Thứ Năm, 25 tháng 10, 2012

In tiền để tăng lương?!

-In tiền để tăng lương?! (NVP)

Tuần qua, vấn đề tăng lương lại nóng lên khi được đưa ra bàn trước Thường vụ Quốc hội. Theo lộ trình cải cách tiền lương, từ ngày 1-5-2013, lương tối thiểu sẽ tăng từ 1,05 triệu đồng lên mức 1,3 triệu đồng/tháng. Thế nhưng Bộ trưởng Tài chính Vương Đình Huệ cho biết không thể bố trí nguồn ngân sách để thực hiện lộ trình tăng lương, “trừ phi Thường vụ Quốc hội đồng ý cho in thêm tiền”.
Phải nói thẳng, đây là một tuyên bố không nghiêm túc!


Việc tăng lương nằm trong lộ trình đã định từ trước, có nghĩa ngân sách 2012 và 2013 đã chuẩn bị trước các nguồn tiền để thực hiện. Nay ngân sách không kham nổi thì Bộ trưởng Tài chính phải chịu trách nhiệm giải trình vì sao, hụt thu ở nguồn nào, cách giải quyết ra sao trước khi loại bỏ một mục chi lớn đã được phê duyệt. Ngân sách nhà nước cũng không phải là chuyện nhỏ để muốn tăng chi ở một mục nào đó thì chỉ cần Thường vụ Quốc hội đồng ý cho in thêm tiền. Đây là một cách nói dễ gây hiểu nhầm rất tai hại. Quốc hội là nơi thông qua ngân sách hàng năm, kèm theo đó là mức bội chi được phê duyệt chung. Nhiệm vụ của Chính phủ là thuyết trình vì sao cần tăng thêm bội chi, cho khoản mục nào, cách bù đắp sau đó sẽ ra sao để thuyết phục đại biểu Quốc hội bấm nút thông qua. Không hề có chuyện Thường vụ Quốc hội có thẩm quyền cho in thêm tiền để tăng lương! Vậy mà cũng chẳng thấy các quan chức trong Thường vụ Quốc hội nói lại cho rõ.
Ở hướng ngược lại, Ủy ban Tài chính Ngân sách Quốc hội hoàn toàn có lý khi gợi ý thay vì tăng lương từ 1,05 triệu lên 1,3 triệu đồng/tháng thì có thể chỉ tăng lên 1,15 triệu đồng/tháng. Nhưng để ý kiến này mang tính thuyết phục cao hơn, cần yêu cầu Bộ Tài chính trình bày cụ thể, với phương án này mức tăng cho ngân sách là bao nhiêu, với phương án kia, thiếu hụt sẽ lên đến bao nhiêu và các phương án bù đắp. Quốc hội là nơi buộc các thành viên của Chính phủ phải trần tình với số liệu chuẩn bị đầy đủ - chứ không phải là nơi mặc cả chuyện… in tiền để chi tiêu.
Trong câu chuyện này, cần phân biệt hai khái niệm “tăng lương” và “bù trược giá”. Lương tối thiểu của công chức, viên chức được tăng từ 730.000 đồng lên 830.000 đồng/tháng trong năm 2011 (tăng 13,7%) và lên 1.050.000 đồng/tháng trong năm 2012 (tăng 26,5%). Trong khi đó lạm phát của năm 2010 là 11,75% và năm 2011 là 18,13%. Như thế nếu loại trừ yếu tố trược giá, mức tăng lương trong những năm vừa qua là không đáng kể. Hay nói cách khác mức tăng lương này không theo kịp mức tăng danh nghĩa tổng thu nhập quốc dân (GDP danh nghĩa năm 2010 tăng 19,4% và năm 2011 tăng 28%).
Như vậy những “mức tăng” lương tối thiểu những năm trước chưa thể nào gọi là góp phần nâng cao mức sống của cán bộ, công chức, người lao động… mà chỉ mới phần nào bảo vệ thu nhập của họ trước cơn bão tăng giá.
Nay cũng vậy, ngân sách phải có nhiệm vụ ít nhất bảo đảm thu nhập tối thiểu của người hưởng lương từ ngân sách không bị hao hụt vì lạm phát chứ khoan nói gì đến chuyện tăng lương. Đặt vấn đề như thế để thấy trách nhiệm của Bộ Tài chính là bảo đảm ngân sách kham được chuyện này, ít nhất như các năm vừa qua.
Điều đáng nói hơn nữa, trong những lần tăng lương tối thiểu trước đây, rõ ràng không phải tất cả khoản tăng dồn về ngân sách trung ương phải gánh chịu. Chẳng hạn để tăng lương các đơn vị sự nghiệp thuộc ngành y tế được sử dụng tối thiểu 35% khoản thu được để lại trong khi ngành này vừa tăng viện phí trong năm nay. Không biết Bộ Tài chính đã tính toán chi ly những khoản như thế hay chưa trước khi tuyên bố ngân sách không kham nổi.
-
Kiến nghị Thủ tướng kiểm điểm PVN
Dự án xây dựng Nhà máy sản xuất ống thép của PVN không thuộc danh mục được phê duyệt Quy hoạch phát triển ngành dầu khí đến năm 2012.
Kiến nghị sớm bắt buộc sử dụng xăng sinh học
Trước tình hình khó tiêu thụ của xăng sinh học, PVN đề nghị không nên kéo dài tới lộ trình 2014 - 2015 mới bắt buộc sử dụng xăng E5.
Siết nghĩa vụ thuế nhưng tránh gây thêm sức ép với doanh nghiệpNgoài ra, Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh cho biết, mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu có thể tăng lên 16% vào cuối năm nay.

-Laos set to join WTO after decades behind bamboo curtainBANGKOK (REUTERS) October 25, 2012- Isolated for decades, impoverished and landlocked, Laos is not an obvious choice for investors.


--Chứng khoán hờ hững với kết quả kinh doanh(TBKTSG Online) - Thời điểm công bố kết quả kinh doanh quí 3 đã kết thúc cách đây vài ngày, nhưng thị trường chứng khoán dường như rất ít bị tác động từ kết quả làm ăn của doanh nghiệp trong quí này. Bởi có những công ty lỗ nặng vẫn tăng trần liên tục, và những công ty có lãi thì cổ phiếu lại xuống giá.Ví dụ Công ty Khai thác và Chế biến khoáng sản Bắc Giang đã lỗ trong 3 quí liên tiếp do không có doanh thu nhưng cổ phiếu của công ty (mã BGM) vẫn tăng trần 11 phiên liên tiếp và chỉ mới giảm sàn phiên hôm nay. Trong giải trình, công ty này cho rằng do cung cầu thị trường quyết định còn thông tin của công ty không có gì mới. Sau 11 phiên tăng giá, 1 phiên giảm, cổ phiếu BMG đã từ mức 2.900 đồng lên 3.800 đồng/cổ phiếu.

Trong khi đó, vào hôm qua Vinamilk (VNM) đã công bố kết quả kinh doanh quí 3, lãi gần 1.400 tỉ đồng, tăng 34% so với cùng kỳ, vậy nhưng hôm qua VNM giữ giá tham chiếu, còn hôm nay (24-10) giảm 3.000 đồng (2,2%), xuống mức 133.000 đồng/cổ phiếu.
Không giảm mạnh trong hôm nay, nhưng diễn biến trên sàn TPHCM khá tẻ nhạt, giao dịch thấp. Cụ thể cả phiên sàn này có 34,2 triệu chứng khoán được mua bán, giá trị đạt gần 490 tỉ đồng, trong đó giao dịch thỏa thuận chiếm đến 40% với 199 tỉ đồng.
VN-Index đã mất thêm 2,26 điểm (0,57%) trong phiên hôm nay, về mức 395,45 điểm. Vậy nhưng nếu tính từ đầu tháng 10, VN-Index đã tăng nhẹ 2,3%, và tính từ đầu năm, VN-Index đã tăng được gần 12,5%.
Trong khi đó, HNX-Index giảm 0,31 điểm (0,57%) còn 54,25 điểm. Giao dịch chỉ đạt 17,7 triệu cổ phiếu, với giá trị là 118,1 tỉ đồng.-Chứng khoán hờ hững với kết quả kinh doanh
- Lập Ủy ban Quốc gia về tái cơ cấu kinh tế? (VnEco).
- Ngân hàng Nhà nước cần thông tin rõ nợ xấu (TT).  – “Giải quyết nợ xấu, mạch máu kinh tế mới lưu thông”(TTXVN).
- Không để doanh nghiệp “chết oan” (TN).
- Lãi suất liên ngân hàng kỳ hạn trên một tháng tăng (TTXVN).  – Tổng quan Tài chính – Ngân hàng 24-10-2012: khi niềm tin chưa trở lại (VF).
- Vàng trong nước tiếp tục hạ (DV).  – SJC nói về kinh nghiệm tránh mua phải vàng nhái (VnEco).
- Toàn cảnh kinh tế Việt Nam 24-10-2012: Hạ… nể nang… ăn đũa trả đũa (VF).
- Công ty Chứng khoán Hà Nội bị đình chỉ 6 tháng (TT).   – Vào chợ mỗi ngày TTCK 24-10-2012 (VF).
- Thị trường bất động sản trong cơn bĩ cực: Kiện cáo tùm lum! (LĐ).  – Giới bất động sản bi quan về 2013 (VEF).
- LILAMA thắng kiện hơn 4 triệu USD ở nước ngoài (PLVN).  – “Cuộc chiến pháp lý” ở nước ngoài của LILAMA.
The New Obama
from Project Syndicate -After the second debate between US President Barack Obama and his Republican challenger, Mitt Romney, his supporters celebrated the return of the "old" Obama of 2009. But that Obama is gone forever, replaced by a colder, harder, and sadder man who tries, often unconvincingly, to play the part of his former self.
--Chinese aspire to ‘golden rice bowl’ jobs
(Financial Times)-More than 1.5m people are expected to register for the country’s civil service exam as the slowing economy increases the appeal of government work
-Cnooc output growth beats forecasts
(Financial Times)-China’s largest offshore oil company says third-quarter production rose 8.5%, providing relief for investors after a year of disappointing numbers
A New Low for China Bashing
Project Syndicate As America’s election season nears the finish line, the debate always seems to come unhinged. Nowhere is that more evident than in the fixation on China – singled out by both President Barack Obama and his Republican challenger, Mitt Romney, as a major source of pressure bearing down on American workers and their families.
Obama’s Underachieving Foreign Policy
Project Syndicate -Barack Obama's foreign-policy achievements have been limited, largely owing to a complex diplomatic and strategic environment and significant domestic constraints. But Obama's own dogmatic pragmatism has done little to change strategic realities and reconcile America’s broader interests with those of other key global players.
Mỹ-Nga-Trung hợp tác thành lập tổ chức xếp hạng tín dụng
Ba nước Mỹ, Nga và Trung Quốc đang hợp tác thành lập một cơ quan xếp hạng tín dụng độc lập nhằm cạnh tranh với các hãng khác tại Mỹ.
Lượng tiền mặt của các công ty Mỹ lên cao kỷ lục
Theo thống kê, lượng tiền mặt trên báo cáo tài chính của các công ty trong chỉ số S&P 500 đã tăng tới 14% và có thể chạm mốc 1.500 tỷ USD.


-Stratfor Analysis, Russia's Progress in its Privatization and Modernization Plans.7/1/2011



Matthew Rojansky WORLD POLITICS REVIEW, Russian Strategic Forecasting's New Look APRIL 24, 2012 (http://carnegieendowment.org)





Tuy nhiên, bất chấp cuộc khủng hoảng chính trị, Nga vẫn có khả năng ảnh hưởng đến lợi ích của Mỹ trên toàn thế giới tiếp tục gây áp lực với các nước láng giềng tái hội nhập kinh tế trong việc trao đổi để hạ thấp giá năng lượng.
Đối phó với những thách thức và cơ hội gây ra bởi Nga sẽ là một ưu tiên đối với Washington, tổng thống kế tiếp của Hoa Kỳ sẽ có một hiểu biết rõ ràng về những gì các nhà lãnh đạo của Nga muốn và họ có thể hành xử ra sao trong những năm tới. Phiên bản mới nhất, được gọi là "Xu hướng toàn cầu 2030", cần được hoàn thành vào cuối năm nay.


Kể từ khi được giải thoát khỏi những ràng buộc của ý thức hệ Xô viết. Một số, như Hội đồng chính sách đối ngoại và Quốc phòng (SVOP), đã xuất bản định hướng chiến lược đưa ra bối cảnh và nội dung hỗ trợ các tài liệu chính sách dài hạn, gần đây nhất là sách trắng " Chiến lược 2020". Trung tâm Carnegie Moscow, về phần mình, đã cùng một nhóm hàng đầu của các chuyên gia quốc tế dự báo các kịch bản phát triển của Nga đến năm 2020, ( scenarios for Russia’s development through 2020), với kết luận ít lạc quan dựa trên quỹ đạo hiện tại của Nga


Trên bất kỳ phiên diện nào, Mỹ chưa phải đối mặt với một đối thủ siêu cường cho tới 2020, dù vậy Mỹ ít có khả năng hành động đơn phương áp đặt ý chí của mình lên các nước khác. Thật vậy, mặc dù "chậm sự xói mòn của lãnh đạo của Mỹ" có thể là một phần được thúc đẩy bởi sự gia tăng của các trung tâm quyền lực thay thế, dự đoán một sự thay đổi từ cạnh tranh giữa các quốc gia và các nhóm của các quốc gia cho sự thống trị địa chính trị "lãnh đạo chịu trách nhiệm", theo đó các nước làm việc với nhau để giải quyết các thách thức an ninh

******
Russia has been in the international spotlight in recent months, with frustration over endemic corruption, lingering anger over December’s manipulated Duma elections and Vladimir Putin’s carefully orchestrated return to the presidency bringing Russian protesters out into the streets in greater numbers than at any time since the fall of the Soviet Union. But despite its political crisis, Russia retains the ability to impact U.S. interests worldwide: The Kremlin is unafraid to flex its still-considerable muscle abroad, blocking U.S.-led efforts to sanction and topple the bloody government of Syrian President Bashar al-Assad, threatening to upend European and even global security over NATO missile defense plans and continuing to pressure former-Soviet neighbors into economic reintegration in exchange for lower energy prices.
Responding to the challenges and the opportunities posed by Russia will be a clear priority for Washington going forward, and no matter who wins the presidential election in November, the next U.S. president would benefit from a clear understanding of what Russia’s leaders want and how they are likely to behave in the coming years. As it has for every previous administration going back decades, the U.S. intelligence community will seek to provide that understanding as part of a comprehensive strategic forecasting exercise. The latest iteration, dubbed “Global Trends 2030,” should be completed by the end of this year.

Matthew Rojansky
DEPUTY DIRECTOR
RUSSIA AND EURASIA PROGRAM
More from Rojansky...
But strategic forecasting is a two-way street, and American policymakers would also benefit from understanding the vision of the future that is driving decision-makers in Russia and beyond. Thanks in part to its legacy as a global superpower, Russia’s analytical community has had quite a bit of practice at strategic forecasting. But the discipline has evolved considerably since Soviet times, converging to a surprising degree with the work of Moscow’s former Cold War rivals in the West.

Strategic Forecasting in Russia

Since being freed from the Soviet system’s ideological constraints on objective analysis in the 1990s, Russian analytical institutions have joined the global strategic forecasting trend. Some, such as the Council on Foreign and Defense Policy (SVOP), have published future-oriented strategies designed to provide context and content in support of the Russian government’s prescriptive long-term policy documents, the most recent being the Kremlin’s “Strategy 2020” white paper. The Carnegie Moscow Center, for its part, has brought together a leading group of international experts to forecast alternative scenarios for Russia’s development through 2020, with conclusions that reflect less optimistically on Russia’s current trajectory.
The prestigious and still government-linked Institute for World Economy and International Relations (IMEMO) of the Russian Academy of Sciences has released annual short-term global economic forecasts, along with two major long-term forecasts over the past decade: a study on globalization titled “World of the Millennium” in 2001 and “World Economy 2020” in 2007. IMEMO’s latest long-term forecasting project, “Strategic Global Outlook: 2030,” looks ahead one decade further into the current century. Notably, for the first time it departs from a primarily economics-based analytical framework, adopting a methodology that combines economics with security studies, political science, demography and the study of religions and social movements. The goal of the project, according to IMEMO director Alexander Dynkin, was to “produce a comprehensive view of qualitative global changes in two decades to come.”
While “Outlook” is clearly framed as a tool for assisting Russian policymakers, it is hardly a mere complement to official Kremlin strategy documents. Rather, “Outlook” challenges the Russian leadership to recognize and adapt to what it defines as objectively measurable global trends, even when those run counter to the Kremlin line. Through this, Dynkin maintains, the “consistency” of Russian policy can be improved, which may in turn increase the country’s “constructive influence on global development.” As one scholar involved in the project put it, the authors even sought to “show if Russia is ready or not to participate in new economic, political and security global trends. In this sense our forecast was very sensitive for many governmental officials -- and brave. We did not try to cover the sharp corners for Russia.”
“Outlook: 2030” matters for a U.S. and wider international audience -- it will be released in Chinese, Korean, English and other languages -- for several reasons. First, it offers substantive and useful insights about the Russian perspective on major global political, economic, social and military/security trends. Although there is considerable convergence between IMEMO’s analysis and forecasting work done elsewhere, the introduction of this Russian perspective helps reduce the risk that U.S. analysts may fall prey to a domestic echo chamber, dominated by those arguments that are simply the loudest or most politically convenient. Second, IMEMO is itself a well-regarded and influential institution in Russia, and the report draws on the work of a critical mass of Russian experts who may be said to represent a near-consensus of the Russian expert community. Thus, the report offers an important window on the world as seen from Moscow. This, in turn, can help outsiders understand why Russia does what it does.
Finally, IMEMO’s strategic forecasting exercise can be interpreted as a meta-discourse on the state of the Russian expert community. In particular, to the extent that the conclusions and recommendations of Russian experts diverge from those of the current political leadership, this may indicate a growing rift between the most conservative elements within the government and the intellectual and technical expert class that has traditionally also been a part of the Russian “establishment.”

Outlook 2030

The difficulty -- some might call it futility -- of trying to predict major world events was evident in the 1970s and 1980s, when experts on both sides of the Iron Curtain overwhelmingly expected Soviet communism to endure into the 21st century. Real world events, of course, turned out differently, and the debate over what and who caused that change still rages among historians in Russia and the West. Yet there is more to be said for the discipline of strategic forecasting when defined not as mere prediction, but instead as an evidence-based effort to understand present global trends, and then to suggest in what broad directions such trends might lead over the coming decades. In keeping with IMEMO’s longstanding orientation toward economic analysis, “Outlook: 2030” draws heavily on hard economic data, including figures for GDP, labor productivity, R&D investment, currency reserves, population growth and other important metrics. As a consequence, the project’s descriptions of current economic, political, social and security trends are robust and data-rich, and its forecasts for the future are both wide-ranging and fundamentally conservative.
According to “Outlook,” global economic growth for the period 2011-2030 is expected to average 4-4.5 percent per year, an increase of roughly 1 percent over the average for the previous two decades due primarily to accelerating world trade and globalization. The study is careful to note, however, that the gains will be unevenly distributed, favoring rapidly developing countries like China, Brazil and Vietnam, and leaving growth rates in developed economies like those of the U.S., Western Europe and Japan basically flat. This, in turn, will shift the traditional dividing lines, so that instead of two camps of global “haves” and “have-nots” represented by developed and developing economies, we may begin to see a new dividing line within the developing world itself between success stories and those that have failed to keep up. Moreover, the measures of success will no longer simply be GDP and GDP per capita, which will give way to measures of efficiency, innovation and quality of life. Still, the overall conclusion of the study is conservative, suggesting that by 2030, China, the most successful developing economy, will at best only begin to approach the United States in terms of most measures of economic power.
Two predictions in the economic sphere are particularly notable. First, “Outlook” argues that rather than the G-8 gradually giving way to the G-20 as the pre-eminent body for managing global economic problems, the G-8 and the G-20 will remain quite distinct. The G-8 will function as a kind of “club of issuers of key world currencies” -- primarily the dollar and the euro, as well as the yen, the pound sterling and, with China’s eventual inclusion, the yuan -- whereas the G-20 will be hampered by the inherent difficulty of finding consensus among actors with dramatically different interests. Second, “Outlook” forecasts that by 2030, the traditional nation-state map of the global economy will be supplemented by a “world corporate map,” depicting areas of activity of transnational banks and corporations. Transnational corporate integration, the study argues, will enhance efficiency of capital investment in developing countries, increase the pace of globalization and interdependence, and thus increase the instances of conflict between the parochial interests of national governments and the global interests of transnational corporations.
At the same time that rising economic growth will reduce the percentage of the world’s poor, “Outlook” predicts greater social stratification, with the rise of a class of transnational super-rich and the relative stagnation of the middle and working classes. Super-rich individuals, like the transnational corporations to which they are linked, will maintain their own policy objectives as a class that may come into conflict with those of the nation-states of which they are citizens. This conflict will be particularly acute in the face of a rising trend of populism, religious extremism and neonationalism that may appeal to a large number of those who have been “left behind” by globalization.
Many of the predictions made by “Outlook” about the impacts of globalization track with what other scholars and analysts in the West have also noted. For example, the study’s authors are certainly not alone in their belief that military strength is becoming an increasingly outdated measure of power. In the 21st century, one prominent Western scholar has claimed, “better measures of power take into account economic productivity, global market share, technological innovation, natural resource endowments and population size as well as intangible factors such as national willpower and diplomatic skill.” IMEMO’s experts, following similar reasoning, maintain that military supremacy will become less relevant as economic might, advanced technology and cultural influence become more significant instruments of foreign policy. “Outlook” even embraces the terms “soft power” and “smart power” coined by Western experts during the past two decades.
Though by any measure of power the United States may not face a rival superpower in the next 20 years, “Outlook” argues that Washington will at the same time find itself less able to act unilaterally or impose its will on other states. Indeed, although the “slow erosion of American leadership” may be in part driven by the rise of alternate power centers, “Outlook” predicts a shift from competition between states and groups of states for geopolitical dominance to “responsible leadership,” whereby countries work together to address security challenges. Yet in seeming contradiction to its descriptions of a decline in the importance of military power and a more harmonious system of global governance due to increasing economic interdependence, “Outlook” hews to some models rooted in 20th-century nation-state rivalry, such as a “hierarchy” of world powers.
Although Washington retains the top spot on the “polycentric world hierarchy” proposed by “Outlook,” the authors do not expect the U.S./Western model of liberal democracy to remain dominant. Instead, like no small number of Western scholars, they suggest that China’s rise will prove to other growing economies and societies around the world that the so-called Washington Consensus is not a “universally applicable growth model.” Alternatives to liberal democracy may include some features of the Chinese system (though not a single coherent ideology), moderate forms of socialism and social democracy, socialist-reformist globalism emphasizing sustainable development, anti-globalization and fringe movements such as fascism and radical nationalism.
Over the next two decades, “Outlook” envisions a shift from U.S.-Russian mutual nuclear deterrence to mutual nuclear security, as the already low likelihood of armed conflict between major nuclear powers decreases further. At the same time, economic and political conflicts remain possible, and limited uses of force in counterterrorism and peacekeeping missions as well as regional interstate conflicts are likely. “Outlook” also predicts the growth of sophisticated transnational terrorism, cyberterrorism, narcotics trafficking, new biological weapons, and environmental and technological disasters, which threaten to destabilize whole regions as countries become increasingly interdependent.
The study suggests that the United States and Russia will agree on further reductions to their nuclear arsenals -- indeed, de facto reductions may even be undertaken unilaterally. However, the authors’ assertion that “there will be an opportunity for development of common ballistic missile defense systems” would represent a major reversal of the current trend of acute conflict over U.S./NATO missile defense plans in Europe. Similarly, the optimism expressed regarding NATO-Russia security cooperation and a new “trans-Pacific security” structure linking the United States, Russia, China and Japan is difficult to reconcile with current trends. Indeed, the report does include several plausible “negative scenarios” that could derail attempts at greater international cooperation, such as Chinese militarization and regional nuclear confrontation, for example between India and Pakistan.

How Russia Sees the World

As the title suggests, "Outlook" is not just about what is happening in the world, but how Russians perceive those developments and how the country can address them. In this respect, IMEMO has answered the call of Russia’s leading political figure, President-elect Vladimir Putin, who recently wrote, “We should learn to look ‘past the horizon,’ and estimate threats 30 or even 50 years away. This is a serious objective and requires mobilizing the resources of civilian and military science and reliable standards for long-term forecasting.” With “Outlook,” Putin may have gotten more than he bargained for, including a look at some of the most serious challenges Russia faces at home as well as in the world.
“Outlook” identifies Russia’s core social problem as the need to find a functional national consensus on identity and values. The authors note that the rise of extreme nationalism, ethnic chauvinism and xenophobia in Russia coincides with a resurgence of rhetoric about Russian exceptionalism. Such trends threaten Russia’s social harmony -- since it is and has long been a multiethnic society with extensive regional and global ties -- and could also deny Russia many benefits of globalization. “Outlook” suggests somewhat blandly that Russians can avoid going down this path by embracing the idea of Russia as an Atlantic and a Pacific power that upholds “European values,” such as human rights and the rule of law, while developing partnerships with other states.
As “Outlook” correctly notes, Russia’s reliance on the export of oil and natural gas and lack of integration into regional and global markets inhibit economic growth. Although Russia’s World Trade Organization accession this year will open the Russian economy to greater foreign trade and investment, there is not yet an effective strategy for economic development. The authors recommend a “twin-vector economic strategy” that simultaneously orients Russia’s economy toward the East and West, so that it can benefit from advanced technology and investment from both.
The most obvious constraint on Russia’s ability to pursue such a strategy is its poor climate for business and investment, in particular the pervasive corruption that crops up at every level of state and society. In addition, the country’s underdeveloped public health system, relatively anemic middle class, continuing “brain drain” emigration and aging workforce will hinder Russia’s competitiveness and attractiveness for investment. Though “Outlook” avoids the “third rail” of Russian politics -- addressing official corruption at the top levels of government -- it recommends the Kremlin adopt policies to foster the growth of small business, eliminate excessive bureaucracy and even offer greater freedom and support for civil society. Putin has shown little enthusiasm in practice for such reforms, but the recent public protests may force his hand, and if his own published articles are to be believed, he recognizes the correlation among corruption, technological backwardness and slow economic growth.
When it comes to Russian foreign policy, “Outlook” seeks to reverse Russia’s traditional perceptions of other major world powers as “potential antagonists.” Nonetheless, in the face of current trends -- such as conflict over missile defense and NATO expansion as well as competition over spheres of influence -- mutual suspicion between Moscow and Washington are likely to continue. Likewise, though Russia will continue to be an “important partner” for the European Union in terms of energy and international security, the authors see a “clash of interests” in the post-Soviet space, such as over EU enlargement in Eastern Europe, as a source of potential conflict. They recommend that Moscow and Brussels create a unified energy system for Europe and a security architecture capable of responding to crises and preventing conflict throughout the region, neither of which appears possible today without U.S. involvement.
It is evident from reading “Outlook” that Russian elites fear that the West has already lost the respect for Russia’s great power status that has traditionally given Moscow some influence over world events. The authors argue that on both sides of the U.S.-Russia reset, constituencies “are unprepared or unwilling to improve significantly bilateral relations.” While “Outlook” recommends sensible investments in building a stronger foundation for the relationship over the long term, such as enhancing technological cooperation and instituting a dialogue about basic values, it is very possible that in the decades ahead Russia will take the “low road,” acting counter to U.S. interests simply to show that it is powerful enough to do so. Not surprisingly, Russia also fears exclusion from security and economic initiatives in Europe, East Asia and beyond. Thus, “Outlook” recommends a Russian diplomatic initiative on all fronts, advancing bilateral and multilateral engagement, and seeking common interests and reduced rivalry with every major power on its periphery.

Russian Experts and the State

“Outlook” departs from the usual output of Russia’s government-connected expert community, in large part because it is so blunt about the problems that Russia faces in keeping up with global trends and challenges. Despite coming from the heart of Russia’s elite policy analytical community, the authors appear to hew more to their own consistent methodology and to widely shared international viewpoints than to the political program of the current Russian government. This may reflect the increasingly insular and isolated character of strategic thinking and policymaking under Putin’s “power vertical,” or it may indicate that IMEMO, notwithstanding its Soviet legacy and formal status within the Academy of Sciences, has evolved into something rather different today.
Still, there is considerable overlap between the conclusions and recommendations in “Outlook” and the publicly stated positions of the Russian government, and indeed of Putin himself. For practically every one of the report’s recommendations, one can find a corresponding argument in Putin’s own recent set of lengthy “platform” articles, which ran in Russian newspapers during the three months leading up to the March 4 presidential election. For example, where “Outlook” calls for greater emphasis on innovation in economic policy, Putin promises new investments in nanotechnology, pharmaceuticals, information technology and aerospace, as well as a program to enhance the competitiveness of Russian research universities. Where “Outlook” advises an engagement strategy embracing both Asian and European vectors, Putin touts both closer economic integration with China and visa-free travel with the European Union. In fact, he aspires to develop a “common economic space that stretches from Lisbon to Vladivostok.”
Conventional wisdom has it that, as in 1991, the Moscow and St. Petersburg intelligentsia have been at the center of Russia’s recent protest movement, even if the crowds that have clogged city streets and squares included many ordinary laborers, office workers, pensioners and assorted others. And while the protests themselves are relatively new, the frustrations of Russia’s beleaguered intellectuals certainly are not. So it is curious that, though the expert authors of IMEMO’s “Strategic Global Outlook: 2030” are clearly leading members of the Russian intelligentsia, there is little hint in the publication of the type of disdain for Putin and Putinism seen nowadays in many blogs and newspaper articles, and even heard on television and radio. Though “Outlook” is about long-term future forecasting, not today’s domestic politics, in any credible forecasting exercise, the prospect of another 12 years of Putin’s presidency must be taken into account. At the same time, avoiding pointless provocation of the authorities, with possibly catastrophic career consequences, may have been reason enough for the authors to steer clear of commenting on the degree to which Russia’s leadership darkens the country’s future prospects.
All in all, the striking degree of overlap between the main recommendations of “Outlook” and the rhetoric -- if not always the behavior -- of Russia’s current leadership suggests one of two possibilities. It could be that Putin and those around him are sincere when they talk about the importance of strategic forecasting, and they have adopted the conclusions and recommendations of this report as their own because they believe that it is the right way to deliver on their stated commitment to prosperity and success for Russia. If that is so, then the gap between Kremlin rhetoric and reality in implementation must stem from a shortage of resources rather than lack of will. On the other hand, it could be that the current leadership is smart enough to appreciate the analyses of global trends collected in “Outlook” and clever enough to borrow some of the authors’ language and ideas, but perhaps not quite sharp enough -- or just unwilling -- to put them into practice. In either case, “Outlook” is important for Western policymakers and analysts as a substantive, high quality analytical work in its own right, and as a guide to official and unofficial strategic thinking in Russia.
This article originally appeared in World Politics Review.


********************************

Russia's Redesigned Economic Plans. Stratfor Analysis, Feb2012

Moscow đã thay đổi chiến lược kinh tế của mình vào cuối năm 2009 sau gần một thập niên củng cố nền tảng kinh tế, dựa vào đó chính phủ Nga đã nắm hầu hết các ngành công nghiệp chiến lược. Nhà nước nắm mọi lĩnh vực từ năng lượng đến viễn thông
Nền kinh tế đã nằm trong tay của một nhóm các cựu KGB hoặc các nhóm An ninh Liên bang là những người quan tâm nhiều hơn tới chính trị và an ninh của nền kinh tế Nga hơn là hiệu quả của nó. Do vậy không thể duy trì một nền kinh tế hiện đại và mạnh mẽ. Rạn nứt bắt đầu để hiển thị trong mô hình kinh tế này trong năm 2008, khi Nga đã bị ảnh hưởng sâu sắc bởi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Như Nga củng cố nội bộ và trở nên tự tin vào sức mạnh của mình với bên ngoài, điện Kremlin đã bớt quan tâm đến những yếu tố bên ngoài tới nền kinh tế và quan tâm nhiều hơn về việc tổ chức nền kinh tế để lập kế hoạch cho một tương lai tốt đẹp hơn .

Điều này đòi hỏi một chiến lược sâu rộng để hiện đại hóa và mở rộng các công ty nhà nước trong khi thu hút đầu tư. Kế hoạch có hai phần. Phần thứ nhất, Nga đưa ra chương trình hiện đại hóa của nó để phát triển và mở rộng 7 ngành chiến lược của nó: năng lượng, không gian, công nghệ thông tin (IT), quân đội, viễn thông, công nghệ transit và nano. Thứ hai, Nga thay đổi quan điểm về các lĩnh vực độc quyền nhà nước và cho phép nước ngoài và các nhóm ngoài Kremlin đầu tư vào các công ty.
* Năng lượng: Hầu hết các chuyên ngành năng lượng nước ngoài rời khỏi nước Nga quá trình củng cố kinh tế đã bắt đầu đàm phán trở lại của họ sang Nga, biết rằng cơ hội năng lượng lớn đang chờ đợi. Điện Kremlin quan tâm nhiều dự án mới, giống như các lĩnh vực khí đốt tự nhiên Yamal, khí hóa lỏng tự nhiên (LNG) tìm kiếm thăm dò và khai thác ở Đông Siberia. Một số các dự án này cần công nghệ mới và những dự án khác cần đầu tư lớn. Các công ty muốn tham gia bao gồm Total của Pháp, các công ty Mỹ Chevron và ExxonMobil, BP công ty Anh và công ty Royal Dutch / Shell của Hà Lan-Anh.

* Công nghệ thông tin: lĩnh vực CNTT của Nga lạc hậu một thập kỷ đằng sau phương Tây và cần công nghệ và đầu tư.
* Không gian: những nỗ lực hiện đại hóa của Nga trong ngành công nghiệp không gian của nó hoàn toàn khác với các lĩnh vực khác. Thay vì yêu cầu các công ty nước ngoài đầu tư vào trong nước, Nga đang thuê một số lượng lớn các nhân viên không gian bị sa thải ở Hoa Kỳ. Nga đang đưa ra một loạt các ưu đãi đối với người Mỹ (và người Nga bỏ đi tới Mỹ trong thời kỳ "chảy máu chất xám" hậu Xô viết) đến Nga làm việc trong chương trình không gian của Nga.
* Quân đội: Nga đã thay đổi chính sách bảo vệ ngành công nghiệp quân sự để bắt đầu chấp nhận nguồn cung cấp quân sự nước ngoài, chẳng hạn như các phương tiện bay không người lái từ Israel và các tàu sân bay trực thăng lớp Mistral từ Pháp. Điện Kremlin hiểu rằng nó không thể sản xuất tất cả các phần cứng quân sự cần thiết để hiện đại hóa quân sự đạt các tiêu chuẩn cạnh tranh quốc tế, do đó, Nga mở ra cho các đối tác nước ngoài trong các lĩnh vực cụ thể, mặc dù vẫn còn thận trọng về an ninh quốc gia.
* Viễn thông: lĩnh vực viễn thông của Nga cũng cần hiện đại hóa và mở rộng. Các mạng di động và điện thoại cố định của Nga tụt hậu xa sau phương Tây. Phần lớn chương trình hiện đại hóa được thực hiện trong khu vực tư nhân, trong đó các đối tác nước ngoài sẽ có cổ phần trong các công ty viễn thông nhà nước. Các doanh nghiệp từ Na Uy và Phần Lan đã được quan tâm nhiều nhất trong lĩnh vực này.
* Transit: Việc hiện đại hóa của khu vực giao thông của Nga chủ yếu bao gồm lắp đặt đường sắt tốc độ cao để kết nối các vùng chiến lược trong nước và các nước khác, và nâng cấp ngành vận chuyển tàu biển. Như vậy đến nay, kế hoạch kết nối đường sắt được đưa ra là Moscow-Minsk, Moscow-Helsinki, Moscow-Riga, Moscow-Kiev, Moscow-Crimea và Moscow-Sochi. Hầu hết vốn đầu tư đều từ Siemens công ty của Đức, đã lên tới hàng tỷ.
* Công nghệ nano: Các kế hoạch hiện đại hóa công nghệ nano mơ hồ hơn so với kế hoạch cho các lĩnh vực khác, nhưng rõ ràng là một trọng tâm của Nga, đã cam kết chi 11 tỷ USD cho lĩnh vực này cho tới năm 2015. Nga muốn nắm lại vị trí của mình trong lĩnh vực khoa học hiện đại sau nhiều năm cơ tụt hậu do mất quá nhiều nhà khoa học cho phương Tây sau sự sụp đổ của Liên Xô. Nga đang hợp tác với các nhóm từ Hoa Kỳ, Đức và Phần Lan để thu hút tiền mặt và công nghệ để giúp xây dựng trung tâm công nghệ nano mới, Trung tâm Công nghệ nano quốc tế sáng tạo, nằm ở ngoại ô Moscow.

Các đối tác của Nga bao gồm các nước: Đức, Pháp, Hoa Kỳ, Phần Lan, Trung Quốc và Hàn Quốc. Nga đã sử dụng các chương trình tư nhân hóa và hiện đại hóa như một công cụ chính sách đối ngoại để tăng cường quan hệ. Trong một số trường hợp, Nga cần công nghệ và có những nhượng bộ chính trị để đạt được công nghệ cần có. Trong các trường hợp khác, Nga thực hiện khuyến mại chính trị và cho phép một đối tác nước ngoài tham gia trong quá trình hiện đại hóa và tư nhân như là một dấu hiệu tin tưởng. Nga đang ngăn chặn một số quốc gia nước ngoài, như Thụy Điển và Nhật Bản, tham gia dự án tư nhân hóa, hiện đại hóa vì chính trị các nước có xung đột với Nga.
Đức
Đức là sự hiện diện nước ngoài mạnh nhất trong cả hai chương trình. Nga và Berlin đã phát triển gần gũi. Nền tảng của mối quan hệ của họ từ lâu đã là năng lượng - Nga cung cấp hơn 40% khí đốt tự nhiên của Đức. Trong vài năm qua, Đức và Nga bắt đầu tìm cách để liên kết hơn nữa thông qua đầu tư và dự án kinh doanh chung. Người Đức có thể cung cấp đầu tư và công nghệ trong lĩnh vực năng lượng, giao thông vận tải và công nghệ nano.
Mỹ
Mối quan hệ Mỹ-Nga là phức tạp cả về chính trị và kinh tế. Ban đầu, Hoa Kỳ đã thậm chí không được coi là một đối tác có thể tham gia trong các chương trình hiện đại hóa và tư nhân, do Nga và Mỹ mâu thuẫn trong nhiều năm.

Nga đãn tự tin hơn duy trì vị thế trên toàn lãnh thổ của Liên Xô trước đây, tuy nhiên, và đã đánh giá lại khả năng của mình để có một chiến lược chính sách kép nước ngoài với Hoa Kỳ - một trong những hợp tác và gây hấn. Các chương trình hiện đại hóa và tư nhân đã là một phương tiện chính của hợp tác đối với các nước. Nga biết rằng sẽ cần tới công nghệ của Mỹ trong các lĩnh vực cụ thể, như công nghệ thông tin.

Trung Quốc
Tham gia trong các chương trình hiện đại hóa và tư nhân của Trung Quốc cũng là một sự phát triển mới. Ban đầu, nguồn tin của Stratfor chỉ ra rằng các công ty Trung Quốc nằm trong danh sách các nhóm bị cấm. Tuy nhiên, Nga và Trung Quốc đã hợp tác trong một số thỏa thuận năng lượng lớn có liên quan đến hàng chục (nếu không phải hàng trăm) tỷ đô la vào cơ sở hạ tầng năng lượng mới kết nối hai nước. Như các cuộc thảo luận năng lượng đã trở nên nghiêm trọng tại đầu năm nay, Nga đã bắt đầu chấp nhận sự quan tâm của Trung Quốc trong chương trình tư nhân hóa. China Investment Corp (CIC) đã được cho phép để mua một phần nhỏ cổ phần ban đầu của Ngân hàng VTB, mặc dù chỉ là biểu tượng chứ không đáng kể. CIC là một phần của chính phủ Trung Quốc, nắm khoảng dự trữ ngoại hối khổng lồ của Bắc Kinh ở nước ngoài để giúp đa dạng hóa các khoản đầu tư của Trung Quốc. CIC đã gặp khó khăn trong việc mở rộng sang các nước phương Tây và từ lâu xem xét đầu tư vào Nga, nhưng những rủi ro chính trị là quá cao cho đến bây giờ. Tiếp theo, CIC đang nghiên cứu một trong những dự án tư nhân hóa lớn nhất và quan trọng nhất: Sberbank.



-STRATFOR, February 20, 2012
Members of the Kremlin elite had forged two plans meant to modernize and strengthen the Russian economy for the future. The twin modernization and privatization programs were to depend largely on foreign expertise and investment - particularly investment from the Europeans, who are Russia's most important trade partners. However, the European economic crisis and political instability inside Russia have complicated matters, making investment less likely. Thus, the Kremlin is reformulating its plans to better suit the current circumstances.
Analysis
The Kremlin's top political, business and economic minds are holding a series of meetings and are exchanging a flurry of private messages concerning a reassessment of Russia's economic strategy. This comes as two main factors affect Russia's economic plans: financial uncertainty in Europe and political instability inside Russia. The Russian economy is stable, but these circumstances are forcing the Kremlin to reassess its ambitious plans for modernizing and diversifying the economy for the future.
Russia has mostly recovered from the 2008-2009 global financial crisis. Russia's gross domestic product grew 4.3 percent in 2011 and is projected to grow 3.5 to 4 percent in 2012. Inflation is at a low of 7 percent, and Russia's budget deficit is nearly zero. This ability to recover from such a crisis gave the Kremlin confidence to start formulating more ambitious economic strategies.
After nearly a decade of economic consolidation, the Kremlin believed that it had enough control over domestic politics, security, businesses and the financial sector that it could allow certain foreigners to purchase pieces of Russia's most strategic enterprises and invest in and modernize many financially attractive sectors. The twin modernization and privatization programs were meant to rapidly move the Russian economy forward, with its growth financed mostly by foreign investment groups. (Russia is not lacking in funds, but the Kremlin would prefer that others pay for its plans.) The programs were to bring in more than $200 billion in investment by 2015, with most of it flowing in between 2011 and 2013. The Kremlin began shifting Russia's domestic legal framework to allow foreign firms and individuals to own more assets in the country. The government worked to make Russia more attractive to investors by purging heads of strategic enterprises who were also government ministers or linked to the Federal Security Service. It also launched an ambitious anti-corruption campaign, though the campaign has not made much progress.
However, the European financial crisis and political instability within Russia have complicated the Kremlin's plans. Some aspects of the modernization and privatization programs will be discarded, some will change and in some cases the Kremlin will have to invest its own money in the growth it wants to see.
The European Factor
Russia's main partner in both investment and trade is the European Union. An estimated 75 percent of foreign direct investment in Russia comes from EU member states, and according to EU figures, the bloc accounts for 47.1 percent of Russia's overall trade turnover in 2010. Furthermore, Russia traditionally has carried more than 50 percent of its currency reserves in the euro. Because of these ties, Russia's modernization and privatization plans were going to depend heavily on funding and expertise from Europe.
However, Europe's financial crisis is changing Russia's circumstances. The crisis has not really affected trade between the European Union and Russia: trade dipped markedly in 2009 but rebounded by 2011. But Russia was expecting its modernization and privatization programs to raise at least $10 billion in 2011; instead, investment decreased in 2011. Moreover, capital outflows from Russia in 2011 were $70 billion -- twice the predicted $35 billion -- and most of that capital went to Europe.
Thus, while the foundation of Russia's economy -- exports to Europe -- remains stable, investment is expected to continue declining, and this means Moscow will have to reassess the large-scale plans that depend on European investment and possibly scrap the plans altogether.
Political Instability
Financial analysts are paying close attention to Russia's political instability. The main focus has been the rise of anti-Kremlin protests inside Russia, the last of which attracted 290,000 protesters countrywide Feb. 4. Though the protest movements have not proved to be a real threat to the government's power, the perceived threat of the protests makes foreign investors question Russia's stability. Moreover, most large business deals require a strong government to approve them and see them through the dense Russian bureaucracy. Foreign investors are not confident that the Kremlin can focus on such deals while facing political attacks.
The more destabilizing factor in Russia is the situation inside the Kremlin. The intricate clan network that Russian Prime Minister Vladimir Putin spent more than a decade building has collapsed, and business and economic policies are at the center of the fight among the remaining Kremlin power brokers.
The era of Russia's economic, financial and business consolidation that largely scared off foreign investors was fueled by the clan of siloviki -- mostly security hawks who prioritized national security above modernizing and diversifying Russia's economy. However, the modernization and privatization programs were devised by the siloviki's rival clan, the civiliki, a group of more liberal, economic-minded strategists. The siloviki vehemently opposed the modernization and privatization programs but could do little to stop them. The clan structure has broken down and most of the civiliki were either demoted, left the Kremlin or no longer have the power to stand up to the siloviki. Due to this breakdown, the programs' futures are in question, as is the future of any evolving Russian economic policy.
Reassessing the Programs
Well before the European economic problems and Russian political instability began, the siloviki pushed back against the modernization and privatization programs. Major Russian businesses -- mostly under siloviki control -- resisted the Kremlin's moves to create more transparency in Russia's business environment. But now that Europe's economy and Russia's political situation have dampened foreign investors' interest, the siloviki have a real argument for scrapping the plans altogether.
Using the European crisis and lack of investor interest as his foundation, siloviki chief and Deputy Prime Minister Igor Sechin argued that the firms to be privatized are undervalued. His main example is oil giant Rosneft, whose stock price is at $7. Sechin and many Russian financial analysts believe it should be more than $11, and that the prevailing European economic and Russian political circumstances are keeping prices low. Sechin also believes that there is no rush to carry out the privatization program, as it was initially presented as a way to counter Russia's budget deficit (which is now at zero, due to revenue from increased oil prices). However, most of the civiliki who helped design the program want to move forward with it rather than depend on oil prices to help with budgetary problems.
Sechin's argument has received public support from independent advisers, such as Deutsche Bank, which advised the Kremlin that launching such programs in the current global market is simply too challenging. Although the siloviki have a case, the few civiliki left in the government -- mainly under Economic Minister Elvira Nabiullina -- have been working for the past month on a new modernization and privatization plan. The privatization aspect is being discussed this week inside the Kremlin, but the modernization plan has not yet been addressed. Thus far, the plan is to delay most privatization efforts until 2017. The goal is to allow enough time for the European economic crisis to play out in hopes that the Europeans will want to invest in Russia in the future. However, this delay gives the siloviki plenty of time to try to shut down the privatization program altogether. Of course it also leaves time for the Kremlin to reorganize internally and create a new civiliki clan capable of implementing the plan despite the siloviki's complaints.
Meanwhile, the Kremlin is not simply waiting for foreigners to regain interest in investing in Russia. Some efforts are under way for Russian oligarchs to participate in some of the privatizations. Stratfor sources have said that billionaire Gennady Timchenko has acquired Murmansk Commercial Seaport and steel tycoon Vladimir Lisin is investing in Russian Railways -- assets and stakes previously intended for foreign investors under the privatization plan. Russia's oligarchs have quite a bit of money to invest in privatizations, though they have been loath to do so in the past since the Kremlin disapproved of oligarchs getting too involved in Russia's strategic sectors. The Kremlin will have to reassess its view on this issue with an interest in the oligarchs investing their billions at home.
Furthermore, the Kremlin is likely to start spending its own money in several strategic sectors in which it is not willing to wait for foreign investment. Stratfor sources say the Kremlin is also now willing to pay for projects that will bring in foreign modern technology. For example, Russia's version of Silicon Valley -- Skolkovo -- is expected to receive increased Russian government investment, as it is attracting technology from foreign firms such as Siemens AG, IBM, Nokia Corp., Intel Corp. and Cisco Systems Inc. The Russian government has approximately $600 billion in its rainy day funds (although Stratfor sources say twice that amount is stowed away). The Kremlin did not want to part with those funds while others were willing to invest in Russia, but now the circumstances have changed.
Although the modernization and privatization programs for the future of Russia's economy are not altogether dead, the economic and political crises affecting investment in Russia are forcing the Kremlin to redesign its strategy.
(http://www.stratfor.com/analys... )


























Tổng số lượt xem trang