THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM-Tài liệu tham khảo đặc biệt
Thứ Hai, ngày 29/10/2012- TTXVN(Hồng Công 28/10)
Bài viết trên tờ “Tín báo” ngày 22/10 của Tiết Lý Thái, nghiên cứu viên Trung tâm hợp tác An ninh Quốc tế Đại học Standford.
Bốn mươi năm qua, Trung Quốc đại lục, Đài Loan và Nhật Bản hai nước ba bên luôn tranh chấp chủ quyền về đảo Điếu Ngư/Senkaku, cho tới nay tranh chấp càng mạnh mẽ hơn. Cách đây không lâu, Nhật Bản thực hiện “quốc hữu hóa” đối với đảo Điếu Ngư/Senkaku, dẫn tới chính sách đồng loạt phản đối của Đại lục, thậm chí có lúc tình hình trở nên vô cùng căng thẳng, tuy vậy, tình hình đảo Điếu Ngư/Senkaku nay bỗng xuất hiện sự thay đổi kỳ diệu.
Đầu tiên, Thủ tướng Nhật Bản Yoshihiko Noda thừa nhận Tôkyô trước đó đã sai lầm khi đánh giá về những phản ứng có thể xảy ra của Trung Quốc. Quả thực là ban đầu Tôkyô không đánh giá được Bắc Kinh sẽ phản ứng mạnh mẽ như vậy.
Ngày 10/10, hãng tin Kyodo đưa tin Tôkyô đang nghiên cứu phương án thỏa hiệp, áp dụng rằng quan chức Nhật Bản “nhận thức thấy” phía Trung Quốc có đòi hỏi chủ quyền liên quan, cho rằng cách làm như vậy vừa có thể duy trì được lập trường kiên định của Nhật Bản, vừa có thể xem xét tới lập trường Trung Quốc yêu cầu Nhật Bản thừa nhận sự tồn tại của tranh chấp chủ quyền. Theo tin, phía Nhật Bản phán đoán Trung Quốc xây dựng mục tiêu ngắn hạn trong tranh chấp đảo Điếu Ngư/Senkaku là ép phía Nhật Bản thừa nhận “tồn tại tranh chấp chủ quyền”, tức phương pháp như vậy có tính khả thi.
Mỹ không muốn nhìn thấy chiến tranh Trung-Nhật
Động thái trên cho thấy phía Nhật Bản lộ ra kỳ vọng dùng biện pháp thỏa hiệp để làm dịu quan hệ căng thẳng giữa hai nước. Điều này hoàn toàn khác biệt so với lập trường cứng rắn của Nhật Bản trước ngày 11/9.
Tiếp đó, lập trường của Mỹ cũng có thay đổi. Ngày 28/9, trong cuộc gặp với ngoại trưởng Nhật Bản tại Niu Yoóc, Ngoại trưởng Mỹ Hillary đã nhắc nhở một cách bất thường (rằng) Nhật Bản cần thận trọng xử lý quan hệ ngoại giao với Trung Quốc; về sự căng thẳng trong quan hệ Trung-Nhật do tranh chấp đảo Điếu Ngư/Senkaku gây ra, bà Hillary chỉ rõ khi hành động, Nhật Bản cần “thận trọng”. Thứ trưởng Ngoại giao phụ trách vấn đề châu Á-Thái Bình Dương Mỹ Campbell cũng có thái độ tương tự khi thúc giục Nhật Bản cần hành động thận trọng.
Hiện nay, nền kinh tế Trung Quốc đang đứng ở vị trí thứ hai, hy vọng chiếm ngôi thứ nhất thế giới, nằm ở vị trí then chốt đang trỗi dậy. Thực lực kinh tế của Trung Quốc và Nhật Bản đứng vị trí thứ hai và thứ ba thế giới, khi hai bên phát sinh xung đột, va chạm, Mỹ đương nhiên vui mừng đứng ngoài quan sát. Tuy nhiên, Mỹ thực sự cũng không hy vọng xảy ra chiến tranh giữa hai nước này. Huống hồ, phương Tây đang đánh bài ngửa quân sự với Têhêran xung quanh vấn đề vũ khí hạt nhân của Iran, suy cho cùng thì tranh chấp đảo Điếu Ngư/Senkaku chỉ là vấn đề nhỏ, vấn đề hạt nhân của Iran mới là nguồn căn của cơn bạo bệnh. Quan sát kỹ thái độ của Mỹ trong tranh chấp đảo Điếu Ngư/Senkaku có thể thấy được sự thay đổi tinh tế trong lập trường của Mỹ.
Theo phán đoán của các nhà chiến lược Trung Quốc, mấy năm gần đây xung quanh Trung Quốc liên tục dậy sóng, hình thành cục diện nguy hiểm bốn bề, cơn sóng lớn bao trùm nằm ở quyết định chiến lược quay trở lại Châu Á của Mỹ và 65% lực lượng hải quân và không quân của Mỹ sẽ bố trí tập trung ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Mỹ quyết định quay trở lại châu Á, đương nhiên phải dựa vào sự phối hợp và ủng hộ của Nhật Bản, Hàn Quốc, ngược lại, cũng tất phải coi trọng lời hứa đảm bảo quốc phòng cho đồng minh của Mỹ.
Nhật Bản có chỗ dựa nên không còn e sợ, xuất kích bốn phía
Về chiến lược an ninh Đông Bắc Á, Mỹ và Nhật Bản không hẳn là cùng hội cùng thuyền, mà là “giống nhưng có khác”. Bắc Kinh cần chú ý đến điều này khi đưa ra quy hoạch chiến lược.
Để duy trì cục diện chính trị ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, Mỹ cần chú ý đề phòng trước ảnh hưởng mang tính khu vực do sự tăng cường sức mạnh quốc gia của Trung Quốc tạo ra, Mỹ chỉ nên trông chờ vào hành động chi viện của Nhật Bản chủ yếu giới hạn ở vùng biên Đài Loan; còn Nhật Bản thì dựa vào những lời hứa của Mỹ nên đã nhân cơ hội ra tay “xử lý việc riêng”, hy vọng Mỹ đồng ý để Nhật Bản có hành động quân sự “ra bên ngoài”. Điều này chính là nguồn cơn của việc Nhật Bản đã xuất kích tứ phía” mấy năm gần đây với tinh thần cứng rắn chưa từng có trong tranh chấp đảo Điếu Ngư/Senkaku; ngoài ra còn tranh cướp đảo Dokdo/Takeshima với Hàn Quốc, mở rộng phạm vi tranh chấp lãnh thổ với Nga ở phía Bắc, kích động các tranh chấp ngoại giao.
Nếu quan hệ Trung-Nhật tiếp tục xấu đi, thậm chí xảy ra xung đột quân sự thì sẽ không tránh khỏi ảnh hưởng tới lợi ích an ninh quan trọng của Mỹ. Trước tiên, hòa bình và sự ổn định của khu vực châu Á-Thái Bình Dương sẽ chịu tác động lớn, thậm chí mở rộng phạm vi. Tiếp sau, dân chúng Trung-Nhật chịu tác động của lịch sử thù hận, dễ bùng phát xung đột, sau khi nảy sinh xung đột, do nhân tố trong nước (Trung Quốc) thiếu khả năng khống chế sự lan tràn của các hành động quân sự, rất có khả năng xung đột leo thang. Trong tình huống này, Mỹ tất sẽ bị cuốn vào và đó sẽ là thảm kịch mà các bên xung đột khó tránh khỏi.
Xung đột phá vỡ cục diện quân sự tại châu Á-Thái Bình Dương
Nói đến cục diện chính trị Đông Bắc Á, thì Nga không có hy vọng chấn hưng, trong tương lai gần, chưa thể nói tới sự thống nhất giữa hai miền. Triều Tiên sức ảnh hưởng của các nước trong khu vực này thì chỉ có Trung Quốc và Nhật Bản. Nói về lợi ích chiến lược của Mỹ, điều quan trọng hơn là, cho dù cuộc chiến Trung-Nhật diễn biến như thế nào thì đều sẽ tác động trực tiếp tới sự tồn tại quân sự của Mỹ tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương, từ đó làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới an ninh của nước Mỹ.
Trung-Nhật bùng nổ xung đột, sẽ có hai kết quả: Nếu Mỹ-Nhật hợp lực đánh thắng Trung Quốc thì Trung Quốc suy sụp, không chấn hưng được, Nhật Bản xưng bá ở Đông Á. Sự uy hiếp xung quanh Nhật Bản đã hết, lực lượng kìm kẹp bị mất đi, Nhật Bản tất sẽ đánh giá lại giá trị của Hiệp ước bảo đảm an ninh Mỹ-Nhật, không sớm thì muộn Nhật Bản cũng mượn cớ làm theo yêu cầu của người dân đế ép Mỹ rút quân khỏi Okinawa cũng như lãnh thổ Nhật Bản. Mỹ đã tiêu diệt được mối đe dọa từ một Trung Quốc đang trỗi dậy, song lại phải đối diện với mối đe dọa của một Nhật Bản đã từng trỗi dậy, đó cũng là “trăm sông về một biển”.
Nếu xảy ra chiến tranh, các bên tham chiến sẽ có khả năng dẫn đến nguy cơ chiến tranh hạt nhân, nếu không có thỏa hiệp, Trung Quốc tất sẽ “chơi sòng phẳng” với Mỹ và Nhật Bản. Nếu Mỹ tham chiến mà không chế ngự được Trung Quốc, Nhật Bản tất sẽ nhìn Trung Quốc với con mắt khác, sẽ tôn trọng quyền lợi và yêu cầu của Trung Quốc hơn. Như vậy, về trật tự an ninh thế giới, Hiệp ước đảm bảo an ninh Mỹ-Nhật trên thực tế đã có sự thay đổi về chất.
Từ đó có thể thấy chỉ cần Trung Quốc và Nhật Bản xảy ra xung đột quân sự ở mức độ cao, thì cho dù kết thúc như thế nào, cục diện quân sự ở khu vực châu Á- Thái Bình Dương đều sẽ bị phá vỡ, từ đó trực tiếp ảnh hưởng tới tổng thể lợi ích an ninh của Mỹ ở khu vực này.
Mỹ không hy vọng các bên độc tôn xưng bá
Diễn biến của tranh chấp Trung-Nhật xem ra đều chịu sự hạn chế bởi vai trò của Mỹ trong ván cờ chiến lược khu vực Đông Bắc Á. Mỹ sẽ tăng cường sức ảnh hưởng, hạn chế mọi khả năng của Trung Quốc và Nhật Bản trong tình hình cục diện xấu đi. Nếu xung đột quân sự Trung-Nhật nổ ra Mỹ cũng sẽ đứng giữa kêu gọi điều đình, giúp đỡ bên chịu thiệt hại, ngăn chặn cục diện độc tôn xưng hùng của bất cứ nước nào ở Đông Bắc Á.
Nói tóm lại, Mỹ và Nhật Bản có lập trường tương đối khác nhau, ngay cả trong vấn đề quan trọng nhất là đối đầu với Trung Quốc. Nhật Bản hy vọng nổi lên ở Đông Á, do đó không thể tránh khỏi cần phải hành động để dìm ép Trung Quốc. Tuy nhiên; Mỹ lại chỉ muốn có một sự cân bằng giữa Trung Quốc và Nhật Bản. Nói cách khác, lập trường của Mỹ chính là một nhân tố kiềm chế các bên trong ván cờ chiến lược Đông Bắc Á.
*
* *
TTXVN (Bắc Kinh 25/10) Ngày 17/10, mạng “Quan điểm Trung Quốc” đăng bài viết của chuyên gia Lưu Vệ Đông về nhân tố Mỹ trong tranh chấp đảo Điếu Ngư/Senkaku, nội dung như sau:
Tháng 9 năm nay, Ngoại trưởng Mỹ H.Clinton và Bộ trưởng Quốc phòng Leon Panetta đã lần lượt đến thăm Bắc Kinh. Đáng chú ý, Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ William Bums lại đến thăm Trung Quốc từ ngày 16- 17/10. Mục đích chuyến thăm Trung Quốc lần này của Thứ trưởng Ngoại giao W.Burns được dư luận bên ngoài phổ biến cho rằng có liên quan đến tình hình căng thẳng tranh chấp lãnh thổ tại Đông Bắc Á, nhưng vấn đề dường như không đơn giản như vậy. Vì bên cạnh “sứ mệnh hòa bình” mà W.Burns đem lại, Mỹ còn điều hai tàu sân bay được vũ trang toàn diện đến khu vực này. Rốt cuộc Mỹ mong muốn đóng một vai trò như thế nào trong tranh chấp đảo Điếu Ngư/Senkaku giữa hai nước Trung-Nhật?
Lịch trình chuyến thăm 3 nước Đông Bắc Á Trung-Nhật-Hàn lần này của W.Burns tiếp tục được thực hiện tuần tự như trong lịch sử, trạm thứ nhất đến Nhật Bản, trạm thứ hai đến Hàn Quốc và tiếp theo đến Trung Quốc. Mục tiêu chủ yếu của Mỹ là thực hiện quay trở lại châu Á-Thái Bình Dương để mở rộng sức ảnh hưởng toàn diện của mình. Hơn nữa giữa Mỹ và 3 nước Đông Bắc Á vẫn tồn tại một số vấn đề cần thông qua kênh song phương để giải quyết, cho nên hoàn toàn không thể cho rằng mục đích chủ yếu trong chuyến thăm lần này của W.Burns là nhằm vào tranh chấp Trung-Nhật xung quanh đảo Điếu Ngư/Senkaku. Nhưng, lợi ích cốt lõi của Mỹ tại Đông Bắc Á là duy trì khu vực này hoà bình ổn định và thịnh vượng, điều này hoàn toàn không phải lời đường mật của chính khách Mỹ muốn dùng để lấy lòng các nước Đông Bắc Á, mà là nhu cầu lợi ích hiện thực của Mỹ. Suy cho cùng con đường cường thịnh cơ bản của Mỹ là dựa vào năng lực sản xuất hùng mạnh để hưởng lợi trong thương mại tự do toàn cầu, trong khi để làm được điều này bắt buộc phải có thị trường bên ngoài ổn định làm sự bảo đảm cơ bản. Do tranh chấp Trung-Nhật xung quanh đảo Điếu Ngư/Senkaku ngày càng quyết liệt, rủi ro xảy ra xung đột dân sự cục bộ, thậm chí là xung đột quân sự đều đang tăng lên, Mỹ tất nhiên mong muốn lợi dụng sức ảnh hưởng lớn mạnh của mình đối với cả với Trung Quốc và Nhật Bản để kiểm soát hữu hiệu quan hệ Trung-Nhật, điều chỉnh mối quan hệ này phù hợp với sự vận hành trong phạm vi lợi ích của bản thân nước Mỹ.
Đối với Mỹ, một quan hệ Trung-Nhật lý tưởng là duy trì sự ổn định cơ bản trong sự cọ sát nhỏ liên tiếp. Cọ sát quá quyết liệt, hoặc quan hệ Trung-Nhật quá mật thiết, đều không phù hợp với lợi ích của Mỹ, do vậy Mỹ thông qua mọi phương thức cả công khai lẫn bí mật để tiến hành can thiệp “mang tính uốn nắn”. Trước khi vấn đề đảo Điếu Ngư/Senkaku trở nên gay gắt, Mỹ cho rằng quan hệ Trung-Nhật vẫn chưa ở vào trạng thái cần khống chế, cho nên khi Ngoại trưởng Mỹ H.Clintơn thăm Trung Quốc và bày tỏ về vấn đề này vẫn còn tương đối thoải mái. Sau khi Nhật Bản quốc hữu hoá đảo Điếu Ngư/Senkaku và Trung Quốc đưa ra phản ứng quyết liệt ngoài dự đoán của cộng đồng quốc tế, Chính phủ Mỹ đã nhận thức đầy đủ được tính nghiêm trọng của vấn đề, bắt đầu chuyển từ thái độ “từ chối làm nhà hoà giải” mà W.Burns từng nói sang định vị vai trò là “trọng tài trung lập”. Bản thân Mỹ không có lợi ích hiện thực trong vấn đề đảo Điếu Ngư/Senkaku. Đối với Mỹ, đảo Điếu Ngư/Senkaku thuộc về ai đều không quan trọng, nhưng vì Trung Quốc – quốc gia quan trọng nhất châu Á và Nhật Bản – liên minh quan trọng nhất của Mỹ tại châu Á đều hết sức coi trọng thái độ của Mỹ trong vấn đề này, cho nên Mỹ không thể không từ bỏ lập trường úp mở, lấy lòng cả hai, thậm chí đứng ngoài cuộc trong vấn đề đảo Điếu Ngư, chuyển sang hy vọng thông qua sự can dự của mình để ngăn chặn tình hình tiếp tục xấu đi, đề phòng tranh chấp Trung- Nhật đi quá giới hạn tác động bất lợi đến lợi ích của Mỹ tại Đông Á.
Lập trường chính thức của Mỹ trong vấn đề đảo Điếu Ngư/Senkaku luôn thể hiện hai điều là không giữ lập trường trong vấn đề quy thuộc chủ quvền, nhưng khẳng định Hiệp ước Bảo đảm an ninh Nhật-Mỹ thích hợp cho trường hợp đảo Điếu Ngư. Có thể cho rằng, vế thứ nhất là Mỹ nói cho Trung Quốc nghe, vế thứ hai là nói cho Nhật Bản nghe. Với cách Mỹ giữ thái độ như vậy, Trung-Nhật đều có thể có được những gì mình muốn, đồng thời chấp nhận sự kiểm soát của Mỹ trong quan hệ Trung-Nhật. Nhưng vấn đề là Nhật Bản cho rằng vế thứ nhất mà Mỹ đưa ra là yếu ớt vì đảo Điếu Ngư/Senkaku nằm dưới sự kiểm soát thực tế của Nhật Bản và bản thân Mỹ cũng ủng hộ quyền kiểm soát thực tế của Nhật Bản, cho nên Nhật Bản không dám phá vỡ hiện trạng, thách thức giới hạn cuối cùng của Trung Quốc. Cũng có thể nói thái độ lập trường xem ra tự mâu thuẫn với chính mình của Mỹ đã đẩy tranh chấp đảo Điếu Ngư không ngừng leo thang và đây là biểu hiện thứ nhất thể hiện sự mâu thuẫn giữa lời nói và lợi ích của Mỹ.
Biểu hiện thứ hai là, để ngăn chặn tình trạng tranh chấp đảo Điểu Ngư tiếp tục leo thang, Mỹ đã phái biên đội tàu sân bay tiến hành uy hiếp Khách quan mà nói, điều này hoàn toàn không có nghĩa là Mỹ nhất định sẽ trực tiếp bắt tay với Nhật Bản để tấn công Trung Quốc sau khi Trung-Nhật xảy ra xung đột quân sự, sức mạnh của tàu sân bay chủ yếu được coi là một dạng công cụ thể hiện sức mạnh nhằm ngăn chặn tình hình leo thang và đưa ra phản ứng nhanh chóng trước khủng hoảng, bản thân nó hoàn toàn không có tính khuynh hướng rõ rệt. Nhưng do Mỹ luôn coi Trung Quốc là đối thủ tiềm tàng và coi Nhật Bản là đồng minh quan trọng, cho nên động thái này của Mỹ hiển nhiên bị Trung Quốc coi là khiêu khích, trong khi Nhật Bản lại coi là hành động trợ giúp. Thế là việc Mỹ phái lực lượng đến duy trì hoà bình nhanh chóng chuyển thành một nguyên nhân làm tăng rủi ro xung đột khu vực. Về điểm này e rằng Mỹ cũng hoàn toàn bất ngờ.
Hiện nay, tranh chấp Trung-Nhật xung quanh đảo Điếu Ngư/Senkaku đã diễn biến thành một dạng đối kháng sức mạnh song phương, mắc một chút sai lầm đều có thể dẫn đến xung đột mà hậu quả khó có thể tiên lượng. Hễ một bên súng bị cướp cò, tình hình có thể vượt ra ngoai phạm vi kiểm soát của Chính phủ hai nước. Vì vậy, hiện nay ngoài việc tích cực tiến hành hoà giải và giảm áp lực, Mỹ không còn sự lựa chọn nào khác. Một trong những mục đích chủ yếu trong chuyến thăm Đông Bắc Á lần này của W.Burns là nắm rõ tình hình và khuyên giải các bên. Sau khi hội đàm với các quan chức cấp cao Nhật Bản, W.Burns sẽ thông báo cho phía Trung Quốc về suy nghĩ của Chính phủ Nhật Bản trong vấn đề này và Chính phủ Mỹ hy vọng sẽ đạt được mục đích, đồng thời mong muốn tìm hiểu các biện pháp đối phó liên quan của phía Trung Quốc, để tiện cho việc đặt nền móng cho các cuộc điều đình trong giai đoạn tiếp theo. Trung-Nhật là hai đối tượng qua lại chủ yếu của Mỹ tại Đông Bắc Á, trong khi Trung-
Nhật lại nằm trong top 3 các nước có nền kinh tế lớn nhất toàn cầu, nên đối với Mỹ, xử lý tốt quan hệ 3 bên là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong tổng thể chiến lược châu Á-Thái Bình Dương của mình, Mỹ không thể không đầu tư nguồn lực vào khu vực này. Nhưng, chính sách “trung tâm và các vệ tinh” truyền thống của Mỹ tại Đông Bắc Á vốn đã tồn tại thiếu sót, nhất là sau khi Trung-Nhật hoàn thành hoán đổi địa vị tại châu Á, đối xử như thế nào với Trung Quốc và Nhật Bản trong thời kỳ mới sẽ trở thành vấn đề khó khăn đặt ra trước mắt Mỹ. Vai trò của Trung Quốc là toàn diện, trong khi Nhật Bản chỉ là một đối tác an ninh; ảnh hưởng của Trung Quốc khắp toàn cầu, trong khi giá trị của Nhật Bản chủ yếu chỉ hạn chế ở khu vực châu Á; nhưng bên cạnh đó, Trung Quốc lại là đối tượng ngăn chặn chủ yếu của Mỹ, trong khi lo ngại của Mỹ đối với Nhật Bản lại ít hơn nhiều. Bối cảnh đan xen phức tạp như vậy khiến cho Mỹ tỏ ra lực bất tòng tâm trong xử lý quan hệ Trung-Nhật, đến mức khó có thể định vị chính xác rốt cuộc Mỹ là thiết bị dẫn cháy hay thiết bị dập lửa trong tranh chấp đảo Điếu Ngư/Senkaku giữa Trung Quốc và Nhật Bản. Sự lúng túng của Mỹ đã hiện rõ, điều này cũng có nghĩa chuyến thăm Đông Bắc Á lần này của W.Bums lại một lần nữa không thành công.
*
* *
TTXVN (Hồng Công 28/10)
Trong bối cảnh căng thẳng giữa Trung Quốc và các nước Đông Bắc Á đang gia tăng mạnh trong thời gian gần đây, Mỹ đã xúc tiến chiến lược trở lại châu Á. Nhiều chuyên gia đã cho rằng chiến lược này của Mỹ là nhằm mục đích kiềm chếvà bao vây Trung Quốc. Báo mạng Asia Times Online vừa đăng bài phân tích cho rằng Mỹ đang lôi kéo các đồng minh Đông Bắc Á, đặc biệt là Nhật Bản, vào cuộc đối đầu với Trung Quốc. Dưới đây là nội dung bài viết:
Richard Armitage – Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ dưới thời cựu Tổng thống George W Bush, là người đảm trách nhiệm vụ “nói với Nhật Bản phải làm gì”. Thủ tướng Nhật Bản khi đó, ông Junichiro Koizumi, đã từng hai lần xem xét việc tham gia “liên minh tự nguyện” tại Irắc và Armitage đã nói với một quan chức: “Đừng lùi bước”. Trước đó, Armitage đã tư vấn cho Nhật Bản “kéo quân ra khỏi bờ biển và chắc chắn rằng lá cờ của đất nước mặt trời mọc sẽ được trông thấy tại cuộc chiến ở Ápganixtan”
Giờ đây, trong một báo cáo cùng thực hiện với Joseph Nye gửi cho Trung tâm Chiến lược và Nghiên cứu Quốc tế (CSIS), ông Armitage tuyên bố: “Nhật Bản nên đối mặt với các vấn đề mang tính lịch sử đang tiếp tục làm phức tạp hóa quan hệ với Hàn Quốc”. Báo cáo được công bố ngày 15/8, trong lúc căng thẳng giữa Nhật Bản và các nước láng giềng đang dâng cao. Người dân Hàn Quốc, Trung Quốc và các nước châu Á khác đã trải qua một thời kỳ kinh hoàng dưới thời phát xít Nhật, và mặc dù Tôkyô nhiều lần đưa ra lời xin lỗi cũng như bồi thưòng chiến tranh, nhiều người dân tại các nước đó vẫn cho rằng Nhật Bản đã không cư xử đủ để bù đắp những sai lầm trong lịch sử. Hàng triệu người Nhật Bản cũng đồng tình với quan điểm này.
Tuy nhiên, những sửa chữa sai lầm đã bị giảm giá trị với những chuyến thăm gây tranh cãi đến các hòn đảo tranh chấp chủ quyền, các cuộc biểu tình rầm rộ và những yêu cầu xin lỗi được cho là sẽ làm trỗi dậy tinh thần dân tộc chủ nghĩa của tất cả các bên.
Kiểu mẫu của chủ nghĩa thống trị
Không ai nói rằng vượt qua những khác biệt này là mong muốn của cả Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc. Tuy nhiên, điều đó sẽ giúp các nước hợp tác hòa bình và sử dụng toàn bộ nguồn lực cho việc giải quyết các vấn đề tại đây và ngay lúc này. Hầu hết trong số đó, sẽ bảo đảm cho công lý. Nhưng chính xác là tại sao Armitage và Nye lại hối thúc Nhật Bản làm như vậy?
Để trả lời câu hỏi này, chúng ta phải xem xét một trong số những khuyến nghị của họ đối với Nhật Bản. Những khuyến nghị này bao gồm việc thận trọng nối lại hoạt động điện hạt nhân, quyết định đơn phương của Nhật Bản gửi tàu phá mìn tới Vịnh Pécxích khi xuất hiện những tín hiệu đầu tiên ám chỉ đến ý định của Iran về việc muốn đóng cửa eo biển Hormuz, “tăng cường cộng tác với Mỹ tham gia giám sát tại Biển Đông và mở rộng phạm vi trách nhiệm của Nhật Bản, trong đó có sự phòng thủ của Nhật Bản và hoạt động phòng vệ cùng với Mỹ trước những biến cố tại khu vực.”
Điều cuối cùng cần sự giải thích: đó là việc xem xét đến phòng thủ tập thể (sử dụng lực lượng để bảo vệ một nước đồng minh). Điều 9 trong Hiến pháp Nhật Bản về vấn đề tham chiến đã cấm điều này. Việc ngăn cấm này là một trong những lý do mà Điều 9 vẫn được tôn trọng, biến nó thành một vấn đề lịch sử khác làm phức tạp các vấn đề đối với sự phô trương sức mạnh của người Mỹ. Báo cáo lưu ý rằng sự hỗ trợ của quân đội Mỹ đối với Nhật Bản sau trận động đất và sóng thần ngày 11/3/2011 đã hình thành một tiền lệ về sự hỗ trợ lẫn nhau với Lực lượng phòng vệ Nhật Bản. Điều này đã rõ ràng ngay từ đầu rằng cụm từ “bạn bè” được dùng để người dân Nhật Bản chấp nhận sự hiện diện của quân đội Mỹ dễ dàng hơn.
Trong những ngày này, người Mỹ đã sử dụng nhiều ngôn từ khéo léo và khẳng định sự tôn trọng của họ đối với các ý kiến trong xã hội khi đưa ra yêu cầu đối với Nhật Bản – ít nhất là về mặt công khai. Nhưng liệu đó có là vấn đề đối với các tác giả của báo cáo, khi mà những cuộc điều tra đều cho thấy sự ủng hộ đối với việc hạn chế điện hạt nhân. Có thể là không!
Michael Green, một cựu quan chức khác trong Chính quyền Bush, người tham gia viết báo cáo này, đã đánh giá việc phản đối điện hạt nhân tại Nhật Bản là chủ nghĩa NIMBY (chủ nghĩa lợi ích cục bộ địa phương) – chỉ vài tuần trước sự cố tại Fukushima. Tất nhiên, các tác giả khẳng định rằng tất cả là vì lợi ích của Nhật Bản, nhưng lạ thay, trong sự trình bày của họ, Nhật Bản hiếm khi có lợi ích xung đột với Mỹ. Thử hình dung những phản ứng mạnh từ Quốc hội Mỹ nếu một nhóm các cựu quan chức Nhật Bản đưa ra mệnh lệnh đối với Mỹ – khuyên nhủ họ, chẳng hạn như làm thế nào để giải thích về luật pháp của họ và sử dụng lực lượng vũ trang của họ.
Tuy nhiên, những báo cáo như vậy có thể vấp phải phản ứng từ phòng họp của giới chức Nhật Bản. Sự hình thành mang tính bảo thủ đã tồn tại từ lâu trong những điều cấm ở Điều 9. Bất chấp nhiều cuộc đối thoại về “quyền lực mềm,” khuynh hướng áp đảo là giao phó vấn đề an ninh cho lực lượng quân sự – đầu tiên, dưới “cái ô hạt nhân” Mỹ, nhưng tăng lên mức các lực lượng của Mỹ và Nhật Bản “diễn” chung trong một “buổi trình diễn,” dưới sự chỉ huy toàn bộ của Mỹ. Đương nhiên là như vậy!
Tất cả những điều này phù hợp với sự miêu tả của McCormack rằng Nhật Bản đóng vai trò là một “quốc gia đối tác” của Mỹ, với “một bên mang thân phận nô lệ, hạ mình và một bên coi thường bên còn lại.” Khi thủ tướng Nhật Bản Yukio Hatoyama nỗ lực hình thành Cộng đồng Đông Á và giảm bớt mạnh của các căn cứ quân sự Mỹ tại Okinawa, ông Yukio Hatoyama đã bị trừng phạt bằng một bức tường đá chống lại từ phía Chính quyền Obama và đã phải từ chức sau chưa đầy chín tháng cầm quyền. Kể từ đó, các thủ tướng Nhật Bản đã bám chặt hơn vào người Mỹ. Mặc dù ngày càng xuất hiện nhiều hơn những lời kêu gọi về việc xem xét lại liên minh này xét trên góc độ về một thế giới đa cực ngày càng tăng, báo cáo gửi CSIS nhằm mở rộng vai trò của Nhật Bản dưới quyền lãnh đạo của Mỹ.
Với các mối liên kết pháp lý và con người lâu nay giữa hai thể chế an ninh quốc gia của hai nước, điều này có thể thành công.
Kích hoạt những sự phản đối
Và trường hợp này được coi là một sự mâu thuẫn. Như những quan sát của Philip Seaton trong cuốn “Những Ký ức chiến tranh gây tranh cãi của Nhật Bản”, Mỹ đóng vai trò là một nước kích động các chính trị gia Nhật Bản đã hủy bỏ những lời xin lỗi trước đây về các hành động trong thời chiến tranh với những hành động và ngôn từ gây hấn:
Xét tổng thể, chính sách của Mỹ, kể từ sau vụ khủng bố 11/9 rõ ràng là hữu ích đối với phe bảo thủ Nhật Bản. Chính phủ Mỹ hỗ trợ cho Chính phủ Nhật Bản về bồi thường (bất chấp bị người dân Mỹ chỉ trích) nhằm loại bỏ các yếu tố theo chủ nghĩa hòa bình trong pháp luật của Nhật Bản không lên án việc thờ cúng tại ngôi đền Yasukuni, nơi thờ cúng tất cả những quân nhân Nhật bị phe Đồng Minh kết tội phạm tội ác chiến tranh và thúc đẩy mạnh mẽ việc tái vũ trang của Nhật Bản. Một số nhà nghiên cứu mới của Mỹ đã khuyến cáo Nhật Bản nên tự vũ trang bằng vũ khí hạt nhân để đối phó với nguy cơ từ Bắc Triều Tiên, một đề xuất kinh khủng đối với nhiều người Nhật Bản.
Tất cả các điều này được xem là “sai lầm khi giải quyết quá khứ” nếu Chính phủ Nhật Bản đơn phương theo đuổi, khi đó tội đồng lõa của Nhật Bản với đồng minh quan trọng nhất trong cái “sai lầm khi giải quyết quá khứ” trở nên rõ ràng.
Báo cáo của Armitage và Nye rõ ràng muốn khẳng định sự đồng lõa này. Tăng cường khả năng tấn công và phạm vi hoạt động của quân đội Nhật Bản là điều cuối cùng có thể xoa dịu những ký ức cay đắng của phát xít Nhật trong suốt thời kỳ 15 năm chiến tranh 1931-1945. Và muốn khuyến khích sự tin tưởng vào lực lượng quân sự thì hãy để những vết thương này có thể lành lại.
Do vậy, mục tiêu chính của báo cáo này mâu thuẫn với lời kêu gọi vượt qua các vấn đề lịch sử của nó. Nếu nhóm của Armitage có bất kỳ quan tâm thực sự nào tới việc sửa chữa sai lầm quá khứ trong chiến tranh, họ sẽ là nhừng con diều hâu xem xét những phàn nàn của người Trung Quốc cũng như của người Triều Tiên, mà không đề cập tới các nạn nhân của sự tàn ác của người Mỹ.
Thay vào đó, họ lại cho sự gây hấn ngày càng tăng của Trung Quốc là lý do chính cho sự hỗ trợ quân sự Mỹ-Nhật. “Các nhà quản lý đồng minh” tại Oasinhtơn và Tôkyô đã mượn cớ triệt để mâu thuẫn với Trung Quốc (và Bắc Triều Tiên) để vượt qua sự phản đối khi họ giới thiệu ngày càng nhiều hệ thống vũ khí tại Nhật Bản. Và một khuyến nghị mà báo cáo không đưa ra – trong dịp tưởng niệm 75 năm vụ thảm sát Nam Kinh – là Nhật Bản phải đối mặt với càng nhiều sự xúc phạm về những gì đã gây ra tại Trung Quốc.
Không, các chuyên gia của CSIS thích thú với việc tranh luận về lịch sử chỉ với một chừng mực rằng nó liên quan đến mục tiêu chiến lược của Mỹ: Nhật Bản và Hàn Quốc phải ngừng cãi vã, như vậy hai nước này mới có thể được Mỹ sử dụng hiệu quả hơn để chống lại Trung Quốc. Khi Hàn Quốc, trong thế đối mặt với sự phản đối của dư luận tập trung vào các tranh cãi lịch sử, vội vã ký kết một thỏa thuận chia sẻ tình báo với Nhật Bản, đó là một tin rất xấu tại Lầu Năm Góc. Chắc chắn, bản báo cáo hối thúc “nhanh chóng tiến tới chấm dứt” thỏa thuận này.
Trong một buổi thuyết trình báo cáo, Armitage nói một cách đầy thán phục về “nỗi nhục quốc gia” của Nhật Bản, dường như không để ý đến vai trò của Điều 9 trong việc xây dựng nó. Armitage và Nye viết rằng Nhật Bản có thể bỏ qua báo cáo của họ trừ phi muốn trở thành một “quốc gia bậc một – nghĩa là cùng cấp với nước Mỹ, với “sức mạnh kinh tế đáng kể, tiềm lực quân sự, tầm nhìn toàn cầu, và vai trò lãnh đạo chủ chốt đối với các vấn đề quốc tế . Điều đó có nghĩa nếu muốn trở thành một quốc gia mạnh mẽ thì hãy tiến về phía trước. Tuy nhiên, Armitage kỳ vọng về “một Nhật Bản mà trong đó người Nhật trẻ tuổi có thể mơ ước, chứ không chỉ tồn tại”. Để làm được cái điều “không chỉ là tồn tại” rõ ràng, đất nước Nhật Bản phải luôn trong tình trạng chiến tranh. Nói cách khác, Nhật Bản phải là một đế quốc, hay ít nhất là một nước chư hầu yêu thích.
Trong thời điểm khủng hoảng hiện nay, con đường phía trước đòi hỏi việc nhận ra lợi ích chung của tất cả người dân trong khu vực Đông Bắc Á – bất kể họ khác biệt như thế nào trong chính sách đối ngoại của Mỹ.
*
* *
TTXVN (Oasinhtơn 22/10)
Ngày 12/10, Tạp chí Chính sách đối ngoại đăng bài viết “Giải quyết vấn đề Okinawa - Bao nhiêu lính thủy đánh bộ của Mỹ vẫn cần hiện diện tại Nhật Bản” của tác giả Mike Mochizuki, giáo sư chính trị học và các vấn đề quốc tế tại Đại học George Oasinhtơn, Mỹ và Michael O’Hanlon giám đốc nghiên cứu chính sách đối ngoại tại Viện Brookings, Mỹ. Nội dung bài viết như sau:
Thời gian gần đây, lính thủy đánh bộ Mỹ bắt đầu triển khai máy bay quân sự V-22 Osprey tới Okinawa, Nhật Bản. Osprev bay giống như một chiếc máy bay cánh quạt nhưng có thể cất và hạ cánh như máy bay trực thăng. Nó bay nhanh hơn máy bay trực thăng và có sự linh hoạt chiến thuật hơn loại máy bay cánh quạt. Sự xuất hiện của loại máy bay này cũng khơi lại cuộc tranh luận dai dẳng giữa Nhật Bản và Mỹ về tương lai sự hiện diện của lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ trên đảo Okinawa. Các ý kiến chỉ trích cho rằng Osprey không an toàn và yêu cầu đưa loại máy bav này về Mỹ. Trong khi dữ liệu về chuyến bay chưa phản ánh các cáo buộc cụ thể này, giới hoạch định chính sách ở Tôkyô và Oasinhtơn cần phải nhận ra rằng họ có một vấn đề thậm chí còn lớn hơn phải đối mặt, đó là tìm kiếm một cách thức mới ít khả năng xâm nhập hơn trong việc đặt căn cứ lính thủy đánh bộ trên hòn đảo nhỏ ở cực nam của quần đảo Nhật Bản.
Các câu hỏi về sự hiện diện của quân đội Mỹ trên đảo Okinawa đã gây nhiều tranh cãi trong suốt hai thập kỷ qua. Với khoảng 15,000 đến 20.000 quân có mặt ở đây, lính thủy đánh bộ Mỹ chiếm hơn 1/3 quân đội Mỹ có mặt tại Nhật Bản. Ngoài ra, có khoảng 10.000 lính trong lực lượng không quân đồn trú tại căn cứ không quân Kadena trên đảo Okinawa. Sự có mặt của lính thủy đánh bộ Mỹ khiến người dân địa phương phẫn nộ. Ngoài ra, Okinawa là một trong những tỉnh duy nhất ở Nhật Bản có sự gia tăng dân số thực sự, vì vậy, các quan chức địa phương muốn dành đất cho các mục đích khác.
Có rất nhiều lý do để bảo vệ sự hiện diện của lực lượng lính thủy đánh bộ, cũng như vị thế của Mỹ tại Nhật Bản, trước hết là phục vụ lợi ích liên minh chung tại một khu vực châu Á-Thái Bình Dương ổn định. Oasinhtơn đã cố gắng phối hợp với Tôkyô để di dời căn cứ. Đề nghị gần đây nhất là xây dựng một sân bay trên bờ vịnh Henoko cách xa về phía Bắc, tại khu vực ít đông dân hơn trên đảo Okinawa. Tuy nhiên, các chính trị gia cấp địa phương và trung ương của Nhật Bản đã nhiều lần chặn lại. Năm 2006, Mỹ và Nhật Bản đồng ý di dời gần một nửa lực lượng lính thủy đánh bộ từ Okinawa tới đảo Guam trong vài năm tới nhằm giảm áp lực cho Okinawa. Đáng chú ý, mặc dù có một số vụ tai nạn liên quan tới dòng máy bay Osprey, song thống kê hồi tháng 8/2012 cho thấy vòng đời của nó dài hơn so với loại máy bay trung bình của lính thủy đánh bộ. Theo Bộ tư lệnh lính thủy đánh bộ Mỹ, Osprey có tỷ lệ tai nạn nghiêm trọng thấp hơn 20% trong cùng số giờ bay so với máy bay trực thăng điển hình hoặc các loại máy bay khác của lính thủy đánh bộ. Mặc dù vậy, cần phải thảo luận công khai hai vụ tai nạn gần đây nhằm giảm bớt lo lắng trên đảo Okinawa.
Các chương trình di dời hiện bị mắc kẹt trong bãi lầy của nền chính trị Okinawa, tháng 6 vừa qua, liên minh cầm quyền của tỉnh trưởng Hirokazu Nakaima không giành đa số phiếu trong cuộc bầu cử hội đồng tỉnh. Thực tế này đặt ông Nakaima vào thế phòng ngự. Trước sự bất mãn của dân chúng về việc triển khai Osprey, tỉnh trưởng Okinawa có ít sự lựa chọn ngoài việc cứng rắn hơn trong việc giải quyết vấn đề căn cứ Futenma, không phê duyệt căn cứ bên bờ vịnh Henoko, cũng như chống lại việc triển khai Osprey.
Một vấn đề khác trong kế hoạch của lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ tại khu vực là kế hoạch xây dựng sân bay kết hợp với việc di dời một phần quân tới đảo Guam. Đây không phải là lỗi của lực lượng lính thủy đánh bộ bởi họ đã cố gắng tìm kế hoạch tốt nhất cho mọi vấn đề. Ngoài những thách thức về chính trị, kế hoạch này phải đối mặt với thách thức về ngân sách khi nó cần khoảng 30 tỷ USD, được chia đều cho Tôkyô và Oasinhtơn, trong bối cảnh ngân sách của Lầu Năm Góc bị đe dọa cắt giảm thêm 10% nữa. Trên thực tế, khoản cắt giảm gần 10% ngân sách trước đó đã có hiệu lực từ lúc ký Đạo luật kiểm soát ngân sách 2011 của Mỹ.
Có một cách làm kinh tế, đơn giản và triển vọng, đó là cắt giảm biên chế của lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ tại Nhật Bản. Nó sẽ tốn một khoản tiền nhất định, song có thể được tài trợ phần lớn bởi Nhật Bản (vì Mỹ giúp Nhật Bản giải quyết một vấn đề gai góc của địa phương). Bù lại, Mỹ sẽ tiết kiệm được khoảng 30 tỷ USD do không phải triển khai kế hoạch hiện tại. Futenma cuối cùng sẽ được đóng cửa. Từ nay đến đó sẽ cần thực hiện các điều khoản đầu tiên nhằm hạn chế việc sử dụng các sân bay trên đảo Okinawa của lính thủy đánh bộ Mỹ và Nhật Bản được quyền tiếp cận đầy
đủ các cơ sở lính thủy đánh bộ trong thời điểm khủng hoảng hoặc chiến tranh.
Cụ thể, Mỹ chỉ nên giữ lại từ 5.000 đến 8.000 lính lính thủy đánh bộ trên đảo Okinawa và đưa số còn lại đến các nơi như Camp Pendleton, California mà không phải là xây dựng căn cứ mới trên đảo Guam. Sau đóMỹ sẽ điều tàu trang bị vũ khí và vật tư cho vài nghìn lính lính thủy đánh bộ trong vùng biên Nhật Bản (để bổ sung cho năng lực tương tự hiện có tại các cảng ở Guam) nhằm cho phép lính thủy đánh bộ đã được tái triển khai ở Mỹ nhanh chóng trở lại Tây Thái Bình Dương khi xảy ra một cuộc khủng hoảng. Ngoài ra, lính thủy đánh bộ đóng tại Mỹ sẽ luân chuyển thường xuyên tới khu vực châu Á-Thái Bình Dương để diễn tập với bạn bè và các đồng minh, trong đó có Nhật Bản.
Về sân bay, Mỹ có thể thực hiện một số thay đổi, trong đó thực hiện kịp thời cam kết đóng cửa căn cứ Futenma và trả lại đất cho địa phương quản lý. Để thay thế một số chức năng của căn cứ Futenma, Mỹ cần xây dựng một sân bay trực thăng nhỏ bên trong một căn cứ Lính thủy đánh bộ hiện có ở nửa phía Bắc của đảo, nơi lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ đang thực hiện hầu hết các chương trình huấn luyện, đồng thời giảm thiểu tác động về mặt hậu cần.
Ngoài ra, theo thỏa thuận với Tôkyô và Chính quyền Okinawa, Mỹ sẽ tìm kiếm quyền triển khai một số chuyến bay của lính thủy đánh bộ tại căn cứ không quân Kadena nếu cần thiết, với điều kiện tổng số lần cất cánh và hạ cánh tại căn cứ đó không tăng lên. Để đảm bảo rằng căn cứ không quân Kadena không bận rộn hơn, Mỹ nên đưa một số máy bay của không quân tại đây tới những nơi khác như Misawa ở miền Bắc Nhật Bản hoặc thậm chí đảo Guam. Cuối cùng, Nhật Bản có thể xây dựng một đường bang thứ ba tại sân bay quốc tế Naha, phục vụ cho việc phát triển kinh tế của đảo trong thời bình và cung cấp khả năng sử dụng quân sự cho Mỹ và Nhật Bản khi xảy ra khủng hoảng hoặc chiến tranh.
Đây là kế hoạch toàn thắng. Nó giúp tiết kiệm ngân sách cho cả hai nước Mỹ và Nhật Bản; đồng thời thực sự giúp cải thiện khả năng phản ứng của Mỹ trước các cuộc khủng hoảng có thể xảy ra ở khu vực.
Mỹ và Nhật Bản đã bị sa lầy bởi vấn đề Okinawa quá lâu. Vừa qua, thời gian quý báu và tài năng của các nhà hoạch định chính sách đi theo hướng cố gắng giải quyết một vấn đề đã trở nên gần như không giải quyết được. Chúng ta cần xem xét vấn đề này một lần nữa, giải quyết nó, và cuối cùng vượt qua nó. Việc thắt chặt ngân sách quốc phòng Mỹ có thể là động lực cuối cùng cần thiết để thúc đẩy các nhà hoạch định chính sách tới suy nghĩ mới mẻ và hành động quyết đoán./.
-1334. VÁN CỜ CHIẾN LƯỢC TRUNG-MỸ-NHẬT TẠI ĐÔNG BẮC Á
-Bành trướng biển bằng hạm đội tàu cá
Diễn đàn Hoàng Sa
Trong các sự kiện căng thẳng trên biển thời gian gần đây ở Đông Nam Á và Đông Á, hình bóng đội tàu cá của Trung Quốc luôn hiển hiện. Có thể thấy rõ Bắc Kinh đang sử dụng đội tàu cá không đơn thuần là để làm kinh tế. Đó là một cách thức để thể hiện việc chiếm cứ và kiểm soát các vùng biển, tạo ra các vùng tranh chấp mới phục vụ cho chiến lược bành trướng trên biển. Bằng cách sử dụng đội tàu cá, họ hy vọng đẩy các bên tranh chấp khác rơi vào tình trạng bối rối và lung túng.
Ngày 15.9.2012, giữa lúc căng thẳng đang dâng cao liên quan tới tranh chấp tại quần đảo Senkaku/Điếu Ngư giữa Trung Quốc và Nhật Bản, Đài Phát thanh Quốc gia Trung Quốc(CNR) đưa tin 1.000 tàu cá nước này sẽ tiến đến đánh bắt trên vùng biển xung quanh quần đảo tranh chấp trong mùa cá mới[1]. CNR cho biết hoạt động của tàu cá ở vùng Senkaku/Điếu Ngư sẽ được hệ thống vệ tinh hải dương giám sát. Nhiều tàu hải giám đã được điều tới thường trực ở vùng biển nóng bỏng này để bảo vệ đội tàu cá đông đảo. Tàu hải quân cũng được điều động.Ngày hôm sau, báo Asahi Shimbun dẫn lời một trợ lý của Thủ tướng Nhật Bản Yoshihiko Noda nói rằng Tokyo sẽ không ngồi yên để cho tàu cá Trung Quốc muốn làm gì thì làm.“Cách tiếp cận hiện tại của chúng tôi là chờ xem họ sẽ làm gì. Nhưng chúng tôi sẽ không ngồi yên nếu đội tàu cá đông đảo của họ tới quần đảo Senkaku. Khi đó, căng thẳng có thể dẫn tới một tầm mức mới”, viên trợ lý nói vào ngày 16.9.2012[2].Theo Bộ Nông nghiệp Trung Quốc, vùng đánh bắt cá rộng 12.000 km2 xung quanh Senkaku/Điếu Ngư mỗi năm cung cấp cho ngư dân nước này hơn 150.000 tấn hải sản[3]. Nhưng trong thời buổi mà tranh cãi về chủ quyền dâng cao tới bờ vực xung đột, tính kinh tế của hoạt động đánh bắt không phải là yếu tố hàng đầu. Với sự huy động lực lượng bảo vệ rất lớn, gồm tàu hải giám, các tàu vệ tinh, thậm chí cả tàu hải quân cho hoạt động đánh bắt quanh Senkaku/Điếu Ngư, bài toán thu chi nếu tính đơn thuần thì hoàn toàn không có một kết quả tích cực. Cho nên, có thể hiểu mục đích thực thụ của đội tàu cá là phục vụ cho các yêu sách biển của Trung Quốc. Đấy cũng là điều mà Bắc Kinh đã ráo riết thực hiện trong những năm gần đây, ở vùng Hoàng Hải trong cuộc tranh chấp với Hàn Quốc, CHDCND Triều Tiên, ở biển Hoa Đông và biển Philippines trong cuộc tranh chấp với Nhật Bản, ở biển Đông trong cuộc tranh chấp với Việt Nam, Philippines, Malaysia.
Tại khu vực quần đảo Senkaku/Điếu Ngư, ngày 7.9.2010, tàu của Lực lượng Phòng vệ biển Nhật Bản đã va chạm với một tàu cá Trung Quốc mà theo Tokyo là đang xâm nhập bất hợp pháp vào vùng biển của họ[4]. Vụ va chạm kèm theo việc bắt giữ viên thuyền trưởng tàu cá Trung Quốc đã khiến quan hệ ngoại giao giữa hai nước rơi vào một cơn khủng hoảng trầm trọng. Từ sau vụ bắt giữ đó tới trước khi cuộc tranh cãi Senkaku/Điếu Ngư bùng lên trở lại mới đây, lực lượng Nhật Bản đã không ít lần đau đầu với sự bướng bỉnh của đội tàu cá Trung Quốc. Dễ thấy, khi đưa ra thông điệp cảnh báo trên đây, hẳn trong đầu viên phụ tá của ông Noda, cũng như nhiều người dân Nhật Bản, vẫn còn bị ám ảnh bởi những gì mà tàu cá Trung Quốc từng gây ra cho họ.Bên cạnh Nhật Bản, Hàn Quốc thậm chí còn hứng chịu nỗi phiền phức lớn hơn từ hạm đội tàu cá Trung Quốc. Trong năm 2011, Hàn Quốc đã bắt giữ 475 tàu cá Trung Quốc xâm phạm vùng biển của họ ở Hoàng Hải, tăng từ con số 370 tàu cá của năm trước[5]. Tại khu vực này, tàu cá Trung Quốc thường xâm phạm vùng biển của Hàn Quốc theo hai hướng: (1) từ phía biển của Trung Quốc tiến thẳng sang; (2) từ phía biển của CHDCND Triều Tiên tiến xuống (do Triều Tiên bán giấy phép đánh bắt cá cho ngư dân Trung Quốc)[6]. Trong số 68 tàu chuyên dụng mà Hàn Quốc sử dụng để ngăn chặn hoạt động đánh bắt trái phép xung quanh bán đảo Triều Tiên, phần lớn tập trung tại “mặt trận Hoàng Hải”, nơi hạm đội tàu cá Trung Quốc được tổ chức quy mô để từng phút từng giây sẵn sàng xâm nhập. Tháng 11.2011, lực lượng chức năng Hàn Quốc đã một phen bàng hoàng khi hàng chục tàu cá Trung Quốc kết nối lại với nhau trên Hoàng Hải, tạo thành một thế trận liên hoàn vững chắc.Khi nhân viên tuần duyên Hàn Quốc áp sát tàu Trung Quốc, họ đã bị các ngư dân láng giềng dùng gậy gộc, dùi cui tấn công tới tấp. Trong một bi kịch tồi tệ nhất, ngày 12.12 cùng năm, khi tìm cách khống chế tàu cá Trung Quốc xâm phạm, lực lượng cảnh sát biển Hàn Quốc đã gặp phải sự chống cự hung hãn. Kết cục là hai cảnh sát biển bị ngư dân Trung Quốc đâm, trong đó một người chết trên đường đi cấp cứu. Sự kiện trên gây nên làn sóng phẫn nộ cực độ tại Hàn Quốc. Báo Joongang Daily buộc tội: “Bọn chúng là hải tặc, không phải ngư dân”. Báo Chosun Ilbo viết: “Với lo ngại có thể làm căng thẳng ngoại giao, cảnh sát biển của chúng ta đã mạo hiểm tính mạng, dùng biện pháp hòa bình để khống chế những ngư dân có vũ trang. Những ngư dân này ngày một hung hãn và ngày càng được tổ chức chặt chẽ hơn”[7].
Khi viết rằng đội tàu cá Trung Quốc “ngày càng được tổ chức chặt chẽ”, Chosun Ilbo đã chỉ ra bản chất của vấn đề: tàu cá Trung Quốc xâm nhập vùng biển của nước khác không phải là vô tình, tự phát, mà được tổ chức chặt chẽ, dưới sự bảo trợ của nhà nước. Điều này càng được minh chứng khi căng thẳng dâng cao xung quanh quần đảo Senkaku/Điếu Ngư, sau khi Nhật Bản quốc hữu hóa quần đảo mà họ đang kiểm soát nhưng Trung Quốc có yêu sách chủ quyền. Như đã đề cập ở trên, khi mùa đánh cá năm nay bắt đầu, 1.000 tàu cá Trung Quốc đã khởi động cuộc “vạn lý trường chinh” trên biển, hướng về Senkaku/Điếu Ngư. Bảo vệ cho hạm đội tàu cá hùng hậu này là một lực lượng đông đảo gồm tàu ngư chính, hải giám, hải quân và vệ tinh hải dương.
Từ những đội ngư thuyền đơn lẻ, sau một thời gian ngắn, Trung Quốc đã xây dựng một hạm đội tàu cá hùng mạnh, với sự hỗ trợ của các lực lượng bán quân sự và quân sự, khuấy đảo sự bình yên của vùng biển phía đông nước này. Các quốc gia láng giềng của họ, ở đây cụ thể là Hàn Quốc và đặc biệt là Nhật Bản, đã bị đẩy vào một tình thế hết sức bối rối về chiến thuật trong cuộc giằng co trên biển.
Chiến thuật bọc lót tại Hoa Đông, thực ra, là bản sao của “mô hình Nam Hải” được giới truyền thông Trung Quốc ca ngợi là “thành công”. Chiến thuật này lại nằm trong một chiến lược dài hơi về bành trướng biển của quốc gia đông dân nhất hành tinh.
“Mô hình Nam Hải”
Với số dân chiếm 20% thế giới, Trung Quốc có một nhu cầu khổng lồ về hải sản. Từ cuối thập niên 1950, tức là lúc khởi đầu Đại nhảy vọt, ngư dân Trung Quốc được khuyến khích dùng mọi phương cách để nâng cao sản lượng khai thác. Đến thời kỳ Cách mạng văn hóa (1966-1976), chiến dịch tận thu hải sản vẫn tiếp diễn, tới mức các vùng biển ven bờ trở nên cạn kiệt, khi các loại thủy tộc không kịp sinh sôi để nuôi sống số dân đang tăng trưởng với mức độ chóng mặt. Ngành ngư nghiệp Trung Quốc đối mặt với nhiều khó khăn trong giai đoạn cuối thập niên 1970 đến đầu thập niên 1980, với giá trị hải sản khai thác chỉ chiếm 0,7% GNP và 2% tổng sản lượng nông sản. Lực lượng lao động trong ngành đánh bắt hải sản chỉ chiếm 1,4% tổng lao động[8]. Các lãnh đạo Trung Quốc thấy rằng điều này cần phải thay đổi.Thập niên 1980, Trung Quốc khởi động kế hoạch nâng cao năng lực đánh bắt xa bờ thông qua việc ký kết thỏa thuận đánh cá và hợp tác kỹ thuật với một loạt nước. Năm 1979, Trung Quốc và Mỹ ký thỏa thuận hợp tác về khoa học và kỹ thuật trong lĩnh vực hải dương và ngư nghiệp. Hơn 20 đoàn chuyên gia hai nước đã thực hiện các cuộc giao lưu, trao đổi theo chương trình này. Năng lực đánh bắt xa bờ không ngừng được cải thiện kể từ đó. Năm 1984, Trung Quốc đạt được thỏa thuận đánh cá chung với Nhật Bản, Mauritius, New Zealand, Sri Lanka… và với Mỹ vào năm 1985. Từ đó, đội tàu cá xa bờ của Trung Quốc đã vươn tới gần rìa đông và đông bắc Thái Bình Dương, nam Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương và nhiều nơi khác. Sản lượng đánh bắt của Trung Quốc vào năm 1987 đã đạt 9,4 triệu tấn, tăng 14,1% so với năm trước đó. Lượng hải sản tiêu thụ bình quân tại Trung Quốc là 8 kg/người/năm, so với mức 5 kg của năm 1985. Xuất khẩu hải sản tăng mạnh[9].Đấy là khía cạnh kinh tế của kế hoạch phát triển năng lực đánh cá xa bờ. Ở khía cạnh chính trị, người dân đánh cá Trung Quốc đã được nhà cầm quyền sử dụng như một vũ khí lợi hại phục vụ cho mưu đồ thôn tính lân bang, bành trướng biển. Chiến thuật này không mới, mà có lịch sử dài lâu, rất gần gũi với chiến thuật biển người trên bộ mà nhà cầm quyền Trung Quốc từng không ít lần sử dụng. Giới lãnh đạo Bắc Kinh, trong chiến lược bành trướng biển dài hơi, đã đẩy ngư dân của mình ra tiền tuyến.Sau thời nội chiến Quốc - Cộng cuối thập niên 1940, phe Tưởng Giới Thạch chạy ra Đài Loan. Thế đối đầu CHND Trung Hoa và Trung Hoa Dân Quốc chuyển sang giai đoạn mới. Chiến tranh đã chấm dứt theo nghĩa là tiếng súng ngưng bặt trên chiến trường; nhưng ở một dạng thức khác, chiến tranh vẫn còn dai dẳng giữa hai bờ eo biển trong suốt thời Chiến tranh Lạnh. Các chiến dịch nhằm vào nhau vẫn được tiến hành thường xuyên, liên tục. Trong các chiến dịch đó, ngư dân đã được sử dụng. Nhiều đội tàu cá Trung Quốc được lệnh băng eo biển Đài Loan, áp sát lãnh thổ của Quốc Dân Đảng. Với chiều rộng chừng 110 hải lý, eo biển này nằm trong tầm hoạt động của lực lượng tàu cá với phần lớn có công suất nhỏ của Trung Quốc thời thập niên 1950 - 1960. Đối sách của Đài Loan lúc bấy giờ thường là dùng tàu quân sự quây đội tàu cá lại, bắt hết ngư dân cho lên tàu đổ bộ để tuyên truyền chính trị chống Cộng và tặng quà, rồi chuyển trả lại cho Trung Quốc. Giữa thập niên 1990, trong kế hoạch tấn công Đài Loan của Quân Giải phóng Nhân dân (PLA), Trung Quốc bắt đầu sử dụng khái niệm “hệ thống lưỡng dụng quốc gia”, bao gồm việc đảm bảo rằng các nguồn lực dân sự sẽ được huy động một cách nhanh chóng để phục vụ mục đích quân sự một khi chiến tranh nổ ra. Theo đó, một lực lượng tàu cá lớn sẽ được lệnh băng qua eo biển, quấy rối lực lượng phòng vệ Đài Loan trong giai đoạn đầu chiến dịch, sau đó sẽ được sử dụng để đưa quân của PLA đổ bộ lên đảo. Chiến thuật này đã được báo chí nhắc tới khi tường thuật cuộc diễn tập vượt eo biển tại Phúc Kiến và Chiết Giang, với sự tham gia của hàng ngàn tàu cá vào năm 2002[10].
Sau một quá khứ thù nghịch, quan hệ xuyên eo biển bắt đầu ấm lên trong thời gian gần đây, đặc biệt là khi Quốc Dân Đảng của ông Mã Anh Cửu thắng đảng Dân Tiến của Trần Thủy Biển trong cuộc bầu cử năm 2008. Sự đối lập Quốc – Cộng đã nhường chỗ cho tinh thần dân tộc Đại Hán, đặc biệt là trong các vấn đề tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải thì Trung Quốc và Đài Loan hầu như đều có tiếng nói chung. Trong bối cảnh mới, hạm đội tàu cá Trung Quốc đã hướng tới những mục tiêu rộng lớn hơn, chứ không còn tập trung vào Đài Loan như trước. Với những cải tiến mạnh mẽ về phương tiện hồi nửa cuối thập niên 1980, tàu cá Trung Quốc đã vươn xa xuống biển Đông (mà họ gọi là Nam Hải), cũng như các vùng biển phía đông Trung Quốc (Hoàng Hải, Hoa Đông, biển Philippines, biển Nhật Bản), thậm chí ngược lên phương bắc, tiến vào vùng biển sát nách nước Nga. Song song với mục đích kinh tế, các cuộc viễn chinh này đồng thời có nhiệm vụ hiện thực hóa chính sách bành trướng biển. Những đội tàu cá đông đảo vươn xa và những đội tàu hải giám, ngư chính, hải quân, hải cảnh thường trực bảo vệ là “mô hình thành công” mà Trung Quốc đã áp dụng nhiều năm gần đây tại biển Đông – theo cách gọi của báo chí Trung Quốc là “mô hình Nam Hải”.
Ngày 27.9.2012, khi viết về căng thẳng ở Senkaku/Điếu Ngư, Hoàn Cầu thời báo chỉ rõ: “Điều khác biệt là ở Nam Hải, ngư dân của chúng ta hoạt động có tổ chức, trong khi ở Đông Hải thì thường là các nhóm tự phát. Tàu hải giám và tàu ngư chính thực hiện nhiệm vụ thường xuyên để bảo vệ cho các đội tàu cá khỏi sự quấy nhiễu của lân bang”[11]. Theo tờ báo này, vốn là cánh tay nối dài của đảng Cộng Sản Trung Quốc, ngày 12.4.2012, 12 tàu cá Trung Quốc đã “tới đảo Hoàng Nham (tức bãi cạn Scarborough tranh chấp với Philippines - NV) ở Nam Hải để trú tránh trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt thì bị một tàu hải quân Philippines phong tỏa cửa vào vũng. Tàu Philippines đã quấy nhiễu ngư dân Trung Quốc. Tàu Hải Giám 84 và Hải Giám 75 đã được điều động, dẫn tới một cuộc đối đầu căng thẳng với phía Philippines ở đảo Hoàng Nham. Căng thẳng kéo dài hai tháng, cuối cùng Manila phải rút tàu của họ đi vào tháng 6”. Coi đây là một thắng lợi của Trung Quốc, Hoàn Cầu kết luận: “Mô hình Nam Hải đã giúp củng cố niềm tin của ngư dân Trung Quốc trong hành trình tiến tới quần đảo Điếu Ngư. Tàu hải giám đã thực hiện các sứ mạnh trong vùng biển xung quanh quần đảo (Senkaku\Điếu Ngư – NV) như là một đối pháp đáp trả hành động đơn phương của Nhật Bản”. Cũng theo Hoàn Cầu thời báo, Bộ Nông nghiệp Trung Quốc cho biết 10 tàu ngư chính đã được điều tới Senkaku/Điếu Ngư để thực hiện nhiệm vụ chấp pháp và bảo vệ quyền lợi của ngư thuyền nước này.Được chính phủ hỗ trợ tài chính, được bảo vệ bởi lực lượng chức năng, với đội tàu lớn, trang bị hiện đại, ngư dân Trung Quốc có thể đánh bắt xa bờ trong nhiều ngày liền, vừa khai thác kinh tế, vừa giúp hiện thực hóa yêu sách hải dương. “Nhằm hiện thức hóa yêu sách của mình, nhà cầm quyền Trung Quốc buộc phải hành động, chẳng hạn như điều tàu cá tới vùng tranh chấp”, chuyên gia Arthur Ding của Đại học Chính trị Quốc gia Đài Loan nhận xét. “Những ngư dân này có thể không được huấn luyện quân sự, nhưng rõ ràng họ được chính quyền bồi thường (khi bị nước ngoài bắt giữ, làm bị thương hoặc tịch thu tàu thuyền)”. Còn nhà nghiên cứu Lai I-chung thuộc tổ chức Cố vấn Đài Loan (Taiwan Thinktank) cho rằng ngư dân rõ ràng có mối liên hệ với lực lượng quân sự hoặc bán quân sự. “Mọi tàu đánh cá Trung Quốc đều phải báo cáo với chính quyền về khu vực hoạt động của mình”, ông Lai nói, và cho rằng đó là lý do tại sao mỗi khi “có chuyện” thì tàu hải quân hoặc các lực lượng chức năng khác của Trung Quốc luôn xuất hiện rất nhanh. Chuyên gia này dẫn ra một sự kiện va chạm với tàu tuần duyên Nhật Bản tại biển Hoa Đông vào năm 2010, khi đó tàu cá Trung Quốc có những thiết bị có thể dùng vào mục đích quân sự. Việc sử dụng tàu cá vào mục đích quân sự hoặc ngụy trang tàu quân sự dưới vỏ bọc tàu cá trong những sứ mệnh không có tính quân sự cao là một truyền thống của Trung Quốc, ông Lai nói, và chỉ rõ: “Về cơ bản, không một ngư dân bình thường nào sẵn sàng cho tàu tới khu vực tranh chấp căng thẳng bởi họ biết rõ rằng họ có thể mất hết mọi thứ nếu không có sự đảm bảo từ chính phủ”[12].
“Mô hình Nam Hải” mà Hoàn Cầu thời báo đề cập là một chiến thuật đã được Trung Quốc áp dụng nhiều năm qua tại biển Đông, phục vụ cho mưu đồ bành trướng trên biển của họ. Không chỉ ở bãi cạn Scarborough, các đội tàu hải giám, ngư chính, hải tuần, hải cảnh, hải quân… được tăng cường không ngừng, luôn sát cánh cùng các đoàn tàu đánh cá vươn khắp biển Đông như là một cách khẳng định tính hiệu lực thực tế của “đường lưỡi bò”.
Ngày 15.7.2012, Tân Hoa xã đưa tin 30 tàu cá Trung Quốc, trong đó có một tàu hậu cần 3.000 tấn, sau một hành trình dài 78 tiếng đã tới vùng biển Trường Sa và hoạt động trong gần hai tuần ở khu vực quanh đá Chữ Thập do Trung Quốc kiểm soát. Bảo vệ trực tiếp cho đội tàu này là Ngư Chính 310, một tàu chiến trong vỏ bọc dân sự vốn đã trở thành nỗi ám ảnh của các quốc gia ven biển Đông trong vài năm trở lại đây. Bước đi này đã gặp sự phản đối của phía Việt Nam, nhưng chừng đó không đủ để khiến người Trung Quốc chùn chân[13]. Họ vẫn tiếp tục xua ngư dân tới các vùng tranh chấp, hoặc cả những vùng biển của nước khác nhưng họ muốn tạo ra tranh chấp mới. Hải Nam nhật báo vào cuối tháng 7.2012 đưa tin trong mùa đánh cá bắt đầu từ tháng 8, 23.000 tàu cá (chỉ của riêng tỉnh Hải Nam) Trung Quốc sẽ tràn xuống biển Đông, với phạm vi hoạt động tới gần cực nam biển này – tức nằm ở tận phía nam quần đảo Trường Sa, ở khu vực mà Trung Quốc gọi là bãi Tăng Mẫu và tàu hải quân của họ từng “thả bia chủ quyền” vào năm 2010[14].
Chiến thuật “Biển người trên biển”
Tất cả các bài toán kinh tế đơn thuần đều không cho kết quả khả quan đối với hoạt động của hạm đội tàu cá Trung Quốc trên những vùng biển tranh chấp hoặc vùng biển mà nước này muốn tạo ra tranh chấp. Tuy nhiên, giới lãnh đạo ở Trung Nam Hải vẫn tin tưởng rằng việc xua ngư dân tới nơi đầu sóng là chiêu sách khôn ngoan trong kế hoạch bành trướng hải dương của họ, cụ thể đối với biển Đông thì đó là kế hoạch ba bước: Kiểm soát – Làm chủ - Độc chiếm. Trong những cuộc chiến tranh ở quá khứ gần như cuộc chiến Quốc-Cộng, Chiến tranh Triều Tiên và thậm chí cả cuộc xâm lăng vào biên giới phía bắc Việt Nam cuối thập niên 1970, Trung Quốc thường sử dụng chiến thuật biển người trên bộ. Trong hoàn cảnh thiếu thốn về phương tiện cơ giới, khí tài thì chiến thuật biển người như là một sự bù khuyết và với Trung Quốc, nước đông dân nhất hành tinh, thì con người luôn là thứ có sẵn mọi lúc mọi nơi. Bước sang kỷ nguyên mới, khi đã trở nên hùng cường, Trung Quốc vẫn áp dụng chiến thuật biển người nhưng dưới những dạng thức khác. Người Trung Quốc và hàng hóa giá rẻ của họ bành trướng khắp thế giới, từ những quốc gia thịnh vượng như Đức, Pháp, Mỹ tới những chốn hẻo lánh như Zimbabwe, Angola, Namibia. Giờ đây, chiến thuật đó cũng được áp dụng trên biển, trong một chiến lược dài hơi về kinh tế và chủ quyền.
Thoạt tiên, “biển người trên biển” đã thu về một số lợi ích trước mắt, đó là sự hiện diện của Trung Quốc khắp các vùng biển. Sự hiện diện này là một cách thực thi chủ quyền trên thực tiễn, bất chấp vấn đề pháp lý cũng như sự phản đối của các nước liên quan. Thông qua hoạt động đánh cá, hoặc xâm lấn biển dưới vỏ bọc đánh cá, Trung Quốc sẽ tạo ra các “quyền lịch sử”, “ngư trường truyền thống” theo cái cách mà họ đã từng tạo ra “đường lưỡi bò”. Từ một cái mơ hồ vô căn cứ, dần dà họ sẽ đẩy tới những yêu sách rõ ràng, bằng mọi thứ sức mạnh mà họ có. Bằng cách sử dụng tàu cá, Trung Quốc khiến các nước rất khó đối phó. Nếu lực lượng xâm phạm là tàu hải giám, hải cảnh, hải quân hay của một cơ quan khác thuộc chính quyền Trung Quốc, các nước cảm thấy mình bị ảnh hưởng có nhiều cách để đối phó, bằng ngoại giao, bằng quân sự. Nhưng với tàu của ngư dân, dù đó là ngư dân được nhà nước bảo trợ và đang thực hiện các nhiệm vụ của nhà nước (Trung Quốc), thì các nước bị ảnh hưởng dễ lâm vào tình cảnh rắn không được, mềm không xong. Bắt và xét xử theo luật pháp nước mình thì không xuể, dùng súng đối với tàu cá thì e có chỗ không hợp đạo lý (và vì thế dễ bị rơi vào thế đuối lý). Khi tám tàu cá Trung Quốc đến bãi cạn Scarborough hồi tháng 4.2012, Thiếu tá Loel Egos, phát ngôn viên quân đội địa phương, đã minh họa sự bối rối của Philippines như sau: “Họ… đưa số tàu cá này đến đây và tất cả những gì chúng ta có thể làm là dùng đến phương sách ngoại giao”[15].
Ngày 12.7.2012, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã đưa ra một thông điệp có vẻ như ủng hộ Việt Nam và lên án Trung Quốc. “Chúng tôi đã chứng kiến những sự kiện đáng lo ngại về hành động cưỡng chiếm kinh tế cũng như việc sử dụng tàu quân sự và tàu chính quyền trong các vấn đề liên quan tới tranh chấp của ngư dân”, bà Clinton nói trong buổi họp báo ở Campuchia, bên cạnh cuộc gặp với người đồng cấp Dương Khiết Trì của Trung Quốc[16]. Bối cảnh của phát ngôn này là tại một hội nghị mở rộng của ASEAN, trong đó vấn đề tranh chấp biển Đông được nêu lên, giữa lúc Trung Quốc đang có nhiều hành động đơn phương gây lo ngại, trước hết và đặc biệt nhất là cho Việt Nam và Philippines. Một trong những hành động đó là việc chính quyền Trung Quốc sử dụng tàu quân sự hoặc bán vũ trang để khống chế, tịch thu tàu cá và cầm giữ, đe dọa, đánh đập ngư dân (chủ yếu là ngư dân Việt Nam) rồi đòi tiền chuộc. Thông điệp của bà Clinton trong bối cảnh ấy có thể được hiểu là một sự phê phán nhằm vào Trung Quốc, và một sự chia sẻ đối với Việt Nam.
Nhưng đối với chiến thuật biển người trên biển, không phải mọi thứ đều diễn tiến theo hướng có lợi cho Trung Quốc. Với làn sóng người trong các cuộc chiến tranh trên bộ, họ đã phải trả giá rất đắt về sinh lực, dù máu là thứ mà họ luôn thừa thải và không bao giờ tiếc. Đối với chiến thuật trên biển, họ cũng gặp phải những thách thức và phải trả giá thậm chí đắt hơn. Sau những gì Bắc Kinh đã làm, trong đó có việc biến đội tàu cá thành “lực lượng xung kích”, các nước lân cận đã trở nên cảnh giác hơn, thường đối phó với tàu cá Trung Quốc với một sự cảnh giác và quyết liệt cao độ. Người Hàn Quốc đã không còn kiên nhẫn để nhã nhặn như thuở ban sơ. Kể từ sự kiện một cảnh sát biển của họ bị đâm chết, Seoul đã trở nên cương quyết hơn với tàu cá Trung Quốc xâm phạm vùng biển. Tương tự, Nhật Bản cũng bắt đầu cứng rắn khi đối phó với làn sóng tàu cá Trung Quốc. Nga thì thậm chí đã nã súng vào tàu cá Trung Quốc tại biển Nhật Bản, sau đó bắt giữ và truy tố 17 thuyền viên với cáo buộc đánh cá bất hợp pháp và bất chấp hiệu lệnh cảnh cáo[17]. Vụ nã súng cùng thủ tục tố tụng sau đó cho thấy Moscow muốn gửi một thông điệp mạnh tới Bắc Kinh, rằng không thể nhân rộng “mô hình Nam Hải” tới các vùng biển của nước Nga. Các nước vùng Đông Nam Á như Việt Nam, Philippines thì đến nay đã thấy rõ vai trò của hạm đội tàu cá Trung Quốc trong mưu đồ thôn tính biển đông, nên đối pháp mà họ đưa ra ngày càng quyết liệt hơn.“Bọn chúng là hải tặc, không phải ngư dân”, lời cáo buộc của báo Joongang Daily đã cho thấy một hình ảnh vô cùng xấu xí của đất nước Trung Quốc trong mắt lân bang. Hình ảnh xấu xí đó càng được phơi bày rõ hơn qua hành động đập phá, cướp bóc đội lốt tinh thần dân tộc, lòng yêu nước trong những đợt biểu tình chống Nhật liên quan tới tranh chấp Senkaku/Điếu Ngư mới đây. Người Nga thì đã dùng tới biện pháp như cách mà họ đối phó với tội phạm, hải tặc để “nói chuyện” với ngư dân Trung Quốc vi phạm vùng đánh bắt cá. Thái độ của nhiều nước hiện nay là cảnh giác cao độ mỗi khi có bóng dáng tàu cá Trung Quốc xuất hiện.“Trỗi dậy hòa bình” là hình ảnh mà Trung Quốc muốn xây dựng. Tuy nhiên, phương cách mà họ thực hiện lại luôn đi ngược lại với khẩu hiệu ấy. Những biển hàng hóa rẻ tiền độc hại, những làn sóng người xâm thực khắp nơi trong một chiến lược bành trướng toàn cầu, và giờ đây là biển người trên biển với sự hung hăng ngày một gia tăng, hình ảnh một Trung Quốc xấu xí đang ngày càng hiển hiện. Đấy cũng là lý do mà nhiều nước coi sự trỗi dậy của Trung Quốc không hòa bình chút nào, ngược lại, là một mối đe dọa. Đấy chính là cái giá phải trả cho những hành động bất chấp lý lẽ mà Trung Quốc đã và đang thực thi.
Minh Linh
[1] Malcolm Moore, China sends 1,000 boats armada to disputed island chain, The Telegraph (17.9.2012)
[2] “Chinese fishing boat intrusion could lead to 'new stage,' Noda aide says” , The Asahi Shimbun (17.9.2012)[3] Yang Jingjie và Qiu Yongzheng, Diaoyu Islands fish are Chinese, Global Times(27.9.2012)[4] Clarissa Ward và Beth Loyd, China Japan Tensions Escalate Over Fishing Boat Captain, ABC News (23.9.2010)[5] Chinese fisherman jailed for South Korea stabbing, BBC (19.4.2012)[6] Cho Joo-hee, South Korea Furious Over Illegal Chinese Boats, ABC News (13.12.2011)[7] Choe Sang-hun, Chinese Fisherman Kills South Korean Coast Guardsman, The New York Times (12.12.2011)[8] Yann-huei Billy Song, China’s Ocean Policy, Asian Survey, 10.1989.[9] Expanding Distant-water Fishing Industry, People’s Daily, 2.2.1988.[10] Jens Kastner, China's fishermen charge enemy lines, Asia Times Online(16.5.2012)[11] Yang Jingjie và Qiu Yongzheng, Diaoyu Islands fish are Chinese, Global Times(27.9.2012)[12] Jens Kastner, China's fishermen charge enemy lines, Asia Times Online(16.5.2012)[13] Yang Lina, 30-vessel China fishing fleet arrives at Nansha Islands, Tân Hoa Xã(15.7.2012)[14] Mapping the Evidence, Asia 360 (10.8.2012)[15] Jens Kastner, China's fishermen charge enemy lines, Asia Times Online(16.5.2012)[16] US and China vow closer co-operation, Reuters (12.7.2012)[17] Beijing Slams Moscow for Attacking Chinese Fishing Boat, RIA Novosti(20.7.2012)
***********1333. HẬU QUẢ CỦA NHỮNG CHÍNH SÁCH SAI LẦM CỦA MỸ
THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM
Tài liệu tham khảo đặc biệt
Thứ ba, ngày 30/10/2012
HẬU QUẢ CỦA NHỮNG CHÍNH SÁCH SAI LẦM CỦA MỸ
TTXVN (Niu Yoóc 28/10)
Tạp chí “As-Sharki” (Phương Đông) vừa có bài viết mang tính tổng kết những hậu quả cay đắng mà các chính quyền liên tiếp của Mỹ gần đây phải gánh chịu, khẳng định rằng đây chính là hậu quả của những chính sách sai lầm ở tầm chiến lược của Mỹ, nhất là trong chính sách đối ngoại. Dưới đây là phần nội dung chính của bài viết:
Trong những ngày qua, Chính phủ Mỹ đã phải chịu hai thất bại lớn. Thất bại thứ nhất là cuộc tấn công vào Lãnh sự quán Mỹ ở thành phố Benghazi nằm ở miền Đông Libi, trong đó Đại sứ Christopher Steveuns và 3 nhà ngoại giao khác của Mỹ đã bị giết hại. Thất bại thứ hai là quyết định liên quân trong NATO ngừng tất cả các hoạt động phối hợp với các lực lượng an ninh Ápganixtan sau một loạt các cuộc tấn công ở trong nước (các binh lính Ápganixtan quay lại chống đội quân chiếm đóng).
Điều mà hai sự kiện trên có điểm chung là Mỹ, dưới thời George W. Bush, đã xâm chiếm Ápganixtan để “giải phóng” đất nước này khỏi quân Taliban là lực lượng đã cung cấp nơi trú ngụ cho Al-Qaeda để thực hiện vụ khủng bố kinh hoàng hôm 11/9/2001 nhằm vào nước Mỹ, trong khi Mỹ dưới thời Barack Obama đã can thiệp bằng quân sự để “giải phóng” Libi khỏi chế độ độc tài tham nhũng là Muammar Al – Gaddafi.
Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã nói một cách cởi mở rằng bà thực sự bị sốc trước vụ các nhà ngoại giao Mỹ ở Benghazi bị giết hại. Bà không thể hiểu được làm thế nào mà điều đó lại diễn ra tại một đất nước mà “chúng ta đã giúp giải phóng” và “trong một thành phố mà chúng ta đã cứu họ khỏi nạn bị phá hủy”. Có lẽ bà Clinton cũng không thể ngờ rằng điều đã gây ra các cuộc phản đối gay gắt tại hầu khắp các nước Hồi giáo chỉ là một đoạn phim “nghiệp dư”, made in USA, có nội dung bị cho là phỉ báng Nhà Tiên tri Mohammed, đã thực sự lăng nhục hơn một tỷ rưỡi người Hồi giáo trên khắp thế giới.
Thật trớ trêu là Đại sứ Christopher Stevens đã trú ngụ tại lãnh sự quán Mỹ ở Benghazi, chứ không ở Đại sứ quán ở Tripoli, bởi vì ông cho rằng ở đó ông sẽ được an toàn hơn ở Tripoli, nơi sứ quán Mỹ được canh phòng vô cùng cẩn mật bằng các đội dân quân có vũ trang đến tận răng nhưng với lòng trung thành, mà ông đã từng nhận xét là “không chắc chắn”.
Tại Apganixtan, cũng trong làn sóng phấn uất ấy, những người biểu tinh đã tấn công các căn cứ quân sự của liên quân, giết chết 6 binh sĩ gồm 3 lính Mỹ và 2 lính Anh.
Có một điều mà chắc chắn bà Clinton sẽ không bao giờ hiểu được đó là sự lăng nhục này hoặc những lý do gây ra nó “hết sức đơn giản” bởi vì tất cả những thông tin về khu vực này (Trung Đông) là do các viện nghiên cứu của các chuyên gia, tuy là của Mỹ, nhưng rất thân Ixraen, cung cấp. Đây là lý do chính dẫn đến nhiều thất bại của các chính quyền Mỹ liên tiếp ở khu vực Trung Đông, khu vực quan trọng nhất đối với Mỹ về những lợi ích chiến lược.
11 năm sau cuộc can thiệp đầu tiên vào Ápganixtan, NATO đã quyết định thay đổi chiến lược của mình tại đất nước này sau khi đã bị mất hết lòng tin của hơn 250.000 binh sĩ quân đội Apganixtan và các nhân viên an ninh địa phương, được đào tạo với phí tổn 6 tỷ USD của Mỹ và NATO. Các nhà hoạch định kế hoạch của NATO đã nhận thấy rằng gần 25% các cuộc tấn công nhằm vào quân của họ tại đất nước này là do chính các binh lính và các nhân viên an ninh mà họ đã đào tạo tiến hành, nghĩa là “thầy dạy tôi đánh địch (của thầy) thế nào, tôi đánh lại thầy đúng như thế, thậm chí còn sáng tạo hơn”.
Đây là một thất vọng rất lớn của NATO bởi vì khối quân sự này muốn rằng các lực lượng Ápganixtan được họ huấn luyện, dạy dỗ này đảm nhận tất cả các nhiệm vụ về an ninh ở Ápganixtan sau khi NATO rút quân dự kiến vào năm 2014. NATO hiện nay còn đang sợ rằng đến thời điểm ấy cũng sẽ không có đủ lực lượng tin cậy cần thiết để họ có thể chuyển giaocác sứ mệnh này. Phương Tây càng không thể tìm được một người thay thế có cảm tình hơn so với Karzai,. người đã thông báo sẽ không ra ứng cử trong cuộc bầu cử sắp tới.
Từ khi có quyết định rút quân của NATO, quân Taliban luôn khẳng đinh rằng nhóm này đã giành thắng lợi trước đội quân hùng hậu của NATO, một thắng lợi giành được nhờ dùng quyền lực và nhờ khả năng đặc biệt lập kế hoạch các cuộc tấn công và chiêu mộ các chiến binh ngay trong quân đội của chính phủ.
Quân đội phương Tây ở Ápganixtan nổi tiếng vì tiêu thụ ma túy nên không có gì đáng ngạc nhiên là họ đã không hoàn thành được sứ mệnh mà các chính phủcủa họ đã giao cho. Chính quân đội Mỹ đã tiết lộ rằng hồi năm 2011, có tới 8 binh sĩ Mỹ đã chết vì dùng quá liều ma túy, trong khi 56 người khác bị bắt vì buôn bán ma túy và 113 người được xét nghiệm máu đã cho kết quả dương tính với HIV do sử dụng ma túy. Các quan chức NATO cũng không giấu giếm rằng việc sử dụng ma túy đang gia tăng rất nhanh trong số các chiến binh của họ.
Quân NATO đã tới Ápganixtan với một cuộc tấn công ồ ạt trên bộ và trên không để tiêu diệt Al-Qaeda và các đồng minh, trong đó có quân Taliban. Kết quả cuối cùng của cuộc chiến tranh này là quân Al-Qaeda trên thực tế vẫn là tổ chức khủng bố mà Mỹ và phương Tây luôn phải để mắt tới, phải chi rất nhiều tiền bạc và công sức để đề phòng, trong khi quân Taliban, đã có không ít người dự đoán rằng nhóm này sẽ là nhà cầm quyền sắp tới ở Ápganixtan.
Có vài dấu hiệu cho thấy Mỹ đang triển khai máy bay quân sự và lực lượng lục quân ở Libi để trả thù cho các nhà ngoại giao của họ bị giết hại. Nếu những thông tin này là chính xác thì sẽ là những tin tốt lành đối với các chiến binh Hồi giáo, những người biết rằng các nỗ lực của Mỹ để trả thù Al-Qaeda sau vụ khủng bố 11/9/2001 đã dẫn đến những tấm giấy báo tử của hàng nghìn binh sĩ Mỹ; dẫn đến khoản chi phí khổng lồ hơn 500 tỷ USD ở Ápganixtan và gấp đôi số tiền như vậy ở Irắc. Chưa hết, Mỹ đã chuốc lấy nỗi hận thù của người Arập và người Hồi giáo do ủng hộ các chế độ độc tài trong khu vực và cực kỳ thiên vị Ixraen. Họ càng chuốc lấy mối hận thù hơn sau Mùa Xuân Arập vì họ không hề thay đổi chiến lược. Tiếc rằng Chính phủ Mỹ thường xuyên nhận được những bản báo cáo chiên lược “tối mật” về khu vực Trung Đông, nhưng chỉ biết đến những lợi ích của Ixraen, chứ không hề lưu ý đến dòng chảy của lịch sử và địa lý ở khu vực Trung Đông để tránh những thất bại mới như cú sốc vừa rồi ở Benghazi.
Người ta tự hỏi thiên tài nào đã thuyết phục được các thành viên của NATO tới địa ngục Ápganixtan nảy, nơi chưa một cường quốc nước ngoài nào trụ lại được, và chưa một ai mang được chiến thắng từ đấy trở về trong suốt nhiều thập kỷ nay? Không cần thiết phải nói rằng họ đang ở trong các trung tâm nghiên cứu theo tư tưởng tân bảo thủ chỉ quan tâm đến lòng trung thành đối với Ixraen.
Mỹ đã ủng hộ phe đối lập ở Libi chống lại Gaddafi, đã giúp Arập Xêút và Cata cung cấp vũ khí cho các dân quân Libi, và hiện nay đang “gặt bão”. Những “người bạn” Libi của Mỹ giờ đây đang quay lại chống Mỹ, Đại sứ Stevens bị chính các “đồng sự” của mình sát hại ở Benghazi.
Mỹ đã chi không biết cơ man nào là tiền của để giúp Al-Qaeda trở nên hùng mạnh, nhưng giờ đây tổ chức này đã quay lại chống Mỹ, điển hình nhất là vụ 11/9 (cả 2001 ở Mỹ và 2012 ở Libi, sát hại Đại sứ Stevens), và một phong trào chống Mỹ do mạng lưới này phát động, cổ súy đã lan ra khắp thế giới Hồi giáo. Và liên tưởng từ Al-Qaeda, hiện đã có nhiều người cảnh báo rằng nếu Mỹ ủng hộ phe đối lập chống lại Tổng thống Xyri Bashar Al-Assad, giúp Arập Xêút và Cata cung cấp vũ khí cho lực lượng này, thì tất yếu Mỹ sẽ lại bị chính những người đó phản chủ nếu Assad bị lật đổ.
Các phương tiện thông tin đại chúng của Mỹ cũng đã đề cập đến một sự thật vô cùng đau lòng và mỉa mai, đó là Mỹ đã ủng hộ Mùa Xuân Arập và đã cứu vớt thành phố Benghazi – khi những người dân ở thành phố này sắp bị quân của Gaddafi giết chết – nhưng đã bị những kẻ phản bội Arập ở chính thành phố đã được Mỹ cứu vớt này, đâm vào lưng.
Nhưng câu chuyện thực lại khác, không hẳn là như thế. Ai cũng biết Mỹ đã ủng hộ và trang bị vũ khí cho các chế độ độc tài Arập từ nhiều thập kỷ nay, và Saddam Hussein là một trong những người được Mỹ yêu thích nhất. Mỹ cũng rất yêu thích Hosni Mubarak của Aicập, tôn thờ Ben Ali của Tuyniđi, say mê các Nhà nước chuyên chế ở vùng Vịnh, và trong ít nhất hai thập kỷ đã thân thiện với chế độ của gia đình Assad ở Xyri. Nói lại những chuyện cũ ấy để nói rằng các tác giả của “Mùa Xuân Arập” cũng quá hiểu vì sao Mỹ ra tay cứu vớt họ, cũng như trước kia Mỹ đã làm với Al-Qaeda và Taliban v.v… và một điều nữa họ cũng rất hiểu là phải làm gì sau khi được… cứu vớt.
Vâng, đúng là Mỹ cũng đã làm những việc gần giống như vậy ở Ápganixtan sau năm 1980. Mỹ đã ủng hộ các Mujahideen chống Liên Xô mà không chú ý đến sự thần học của họ và đã sử dụng Pakixtan để vận chuyển vũ khí. Và khi một số trong số họ trở thành quân Taliban và phụng sự cho Osama Bin Laden và những tên khủng bố tham gia vụ 11/9/2001, thì Mỹ lại gọi họ là những kẻ khủng bố, rồi tự hỏi tại sao người Ápganixtan lại phản bội Mỹ. Câu chuyện cũng giống như vụ cách đây chưa lâu, khi 4 lính Mỹ thuộc các lực lượng đặc biệt bị nhũng kẻ “tập sự” bạc bẽo của cảnh sát Ápganixtan xả súng giết chết.
Chưa hết, vào đúng ngày mà ở Mỹ diễn ra lễ tưởng niệm vụ khủng bố 11/9, một đám đông người Arập đầy tức giận đã tập hợp trước cổng đại sứ quán Mỹ tại Cairô của Aicập, nơi cách đây chưa lâu vị Tổng thống già nua, mới bị phế truất của nước này là Hosni Mubarak, luôn được Oasinhtơn coi là “người nhà”. Thế hệ tiếp theo của “người nhà” kia đã trèo lên tường của tòa sứ quán trước cái nhìn thụ động của cảnh sát, rồi đã ném lá cờ Mỹ xuống để thay bằng một lá cờ Hồi giáo.
Đúng là nước Mỹ đang gặt bão, trước hết là những cơn bão từ thế giới Hồi giáo.
***
(Tạp chí Le Noavel Observateur, tháng 9/2012)
Cái chết của đại sứ Chris Stevens trước cuộc hầu cử tổng thống Mỹ chưa đầy hai tháng đã làm chấn động nước Mỹ. Liệu vụ tấn công lãnh sự quản Mỹ ở Benghazi và cơn kích động của thế giới Hồi giáo có đánh dấu một bước ngoặt trong chiến dịch tranh cử tổng thống Mỹ?
Tất cả mọi người đều gọi ông là Chris nhưng ông thường ký tên dưới những bức thư của mình là “Krees” như tên các bạn bè người Hồi giáo đặt cho ông. Christopher Stevens có một nụ cười rạng ngời, một kiến thức chuyên sâu về thế giới Arập và một tình yêu Libi thực sự mà ông đã phải trả giá bằng cả tính mạng của mình, ở tuổi 52, vị đại sứ này, người đã không chấp nhận cố thủ một chỗ vì những lý do an ninh, là hiện thân của một thế hệ mới các nhà ngoại giao. Ông đã đi dọc ngang khắp đất nước, gặp các thủ lĩnh bộ lạc, cùng uống nước chè yới họ trong những lều bạt. Đựợc Hillary Clinton cử sang Libi làm đặc phái viên bên cạnh phe nối dậy vào tháng 4/2011, ông đã cùng một nhóm nhỏ các nhà ngoại giao đi trên một chiếc tàu hàng đổ bộ xuống Benghazi, để mở văn phòng và kết nối liên lạc với các phần tử chống đối Gaddafi. Ngày 11/9 vừa qua, trong vụ tấn công lãnh sự quán Mỹ tại Libi, ông và ba nhân viên an ninh đã thiệt mạng tại chính thành phố “mà ông đã góp phần giải phóng” như lời phát biểu đầy xúc động của Tổng thống Barack Obama tại buối lễ truy điệu.
Liệu việc phát tán trên mạng Internet một bộ phim hạng bét có đủ để giải thích thảm kịch này và làn sóng kích động tiếp sau đó lan tới 16 nước Hồi giáo? Vụ tấn công lãnh sự quán Mỹ ở Benghazi liệu có phải là một hành động có tính toán trước như cuộc điều tra đang tiến hành muốn chứng minh? Còn quá sớm để khẳng định điều này. Nhưng những hình ảnh về bốn cỗ quan tái phủ quốc kỳ Mỹ, sau một hàng rào danh dự các lính thủy đánh bộ đã thực sự Ịàm chao đảo nước Mỹ.
Kể từ năm 1979, Chris Stevens là đại sứ Mỹ đầu tiên bị giết khi đang thừa hành nhiệm vụ. Thời điểm tượng trưng của vụ tấn công này, đúng 11 năm sau vụ lao máy bay khủng bố vào Trung tâm Thương mại Thế giới, càng làm tăng cảm xúc. Khi các vụ bạo lực bùng phát khắp nơi trong thế giới Arập, từ Cairô tới Ixlamabát, từ Tuynít tới Đôha, trước cuộc bầu cử tổng thống chưa đầy hai tháng, ông Barack Obama đang phải đối mặt với cuộc khủng hoảng chính trị nghiêm trọng nhất kể từ đầu chiến dịch tranh cử đến nay. Thế nhưng khi căng thẳng dịu xuống, chính từ các cuộc khủng hoảng này phát lộ những người chiến thắng trong các chiến dịch tranh cử, người ta nói rằng, vụ bắt cóc con tin trong Đại sứ quán Mỹ tại Iran năm 1979 đã cướp mất cơ hội tái đắc cử của Jimmy Carter…
Tin chắc rằng thời cơ đã đến, Mitt Romney vội vàng phản công. Tối ngày 17/9, ứng cử viên Đảng Cộng hòa dằn giọng nói rằng “thật đáng phẫn nộ khi phản ứng đầu tiên của Chính quyền Obama không phải là lên án các vụ tấn công phái đoàn ngoại giao của chúng ta, mà lại tỏ ra thông cảm với những kẻ tổ chức các vụ tấn công đó.” Tất nhiên đó là trước khi người ta được biết về cái chết của các nhà ngoại giao Mỹ. Nhưng, ngay sáng hôm sau, đối thủ của Obama còn ngoáy sâu thêm bằng cách cáo buộc ông là “luôn từ chối những giá trị mà nước Mỹ bảo vệ”… Đầy toan tính, nhưng đã hoàn toàn thất bại. Phản ứng vội vã này đã khiến ông bị đập tơi bời trong chính phe cánh của ông. Ngay giữa bầu không khí quốc tang, sự thiếu ý tứ này khó được chấp nhận cho dù nó được đổ lỗi cho tâm trạng hốt hoảng của một ứng cử viên Đảng Cộng hòa đang thất thế trong các cuộc thăm dò.
Tuy nhiên, nếu cuộc khủng hoảng này kéo dài, nếu những hình ảnh quốc kỳ Mỹ bị đốt, bị xé, bị giẫm nát tiếp tục xuất hiện trên truyền hình – nhắc nhở một cách tàn nhẫn cho người Mỹ thấy đất nước họ có thể bị căm ghét tới mức nào – thì đương nhiên những câu hỏi sẽ lại được đặt ra: tại sao nước Mỹ lại ra nông nỗi này? Chính quyền Barack Obama liệu có ngây thơ về “Mùa Xuân Arập”, liệu họ có đủ cảnh giác trước mối nguy hiểm cực đoan? Một số đảng viên Cộng hòa đã không quên nhắc lại rằng Mubarak và Gaddafi có thể là những nhà độc tài, nhưng họ đã duy trì được sự ổn định trong khu vực này của thế giới
Theo John Mearsheimer, Giáo sư Khoa học chính trị tại Đại học Chicago, những câu hỏi này sẽ khơi lại một đề tài vốn gây tranh cãi, Ông giải thích: “Từ khi kết thúc Chiến tranh Việt Nam, các đảng viên Cộng hòa đã công kích một cách có hệ thống các đảng viên Dân chủ về đề tài này, vạch ra những cái gọi là yếu kém của họ và thái độ khoan hòa của họ trong lĩnh vực quốc phòng và chính sách đối ngoại, Bước vào Nhà Trắng với không một chút kinh nghiệm quân sự, Barack Obama biết rằng đó sẽ là ‘gót chân Asin’ của ông.” Nhưng do nhận thức rõ điều này, Tổng thống Mỹ đã biết cách bù lấp khiếm khuyết này, Khi đến Oasinhtơn, ông đã đọc một bài diễn văn cởi mở và hòa giải với thế giới Arập, khác hẳn với diễn văn của những người tiền nhiệm. Và ông đã tiêu diệt Bin Laden, “việc này đã chặn đứng những chỉ trích của các đảng viên Cộng hòa”, như nhận định của Charles Lipson, chuyên gia về quan hệ giữa Mỹ và Trung Đông tại Đại học Chicago. Obama đã không bao giờ cắt giảm các khoản chi tiêu quân sự và rất nhanh chóng tỏ ra là một tổng tư lệnh quân đội đầy cương quyết như nhận xét của nhà báo Daniel Klaidman, chuyên gia về các vấn đề quốc phòng, trong một cuốn sách chứa đựng rất nhiều thông tin về đề tài này. Obama đã ủng hộ việc tăng cường tấn công bằng các máy bay không người lái, chấp nhận những sai sót và thậm chí cả việc có các nạn nhân là người Mỹ. John Mearsheimer nhận định: “Ông ấy đã ưu tiên những vấn đề an ninh hơn các quyền tự do cá nhân. Suy cho cùng, cho dù có lời lẽ mềm dẻo hơn, trong nhiệm kỳ hai của ông này Obama tỏ ra là người tiếp tục hoàn hảo chính sách của Bush.” Cả lúc này nữa, Tổng thống Mỹ đã tỏ thái độ cứng rắn nhất đối với Libi và Ai Cập. Tất nhiên, trái với những người tiền nhiệm, Obama đã không đặt Ixraen ở vị trí trung tâm trong chính sách đối ngoại của mình. Trong các tối hậu thư gửi tới Iran, ông đã không mù quáng nghe theo Thủ tướng Benjamin Netanyahu, thậm chí còn dọa không tiếp ông này trong chuyến thăm Mỹ. Và lại, Thủ tướng Ixraen đã lựa chọn ủng hộ ứng cử viên Romney trong chiến dịch tranh cử.
Nhưng theo các kết quả điều tra mới đây của Jewish Value Survey, phần lớn các cử tri Do Thái mong muốn Barack Obama tái đắc cử.
Bề ngoài mềm dẻo nhưng thực chất không hề nhân nhượng, Obama đã cho thấy ông là một người thực dụng, như vẫn luôn như vậy. Trongkhi một số đảng viên Cộng hòa chỉ trích ông không ủng hộ Ixraen đúng mức, phe tả của các đảng viên Dân chủ lại chỉ trích ông đã không giữ lời hứa đóng cửa nhà tù Guantanamo, không rút quân sớm khỏi Irắc hay không giảm đáng kể ngân sách chi cho quân sự. Nhưng Obama đã luôn lưu ý trấn an phái trung dung, lực lượng mà nhờ họ ông có thể giành thắng lợi trong cuộc bầu cử. Romney đã tốn công vô ích khi đe doạ Iran về vấn đề hạt nhân, bởi chẳng ai dễ dàng bị mắc lừa. John Mearsheimer nhận định: “Người Mỹ đã mệt mỏi với các cuộc chiến tranh. Họ vẫn tin chắc rằng các giá trị của họ lớn hơn. Nhưng họ không còn muốn áp đặt chúng cho các nước khác trên thế giới.”
Tất cả các cuộc thăm đò đều minh chứng một điều: người Mỹ đặt niềm tin lớn hơn vào Barack Obama về chính sách đối ngoại. Mitt Romney liệu có nhầm trận địa? William Howell, giáo sư ngành Khoa học chính trị tại Đại học Chicago khẳng định: “Nếu ông ấy muốn có cơ hội ghi điểm, ông ấy phải xoáy vào vấn đề kinh tế và chứng minh rằng ông là người duy nhất có khả năng vực dậy đất nước. Trên lĩnh vực đối ngoại, ông ấy không thể có may mắn.” Dù sao đi nữa thì cũng là tại thời điểm này./.
************
1332. BẦU CỬ MỸ: NHIỀU THÁCH THỨC NHƯNG DỄ DỰ ĐOÁN
THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM
Tài liệu tham khảo đặc biệt
Thứ ba, ngày 30/10/2012
BẦU CỬ MỸ: NHIỀU THÁCH THỨC NHƯNG DỄ DỰ ĐOÁN
TTXVN (Niu Yoóc 27/10)
Cuộc bầu cử tổng thống Mỹ, một sự kiện luôn được cho là có tác động tới mọi bức tranh chính trị, kinh tế và xã hội của thế giới, đang cận kề, khiến báo giới đưa ra rất nhiều những nhận xét, đánh giá và dự đoán khá khác nhau. Dưới đây là phần tổng hợp dư luận báo chí Mỹ kèm theo những dự đoán về cuộc bầu cử này.
Cuộc bầu cử tổng thống Mỹ lần này khác hẳn cuộc bầu cử hồi năm 2008 vì nhiều lý do. Trước hết rõ ràng là trái với năm 2008, lần này có một tổng thống sẽ hết khả năng tái ứng cử, đó là ông Barack Obama, và vì vậy ông và các cộng sự đang phải cố làm một bản tổng kết thật khả dĩ về những thành quả trong nhiệm kỳ vừa qua để bảo đảm khả năng tái đắc cử của mình. Tuy nhiên, mọi việc không dễ dàng như thế vì những người thuộc đảng Cộng hòa đối lập của ông Mitt Romney cũng đã tìm đủ mọi chứng cứ đế chỉ trích bản tổng kết của Obama. Theo một cách nào đó thì cuộc bầu cử lần này là một cuộc trưng cầu ý dân về Barack Obama, còn cuộc bầu cử năm 2008 không phải là một cuộc trưng cầu ý dân về George W. Bush vì ứng cử viên Cộng hòa John McCain lúc ấy hoàn toàn không phải là “bản sao” của ông Bush.
Lý do thứ hai để nói rằng hai cuộc bầu cử khác nhau, liên quan đến những thách thức. Năm 2008, Mỹ đang ở thời điểm bắt đầu một cuộc khủng hoảng kinh tế lớn, lần này Mỹ đang gặp phải những khó khăn là hậu quả từ đó mặc dù các biện pháp đã được thông qua để cứu vãn nhiều lĩnh vực của nền kinh tế, nhưng dường như hiệu quả chưa thật rõ ràng. Còn hơn cả năm 2008, cuộc khủng hoảng là trọng tâm của chiến dịch vận động bầu cử lần này. Bối cảnh quốc tế cũng đã tiến triển. Mỹ từ bỏ cam kết ở Irắc và sẽ rút quân hoàn toàn khỏi Ápganixtan vào năm 2014. Mặc dù chính sách đối ngoại chỉ chiếm một vị trí thứ yếu, các nước như Trung Quốc và Ixraen vẫn được nhắc đến trong các cuộc tranh luận lần này. Và cũng khác với lần trước, lân này sự quan tâm của cử tri đến những cuộc tranh luận về văn hóa và xã hội như hôn nhân đồng giới cũng chiếm một vị trí rất quan trọng.
Về chiến dịch vận động bầu cử của ông Mitt Romney, người ta gọi ông là “diều hâu Mỹ” vì ông tỏ thái độ rất kiên quyết đối với Trung Quốc và ông coi việc tăng cường những khả năng quân sự của Mỹ để ngăn chặn sự hùng mạnh của Trung Quốc là cần thiết. Nhưng điều đó không có nghĩa là ông thích chiến tranh và chính ông cũng thừa nhận rằng vấn đề Irắc và Ápganixtan vẫn còn rất nhạy cảm. Không phải là vô hại khi ứng cử viên đảng Cộng hòa hướng chiến dịch vận động tranh cử của mình vào những vấn đề kinh tế và xã hội, những vấn đề mà dựa vào đó ông có thể chỉ trích bản tổng kết của Obama. Tuy nhiên, ông phải đối mặt với hai vấn đề lớn. Thứ nhất là uy tín của ông như là “ứng cử viên của nhân dân” do tài sản của ông. Vấn đề này đã gây bất lợi cho ông trong vòng bầu cử sơ bộ năm 2012 cũng như 2008, khi đó ông đã bị John McCain, người gần gũi với nhân dân hơn, đánh bại. vấn đề thứ hai liên quan đến lập trường chính trị của ông trong đảng Cộng hòa. Romney được coi là một người ôn hòa và điều này có thể là một lợi thế để thu hút những lá phiếu của những người trung dung và độc lập là những lá phiếu chủ chốt trong cuộc bầu cử năm 2008 – nhưng lại đặt ông vào thế khó khăn trước cánh hữu trong đảng của ông, Chính vì thế mà ông đã có bên cạnh mình Paul Ryan như một người liên danh, hơi giống McCain đã làm như vậy với Sarah Palin cách đây 4 năm. Ryan đáng tin cậy hơn Palin, nhưng sự có mặt của ông đã buộc Romney phải giữ khoảng cách lớn giữa cánh hữu cứng rắn và phái hữu trung dung. Những người thuộc đảng Dân chủ không thể không lợi dụng điểm yếu này và nó có thể mang tính quyết định trong vài bang chủ chốt.
Sự khác nhau rất rõ rệt giữa hai ứng cử viên liên quan đến các vấn đề xã hội (nạo thai, hôn nhân đồng giới, nhập cư, di chuyển…) vẫn là một hằng số hoặc là hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế và luật hóa xã hội Mỹ.
Đúng như người ta đã nhận thấy một hố ngăn cách ngày càng lớn giữa dự án về xã hội của đảng Cộng hòa và dự án của đảng Dân chủ. Không nên coi đó là kết quả của một sự luật hóa xã hội Mỹ và nếu không có nó thì sự khác nhau này vẫn không tồn tại, mà sự xuất hiện các cuộc chiến tranh về văn hóa trong xã hội cũng góp mặt trong các cuộc tranh luận chính trị truyền thống về nền kinh tế. hoặc về một chủ nghĩa tự do hơn về kinh tế. Điều này không phải là mới mà là một xu hướng dường như ngày càng được nhấn mạnh trong mọi cuộc bầu cử tổng thống ở Mỹ.
Những khẩu hiệu chính trong chiến dịch vận động tranh cử lần này, trong các chương trình của hai ứng cử viên, hầu như đều liên quan tới chủ nghĩa thực tế. Chủ nghĩa thực tế của Obama không phải là những lời hứa hẹn và hứa những ngày tốt đẹp nhất và không phủ nhận về qui mô của nhiệm vụ phải hoàn thành. Chủ nghĩa thực tế của Romney lại có một phương hướng khác, không hứa hẹn những điều thần kỳ. Có một sự lựa chọn thực sự về các phương hướng kinh tế và xã hội và phân biệt rõ ràng hai đự án chính trị. Tất nhiên, ảnh hưởng của đồng tiền và những chương trình quảng cáo tiêu cực đã làm lu mờ một chút hình ảnh về cuộc tranh luận này và mang hơi hướng của chủ nghĩa dân túy, nhưng cũng chẳng có gì mới cả. Các chiến dịch vận động tranh cử trước còn gay gắt hơn trên lĩnh vực này, nhất là khi những người Cộng hòa gây tổn hại đến tư cách công dân của Obama nhằm làm mất uy tín của ông và đưa cuộc tranh luận đến những lĩnh vực có lợi hơn cho họ.
Khi đề cập đến chính sách đối ngoại của Mỹ sau bầu cử, nhiều người đặt câu hỏi nếu như ông Mitt Romney thắng cử thì người ta có nên hy vọng là sẽ có sự thay đổi có ý nghĩa về chính sách đối ngoại của Mỹ ở khu vực Trung Đông và với phần còn lại của thế giới không? Các nhà phân tích cho rằng không hẳn như vậy. Một mặt ông Mitt Romney không có kinh nghiệm về chính sách đối ngoại và như vậy ông sẽ phải học cách tỏ ra kiên nhẫn về một số vấn đề nhạy cảm. Thực sự, trong những tuần qua, ông đã tỏ thái độ kiên quyết nhưng chủ yếu chỉ là để tạo cho mình một vẻ bề ngoài là “con người cứng rắn” mà ông nghĩ rằng nó sẽ rất cần thiết cho chức vụ mà ông đang hướng tới. Mặt khác, ông Romney sẽ không thể thay đổi được chính sách đối ngoại của Mỹ một cách có ý nghĩa mà không vấp phải những trở ngại, những sự ngáng đường ngay từ ban lãnh đạo Mỹ. về ngân sách, nếu ông muốn tăng phần cho lĩnh vực quốc phòng trong thời kỳ khủng hoảng; về chiến lược nếu ông gây tổn hại đến những cam kết như rút quân khỏi Irắc và Ápganixtan; về chính trị nếu ông quên đi công việc cần thiết đang chờ đợi ông về chính sách đối nội, thì chắc chắn cánh hữu trong đảng Cộng hòa sẽ không tha thứ cho ông về việc dành ưu tiên cho chính sách đối ngoại, nơi như trên đã nói, ông chưa có nhiều kinh nghiệm. Trái lại, người ta có thể hy vọng, trong trường hợp ông Romney thắng cử, một sự thay đổi nhận thức về nước Mỹ trên trường quốc tế, Nếu ông Obama bị chỉ trích về chính sách đối nội, như bất kỳ tổng thống đương nhiệm nào khác, thì ông vẫn rất được lòng dân ở bên ngoài. Hình ảnh một “người bạn của Ixraen” và một người hành động ngốc nghếch bất hạnh (sự chỉ trích của ông về việc tổ chức thế vận hội ở Luân Đôn, được công bố tại thủ đô của nước Anh) có nguy cơ đeo đẳng ông mãi mãi.
Vậy thì liệu ông Obama có cơ may có một nhiệm kỳ hai không? Nói thẳng ra thì cơ may ông Obama tái đắc cử nhiệm kỳ hai là lớn và vì thế, thời điểm hiện nay đang là khó khăn đối với ông Romney. Ít ai nghi ngờ rằng vị tổng thống sắp hết nhiệm kỳ sẽ ngồi ở Nhà Trắng thêm 4 năm nữa. Điều này chủ yếu là theo cách thức của cuộc bầu cử Mỹ, khác hẳn với cuộc bầu cử ở nước Pháp, nơi ông Nicolas Sarkozy đã không thể thuyết phục được các cử tri bầu cho ông nhiệm kỳ hai. Để được bầu làm tổng thống của nước Mỹ, cần phải giành được đa số phiếu của các đại cử tri và để làm được điều này thì ứng cử viên phải dẫn đầu một cách tối đa các bang đông dân và như vậy mới có được số đại cử tri cần thiết. Người chiến thắng trong mỗi bang sẽ giành được toàn bộ phiếu của các đại biểu tại bang đó. Vì người ta biết rằng một số bang là “đệ tử” của ứng cử viên này hay ứng cử viên kia thuộc hai đảng, chẳng hạn bang Texas chắc chắn sẽ bầu cho đảng Cộng hòa và bang Niu Yoóc sẽ bầu cho đảng Dân chủ, nên sự chú ý sẽ luôn hướng tới các bang có thể dao động sang bên này hoặc bên kia. Lần này, bang Ohio và Michigan dường như là các bang chủ chốt quyết định thắng lợi của ứng cử viên nào. Cũng giống như số phận của ông Sarkozy được quyết định chỉ trong 5 hoặc 6 tỉnh của nước Pháp. Ông Obama vẫn rất được lòng dân và điều đó sẽ khiến ông ở vào vị trí thuận lợi để có cơ may giành thắng lợi. Nhưng sức nặng cục bộ vẫn là chủ yếu và người ta vẫn nhớ là mặc dù bị mất lòng dân nghiêm trọng, ông George W. Bush vẫn dễ dàng được bầu lại vào năm 2004 đánh bại ông John Kerry.
Về bản tổng kết của ông Obama thì cần phân tích dưới hai góc độ khác nhau: chính sách đối nội và chính sách đối ngoại, về chính sách đối nội, Tổng thống Obama đã cứu vãn được ngành công nghiệp ôtô, và vì vậy tạo ra được nhiều công ăn việc làm, nhưng bản tổng kết của ông vẫn chưa đầy đủ về các cuộc cải cách lớn, nhất là về bảo hiểm y tế. Ông đã phải đối mặt với một tình hình khủng hoảng đặc biệt, và rõ ràng phe Cộng hòa có thể sử dụng điều đó để nói rằng ông vẫn chưa thực sự đấy mạnh được nền kinh tế. Dường như cũng nhận rõ điểm yếu này, nên ông Obama đã yêu cầu rõ ràng với người dân Mỹ là hãy để cho ông có thêm thời gian, về chính sách đối ngoại, ông Obama vừa không thất hứa về việc đóng cửa nhà tù Guantanamo, mà còn thực hiện được cam kết ở Irắc và Ápganixtan. Chiến dịch ở Libi đạt được kết quả và từ hai năm nay người ta được chứng kiến một sự “trở lại” của Mỹ tại Đông Nam Á. Cuối cùng, trùm khủng bố Osama Bin Laden đã bị tiêu diệt, kỳ tích mà George W. Bush đã không thực hiện được. Nhưng bản tổng kết của ông Obama vẫn còn phải bàn cãi về phương pháp thực hiện. Ý muốn của ông dành ưu tiên cho một quan điểm song phương về các vấn đề đã vấp phải sự phản đối của đảng Cộng hòa, và chắc chắn là nếu ông thắng cử vào tháng 11 tới thì nhiệm kỳ hai của ông sẽ thuận lợi hơn và ông sẽ ít tìm kiếm thỏa thuận hơn với các đối thủ của mình./.
- Nhiều tài liệu quý khẳng định: Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam (ĐĐK). – Cơ quan lưu trữ sẽ mở rộng cửa cho các nhà nghiên cứu (SGTT).- Sử liệu quý, hiếm của Việt Nam: Nằm rải rác rất nhiều trong dân (TTVH).- “Điểm binh tài liệu” chủ quyền biển đảo (TT). – Giải mật quá trình điều động Su-22 bảo vệ Trường Sa (ĐV).
- Một trường ĐH Séc mở hội thảo về Biển Đông (Vietinfo).
- ASEAN-Trung Quốc bàn về khởi động COC (VNE). – ASEAN sẽ về bàn tranh chấp Biển Đông ở hội nghị Thượng đỉnh (VOV). – ASEAN và Trung Quốc ‘ý thức cấp bách’ cần đạt được COC sớm (Petrotimes).
- Trung Quốc dùng “biện pháp mạnh” để cam kết hòa bình (Hữu Nguyên). – Báo Mỹ: Nếu đánh chiếm được Senkaku, TQ sẽ lấn tới ở Biển Đông (GDVN).
- Các tàu Trung Quốc, Nhật Bản đối đầu gần các đảo tranh chấp (VOA). – Tàu Trung Quốc ‘xua đuổi’ tàu Nhật Bản trên vùng biển tranh chấp (TP). – Tàu Trung-Nhật đối đầu trên Hoa Đông (DT).
- Phổ biến Bạch Thư về Nước Úc trong Thế Kỷ Châu Á (VOA).
- Xây dựng kho tư liệu Hoàng Sa và Trường Sa: Khẳng định chủ quyền biển đảo Việt Nam (SGGP). – Chưa khai thác hết các nguồn tài liệu về biển đảo(PN).
- Bài toán tranh chấp biển đảo nguy hiểm của Trung Quốc (WSJ/ TCPT). – Những sai lầm chiến lược của Trung Quốc trên Biển Đông (NCBĐ). - Trung Quốc và chiến lược “lãnh địa hóa” Biển Đông (TTXVN). - Tổng Thư ký ASEAN lạc quan về COC (PLTP). - Họp về COC: chỉ một bên không muốn thành sự (SGTT).
- Philippines mua tàu để tuần tra Biển Đông (VNE). - Cảnh sát biển Philippines sắm tàu cỡ lớn tuần tra Biển Đông (GDVN). – Philippines mua 5 tàu của Pháp để tuần tra Biển Đông (RFI).
- Tàu hải quân Australia tới Việt Nam (VOA). - Chiến lược châu Á của Australia không thể thiếu Trung Quốc (VOV).
- Nhật giả lập cuộc chiến Senkaku/Điếu Ngư, Trung Quốc “nóng mặt” (TN). – Trung Quốc hối thúc Nhật Bản thừa nhận tranh chấp (TTXVN). – Mỹ – Nhật – Ấn bàn đối sách ứng phó với Trung Quốc(Petrotimes). - Trung Quốc “đánh du kích trên biển” với Nhật? (LĐ). - Quần đảo Senkaku/Điếu ngư: Tàu Trung Quốc đối đầu tàu Nhật (PLTP). - Nhật và Mỹ “úp mở” về tập trận để né Trung Quốc (TTXVN). - Tàu chiến Trung Quốc xua đuổi tàu Nhật ra khỏi vùng tranh chấp (VnM). - Hồng Lỗi: Nhật Bản đừng ảo tưởng thêm nữa về Senkaku (GDVN).
- Không quân hạm vượt trội so với Liêu Ninh và INS Vikramaditya ( kỳ 2) (GDVN).