phối hợp hơn nữa khả năng và sức mạnh của các lực lượng quân sự Mỹ trong cuộc chiến tranh tương lai.
Nhưng các chuyên gia nhận định kế hoạch này của Mỹ khó có thể đánh bại Trung Quốc. Do mấy năm gần đây Bắc Kinh luôn chú trọng các kế hoạch phòng thủ từ biển, do đó họ có thể biết các ý đồ của Mỹ từ công tác huấn luyện đến một cuộc chiến tranh thực sự.
Điều này thể hiện rõ ràng trên thực tế. Trong khuôn khổ thực hiện kế hoạch, Mỹ bắt đầu gia tăng sự hiện diện quân sự ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Đặc biệt, từ tháng 8/2012 Lầu Năm Góc bắt đầu theo dõi các vùng nước ven biển của Trung Quốc thông qua các hoạt động của các máy bay trinh sát không người lái.
Để thể hiện sự ủng hộ của mình với các đồng minh trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương, vào tháng 9 vừa qua, quân đội Mỹ đã cùng Lực lượng phòng vệ Nhật Bản tiến hành môt cuộc tập trận chung kéo dài 1 tháng tại đảo Guam ở phía tây Thái Bình Dương nhằm củng cố năng lực bảo vệ các hòn đảo xa xôi khỏi một cuộc tấn công từ “nước ngoài”.
Cuộc tập trận chung Mỹ – Nhật diễn ra cùng thời điểm với tuyên bố của Bộ Ngoại giao Mỹ rằng Hiệp ước an ninh Mỹ – Nhật được áp dụng đối với quần đảo tranh chấp Senkaku và Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Lean Panetta khi đến Singapore đã tuyên bố rằng 60% số tàu chiến của Mỹ, bao gồm 6 trong tổng số 11 tàu sân bay, sẽ được điều đến khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.
Jian Junbo, một chuyên gia quan hệ quốc tế của Trung Quốc tại Đại học Phục Đán ở thành phố Thượng Hải, cho rằng: “Dưới góc nhìn của Trung Quốc, không phải ngẫu nhiên mà các cuộc tranh chấp chủ quyền giữa nước này với Nhật Bản và các nước láng giềng quanh Biển Đông bất chợt trở nên căng thẳng sau khi Washington tuyên bố chiến lược “quay lại châu Á” của mình. Đằng sau tất cả các cuộc xung đột giữa Trung Quốc và các nước láng giềng trong những năm qua là cái bóng rất lớn của Hoa Kỳ”.
Ngược lại, Trung Quốc cho biết họ có các phương tiện có khả năng ngăn chặn quân đội Mỹ triển khai các kế hoạch tấn công Trung Quốc từ biển. Tháng 8/2012, quân đội Trung Quốc tổ chức một số cuộc diễn tập các tên lửa đánh chặn. Mùa Hè năm nay, sau khi tái trang bị các loại vũ khí và chuấn bị chính thức đưa vào hoạt động, tàu sân bay đầu tiên của Trung Quốc, Liêu Ninh, đã trải qua các cuộc chạy thử và chính thức biên chế cho Hải quân nước này. Tuy thực tế chiếc tàu sân bay này chưa thể hoạt động đầy đủ nhưng nó là biểu tượng quốc gia với ý nghĩa răn đe to lớn. Trung Quốc cũng phô trương cho toàn thế giới chứng kiến các tàu chiến tốc độ cao có thể tác chiến ở các khu vực ven biển và các tàu khu trục tên lửa có thể tấn công các mục tiêu cách xa bờ biển Trung Quốc.
Theo dự đoán của các chuyên gia, Trung Quốc đã thành lập tuyến phòng thủ dọc bờ biển và phát triển ra ngoài xa vùng biển hơn l.000km. Hay nói một cách chính xác, trong phạm vi phòng thủ này, các tàu sân bay của Mỹ có thể bị các tên lửa đạn đạo Đông Phương-21 của Trung Quốc tấn công bất cứ lúc nào. Chiến lược cửa Mỹ dự định khắc phục tuyến phòng thủ như vậy của Trung Quốc bằng cách sử dụng các loại vũ khí thông thường nhưng hiện đại, kể cả các công nghệ máy tính và tình báo vô tuyến điện tử của lực lượng không quân và hạm đội, nhưng không phát động cuộc tấn công tên lửa hạt nhân đồng loạt, về bản chất, kế hoạch “tác chiến trên không- trên biển” là nhiệm vụ mà hạm đội và Bộ Chỉ huy Mỹ đã từng tiến hành trong Chiến tranh Thế giới Thứ II ở Thái Bình Dương chống Nhật Bản. Nhưng điều đáng quan tâm là sự phát triển của hạm đội Trung Quốc lần đầu tiên trong hơn 50 năm qua sẽ buộc hạm đội Mỹ phải chuẩn bị đối đầu với các hạm đội trên biển. Một số chuyên gia cho rằng chiến lược “tác chiến trên không – trên biển” không có ý nghĩa gì cả, bởi vì nó không thể hiện rõ nhiệm vụ tiêu diệt và phá hủy các hạm đội cũng như tuyến phòng thủ ven biển của Trung Quốc liên quan đến mục tiêu thống trị toàn cầu của Mỹ ra sao và việc tăng cường kiểm soát khu vực châu Á-Thái Bình Dương có ý nghĩa gì đối với sự thống trị toàn cầu như vậy. Không có nhà hoạt động chính trị cũng như quan chức chỉ huy quân sự nào của Mỹ đưa ra được câu trả lời thuyết phục và bình luận về vấn đề này. Trong khi đó, Trung Quốc không chờ đợi những lời giải thích của Mỹ và sẵn sàng đáp trả tất cả các mối đe dọa tiềm tàng không đối xứng.
Ngày 16/8, quân đội Trung Quốc tổ chức cuộc thử nghiệm tên lửa đạn đạo xuyên lục địa JL-2, được phóng từ một tàu ngầm lớp “Tấn” ở Biển Hoàng Hải. Tiếp đến ngày 24/8, Trung Ọuốc tuyên bố, tháng 6/2012 họ đã thử thành công tên lửa Đông Phương-41 (DF-41) thế hệ thứ 3, tầm bắn tới 14.000 km, mỗi tên lửa có thể mang 19 đầu đạn và được phóng từ các xe tải cơ động. Vì vậy, tên lửa này có thể bay đên bất cứ điểm nào trên lãnh thổ Mỹ và phá hủy hệ thống phòng thủ tên lửa hiện nay của Mỹ. Nhưng sau đó, một số chuyên gia nghi ngờ các vụ thử tên lửa Đông Phương-41 và cho đó chỉ là sự lừa bịp. Họ khẳng định Trung Quốc không có loại tên lửa này và đang dự định phát triển khoảng 20-30 tên lửa. Hiện nay toàn bộ kho hạt nhân của Trung Quốc chỉ có 240 đầu đạn hạt nhân, trong khi kho hạt nhân của Mỹ có tới hơn 2000 đầu đạn hạt nhân sẵn sàng sử dụng và hơn 5000 đầu đạn dự trữ.
Tuy nhiên, báo chí Mỹ nhanh chóng phản ứng trước các vụ thử tên lửa của Trung Quốc và gọi các vụ thử đó là một biện pháp đe dọa của Bắc Kinh. “Nhật báo Phố Wall” của Mỹ giữa tháng 8/2012 đăng phát biểu của một số chuyên gia quân sự cho rằng, trận địa rađa phòng thủ tên lửa ở Alaska sẽ không hiệu quả đối với các tên lửa Trung Quốc và đó là lý do tại sao sắp tới Mỹ cần bắt đầu thảo luận các kế hoạch bố trí 2 trận địa rađa mới ở phía Nam Nhật Bản và Philippines như các trận địa rađa mà Mỹ thiết lập tại châu Âu. Gần đây các nhà chức trách Nhật Bản và Đài Loan cũng công bố các kế hoạch tăng cường phòng thủ tên lửa của hai nước. Lầu Năm Góc khẳng định nhiệm vụ ưu tiên của Mỹ là bảo vệ Đài Loan bằng hệ thống phòng thủ tên lửa và thành lập một căn cứ hệ thống phòng thủ tên lửa khu vực và kết hợp các hệ thống phòng thủ của Mỹ với các hệ thống phòng thủ ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Australia.
Cuộc đối đầu Mỹ-Trung đang biến thành một cuộc chạy đua vũ trang khu vực, đe dọa trở thành một nhân tố cạnh tranh toàn cầu. Hiện nay Trung Quốc sợ rằng Mỹ sẽ sử dụng các kinh nghiệm của chính sách ngăn chặn hạt nhân trong Chiến tranh Lạnh với Liên Xô để chống Trung Quốc thông qua hệ thống các căn cứ quân sự, tàu chiến và vòng vây của các nước đồng minh. Bắc Kinh cho rằng, trong trường hợp như vậy, mục tiêu của Mỹ là ngăn chặn Trung Quốc phát động một cuộc tấn công tên lửa hạt nhân nếu Mỹ mở cuộc tấn công quân sự đầu tiên. Bởi vì trước đây ngay sau khi Mỹ chắc chắn tránh được một cuộc phản công từ Liên Xô và bảo đảm các thành phố lớn nhất của Mỹ không bị hủy diệt, Washington bắt đầụ các cuộc đàm phán về cắt giảm vũ khí tấn công và đưa ra các điều kiện khiến cuộc chiến tranh hạt nhân trở thành vô nghĩa và không thể xảy ra.
Hơn nữa, hiện nay đa số người Mỹ nghĩ rằng sức mạnh quân sự của Trung Quốc vẫn còn yếu so với Mỹ. Nhưng họ quên rằng Bắc Kinh đang phát triển chương trình hạt nhân trong khuôn khổ hạn chế và rõ ràng sẽ làm hết mình để đạt được các phương tiện trả đũa, cho dù Trung Quốc phải trải qua một chặng đường dài mới đạt được sức mạnh quân sự ngang bằng Mỹ. Gần đây Bắc Kinh còn tuyên bố sẽ phát triển hệ thống phòng thủ tên lửa riêng của họ để đối phó với các tên lửa Mỹ. Đây là lý do khiến các nhà chiến lược của Mỹ tiếp tục nỗ lực hiện đại hóa các hệ thống vũ khí đế đáp trả các đối thủ cạnh tranh của Mỹ như Trung Quốc, Iran và Bắc Triều Tiên. Và mối đe dọa thực sự đối với an ninh quốc gia của Mỹ sẽ xảy ra không chỉ khi Trung Quốc có các loại tên lửa hoặc tàu sân bay nhiều hơn mà cả trong trường hợp Trung Quốc nỗ lực tìm kiếm các giải pháp đặc biệt để đáp trả các thách thức an ninh nhằm ngăn chặn Mỹ trở lại châu Á-Thái Bình Dương. Vì vậy, cuộc chạy đua vũ trang giữa Mỹ và Trung Quốc đã và sẽ tiếp tục được thúc đẩy trong thời gian tới./.
- Mỹ – Trung vào cuộc chạy đua vũ trang mới (TQ). – Tàu sân bay Mỹ lượn khắp Thái Bình dương (VNE).
- Chủ quyền quốc gia là thiêng liêng, bất khả xâm phạm (TN). – Khám phá 90 bản đồ cổ liên quan Trường Sa, Hoàng Sa (TP).
- Những máy bay Mỹ biên chế trong quân đội Việt Nam (PN Today).
- Trung Quốc đã kéo tàu ngầm ra Senkaku? (GDVN). – Nhật giải mã cuộc diễu hành trên biển của 7 tàu TQ(VNN).
- Bắc Kinh nổi đóa vì 2 Bộ trưởng Nhật thăm Yasukuni (TTXVN). – Hàn Quốc chỉ trích quan chức Nhật Bản thăm đền Yasukuni (VOV). – Tổng thống Hàn Quốc bất ngờ thăm đảo biên giới (TT).
- Tăng cường hợp tác giữa các nước châu Á (TN).
-Biển Đông đẩy Hoa Kỳ và Trung Quốc đến bờ chiến tranh lạnh ? Trong bài nhận định đăng trên trang web của Hội Asia Society tại New York ngày 02/10/2012, giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng thuộc Đại học George Mason, tiểu bang Virginia (Hoa Kỳ) đã cho rằng tranh chấp Biển Đông hiện nay, với thái độ lấn lướt của Trung Quốc và quyết định can dự của Hoa Kỳ đã có đầy đủ dấu hiệu của một cuộc ‘chiến tranh lạnh mới’. Theo ông cần phải công nhận thực tế này thì mới có được giải pháp né tránh thích hợp.
Máy bay Trung Quốc trong một cuộc tập trận
Cuộc ganh đua chiến lược giữa Trung Quốc và Mỹ tại châu Á - Thái Bình Dương đang ngày càng trở nên căng thẳng do Trung Quốc không ngừng lớn mạnh và dùng sức mạnh đó để bắt nạt các đồng minh của Mỹ ở châu Á, ngăn cản sự hiện diện của quân đội Mỹ ở vùng biển Hoa Đông và Biển Đông đồng thời cắt đứt con đường tiếp cận của Mỹ đến những vùng biển chung của thế giới để trở thành bá chủ trong khu vực.
Trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh và ổn định đã tạo thế và lực cho sự lớn mạnh về tầm ảnh hưởng và sự hiện diện về chính trị và quân sự của Trung Quốc trên khắp thế giới. Theo báo cáo mới nhất của Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm, ước tính ngân sách quốc phòng của Bắc Kinh năm 2011 đạt 142,2 tỷ USD. Tuy nhiên, theo con số của chính phủ Trung Quốc công bố, tổng ngân sách quốc phòng của Trung Quốc tăng từ 22,5 tỷ USD lên đến 89,9 tỷ USD trong vòng 11 năm từ năm 2000 đến 2011.
Những động thái gần đây giữa hai bên đã chứng tỏ rằng cả hai đã đưa ra quyết định chắc chắn tham gia vào một cuộc đối đầu lâu dài không những trên lĩnh vực ngoại giao mà cả lĩnh vực quân sự. Trong cuộc đối đầu này, các đối thủ một lần nữa sẵn sàng thể hiện sức mạnh vũ khí hạt nhân, từ đó có thể gây nên nhưng hậu quả toàn cầu.
Nét nổi bật đầu tiên trong cuộc đua này là do Mỹ khởi xướng, sau khi các tin tức cho biết mùa Hè năm ngoái quân đội Mỹ đã hoàn thành kế hoạch chuẩn bị cho một cuộc chiến “trên không – trên biển” lớn. Bằng cách phối hợp chặt chẽ lực lượng trên không và các hạm đội để phá hủy các kế hoạch phòng thủ bờ biển của đối phương, tư tưởng chiến lược của Mỹ là phát động các cuộc tấn công vào sâu lãnh thổ Trung Quốc khiến quân đội Trung Quốc bị tê liệt không thể chống lại các lực lượng Mỹ và nhóm tàu sân bay.
Đầu tháng 8/2012, Đô đốc Dennis Blair – cựu giám đốc Hội đồng Tình báo Quốc gia và quản lý toàn bộ cộng đồng tình báo Mỹ, đã thông qua kế hoạch này. Theo ông, kế hoạch được phát triển nhằm chống lại Trung Quốc, Bắc Triều Tiên và Iran. Mặc dù tài liệu vẫn đang được giữ bí mật, nhưng các nguồn tin khẳng định đây là kế hoạch nhằm phối hợp hơn nữa khả năng và sức mạnh của các lực lượng quân sự Mỹ trong cuộc chiến tranh tương lai.
Nhưng các chuyên gia nhận định kế hoạch này của Mỹ khó có thể đánh bại Trung Quốc. Do mấy năm gần đây Bắc Kinh luôn chú trọng các kế hoạch phòng thủ từ biển, do đó họ có thể biết các ý đồ của Mỹ từ công tác huấn luyện đến một cuộc chiến tranh thực sự.
Điều này thể hiện rõ ràng trên thực tế. Trong khuôn khổ thực hiện kế hoạch, Mỹ bắt đầu gia tăng sự hiện diện quân sự ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Đặc biệt, từ tháng 8/2012 Lầu Năm Góc bắt đầu theo dõi các vùng nước ven biển của Trung Quốc thông qua các hoạt động của các máy bay trinh sát không người lái.
Để thể hiện sự ủng hộ của mình với các đồng minh trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương, vào tháng 9 vừa qua, quân đội Mỹ đã cùng Lực lượng phòng vệ Nhật Bản tiến hành môt cuộc tập trận chung kéo dài 1 tháng tại đảo Guam ở phía tây Thái Bình Dương nhằm củng cố năng lực bảo vệ các hòn đảo xa xôi khỏi một cuộc tấn công từ “nước ngoài”.
Cuộc tập trận chung Mỹ – Nhật diễn ra cùng thời điểm với tuyên bố của Bộ Ngoại giao Mỹ rằng Hiệp ước an ninh Mỹ – Nhật được áp dụng đối với quần đảo tranh chấp Senkaku và Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Lean Panetta khi đến Singapore đã tuyên bố rằng 60% số tàu chiến của Mỹ, bao gồm 6 trong tổng số 11 tàu sân bay, sẽ được điều đến khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.
Jian Junbo, một chuyên gia quan hệ quốc tế của Trung Quốc tại Đại học Phục Đán ở thành phố Thượng Hải, cho rằng: “Dưới góc nhìn của Trung Quốc, không phải ngẫu nhiên mà các cuộc tranh chấp chủ quyền giữa nước này với Nhật Bản và các nước láng giềng quanh Biển Đông bất chợt trở nên căng thẳng sau khi Washington tuyên bố chiến lược “quay lại châu Á” của mình. Đằng sau tất cả các cuộc xung đột giữa Trung Quốc và các nước láng giềng trong những năm qua là cái bóng rất lớn của Hoa Kỳ”.
Ngược lại, Trung Quốc cho biết họ có các phương tiện có khả năng ngăn chặn quân đội Mỹ triển khai các kế hoạch tấn công Trung Quốc từ biển. Tháng 8/2012, quân đội Trung Quốc tổ chức một số cuộc diễn tập các tên lửa đánh chặn. Mùa Hè năm nay, sau khi tái trang bị các loại vũ khí và chuấn bị chính thức đưa vào hoạt động, tàu sân bay đầu tiên của Trung Quốc, Liêu Ninh, đã trải qua các cuộc chạy thử và chính thức biên chế cho Hải quân nước này. Tuy thực tế chiếc tàu sân bay này chưa thể hoạt động đầy đủ nhưng nó là biểu tượng quốc gia với ý nghĩa răn đe to lớn. Trung Quốc cũng phô trương cho toàn thế giới chứng kiến các tàu chiến tốc độ cao có thể tác chiến ở các khu vực ven biển và các tàu khu trục tên lửa có thể tấn công các mục tiêu cách xa bờ biển Trung Quốc.
Theo dự đoán của các chuyên gia, Trung Quốc đã thành lập tuyến phòng thủ dọc bờ biển và phát triển ra ngoài xa vùng biển hơn l.000km. Hay nói một cách chính xác, trong phạm vi phòng thủ này, các tàu sân bay của Mỹ có thể bị các tên lửa đạn đạo Đông Phương-21 của Trung Quốc tấn công bất cứ lúc nào. Chiến lược cửa Mỹ dự định khắc phục tuyến phòng thủ như vậy của Trung Quốc bằng cách sử dụng các loại vũ khí thông thường nhưng hiện đại, kể cả các công nghệ máy tính và tình báo vô tuyến điện tử của lực lượng không quân và hạm đội, nhưng không phát động cuộc tấn công tên lửa hạt nhân đồng loạt, về bản chất, kế hoạch “tác chiến trên không- trên biển” là nhiệm vụ mà hạm đội và Bộ Chỉ huy Mỹ đã từng tiến hành trong Chiến tranh Thế giới Thứ II ở Thái Bình Dương chống Nhật Bản. Nhưng điều đáng quan tâm là sự phát triển của hạm đội Trung Quốc lần đầu tiên trong hơn 50 năm qua sẽ buộc hạm đội Mỹ phải chuẩn bị đối đầu với các hạm đội trên biển. Một số chuyên gia cho rằng chiến lược “tác chiến trên không – trên biển” không có ý nghĩa gì cả, bởi vì nó không thể hiện rõ nhiệm vụ tiêu diệt và phá hủy các hạm đội cũng như tuyến phòng thủ ven biển của Trung Quốc liên quan đến mục tiêu thống trị toàn cầu của Mỹ ra sao và việc tăng cường kiểm soát khu vực châu Á-Thái Bình Dương có ý nghĩa gì đối với sự thống trị toàn cầu như vậy. Không có nhà hoạt động chính trị cũng như quan chức chỉ huy quân sự nào của Mỹ đưa ra được câu trả lời thuyết phục và bình luận về vấn đề này. Trong khi đó, Trung Quốc không chờ đợi những lời giải thích của Mỹ và sẵn sàng đáp trả tất cả các mối đe dọa tiềm tàng không đối xứng.
Ngày 16/8, quân đội Trung Quốc tổ chức cuộc thử nghiệm tên lửa đạn đạo xuyên lục địa JL-2, được phóng từ một tàu ngầm lớp “Tấn” ở Biển Hoàng Hải. Tiếp đến ngày 24/8, Trung Ọuốc tuyên bố, tháng 6/2012 họ đã thử thành công tên lửa Đông Phương-41 (DF-41) thế hệ thứ 3, tầm bắn tới 14.000 km, mỗi tên lửa có thể mang 19 đầu đạn và được phóng từ các xe tải cơ động. Vì vậy, tên lửa này có thể bay đên bất cứ điểm nào trên lãnh thổ Mỹ và phá hủy hệ thống phòng thủ tên lửa hiện nay của Mỹ. Nhưng sau đó, một số chuyên gia nghi ngờ các vụ thử tên lửa Đông Phương-41 và cho đó chỉ là sự lừa bịp. Họ khẳng định Trung Quốc không có loại tên lửa này và đang dự định phát triển khoảng 20-30 tên lửa. Hiện nay toàn bộ kho hạt nhân của Trung Quốc chỉ có 240 đầu đạn hạt nhân, trong khi kho hạt nhân của Mỹ có tới hơn 2000 đầu đạn hạt nhân sẵn sàng sử dụng và hơn 5000 đầu đạn dự trữ.
Tuy nhiên, báo chí Mỹ nhanh chóng phản ứng trước các vụ thử tên lửa của Trung Quốc và gọi các vụ thử đó là một biện pháp đe dọa của Bắc Kinh. “Nhật báo Phố Wall” của Mỹ giữa tháng 8/2012 đăng phát biểu của một số chuyên gia quân sự cho rằng, trận địa rađa phòng thủ tên lửa ở Alaska sẽ không hiệu quả đối với các tên lửa Trung Quốc và đó là lý do tại sao sắp tới Mỹ cần bắt đầu thảo luận các kế hoạch bố trí 2 trận địa rađa mới ở phía Nam Nhật Bản và Philippines như các trận địa rađa mà Mỹ thiết lập tại châu Âu. Gần đây các nhà chức trách Nhật Bản và Đài Loan cũng công bố các kế hoạch tăng cường phòng thủ tên lửa của hai nước. Lầu Năm Góc khẳng định nhiệm vụ ưu tiên của Mỹ là bảo vệ Đài Loan bằng hệ thống phòng thủ tên lửa và thành lập một căn cứ hệ thống phòng thủ tên lửa khu vực và kết hợp các hệ thống phòng thủ của Mỹ với các hệ thống phòng thủ ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Australia.
Cuộc đối đầu Mỹ-Trung đang biến thành một cuộc chạy đua vũ trang khu vực, đe dọa trở thành một nhân tố cạnh tranh toàn cầu. Hiện nay Trung Quốc sợ rằng Mỹ sẽ sử dụng các kinh nghiệm của chính sách ngăn chặn hạt nhân trong Chiến tranh Lạnh với Liên Xô để chống Trung Quốc thông qua hệ thống các căn cứ quân sự, tàu chiến và vòng vây của các nước đồng minh. Bắc Kinh cho rằng, trong trường hợp như vậy, mục tiêu của Mỹ là ngăn chặn Trung Quốc phát động một cuộc tấn công tên lửa hạt nhân nếu Mỹ mở cuộc tấn công quân sự đầu tiên. Bởi vì trước đây ngay sau khi Mỹ chắc chắn tránh được một cuộc phản công từ Liên Xô và bảo đảm các thành phố lớn nhất của Mỹ không bị hủy diệt, Washington bắt đầụ các cuộc đàm phán về cắt giảm vũ khí tấn công và đưa ra các điều kiện khiến cuộc chiến tranh hạt nhân trở thành vô nghĩa và không thể xảy ra.
Hơn nữa, hiện nay đa số người Mỹ nghĩ rằng sức mạnh quân sự của Trung Quốc vẫn còn yếu so với Mỹ. Nhưng họ quên rằng Bắc Kinh đang phát triển chương trình hạt nhân trong khuôn khổ hạn chế và rõ ràng sẽ làm hết mình để đạt được các phương tiện trả đũa, cho dù Trung Quốc phải trải qua một chặng đường dài mới đạt được sức mạnh quân sự ngang bằng Mỹ. Gần đây Bắc Kinh còn tuyên bố sẽ phát triển hệ thống phòng thủ tên lửa riêng của họ để đối phó với các tên lửa Mỹ. Đây là lý do khiến các nhà chiến lược của Mỹ tiếp tục nỗ lực hiện đại hóa các hệ thống vũ khí đế đáp trả các đối thủ cạnh tranh của Mỹ như Trung Quốc, Iran và Bắc Triều Tiên. Và mối đe dọa thực sự đối với an ninh quốc gia của Mỹ sẽ xảy ra không chỉ khi Trung Quốc có các loại tên lửa hoặc tàu sân bay nhiều hơn mà cả trong trường hợp Trung Quốc nỗ lực tìm kiếm các giải pháp đặc biệt để đáp trả các thách thức an ninh nhằm ngăn chặn Mỹ trở lại châu Á-Thái Bình Dương. Vì vậy, cuộc chạy đua vũ trang giữa Mỹ và Trung Quốc đã và sẽ tiếp tục được thúc đẩy trong thời gian tới./.
- Mỹ – Trung vào cuộc chạy đua vũ trang mới (TQ). – Tàu sân bay Mỹ lượn khắp Thái Bình dương (VNE).
- Chủ quyền quốc gia là thiêng liêng, bất khả xâm phạm (TN). – Khám phá 90 bản đồ cổ liên quan Trường Sa, Hoàng Sa (TP).
- Những máy bay Mỹ biên chế trong quân đội Việt Nam (PN Today).
- Trung Quốc đã kéo tàu ngầm ra Senkaku? (GDVN). – Nhật giải mã cuộc diễu hành trên biển của 7 tàu TQ(VNN).
- Bắc Kinh nổi đóa vì 2 Bộ trưởng Nhật thăm Yasukuni (TTXVN). – Hàn Quốc chỉ trích quan chức Nhật Bản thăm đền Yasukuni (VOV). – Tổng thống Hàn Quốc bất ngờ thăm đảo biên giới (TT).
- Tăng cường hợp tác giữa các nước châu Á (TN).
-Biển Đông đẩy Hoa Kỳ và Trung Quốc đến bờ chiến tranh lạnh ? Trong bài nhận định đăng trên trang web của Hội Asia Society tại New York ngày 02/10/2012, giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng thuộc Đại học George Mason, tiểu bang Virginia (Hoa Kỳ) đã cho rằng tranh chấp Biển Đông hiện nay, với thái độ lấn lướt của Trung Quốc và quyết định can dự của Hoa Kỳ đã có đầy đủ dấu hiệu của một cuộc ‘chiến tranh lạnh mới’. Theo ông cần phải công nhận thực tế này thì mới có được giải pháp né tránh thích hợp.
Trong thời gian gần đây, ngoài việc làm dấy lên căng thẳng với Nhật Bản trên vấn đề chủ quyền tại vùng biển Hoa Đông, Trung Quốc vẫn tiếp tục các động thái bị xem là khiêu khích đối với các nước nhỏ ở Đông Nam Á nhằm áp đặt chủ quyền của Bắc Kinh trên toàn bộ Biển Đông. Trong tình hình đó, cường quốc Thái Bình Dương là Hoa Kỳ đã tiếp tục phô trương uy lực quân sự của mình trong toàn khu vực Tây Thái Bình Dương, mà gần đây nhất là tung một lực lượng hùng hậu vào cuộc tập trận hỗn hợp với Philippines.
Trong bối cảnh đó, ngày 02/10/2012 vừa qua, trang web của Hội Asia Society tại New York đã công bố một bài nhận định viết bằng tiếng Anh, mà tựa đề là một câu hỏi : « Tranh chấp Biển Đông có thể dẫn đến một cuộc ‘chiến tranh lạnh mới’ hay không ? (Could Conflict in the South China Sea Lead to a 'New Cold War' ?) ». Tác giả bài viết là giáo sư chính trị học Nguyễn Mạnh Hùng, Đại học George Mason, tiểu bang Virginia (Hoa Kỳ).
Nội dung bài phân tích nêu bật tính chất tương đồng trong đối sách của Mỹ hiện nay trước thái độ lấn lướt của Trung Quốc tại khu vực Biển Đông, với tình hình quan hệ Hoa Kỳ - Liên Xô liên quan đến Châu Âu, hai năm đầu tiên sau khi Đệ nhị Thế chiến kết thúc, khi Washington phân vân trong cách ứng xử trước các đòi hỏi quá trớn của Mátxcơva, bất chấp các cam kết trước đó.
Đối với giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, “Trung Quốc ngày nay đã bộc lộ tất cả các dấu hiệu của một cường quốc đòi thay đổi nguyên trạng (revisionist power) ở châu Á. Bằng việc công bố tấm bản đồ 9 đường gián đoạn, nước này đã đòi chủ quyền trên hơn 80% Biển Đông, ăn vào vùng lãnh hải của các láng giềng nhỏ hơn. Một cách từ từ nhưng đều đặn, Trung Quốc đã hung hăng củng cố các đòi hỏi chủ quyền bằng cách áp đặt một lệnh cấm đánh bắt cá đơn phương trong vùng biển tranh chấp, chăng giây chặn lối vào bãi Scarborough ngoài khơi bờ biển Philippines, cắt cáp của tàu Việt Nam đang thăm dò dầu khí trong vùng đặc quyền kinh tế của mình, và cho đấu thầu thăm dò dầu khí trong khu vực mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền.”
Trước tình hình đó, giáo sư Hùng đã ghi nhận sự kiện là có rất đông nhà học giả hay nghiên cứu Mỹ cho rằng “Hoa Kỳ không nên khuấy động tâm lý dân tộc chủ nghĩa ở Trung Quốc, rằng hòa bình tốt hơn là chiến tranh, rằng đàm phán tốt hơn là xung đột, rằng… mọi nỗ lực nên được tập trung vào việc tránh trở về chính sách vây chặn.”, tức là tạo ra một cuộc ‘chiến tranh lạnh’ với Trung Quốc.
Tuy nhiên, vấn đề hiện nay, theo giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, là giữa Mỹ và Trung Quốc, đang có mâu thuẫn quyền lợi rõ rệt tại vùng Biển Đông. Ông giải thích : “Trong khi Hoa Kỳ muốn được quyền tự do hàng hải bên trong giới hạn lãnh hải 12 hải lý, thì Trung Quốc đòi là việc thực hiện quyền tự do đó phải có sự cho phép của Trung Quốc. Trong khi Hoa Kỳ muốn có một hệ thống đa cực ở châu Á, Trung Quốc lại tìm kiếm thế bá chủ, chứ không muốn cân bằng quyền lực… Phó tổng thư ký của Hội đồng Nghiên cứu Chính sách An ninh Quốc gia Trung Quốc từng nói rõ là tranh chấp về Biển Đông về thực chất là một cuộc đối đầu gián tiếp giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ trên Biển Đông.”
Do vậy, đối với giáo sư Hùng, cần phải nhìn thẳng vào thực tế, công nhận nguy cơ chiến tranh lạnh, để từ đó rút ra những kết luận cần thiết để né tránh. Theo giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, một giải pháp công bằng và bền vững cho tranh chấp Biển Đông phải dựa trên ba yếu tố có quan hệ hỗ tương và phụ thuộc lẫn nhau : Trung Quốc tự kiềm chế, ASEAN đoàn kết lại, và Mỹ dấn thân vào khu vực, với nhân tố ASEAN vững mạnh và đoàn kết là quan trọng nhất.
Trả lời phỏng vấn của RFI, giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng đã nhấn mạnh khả năng chiến tranh lạnh Trung Mỹ xẩy ra do các động thái ngày càng quyết đoán của Trung Quốc ở Biển Đông, nhưng đây sẽ là một cuộc chiến tranh lạnh "mới", khác với thời kỳ Liên Xô trước đây.
NMH : - Một cuộc chiến tranh lạnh mới có thể xẩy ra, nếu các quốc gia Đông Nam Á không thể đoàn kết được với nhau để tạo thành một sức mạnh, có thể vừa kềm chế được Trung Quốc, vừa khuyến khích được Mỹ can thiệp vào vùng đó.
Nếu không thì sẽ xẩy ra tình trạng chiến tranh lạnh như kiểu ngày xưa, tức là có một số yếu tố, thứ nhất là sự vây chặn (containment), kế đến là sự sắp hàng theo những liên minh khác nhau (alignment). Nhưng cuộc chiến tranh lạnh này khác với ngày xưa vì có một số yếu tố làm giảm bớt độ mạnh : thứ nhất là sự liên lập chính trị toàn cầu (political interdependance) và thứ hai là khung cảnh toàn cầu hóa về kinh tế...
Ngày xưa, nhất là vào thời kỳ đầu tiên, chỉ có đối đầu mà không có cộng tác, và thế giới đứng trước bờ vực thẳm của chiến tranh nguyên tử. Lần này thì không như thế… không có chiến tranh nguyên tử, và có đối đầu nhưng cũng có sự cộng tác.
RFI : Không khí chiến tranh lạnh xuất phát từ các hành động quyết đoán của Trung Quốc trong hồ sơ tranh chấp Biển Đông ?
NMH : Vâng, những tranh chấp gần đây, nhất từ năm 2009, phần lớn xuất phát từ phiá Trung Quốc, từ những hành động của Trung Quốc... tìm cách chậm chạp, từ từ và dần dần thực hiện các đòi hỏi của mình, nhất là đòi hỏi về đường lưỡi bò.
Và nếu thực hiện được điều đó, Trung Quốc sẽ biến vùng Biển Đông thành cái hồ của họ, và trong cái hồ đó, Trung Quốc sẽ đòi rất nhiều quyền và sẽ làm cho ảnh hưởng của Mỹ mất hẳn đi trong vùng đó.
Mà khi ảnh hưởng của Mỹ mất hẳn trong vùng, thì các quốc gia Á châu chỉ còn cách là phải xếp hàng, nghiêng về phía bên này hoặc bên kia, và trong trường hợp Mỹ đi ra như vậy, thì châu Á phải thích ứng (accommodate) với sự hiện diện lớn lao của Trung Quốc.
RFI : Nguy cơ có thể dẫn tới tình hình chiến tranh lạnh ?
NMH : Nó tùy thuộc ba yếu tố. Thứ nhất là thái độ của Trung Quốc, thứ hai là khả năng các nước Đông Nam Á và thứ ba là sự cam kết (engagement) của Mỹ... Khi tôi nói không khí gần như là chiến tranh lạnh ngày xưa, đó là vì có một số hiện tượng tương tự.
Thứ nhất là ngày xưa, sau Đệ nhị Thế chiến, bên Châu Âu có một quốc gia (Liên Xô), tuy bị chiến tranh tàn phá, nhưng lại nổi trội lên và ngày càng áp đảo các quốc gia khác và không tôn trọng những thỏa thuận ở Yalta giữa các ông Roosevelt, Churchill và Stalin, yêu cầu cho Đông Âu được quyền tự quyết qua những cuộc tuyển cử tự do. Nhưng Nga cứ tiếp tục áp đặt ý định của mình là thiết lập ảnh hưởng trong những vùng đó.
Nga lại không chiụ rút khỏi Iran như đã thoả thuận, rồi lại còn đòi quyền quản trị chung hai eo biển quan trọng nhất là Dardanelles và Bosphorus, thuộc thẩm quyền của Thổ Nhĩ Kỳ. Thì đấy là khuynh hướng bành trướng thêm, không những trên đất liền, mà còn trên biển.
Trung Quốc lấn lướt, Mỹ đang chần chừ
Giờ đây cũng có một hiện tượng như vậy. Cạnh những quốc gia nhỏ bé ở Đông Nam Á, có một quốc gia lớn là Trung Quốc, đang hiện đại hóa quân đội - bị người ta phàn nàn là mục tiêu không rõ ràng, tức là bị nghi ngờ hiện đại hóa quân đội để gây áp lực trên các quốc gia khác. Và quốc gia đó cũng đòi một cái 'đường lưỡi bò', cũng là một đòi hỏi không hợp lý, và làm áp lực trên các nước nhỏ, đó là điểm giống nhau thứ nhất.
Điểm thứ hai liên quan đến Mỹ. Thời đó, sau khi thấy hành động của Nga, Mỹ cũng có nhiều đề nghị khác nhau. Có những đề nghị có tính cách ôn hòa như của ông Harriman chẳng hạn, bảo ông Truman cứ nói mạnh lên là Nga sẽ rút lui. Thì ông Truman cũng nói mạnh lên, nhưng không thành công gì cả. Rồi cũng có ý định khác của ông George Keenan - đề nghị phải vây chặn, vì không chặn thì Nga cứ tiếp tục bành trướng - và lời cảnh cáo thứ hai của ông Churchill, nói rằng bức màn sắt đã bắt đầu đổ xuống các quốc gia Đông Âu rồi, phải tìm cách giữ các vùng còn lại.
Bây giờ ở Mỹ cũng có những khuyến cáo khác nhau. Đa số học giả Mỹ thì khuyến cáo nên ôn hòa, nên thích ứng với Trung Quốc. Nhiều người còn cảnh cáo là lãnh đạo mới của Trung Quốc rất tự phụ, họ không tự ti như ngày xưa, và Trung Quốc lại còn không ổn định, vì có cảm tưởng bị vây chặn, cho nên phải tìm cách làm cho Trung Quốc đừng lo ngại. Cũng như ngày xưa người ta khuyến cáo về Stalin, cho là ông ta chỉ paranoid (hoang tưởng) về vấn đề bị (chủ nghĩa tư bản) vây chặn, thì bây giờ Trung Quốc cũng sợ bị vây chặn thì phải xoa dịu !
Còn một số người khác - số người này nhỏ thôi - nói là hành động của Trung Quốc không thể chấp nhận được… Mỹ không thể nào để Trung Quốc trở thành bá chủ ở Á châu. Như vậy hiện nay, ở Mỹ cũng những quan điểm khác nhau !
Và điểm thứ ba là sự lưỡng lự của Mỹ. Đến năm 1946, ông Truman đã biết (về ý định của Nga). Khi lên cầm quyền thay ông Roosevelt, ông Truman đã muốn hòa hoãn, tức là tiếp tục chính sách của Roosevelt. Đến năm 1946, sau khi có phúc trình của ông George Keenan về những hành động lấn lướt của Nga, thì ông Truman đã thấy nguy hiểm rồi.
Nhưng tình hình nước Mỹ lúc bấy giờ vừa mới hết chiến tranh, người Mỹ không muốn dấn thân ra bên ngoài, mà muốn được hưởng hoà bình, thành ra ông Truman cứ chần chừ mãi cho đến năm 1947, khi nổ ra khủng hoảng ở Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ, có cuộc chiến tranh khuynh đảo mà có Nga tham dự.
Lúc bấy giờ Anh Quốc – nước thường có trách nhiệm trong vùng – tuyên bố rút lui, bảo rằng không còn khả năng tiếp tục, và Mỹ muốn làm gì thì làm. Hoa Kỳ lúc ấy đã quyết định điền vào chỗ trống đó. Thì như vậy là Mỹ chần chừ cả một năm, dù có biết bao cảnh báo, cho đến năm 1947 mới quyết định chính sách vây chặn (containment).
Bây giờ cũng thế. Mỹ đang chần chừ. Có cảnh cáo, có đủ các thứ, có những hành động xâm lấn, nhưng vẫn có hy vọng có thể hòa hoãn. Dĩ nhiên, hy vọng tốt nhất là hai bên có thể thích ứng với nhau. Nếu không thì phải đi đến cạnh tranh.
RFI : Phải công nhận thực tế là đã có không khí chiến tranh lạnh để có hành động thích ứng ?
NMH : Tôi nghĩ là phải nhìn nhận thực tế bởi vì có những yếu tố như tôi đã nêu ra.
Trước hết Trung Quốc cần phải uyển chuyển về vấn đề đường lưỡi bò, cần phải bớt đi những đòi hỏi quá khích. Thứ hai là các quốc gia Á châu phải đoàn kết với nhau và chống lại cái « bá quyền » của Trung Quốc. Và thứ ba là Mỹ phải có can dự. Một trong 3 yếu tố đó mà không có, thì mọi sự lệch đi, không có giải pháp ổn thoả được.
Thì cũng có nhiều dấu hiệu là Trung Quốc có thể chấp nhận. Ở bên Trung Quốc, một số học giả cũng nói là đánh nhau với Mỹ bây giờ không có lợi, thứ hai nữa là về cơ bản, đòi hỏi của đường lưỡi bò không ổn cố, và thứ ba là nếu không cẩn thận, thì Trung Quốc sẽ trở thành kẻ thù của người khác.
Còn yếu tố thứ hai, là yếu tố « cam kết » của Mỹ, thì Mỹ đã nói là có cam kết. Và thật sự, họ cũng đã có một vòng đê chặn bên ngoài : Những nước như Úc, Tân Tây Lan, Phi Luật Tân, Nhật Bản, Nam Hàn, đều là đồng minh của Mỹ… Còn lại Thái Lan, Nam Dương (Indonesia), nhưng Thái Lan, Nam Dương một phần nào đó cũng là một loại đồng minh... Thành ra sự sắp hàng đã bắt đầu xẩy ra rồi.
Thế nhưng ngay bên Mỹ này, có thời Mỹ bị kẹt ở vùng Trung Đông, nên đã lơ là (châu Á), trong lúc đó thì Trung Quốc tiến ra. Nếu Mỹ không tỏ thái độ cứng rắn thì dĩ nhiên sẽ bị Trung Quốc lấn lướt.
ASEAN là yếu tố quan trọng nhất, nhưng yếu nhất
Điểm thứ ba là yếu tố quan trọng nhất, yếu tố Đông Nam Á. Đông Nam Á quả thực là vùng đệm (buffer zone) tốt nhất, bởi vì Mỹ và Trung Quốc chả muốn đụng độ trực tiếp với nhau.
Thành ra, nếu các nước Đông Nam Á có thể đoàn kết với nhau, thì có thể có một sức mạnh để mặc cả tập thể với Trung Quốc. Họ đương tìm cách lập ra cái gọi là Quy tắc ứng xử COC với Trung Quốc, nếu họ đoàn kết với nhau thì có thể được.
Điều khiến tôi bi quan là các quốc gia này có vẻ như là đồng sàng dị mộng, không làm được việc đó… Đầu tiên là vụ Scarborough giữa Phi Luật Tân và Trung Quốc. Phi Luật Tân đòi đưa (tranh chấp) vào nghị trình của ASEAN, nhưng không được…, không có một lời tuyên bố giúp đỡ nào cả, cuối cùng là trong lịch sử bao nhiêu năm của ASEAN, (hội nghị ở Phnom Penh tháng 07/2012) không ra nổi một thông cáo chung.
Sau đó, khi Ngoại trưởng Indonesia đi khắp các nước thì mới đưa ra được 6 nguyên tắc rất yếu. Bây giờ Đông Nam Á đang cố tiến đến bộ COC, nhưng không biết có được hay không ? Trong khi đó, chúng ta thấy Trung Quốc dùng cách chia để trị, chia rẽ những quốc gia đó.
Yếu tố ASEAN là yếu tố quan trọng nhất, nhưng tôi thấy là yếu nhất.
RFI : Trong phần phân tích, cần nhấn mạnh điểm nào trong thái độ của Mỹ ?
NMH : Chính sách Mỹ trong rất nhiều thập niên nay là ngăn chặn không cho một cường quốc nào không thân thiện với mình nổi lên đe dọa, làm bá chủ của vùng Á-Âu (Eurasia), tức suốt từ Trung Quốc sang đến Đông Âu... Nước nào kiểm soát vùng đó, thì Mỹ coi như là đe dọa đến quyền lợi của Mỹ, không những về an ninh mà cả về thương mại.
Đó là chính sách xuyên suốt từ bao nhiêu thập niên, nhưng uyển chuyển, khi rắn, như thời ông Reagan, khi mềm như thời ông Carter... Còn chính sách căn bản, theo tôi, có tính cách liên tục.
Trong bối cảnh đó, ngày 02/10/2012 vừa qua, trang web của Hội Asia Society tại New York đã công bố một bài nhận định viết bằng tiếng Anh, mà tựa đề là một câu hỏi : « Tranh chấp Biển Đông có thể dẫn đến một cuộc ‘chiến tranh lạnh mới’ hay không ? (Could Conflict in the South China Sea Lead to a 'New Cold War' ?) ». Tác giả bài viết là giáo sư chính trị học Nguyễn Mạnh Hùng, Đại học George Mason, tiểu bang Virginia (Hoa Kỳ).
Nội dung bài phân tích nêu bật tính chất tương đồng trong đối sách của Mỹ hiện nay trước thái độ lấn lướt của Trung Quốc tại khu vực Biển Đông, với tình hình quan hệ Hoa Kỳ - Liên Xô liên quan đến Châu Âu, hai năm đầu tiên sau khi Đệ nhị Thế chiến kết thúc, khi Washington phân vân trong cách ứng xử trước các đòi hỏi quá trớn của Mátxcơva, bất chấp các cam kết trước đó.
Đối với giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, “Trung Quốc ngày nay đã bộc lộ tất cả các dấu hiệu của một cường quốc đòi thay đổi nguyên trạng (revisionist power) ở châu Á. Bằng việc công bố tấm bản đồ 9 đường gián đoạn, nước này đã đòi chủ quyền trên hơn 80% Biển Đông, ăn vào vùng lãnh hải của các láng giềng nhỏ hơn. Một cách từ từ nhưng đều đặn, Trung Quốc đã hung hăng củng cố các đòi hỏi chủ quyền bằng cách áp đặt một lệnh cấm đánh bắt cá đơn phương trong vùng biển tranh chấp, chăng giây chặn lối vào bãi Scarborough ngoài khơi bờ biển Philippines, cắt cáp của tàu Việt Nam đang thăm dò dầu khí trong vùng đặc quyền kinh tế của mình, và cho đấu thầu thăm dò dầu khí trong khu vực mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền.”
Trước tình hình đó, giáo sư Hùng đã ghi nhận sự kiện là có rất đông nhà học giả hay nghiên cứu Mỹ cho rằng “Hoa Kỳ không nên khuấy động tâm lý dân tộc chủ nghĩa ở Trung Quốc, rằng hòa bình tốt hơn là chiến tranh, rằng đàm phán tốt hơn là xung đột, rằng… mọi nỗ lực nên được tập trung vào việc tránh trở về chính sách vây chặn.”, tức là tạo ra một cuộc ‘chiến tranh lạnh’ với Trung Quốc.
Tuy nhiên, vấn đề hiện nay, theo giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, là giữa Mỹ và Trung Quốc, đang có mâu thuẫn quyền lợi rõ rệt tại vùng Biển Đông. Ông giải thích : “Trong khi Hoa Kỳ muốn được quyền tự do hàng hải bên trong giới hạn lãnh hải 12 hải lý, thì Trung Quốc đòi là việc thực hiện quyền tự do đó phải có sự cho phép của Trung Quốc. Trong khi Hoa Kỳ muốn có một hệ thống đa cực ở châu Á, Trung Quốc lại tìm kiếm thế bá chủ, chứ không muốn cân bằng quyền lực… Phó tổng thư ký của Hội đồng Nghiên cứu Chính sách An ninh Quốc gia Trung Quốc từng nói rõ là tranh chấp về Biển Đông về thực chất là một cuộc đối đầu gián tiếp giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ trên Biển Đông.”
Do vậy, đối với giáo sư Hùng, cần phải nhìn thẳng vào thực tế, công nhận nguy cơ chiến tranh lạnh, để từ đó rút ra những kết luận cần thiết để né tránh. Theo giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, một giải pháp công bằng và bền vững cho tranh chấp Biển Đông phải dựa trên ba yếu tố có quan hệ hỗ tương và phụ thuộc lẫn nhau : Trung Quốc tự kiềm chế, ASEAN đoàn kết lại, và Mỹ dấn thân vào khu vực, với nhân tố ASEAN vững mạnh và đoàn kết là quan trọng nhất.
|
NMH : - Một cuộc chiến tranh lạnh mới có thể xẩy ra, nếu các quốc gia Đông Nam Á không thể đoàn kết được với nhau để tạo thành một sức mạnh, có thể vừa kềm chế được Trung Quốc, vừa khuyến khích được Mỹ can thiệp vào vùng đó.
Nếu không thì sẽ xẩy ra tình trạng chiến tranh lạnh như kiểu ngày xưa, tức là có một số yếu tố, thứ nhất là sự vây chặn (containment), kế đến là sự sắp hàng theo những liên minh khác nhau (alignment). Nhưng cuộc chiến tranh lạnh này khác với ngày xưa vì có một số yếu tố làm giảm bớt độ mạnh : thứ nhất là sự liên lập chính trị toàn cầu (political interdependance) và thứ hai là khung cảnh toàn cầu hóa về kinh tế...
Ngày xưa, nhất là vào thời kỳ đầu tiên, chỉ có đối đầu mà không có cộng tác, và thế giới đứng trước bờ vực thẳm của chiến tranh nguyên tử. Lần này thì không như thế… không có chiến tranh nguyên tử, và có đối đầu nhưng cũng có sự cộng tác.
RFI : Không khí chiến tranh lạnh xuất phát từ các hành động quyết đoán của Trung Quốc trong hồ sơ tranh chấp Biển Đông ?
NMH : Vâng, những tranh chấp gần đây, nhất từ năm 2009, phần lớn xuất phát từ phiá Trung Quốc, từ những hành động của Trung Quốc... tìm cách chậm chạp, từ từ và dần dần thực hiện các đòi hỏi của mình, nhất là đòi hỏi về đường lưỡi bò.
Và nếu thực hiện được điều đó, Trung Quốc sẽ biến vùng Biển Đông thành cái hồ của họ, và trong cái hồ đó, Trung Quốc sẽ đòi rất nhiều quyền và sẽ làm cho ảnh hưởng của Mỹ mất hẳn đi trong vùng đó.
Mà khi ảnh hưởng của Mỹ mất hẳn trong vùng, thì các quốc gia Á châu chỉ còn cách là phải xếp hàng, nghiêng về phía bên này hoặc bên kia, và trong trường hợp Mỹ đi ra như vậy, thì châu Á phải thích ứng (accommodate) với sự hiện diện lớn lao của Trung Quốc.
RFI : Nguy cơ có thể dẫn tới tình hình chiến tranh lạnh ?
NMH : Nó tùy thuộc ba yếu tố. Thứ nhất là thái độ của Trung Quốc, thứ hai là khả năng các nước Đông Nam Á và thứ ba là sự cam kết (engagement) của Mỹ... Khi tôi nói không khí gần như là chiến tranh lạnh ngày xưa, đó là vì có một số hiện tượng tương tự.
Thứ nhất là ngày xưa, sau Đệ nhị Thế chiến, bên Châu Âu có một quốc gia (Liên Xô), tuy bị chiến tranh tàn phá, nhưng lại nổi trội lên và ngày càng áp đảo các quốc gia khác và không tôn trọng những thỏa thuận ở Yalta giữa các ông Roosevelt, Churchill và Stalin, yêu cầu cho Đông Âu được quyền tự quyết qua những cuộc tuyển cử tự do. Nhưng Nga cứ tiếp tục áp đặt ý định của mình là thiết lập ảnh hưởng trong những vùng đó.
Nga lại không chiụ rút khỏi Iran như đã thoả thuận, rồi lại còn đòi quyền quản trị chung hai eo biển quan trọng nhất là Dardanelles và Bosphorus, thuộc thẩm quyền của Thổ Nhĩ Kỳ. Thì đấy là khuynh hướng bành trướng thêm, không những trên đất liền, mà còn trên biển.
Trung Quốc lấn lướt, Mỹ đang chần chừ
Giờ đây cũng có một hiện tượng như vậy. Cạnh những quốc gia nhỏ bé ở Đông Nam Á, có một quốc gia lớn là Trung Quốc, đang hiện đại hóa quân đội - bị người ta phàn nàn là mục tiêu không rõ ràng, tức là bị nghi ngờ hiện đại hóa quân đội để gây áp lực trên các quốc gia khác. Và quốc gia đó cũng đòi một cái 'đường lưỡi bò', cũng là một đòi hỏi không hợp lý, và làm áp lực trên các nước nhỏ, đó là điểm giống nhau thứ nhất.
Điểm thứ hai liên quan đến Mỹ. Thời đó, sau khi thấy hành động của Nga, Mỹ cũng có nhiều đề nghị khác nhau. Có những đề nghị có tính cách ôn hòa như của ông Harriman chẳng hạn, bảo ông Truman cứ nói mạnh lên là Nga sẽ rút lui. Thì ông Truman cũng nói mạnh lên, nhưng không thành công gì cả. Rồi cũng có ý định khác của ông George Keenan - đề nghị phải vây chặn, vì không chặn thì Nga cứ tiếp tục bành trướng - và lời cảnh cáo thứ hai của ông Churchill, nói rằng bức màn sắt đã bắt đầu đổ xuống các quốc gia Đông Âu rồi, phải tìm cách giữ các vùng còn lại.
Bây giờ ở Mỹ cũng có những khuyến cáo khác nhau. Đa số học giả Mỹ thì khuyến cáo nên ôn hòa, nên thích ứng với Trung Quốc. Nhiều người còn cảnh cáo là lãnh đạo mới của Trung Quốc rất tự phụ, họ không tự ti như ngày xưa, và Trung Quốc lại còn không ổn định, vì có cảm tưởng bị vây chặn, cho nên phải tìm cách làm cho Trung Quốc đừng lo ngại. Cũng như ngày xưa người ta khuyến cáo về Stalin, cho là ông ta chỉ paranoid (hoang tưởng) về vấn đề bị (chủ nghĩa tư bản) vây chặn, thì bây giờ Trung Quốc cũng sợ bị vây chặn thì phải xoa dịu !
Còn một số người khác - số người này nhỏ thôi - nói là hành động của Trung Quốc không thể chấp nhận được… Mỹ không thể nào để Trung Quốc trở thành bá chủ ở Á châu. Như vậy hiện nay, ở Mỹ cũng những quan điểm khác nhau !
Và điểm thứ ba là sự lưỡng lự của Mỹ. Đến năm 1946, ông Truman đã biết (về ý định của Nga). Khi lên cầm quyền thay ông Roosevelt, ông Truman đã muốn hòa hoãn, tức là tiếp tục chính sách của Roosevelt. Đến năm 1946, sau khi có phúc trình của ông George Keenan về những hành động lấn lướt của Nga, thì ông Truman đã thấy nguy hiểm rồi.
Nhưng tình hình nước Mỹ lúc bấy giờ vừa mới hết chiến tranh, người Mỹ không muốn dấn thân ra bên ngoài, mà muốn được hưởng hoà bình, thành ra ông Truman cứ chần chừ mãi cho đến năm 1947, khi nổ ra khủng hoảng ở Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ, có cuộc chiến tranh khuynh đảo mà có Nga tham dự.
Lúc bấy giờ Anh Quốc – nước thường có trách nhiệm trong vùng – tuyên bố rút lui, bảo rằng không còn khả năng tiếp tục, và Mỹ muốn làm gì thì làm. Hoa Kỳ lúc ấy đã quyết định điền vào chỗ trống đó. Thì như vậy là Mỹ chần chừ cả một năm, dù có biết bao cảnh báo, cho đến năm 1947 mới quyết định chính sách vây chặn (containment).
Bây giờ cũng thế. Mỹ đang chần chừ. Có cảnh cáo, có đủ các thứ, có những hành động xâm lấn, nhưng vẫn có hy vọng có thể hòa hoãn. Dĩ nhiên, hy vọng tốt nhất là hai bên có thể thích ứng với nhau. Nếu không thì phải đi đến cạnh tranh.
RFI : Phải công nhận thực tế là đã có không khí chiến tranh lạnh để có hành động thích ứng ?
NMH : Tôi nghĩ là phải nhìn nhận thực tế bởi vì có những yếu tố như tôi đã nêu ra.
Trước hết Trung Quốc cần phải uyển chuyển về vấn đề đường lưỡi bò, cần phải bớt đi những đòi hỏi quá khích. Thứ hai là các quốc gia Á châu phải đoàn kết với nhau và chống lại cái « bá quyền » của Trung Quốc. Và thứ ba là Mỹ phải có can dự. Một trong 3 yếu tố đó mà không có, thì mọi sự lệch đi, không có giải pháp ổn thoả được.
Thì cũng có nhiều dấu hiệu là Trung Quốc có thể chấp nhận. Ở bên Trung Quốc, một số học giả cũng nói là đánh nhau với Mỹ bây giờ không có lợi, thứ hai nữa là về cơ bản, đòi hỏi của đường lưỡi bò không ổn cố, và thứ ba là nếu không cẩn thận, thì Trung Quốc sẽ trở thành kẻ thù của người khác.
Còn yếu tố thứ hai, là yếu tố « cam kết » của Mỹ, thì Mỹ đã nói là có cam kết. Và thật sự, họ cũng đã có một vòng đê chặn bên ngoài : Những nước như Úc, Tân Tây Lan, Phi Luật Tân, Nhật Bản, Nam Hàn, đều là đồng minh của Mỹ… Còn lại Thái Lan, Nam Dương (Indonesia), nhưng Thái Lan, Nam Dương một phần nào đó cũng là một loại đồng minh... Thành ra sự sắp hàng đã bắt đầu xẩy ra rồi.
Thế nhưng ngay bên Mỹ này, có thời Mỹ bị kẹt ở vùng Trung Đông, nên đã lơ là (châu Á), trong lúc đó thì Trung Quốc tiến ra. Nếu Mỹ không tỏ thái độ cứng rắn thì dĩ nhiên sẽ bị Trung Quốc lấn lướt.
ASEAN là yếu tố quan trọng nhất, nhưng yếu nhất
Điểm thứ ba là yếu tố quan trọng nhất, yếu tố Đông Nam Á. Đông Nam Á quả thực là vùng đệm (buffer zone) tốt nhất, bởi vì Mỹ và Trung Quốc chả muốn đụng độ trực tiếp với nhau.
Thành ra, nếu các nước Đông Nam Á có thể đoàn kết với nhau, thì có thể có một sức mạnh để mặc cả tập thể với Trung Quốc. Họ đương tìm cách lập ra cái gọi là Quy tắc ứng xử COC với Trung Quốc, nếu họ đoàn kết với nhau thì có thể được.
Điều khiến tôi bi quan là các quốc gia này có vẻ như là đồng sàng dị mộng, không làm được việc đó… Đầu tiên là vụ Scarborough giữa Phi Luật Tân và Trung Quốc. Phi Luật Tân đòi đưa (tranh chấp) vào nghị trình của ASEAN, nhưng không được…, không có một lời tuyên bố giúp đỡ nào cả, cuối cùng là trong lịch sử bao nhiêu năm của ASEAN, (hội nghị ở Phnom Penh tháng 07/2012) không ra nổi một thông cáo chung.
Sau đó, khi Ngoại trưởng Indonesia đi khắp các nước thì mới đưa ra được 6 nguyên tắc rất yếu. Bây giờ Đông Nam Á đang cố tiến đến bộ COC, nhưng không biết có được hay không ? Trong khi đó, chúng ta thấy Trung Quốc dùng cách chia để trị, chia rẽ những quốc gia đó.
Yếu tố ASEAN là yếu tố quan trọng nhất, nhưng tôi thấy là yếu nhất.
RFI : Trong phần phân tích, cần nhấn mạnh điểm nào trong thái độ của Mỹ ?
NMH : Chính sách Mỹ trong rất nhiều thập niên nay là ngăn chặn không cho một cường quốc nào không thân thiện với mình nổi lên đe dọa, làm bá chủ của vùng Á-Âu (Eurasia), tức suốt từ Trung Quốc sang đến Đông Âu... Nước nào kiểm soát vùng đó, thì Mỹ coi như là đe dọa đến quyền lợi của Mỹ, không những về an ninh mà cả về thương mại.
Đó là chính sách xuyên suốt từ bao nhiêu thập niên, nhưng uyển chuyển, khi rắn, như thời ông Reagan, khi mềm như thời ông Carter... Còn chính sách căn bản, theo tôi, có tính cách liên tục.
-Một trận chiến Mỹ- Trung mới ở Thái Bình Dương
-Liên quan đến châu Á, Le Nouvel Observateur có bài điểm sách với tựa đề « Cuộc chiến tranh mới ở Thái Bình Dương », nói về cuốn sách « Trung Quốc chống lại Hoa Kỳ » của hai tác giả Alain Frachon và Daniel Vernet, giải thích vì sao Biển Trung Hoa sẽ trở thành trung tâm của thế giới.
Tình hình căng thẳng hiện nay tại biển Hoa Đông xung quanh quần đảo Senkaku/Điếu Ngư, liệu có phải là khúc dạo đầu cho một cuộc đại loạn ? Chuyện gì sẽ diễn ra sau khi Bộ Chính trị Trung Quốc thay đổi người lãnh đạo ngày 8/11 tới ? Nếu tái đắc cử, Barack Obama có tiếp tục sự thay đổi chiến lược đặt trọng tâm nghiêng về châu Á, sau một thập kỷ lãng phí với cuộc chiến ở Irak và Afghanistan ? Bị đồng minh bên kia bờ Đại Tây Dương bỏ rơi, không có khả năng hội nhập vào việc quản trị trên toàn cầu, trong đó G2 – cặp đôi mới nổi là Trung Quốc - Hoa Kỳ đóng vai trò chủ đạo, châu Âu sẽ ra sao ? Đó là những vấn đề được đặt ra trong cuốn sách của Alain Frachon và Daniel Vernet, hai cựu giám đốc biên tập của tờ Le Monde.
Đương nhiên trong đó đóng vai trò kình địch là Trung Quốc, đất nước trước đây đóng cửa và có thể nói là mắc phải hội chứng tự mê hoặc. Ngày nay, ưu tiên hàng đầu là sự sống còn của mô hình Trung Quốc, một sự kết hợp độc đáo giữa chủ nghĩa tư bản Nhà nước và chuyên chế về chính trị, mà đến giờ vẫn còn hiệu quả. Điều này giúp Bắc Kinh đóng vai trò lãnh đạo trong khu vực thịnh vượng chung, có nghĩa là dọc theo vùng duyên hải và ở cả vùng biển Trung Hoa. Thế mà đối với Bắc Kinh, Hoa Kỳ vừa là một hình mẫu siêu cường kinh tế, vừa là một cơn ác mộng, vì ngăn trở sự thống trị của Trung Quốc trong vùng ảnh hưởng lịch sử của mình.
Đó là do người Mỹ trong công cuộc toàn cầu hóa đã quyết định chứng tỏ rằng Hoa Kỳ vẫn luôn là siêu cường duy nhất của thế kỷ tại châu Á, nơi Mỹ muốn quay lại. Sinh ra ở Hawai, lớn lên tại Indonesia, nên lẽ tự nhiên ông Barack Obama là con người dành cho ý định này. Trong khi Bắc Kinh muốn làm ông chủ của khu vực, thì ông Obama lại quyết chí lãnh đạo liên minh các Nhà nước trong vùng không muốn nhường bước trước những áp bức của Trung Quốc.
Trên nguyên tắc, tình hữu nghị thất thường được nối kết cách đây hai thế kỷ giữa hai Hercule này, gắn bó nhờ việc đối địch với Liên Xô cũ rồi đến sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế, cần phải vượt qua được thách thức mang tính chiến lược này. « Sự cất cánh hòa bình » mà không đóng vai trò bá chủ của Trung Quốc không mâu thuẫn với việc Hoa Kỳ tái triển khai trong khu vực. Hơn nữa, cả hai nước đều không muốn công khai xung đột với nhau.
Nhưng khi lao vào trò chơi mèo bắt chuột, mỗi bên đều có nguy cơ : Bên nào cũng nhìn qua lăng kính âu lo về ý định được gán cho bên kia. Đó là một cái vòng lẩn quẩn. Ảo tưởng và thực tế của chủ nghĩa đế quốc kiểu yankee hay ý định của các viên chức bàn giấy Trung Quốc nhằm củng cố quyền lực trong cuộc xung đột với bên ngoài, tất cả đều có thể dẫn đến cực đoan. Và ngay cả nếu điều tệ hại nhất không chắc sẽ xảy ra, cuốn sách thú vị này đã cho thấy tâm chấn của trận động đất mới sẽ ở khu vực Thái Bình Dương.
Đương nhiên trong đó đóng vai trò kình địch là Trung Quốc, đất nước trước đây đóng cửa và có thể nói là mắc phải hội chứng tự mê hoặc. Ngày nay, ưu tiên hàng đầu là sự sống còn của mô hình Trung Quốc, một sự kết hợp độc đáo giữa chủ nghĩa tư bản Nhà nước và chuyên chế về chính trị, mà đến giờ vẫn còn hiệu quả. Điều này giúp Bắc Kinh đóng vai trò lãnh đạo trong khu vực thịnh vượng chung, có nghĩa là dọc theo vùng duyên hải và ở cả vùng biển Trung Hoa. Thế mà đối với Bắc Kinh, Hoa Kỳ vừa là một hình mẫu siêu cường kinh tế, vừa là một cơn ác mộng, vì ngăn trở sự thống trị của Trung Quốc trong vùng ảnh hưởng lịch sử của mình.
Đó là do người Mỹ trong công cuộc toàn cầu hóa đã quyết định chứng tỏ rằng Hoa Kỳ vẫn luôn là siêu cường duy nhất của thế kỷ tại châu Á, nơi Mỹ muốn quay lại. Sinh ra ở Hawai, lớn lên tại Indonesia, nên lẽ tự nhiên ông Barack Obama là con người dành cho ý định này. Trong khi Bắc Kinh muốn làm ông chủ của khu vực, thì ông Obama lại quyết chí lãnh đạo liên minh các Nhà nước trong vùng không muốn nhường bước trước những áp bức của Trung Quốc.
Trên nguyên tắc, tình hữu nghị thất thường được nối kết cách đây hai thế kỷ giữa hai Hercule này, gắn bó nhờ việc đối địch với Liên Xô cũ rồi đến sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế, cần phải vượt qua được thách thức mang tính chiến lược này. « Sự cất cánh hòa bình » mà không đóng vai trò bá chủ của Trung Quốc không mâu thuẫn với việc Hoa Kỳ tái triển khai trong khu vực. Hơn nữa, cả hai nước đều không muốn công khai xung đột với nhau.
Nhưng khi lao vào trò chơi mèo bắt chuột, mỗi bên đều có nguy cơ : Bên nào cũng nhìn qua lăng kính âu lo về ý định được gán cho bên kia. Đó là một cái vòng lẩn quẩn. Ảo tưởng và thực tế của chủ nghĩa đế quốc kiểu yankee hay ý định của các viên chức bàn giấy Trung Quốc nhằm củng cố quyền lực trong cuộc xung đột với bên ngoài, tất cả đều có thể dẫn đến cực đoan. Và ngay cả nếu điều tệ hại nhất không chắc sẽ xảy ra, cuốn sách thú vị này đã cho thấy tâm chấn của trận động đất mới sẽ ở khu vực Thái Bình Dương.
Project Syndicate -This month marks the 50th anniversary of China’s military attack on India, the only foreign war that communist-ruled China has won. Yet that war failed to resolve the disputes between the world’s two most populous countries, and its legacy continues to weigh down the bilateral relationship.
Nhật Bản tập trận phô diễn sức mạnh hải quân
Dân Trí
(Dân trí) - Nhật Bản hôm qua đã tiến hành cuộc tập trận quy mô lớn nhân kỷ niệm 60 năm ngày thành lập lực lượng Hải quân. Cuộc tập trận diễn ra giữa lúc Trung - Nhật đang căng thẳng xung quanh tranh chấp chủ quyền biển đảo trên biển Hoa Đông. Binh sĩ ...
Một loạt tàu chiến hiện đại thị uy tại NhậtVietNamNet
Nhật Bản tập trận khoe sức mạnh trên biểnTiền Phong Online
Thủ tướng Nhật Bản khẳng định quyết tâm bảo vệ lãnh thổĐài Tiếng Nói Việt Nam
Russia and India: Brothers in Arms Against Terrorism?
theDiplomat.com
--- Cứu 10 ngư dân gặp nạn ở Hoàng Sa (TP). – Bộ đội Biên phòng Đà Nẵng cứu tàu cá cùng 10 ngư dân gặp nạn (Infonet). – Vùng trũng an ninh dưới “lát cắt” chiến lược (QĐND).
- TQ chỉ trích Nhật tìm sự ủng hộ quốc tế về Điếu Ngư (TTXVN). – Nhật vận động thế giới, Trung Quốc lộ tên lửa khủng (PN Today). – Noda: ‘Trọng trách mới cho hải quân’ (BBC).
- Biển Đông đẩy Hoa Kỳ và Trung Quốc đến bờ chiến tranh lạnh ? (RFI). - Hải quân Mỹ sẽ trở lại căn cứ Subic (LĐ).
- Máy bay Trung Quốc luyện hạ cánh trên tàu sân bay (TTXVN). - Tại sao Trung Quốc học cách xây dựng căn cứ không quân của Pakistan? (GDVN).
-- Sai cả về pháp lý và đạo lý! (DT).
- Nhìn lại nguồn gốc tranh chấp Trung – Nhật (VNN). – Môi trường an ninh Nhật Bản khắc nghiệt chưa từng thấy (TP). – Cảnh sát biển Nhật Bản chặn Hải giám tiến vào Senkaku (GDVN). – Cảnh sát biển Nhật lại vừa rượt đuổi tàu hải giám TQ (PN Today). – 45 tàu chiến chủ lực Nhật Bản phô trương sức mạnh trên biển (GDVN). – Mỹ, Nhật chuẩn bị tập trận tái chiếm đảo (Petrotimes).
- Quân đội yếu kém – Thách thức lớn nhất của Philippines (Infonet).- Thêm 10 bản đồ cổ khẳng định Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam (TTVH).
- Trung Quốc “châm ngòi”, các cường quốc Châu Á tăng chi phí quốc phòng (VnMedia). – Trung Quốc tăng chi tiêu quân sự thế nào sau 10 năm? (LĐ).
- Thủ tướng Nhật giao “trọng trách mới cho hải quân” (LĐ). – Trung Quốc chỉ trích Nhật lôi kéo các nước (VNE).
- Mỹ cam kết trung lập ở Biển Đông (Petrotimes).
- Các cường quốc Á Châu tăng chi tiêu quân sự (VOA).- 80 tấm bản đồ cổ khẳng định Hoàng Sa, Trường Sa thuộc Việt Nam (LĐ). – Đà Nẵng: Sẽ tiếp nhận 80 bản đồ Trung Quốc không có Hoàng Sa, Trường Sa (PN).
- “Bà đỡ” cho ngư dân gặp nạn ở Hoàng Sa, Trường Sa (DT).
- Việt Nam sẽ nhận tàu ngầm Kilo thứ 2 vào năm 2014? (PN Today).
- Trung-Nhật-Hàn tìm hướng giải quyết tranh chấp hiện tại (VOV). – Một loạt tàu chiến hiện đại thị uy tại Nhật (VNN). – Thủ tướng Nhật Bản: An ninh quốc gia căng thẳng hơn bao giờ hết (GDVN). – Nhật vận động châu Âu ủng hộ lập trường về Senkaku (GDVN). –Nhật tìm sự thông cảm của Mỹ trong tranh chấp đảo (TTXVN).
- Lộ diện hình hài cụm tàu sân bay chiến đấu của Trung Quốc (ĐV).
-. - Vì sao Mông Cổ bỏ tượng Lenin (BBC). . – CHDCND Triều Tiên gỡ bỏ chân dung Marx và Lenin trên quảng trường chính của Bình Nhưỡng(TNNN/ Kichbu).
- Cựu Quốc vương Sihanouk qua đời ở Bắc Kinh (RFA). - Lãnh đạo VN chia buồn cựu Quốc vương Campuchia qua đời (PLTP). – Cựu hoàng Cam Bốt Norodom Sihanouk qua đời tại Bắc Kinh (RFI). –Campuchia thương tiếc cựu Quốc vương Norodom Sihanouk (VOA). – Dân chúng Cam Bôt tiếc thương Vua Cha Sihanouk (RFI). – Thân thế cố Quốc vương Norodom Sihanouk (BBC). - Di sản vui buồn của cựu Quốc vương Campuchia Sihanouk (VOA). – Campuchia sẽ quàn thi hài cựu quốc vương ba tháng(VNE). – Trung Quốc và cựu vương Sihanouk, một liên minh đặc biệt và lâu đời (RFI). – TQ tưởng niệm cựu hoàng Campuchia, đồng minh quan trọng của Bắc Kinh (VOA).
China offers condolences for 'great friend' Sihanouk
October 15, 2012 -BEIJING (AFP) - China lauded former Cambodian king Norodom Sihanouk as a "great friend of the Chinese people" on Monday as it expressed its condolences over his death in Beijing.
Về việc Sihanouk chết: Norodom Sihanouk, Cambodian Leader Through Shifting Allegiances, Dies at 89 (NYT 15-10-12) -- The Fantasy of King Sihanouk (NYer 15-10-12)
-Trung Quốc và cựu vương Sihanouk, một liên minh đặc biệt và lâu đời
Cựu vương Cam Bốt Norodom Sihanouk, qua đời ngày hôm nay 15/10/2012, tại Bắc Kinh, đã từ rất lâu có quan hệ liên minh với Trung Quốc. Trong nhiều thập niên qua, Bắc Kinh là nơi ông tới khi có sóng gió về chính trị ở Cam Bốt, khi có vấn đề về sức khỏe.
Ngay sau khi có thông báo về việc Norodom Sihanouk từ trần, Bắc Kinh đã chính thức lên tiếng chia buồn, rằng Trung Quốc đã mất « một người bạn lớn ». Phó chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, người sẽ đảm nhiệm chức tổng bí thư đảng Cộng sản nhân Đại hội toàn quốc sẽ được tổ chức vào tháng tới, cũng tuyên bố là ông bị sốc và buồn khi biết tin cựu vương Sihanouk từ trần.
Trong những tuần qua, Bắc Kinh đã điều nhiều chuyên gia, bác sĩ hàng đầu tới chăm sóc sức khỏe cho ông tại Bệnh viện ở thủ đô Trung Quốc.
Trên website của mình, cựu vương Sihanouk không tiếc lời ca ngợi tài năng và sự tận tụy của các bác sĩ Trung Quốc.
Từ năm 1994, ông thường xuyên sang Bắc Kinh để chữa trị ung thư tiền liệt tuyến. Sau khi thoái vị, năm 2004, Norodom Sihanouk sống những năm tháng nghỉ hưu chủ yếu tại Bắc Kinh, và ông vẫn lên tiếng chỉ trích, tỏ thái độ bất bình đối với những tệ nạn chính trị, xã hội tại Cam Bốt như lạm dụng chức quyền, con ông cháu cha, tham nhũng, khinh thường người dân, khai thác cướp phá tài nguyên.
Trước đây, Norodom Sihanouk còn có quan hệ thân thiết với chế độ Bắc Triều Tiên của Kim Nhật Thành. Thế nhưng, sau này, ông không thiết tha với khu nhà 40 phòng ở Bình Nhưỡng và chuyển sang sống trong khu dinh thự mà thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai cấp cho ông từ những năm 1970.
Là một trong những nhân vật có hoạt động chính trị lâu đời tại châu Á, Norodom Sihanouk không chỉ ngưỡng mộ Trung Quốc, mà còn coi đây là một đồng minh nặng ký trong bối cảnh xung đột Đông Dương và Chiến tranh Lạnh.
Năm 1971, ông giải thích : « Tôi đã luôn luôn coi đất nước Trung Hoa như là tổ quốc thứ hai của tôi (…). Chỉ có Trung Quốc ủng hộ chúng tôi, chúng tôi những người Khmer kháng chiến, còn Liên Xô thì không muốn ».
Sau cuộc gặp với thủ tướng Chu Ân Lai ở Hội nghị Bandung, Indonesia, năm 1955, Norodom Sihanouk đã có quan hệ hữu hảo với nhiều lãnh đạo cao cấp của đảng Cộng sản Trung Quốc, kể cả Mao Trạch Đông.
Đầu năm 1970, Norodom Sihanouk sang Bắc Kinh sống tỵ nạn chính trị, sau khi bị tướng Lon Nol, với sự ủng hộ của Mỹ, tiến hành đảo chính. Cũng chính từ thủ đô Trung Quốc, ông được biết là lực lượng Khmer đỏ mà ông đã từng liên kết trong những năm 1970 và sau này trở thành kẻ thù của ông, lên nắm quyền tại Phnom Pênh vào tháng Tư năm 1975.
Là người bảo trợ, Trung Quốc buộc Khmer đỏ chấp nhận để cho Norodom Sihanouk hồi hương và thúc ép ông phải hợp tác với những đồ tể này.
Theo AFP, nhờ có sự can thiệp của Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai mà Sihanouk đã sống sót được trong thảm họa diệt chủng ở Cam Bốt.
Tuy vậy, những kẻ được Trung Quốc đỡ đầu đã biến Sihanouk thành một tù nhân sống cô đơn trong cung đài của mình ở thủ đô Phnom Penh hoang tàn, vắng bóng người do chính sách diệt chủng. Sihanouk thoát chết nhưng 5 trong số 14 người con của ông đã bị giết hại.
Sihanouk rơi vào tình cảnh tuyệt vọng, mất hoàn toàn vai trò chính trị sau khi Chu Ân Lai, rồi Mao Trạch Đông qua đời, trong lúc Trung Quốc đang bận tâm với « bè lũ bốn tên ». Thế nhưng, cũng chính Trung Quốc lại giúp ông thoát ra được khỏi Phnom Penh, khi quân đội Việt Nam tiến đánh Cam Bốt và lật đổ chế độ diệt chủng Khmer đỏ vào năm 1979.
Ba năm sau, năm 1982, dưới sự giám sát của Trung Quốc, Sihanouk đang sống lưu vong, đã chấp nhận hợp tác với Khmer đỏ, đứng ra làm chủ tịch Chính phủ Liên minh Dân chủ Cam Bốt, để chống lại sự chiếm đóng của quân đội Việt Nam. Năm 1991, hiệp đình về Cam Bốt được ký kết tại Paris và Sihanouk trở về nước. Sau cuộc bầu cử dưới sự bảo trợ của Liên Hiệp Quốc, năm 1993, Norodom Sihanouk được đưa trở lại ngôi vua vào lúc Cam Bốt vẫn phải đối mặt với những hậu quả của cuộc nội chiến và diệt chủng.
Nền hòa bình thực sự của Cam Bốt được tái lập vào năm 1998, sau cái chết của lãnh đạo Khmer đỏ Pol Pot.
Vậy phải chăng liên minh Sihanouk – Bắc Kinh là trái ngược với tự nhiên ? Về điểm này, AFP trích dẫn phát biểu của Mao Trạch Đông : « Một số người nói rằng những người cộng sản không ưa thích các ông hoàng. Thế nhưng, chúng tôi, những người cộng sản Trung Quốc, chúng tôi lại quý mến và đánh giá cao một ông hoàng như Norodom Sihanouk, ông luôn luôn rất gần gũi người dân và người dân rất tận tụy, trung thành với ông ».
Trong những tuần qua, Bắc Kinh đã điều nhiều chuyên gia, bác sĩ hàng đầu tới chăm sóc sức khỏe cho ông tại Bệnh viện ở thủ đô Trung Quốc.
Trên website của mình, cựu vương Sihanouk không tiếc lời ca ngợi tài năng và sự tận tụy của các bác sĩ Trung Quốc.
Từ năm 1994, ông thường xuyên sang Bắc Kinh để chữa trị ung thư tiền liệt tuyến. Sau khi thoái vị, năm 2004, Norodom Sihanouk sống những năm tháng nghỉ hưu chủ yếu tại Bắc Kinh, và ông vẫn lên tiếng chỉ trích, tỏ thái độ bất bình đối với những tệ nạn chính trị, xã hội tại Cam Bốt như lạm dụng chức quyền, con ông cháu cha, tham nhũng, khinh thường người dân, khai thác cướp phá tài nguyên.
Trước đây, Norodom Sihanouk còn có quan hệ thân thiết với chế độ Bắc Triều Tiên của Kim Nhật Thành. Thế nhưng, sau này, ông không thiết tha với khu nhà 40 phòng ở Bình Nhưỡng và chuyển sang sống trong khu dinh thự mà thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai cấp cho ông từ những năm 1970.
Là một trong những nhân vật có hoạt động chính trị lâu đời tại châu Á, Norodom Sihanouk không chỉ ngưỡng mộ Trung Quốc, mà còn coi đây là một đồng minh nặng ký trong bối cảnh xung đột Đông Dương và Chiến tranh Lạnh.
Năm 1971, ông giải thích : « Tôi đã luôn luôn coi đất nước Trung Hoa như là tổ quốc thứ hai của tôi (…). Chỉ có Trung Quốc ủng hộ chúng tôi, chúng tôi những người Khmer kháng chiến, còn Liên Xô thì không muốn ».
Sau cuộc gặp với thủ tướng Chu Ân Lai ở Hội nghị Bandung, Indonesia, năm 1955, Norodom Sihanouk đã có quan hệ hữu hảo với nhiều lãnh đạo cao cấp của đảng Cộng sản Trung Quốc, kể cả Mao Trạch Đông.
Đầu năm 1970, Norodom Sihanouk sang Bắc Kinh sống tỵ nạn chính trị, sau khi bị tướng Lon Nol, với sự ủng hộ của Mỹ, tiến hành đảo chính. Cũng chính từ thủ đô Trung Quốc, ông được biết là lực lượng Khmer đỏ mà ông đã từng liên kết trong những năm 1970 và sau này trở thành kẻ thù của ông, lên nắm quyền tại Phnom Pênh vào tháng Tư năm 1975.
Là người bảo trợ, Trung Quốc buộc Khmer đỏ chấp nhận để cho Norodom Sihanouk hồi hương và thúc ép ông phải hợp tác với những đồ tể này.
Theo AFP, nhờ có sự can thiệp của Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai mà Sihanouk đã sống sót được trong thảm họa diệt chủng ở Cam Bốt.
Tuy vậy, những kẻ được Trung Quốc đỡ đầu đã biến Sihanouk thành một tù nhân sống cô đơn trong cung đài của mình ở thủ đô Phnom Penh hoang tàn, vắng bóng người do chính sách diệt chủng. Sihanouk thoát chết nhưng 5 trong số 14 người con của ông đã bị giết hại.
Sihanouk rơi vào tình cảnh tuyệt vọng, mất hoàn toàn vai trò chính trị sau khi Chu Ân Lai, rồi Mao Trạch Đông qua đời, trong lúc Trung Quốc đang bận tâm với « bè lũ bốn tên ». Thế nhưng, cũng chính Trung Quốc lại giúp ông thoát ra được khỏi Phnom Penh, khi quân đội Việt Nam tiến đánh Cam Bốt và lật đổ chế độ diệt chủng Khmer đỏ vào năm 1979.
Ba năm sau, năm 1982, dưới sự giám sát của Trung Quốc, Sihanouk đang sống lưu vong, đã chấp nhận hợp tác với Khmer đỏ, đứng ra làm chủ tịch Chính phủ Liên minh Dân chủ Cam Bốt, để chống lại sự chiếm đóng của quân đội Việt Nam. Năm 1991, hiệp đình về Cam Bốt được ký kết tại Paris và Sihanouk trở về nước. Sau cuộc bầu cử dưới sự bảo trợ của Liên Hiệp Quốc, năm 1993, Norodom Sihanouk được đưa trở lại ngôi vua vào lúc Cam Bốt vẫn phải đối mặt với những hậu quả của cuộc nội chiến và diệt chủng.
Nền hòa bình thực sự của Cam Bốt được tái lập vào năm 1998, sau cái chết của lãnh đạo Khmer đỏ Pol Pot.
Vậy phải chăng liên minh Sihanouk – Bắc Kinh là trái ngược với tự nhiên ? Về điểm này, AFP trích dẫn phát biểu của Mao Trạch Đông : « Một số người nói rằng những người cộng sản không ưa thích các ông hoàng. Thế nhưng, chúng tôi, những người cộng sản Trung Quốc, chúng tôi lại quý mến và đánh giá cao một ông hoàng như Norodom Sihanouk, ông luôn luôn rất gần gũi người dân và người dân rất tận tụy, trung thành với ông ».