Thứ Tư, 7 tháng 11, 2012

THẢM HỌA DƯỚI CÁI TÊN “NIỀM TỰ HÀO CỦA NGÀNH DẦU KHÍ VIỆT NAM”: “Ông lớn” dầu khí xin… đủ thứ

TT - Không chỉ có vấn đề về khoản tiền lãi dầu khí nước chủ nhà, Tập đoàn Dầu khí VN (PVN) vừa có văn bản gửi đích danh bộ trưởng Bộ Tài chính xin từ việc nộp thuế thu nhập cá nhân thay cho nhân viên đến đề nghị Bộ Tài chính hỗ trợ vốn để các địa phương trả tiền PVN đã ứng trước cho các địa phương sai quy định...

Trong cơ chế tài chính hiện nay của PVN có nhiều đặc thù, trong đó có lương nhân viên với chế độ riêng cao hơn nhiều tập đoàn khác. Nhưng trong văn bản mới đây gửi Bộ trưởng Bộ Tài chính Vương Đình Huệ, PVN cho biết: cán bộ biệt phái của PVN làm việc tại các dự án ở nước ngoài còn được PVN chi trả cả tiền thuê nhà nước sở tại, phí hành lý quá cước, học phí cho con đi học và một khoản gọi là “trợ cấp một lần khi chuyển sang nước sở tại”...


PVN lại đề xuất Bộ Tài chính cho phép các cán bộ của mình được miễn không phải nộp thuế thu nhập cá nhân với các khoản tiền lớn trên, gồm cả tiền thuê nhà nước sở tại, phí hành lý quá cước, học phí cho con và trợ cấp một lần. Đặc biệt, trong thời gian luật pháp chưa thay đổi, PVN còn đề nghị cho phép PVN được trả thay phần thuế này cho cán bộ công nhân viên và khoản trả thay này được tính vào chi phí hợp lý của doanh nghiệp (được trừ trước khi xác định số thuế phải nộp - PV).

Là tập đoàn lớn, PVN còn có nhiều chế độ khác cho cán bộ, nhân viên. Cụ thể, PVN đã cử nhiều cán bộ, nhân viên đi học nước ngoài và dùng quỹ đào tạo để chi học bổng cho nhân viên. Đến ngày 31-8-2012, Cục Thuế TP.HCM đã phát hiện và ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, trong đó truy thu thuế thu nhập cá nhân với nhân viên đi học tại nước ngoài được PVN chi tiền học bổng.

Ngoài ra, theo kết luận thanh tra của Thanh tra Chính phủ, PVN đã ứng vốn cho một số tỉnh thành như Sóc Trăng, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Hậu Giang để các tỉnh thành này giải phóng mặt bằng mà không có chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Công nhận và dẫn kết luận này, PVN cho biết tổng số tiền tập đoàn này đã bỏ ra ứng cho các địa phương vay tính đến ngày 30-6-2012 đã lên tới trên 2.900 tỉ đồng, trong đó Thanh Hóa được nhiều nhất, tới trên 1.300 tỉ đồng, Bộ Giao thông vận tải cũng được ứng trên 96 tỉ đồng... Sau đó PVN đề nghị Bộ Tài chính cần... hỗ trợ, bố trí vốn để Bộ Giao thông vận tải và các địa phương... hoàn trả tiền cho PVN.

Chưa hết, Cục Thuế Bà Rịa - Vũng Tàu vừa có kết luận truy thu thuế giá trị gia tăng với số tiền lên đến trên 23 tỉ đồng với Công ty Cần ống khoan dầu khí VN. Nêu một số quy định, PVN cũng đề nghị không truy thu nữa...

CẦM VĂN KÌNH-- “Ông lớn” dầu khí xin… đủ thứ (TT). - Hoa hồng xăng dầu: Hết thời làm loạn? (VEF).

-- Petrolimex lỗ 2.604 tỉ đồng năm 2011 (VNN).Petrolimex lỗ 2.604 tỷ đồng năm 2011
Ngoài ra, Tổng công ty Xăng dầu Quân đội cũng lỗ 18 tỷ đồng, và SaiGon Petro lỗ 63 tỷ đồng. - Đề xuất của PVN chưa có tiền lệ (TT).

Buộc Tập đoàn Dầu khí nộp lại gần 11.000 tỉ đồng- Buộc Tập đoàn Dầu khí nộp lại gần 11.000 tỉ đồng (TT).

- Nguồn cơn khiến 3 “đại tập đoàn” kêu lỗ (DT). – Petro Vietnam “nợ” ngân sách 10 nghìn tỷ đồng(VnEco).

PVN xin hưởng nhiều ưu đãi

PVN xin ưu đãi về lãi dầu khí, nộp thuế cá nhân thay nhân viên hay hỗ trợ vốn để các địa phương trả tiền PVN đã ứng trước sai quy định...




-Buộc Tập đoàn Dầu khí nộp lại gần 11.000 tỷ đồng PVN còn đang bị đề nghị phạt gần 500 tỷ đồng vì không nộp thuế.
Văn phòng Chính phủ vừa thông báo kết luận của Thủ tướng. Theo đó, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) sẽ phải nộp bổ sung ngân sách gần 11.000 tỷ đồng liên quan đến khoản “tiền lãi dầu khí nước chủ nhà” giai đoạn 2009-2011.
Ngoài số tiền lớn mà PVN có dấu hiệu “quên” nộp ngân sách khiến Bộ Tài chính đã phải hai lần ra văn bản yêu cầu nộp trên, PVN còn đang bị đề nghị phạt gần 500 tỷ đồng vì không nộp thuế.
Mới nộp lại 1.000 tỷ đồng
Trước đó, vào tháng 6/2011 Bộ Tài chính đã phải ra văn bản yêu cầu PVN rà soát, nộp ngân sách khoản tiền lãi dầu khí nước chủ nhà từ năm 2009-2011 lên đến trên 19.000 tỷ đồng mà theo Bộ Tài chính, PVN đáng ra phải nộp vào ngân sách nhưng tập đoàn này chưa nộp.
Sau đó, Bộ Tài chính tiếp tục rà soát và phải có công văn lần thứ hai yêu cầu PVN nộp lại ngân sách, và tổng số tiền sau khi tiếp tục rà soát đã lên đến trên 21.000 tỷ đồng.
Trong trả lời Tuổi Trẻ, PVN khẳng định không “quên” và đã vận dụng đúng quy định tại nghị định của Chính phủ. Tuy nhiên, mới đây Văn phòng Chính phủ đã có văn bản thông báo ý kiến kết luận của Phó thủ tướng Vũ Văn Ninh.
Theo đó, sau khi làm việc với PVN và các bộ Kế hoạch - đầu tư, Tài chính, Công thương, Phó thủ tướng quyết định “khoản tiền lãi dầu khí chia cho nước chủ nhà từ liên doanh Vietsovpetro, các hợp đồng phân chia sản phẩm dầu khí và tiền thu từ đọc tài liệu dầu khí chưa được ghi thu, ghi chi đến hết năm 2011, PVN sẽ phải nộp ngân sách 50%, 50% còn lại dùng để đầu tư các dự án dầu khí trọng điểm”.
Một lãnh đạo của Bộ Tài chính khẳng định với kết luận trên, PVN sẽ phải nộp trả lại cho ngân sách 50% số tiền 21.000 tỉ đồng mà Bộ Tài chính đã nêu. Thế nhưng vị lãnh đạo trên tiết lộ đến nay PVN mới chỉ nộp lại được khoảng 1.000 tỷ đồng.
Số tiền gần 10.000 tỷ đồng còn lại, PVN sẽ phải nộp lại ngân sách từ nay đến cuối năm 2012 và đây là nguồn tiền rất quan trọng trong bối cảnh ngân sách khó khăn năm nay.
Đáng lưu ý, theo vị lãnh đạo Bộ Tài chính trên, ngoài khoản 21.000 tỷ đồng, còn một khoản nữa PVN cũng đáng ra phải nộp ngân sách nhưng chưa nộp và Phó thủ tướng Vũ Văn Ninh đã yêu cầu phải nộp trong cuộc họp kết luận vụ việc 21.000 tỷ đồng. Đây là khoản “lãi dầu khí chia cho nước chủ nhà từ hợp đồng phân chia sản phẩm dầu khí lô PM3 năm 2004”.
Số tiền liên quan, theo một lãnh đạo Bộ Tài chính, khoảng trên 53 triệu USD và Phó thủ tướng đã yêu cầu rất nghiêm túc: ngay cả khi PVN đã hạch toán khoản tiền này vào vốn điều lệ thì PVN cũng phải hạch toán lấy khoản lãi dầu khí nước chủ nhà của năm 2012 để bù đắp. Kết quả, PVN đã nộp lại ngân sách ngay sau cuộc họp.
Không nộp thuế 500 tỷ đồng, bị phạt trên 495 tỷ đồng
Thật ra PVN từng được xếp hạng là doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam năm 2011, nhưng theo bảng xếp hạng 1.000 doanh nghiệp nộp thuế thu nhập lớn nhất Việt Nam năm 2012 vừa được công bố, tập đoàn này đã tụt xuống vị trí thứ 5 từ vị trí thứ 4 của năm trước. Năm 2012, PVN xếp dưới cả Viettel, Ngân hàng Công thương, Tập đoàn Công nghiệp than - khoáng sản Việt Nam...
Tuy nhiên, với các quyết định về yêu cầu nộp bổ sung và phạt thuế mới đây, nhiều khả năng PVN sẽ... phải “thăng hạng” bởi ngoài hai công văn yêu cầu nộp bổ sung 21.000 tỷ đồng của Bộ Tài chính năm 2011, PVN còn liên quan đến nhiều vấn đề về thuế, tài chính khác, trong đó có khoản phạt thuế lên tới gần 500 tỷ đồng.
Cụ thể, Cục Thuế TPHCM vừa ra quyết định về việc xử lý và xử phạt vi phạm hành chính về thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) đối với PVN. Trong đó số tiền phải nộp thêm và tiền phạt lên đến gần 1.000 tỷ đồng.
Theo Cục Thuế TPHCM, sau khi rà soát sản phẩm condensate (khí đồng hành hóa lỏng, có thể pha trộn, chưng cất để thành xăng) được khai thác trong nước từ lô 11.2 mà PVN vẫn bán cho các doanh nghiệp nội địa để pha chế xăng trong giai đoạn từ năm 2007 đến tháng 3/2012, cục đã phát hiện số tiền thuế TTĐB PVN chưa nộp lên tới hơn 503,8 tỷ đồng.
Với hành vi trên, Cục Thuế TPHCM yêu cầu PVN nộp khoản thuế trên và đã ra quyết định xử phạt PVN số tiền 495,215 tỷ đồng.
Cũng giống khi bị Bộ Tài chính truy số tiền “quên” chưa nộp 21.000 tỷ đồng, lần này PVN tiếp tục có văn bản kiến nghị xem xét lại. Cụ thể, trong công văn của tập đoàn gửi Bộ Tài chính, PVN tiếp tục cho rằng mình không sai phạm và đề nghị không phải nộp số tiền thuế trên 503 tỷ và khoản tiền phạt gần 500 tỷ đồng mà Cục Thuế TPHCM nêu.
Theo PVN, condensate nhẹ (thường gọi là condensate trắng) có thể pha trộn để có xăng thành phẩm, trong khi condensate nặng (condensate đen) là một loại dầu nhẹ không thể trực tiếp pha chế xăng mà phải qua chưng cất mới thu được xăng.
PVN cho rằng đối tượng chịu thuế TTĐB theo quy định hiện nay chỉ là condensate sử dụng để pha chế xăng (condensate nhẹ). Còn condensate đen không thể trực tiếp pha chế xăng mà phải qua chưng cất, nên không thể là đối tượng chịu thuế.
Trong khi đó, hiện mới có condensate từ mỏ Bạch Hổ là có thể pha chế xăng trực tiếp, còn condensate từ khu vực Nam Côn Sơn phải qua chưng cất mới có thể sử dụng. Do vậy, yêu cầu nộp thuế TTĐB với condensate lô 11.2 của Cục Thuế TPHCM là chưa phù hợp và PVN đề nghị Bộ Tài chính cần hủy bỏ quyết định truy thu, phạt thuế trên.
Trao đổi với Tuổi Trẻ về công văn trên của PVN, một lãnh đạo Bộ Tài chính cho biết đã nhận được văn bản và đang xử lý. Theo lãnh đạo trên, việc Cục Thuế TPHCM ra quyết định phạt là đúng thẩm quyền, đúng quy trình. Tuy nhiên, sẽ phải xem xét cụ thể tính hợp lý và rà soát thêm các quy định.
Song nhận định ban đầu, quyết định của Cục Thuế TPHCM không thể sai hoàn toàn và nhiều khả năng PVN vẫn phải nộp phạt. Mức phạt cụ thể sẽ được công bố sau khi đã xem xét đầy đủ các quy định của Nhà nước.
Theo ông Nguyễn Thiệu - nguyên thành viên ban nghiên cứu của Thủ tướng, dầu khí có chế độ tài chính rất đặc biệt, rất phức tạp, vì vậy cơ chế phải rành mạch, có chế độ giám sát “chứ doanh số rất lớn, rất có thể có khoản Chính phủ không cập nhật kịp, không loại trừ khả năng có người muốn tận dụng một thời gian”.
Ông Thiệu cho rằng riêng ngành dầu khí cần vận dụng hết kinh nghiệm trong nước và quốc tế để “quản”, với kỷ luật ngân sách chặt chẽ, để doanh nghiệp có thể phát triển đồng thời ngân sách cũng không bị thiệt trong bối cảnh khó khăn này.

Theo Tuổi trẻ

-Buộc Tập đoàn Dầu khí nộp lại gần 11.000 tỷ đồng

- -THẢM HỌA DƯỚI CÁI TÊN “NIỀM TỰ HÀO CỦA NGÀNH DẦU KHÍ VIỆT NAM”


Tô Văn Trường
Bộ Tài chính công bố số nợ công nhưng nhiều chuyên gia cho rằng đấy là con số ảo, không phải số thật. Theo tính toán của chuyên gia Vũ Quang Việt nợ công năm 2011 ít nhất là 90 tỷ USD, bằng 74% GDP. Số này chưa tính hết nợ của Chính phủ đối với các nguồn từ trong nước như nợ qua phát hành trái phiếu. Con số này đã vượt 65% GDP mà Chính phủ dự kiến là trần cho năm 2015. Tiến sĩ Lê Đăng Doanh cho rằng số nợ của các Tổng công ty và các địa phương chưa được ghi đầy đủ, nếu cứ làm theo kiểu “đà điểu húc đầu vào cát”, không nhìn thẳng vào sự thật thì có ngày hối không kịp.
Theo quan điểm của người viết bài này, “nợ công đại vấn đề”  có phần duy ý chí khi phê duyệt và tiến hành thực hiện các dự án khủng, mà bài học điển hình có thể gọi thảm họa dưới cái tên “niềm tự hào của ngành dầu khí Việt Nam” chính là nhà máy lọc dầu Dung Quất. Bài học về Dung Quất là một nỗi đau không biết đến bao giờ mới nguôi không chỉ của ngành dầu khí  mà cả nền kinh tế Việt Nam. Câu chuyện này lại gợi lại ý Việt Nam nằm trong top ten của các quốc gia luôn sai lầm.

Ý tưởng thành lập nhà máy lọc dầu
Các nhà máy lọc dầu thường có 2 loại cơ cấu sản phẩm chính là cơ cấu nhiên liệu và cơ cấu hóa dầu (trong mỗi loại lại có cơ cấu tỷ lệ % các chủng loại sản phẩm tùy thuộc nhu cầu). Nhà máy lọc dầu Dung Quất chọn cơ cấu sản phẩm nhiên liệu để đảm bảo an ninh năng lượng, theo đó ưu tiên sản xuất nhiên liệu (xăng, DO, …), phần sản phẩm cho hóa dầu là thứ yếu. Vì đây, là nhà máy lọc dầu đầu tiên của Việt Nam cho nên chọn cơ cấu sản phẩm  nhiên liệu là hợp lý.
Chọn lựa địa điểm nhà máy lọc dầu
Hồi ấy, đã có nhiều tranh luận về việc chọn địa điểm nhà máy lọc dầu. Có một địa điểm khá thuận lợi là Ba Ngòi thì không được chọn vì lý do Quốc phòng. Việc lựa chọn địa điểm cho lọc dầu Dung Quất liệu có phải là duy ý chí, nếu chỉ vì muốn phát triển kinh tế xã hội ở miền Trung có rất nhiều phương án, kể cả phương án phát triển du lịch. Vịnh Dung Quất dù có nước sâu nhưng tiếc thay không phải là địa điểm tốt để xây nhà máy lọc dầu (chưa tính đến bài toán kinh tế ), vì không phải là vịnh kín, chế độ bồi lắng phức tạp. Và trớ trêu nhất là sau khi khảo sát kỹ trước khi xây dựng thì lại té ra là chỗ định xây đê chắn sóng lại gặp túi bùn, chỗ phải nạo vét luồng lạch thì lại gặp đá tảng. Chính vì thế mà giá thành xây dựng công trình cảng bị đội lên rất nhiều so với dự định ban đầu. Hiện nay đã có dấu hiệu bồi lắng cát rất nhanh, vì vậy đã xảy ra chuyện bơm hút nước biển làm mát cho thiết bị nhà máy bị vỡ do cát trong nước biển nhiều quá (việc chọn vị trí đặt họng hút nước cũng có vấn đề, có thể do quá gần và quá nông).
Lựa chọn công nghệ
Trên công luận có ý kiến cho rằng: “Nhà máy lọc dầu Dung Quất vì đã lựa chọn sử dụng nguyên liệu dầu chua nên chỉmột thời gian ngắn, toàn bộ các hệ thống van, bơm, đường ống và các thiết bịkhác đã và sẽ bị lưu huỳnh trong dầu chua phá hủy từ bên trong, khiến chi phí khai thác, bảo dưỡng nhà máy lên rất cao.”. Theo chúng tôi hiểu, nhận định trên không chuẩn xác bởi vì các sự cố hiện đang xảy ra và có thể sẽ xảy ra trong tương lai không phải do sử dụng nguyên liệu dầu chua bởi vì  dù có nhắm mắt làm bừa, PVN cũng biết không thể làm như thế. Nguyên nhân chính, là do nhiều thiết bị công nghệ được chế tạo hoặc thiết kế  không chuẩn và không đồng bộ, điển hình là lỗi ở thiết bị công nghệ của phân xưởng RFCC (Residue Fluid Catalytic Cracking) được coi là trái tim của nhà máy lọc dầu. Phân xưởng RFCC tạm dịch là phân xưởng cracking xúc tác cặn tầng sôi. Cracking được Việt hóa nên không dịch là bẻ gẫy, mặc dù thực chất đây là phân xưởng bẻ gẫy mạch hydrocarbon có trong phần cặn (phần cặn này là sản phẩm của phân xưởng chưng cất dầu thô), mục đích để thu được các hydrocarbon mạch ngắn hơn cho chế biến tiếp thành nhiên liệu và nguyên liệu cho hóa dầu.
Nhà máy lọc dầu Dung Quất hiện nay chỉ có thể hoạt động với nguyên liệu dầu ngọt Bạch Hổ, do sơ đồ công nghệ của nhà máy được thiết kế chỉ để chế biến với dầu ngọt. Hiện nay, nếu đúng là thiết bị bị ăn mòn, sét rỉ (nhìn bên ngoài thì thấy nhiều thiết bị bị rỉ thật), thì đấy có thể là do phân xưởng thu hồi lưu huỳnh (Sufur Recovery Unit-SRU) không hoạt động  hoặc hoạt động không hiệu quả nên thải SO2 ra ngoài, đây là khí axit nên gây ăn mòn thiết bị.  Việc PVN đang định đầu tư “thêm một hệ thống tách lọc lưu huỳnh” càng khẳng định rằng đúng là phân xưởng thu hồi lưu huỳnh hiện nay không hoạt động hoặc hoạt động cầm chừng, không hiệu quả. Về mặt môi trường  toàn bộ lưu huỳnh (S) trong nguyên liệu (hàm lượng S trong dầu Bạch Hổ là 0,03%) sẽ chỉ đi vào các sản phẩm 1 phần nhỏ do yêu cầu nghiêm ngặt về chất lượng sản phẩm, còn phần lớn sẽ thải ra môi trường, chủ yếu dưới dạng SO2 ở flare (cột đuốc đốt khí chua).
Lựa chọn sai nhà thầu.
Liên doanh lọc dầu Việt-Ross tại Dung Quất đã đàm phán với Foster Weeler (UK) về FEED (Front End Engineering Design, tạm dịch là thiết kế tiền chi tiết). Có rất nhiều khó khăn nhưng cuối cùng Liên doanh đã quyết định thiết kế nhà máy với nguyên liệu hỗn hợp dầu ngọt (Việt Nam) và dầu chua (Trung Đông). Khi chấm thầu EPC, có 2 Công ty bỏ thầu, mở ra thì phát hiện cả 2 đều có lỗi, đúng ra là phải hủy. Tuy nhiên, cấp trên cho rằng quá trình gọi thầu đã mất rất nhiều thời gian, nếu làm lại thì sẽ lỡ kế hoạch và chưa chắc đã đạt kết quả nên chỉ đạo là phải chọn nhà thầu nào “ít lỗi hơn”.  Liên doanh “ngây thơ” chọn nhà thầu “ít lỗi” theo tiêu chí kỹ thuật  nhưng bị quy là gian lận, phải hủy bỏ. Lãnh đạo PVN báo cáo Chính phủ lựa chọn nhà thầu ít lỗi theo họ – đấy chính là Technip, công ty làm nhà thầu EPC cho nhà máy lọc dầu Dung Quất hiện nay. Việc hủy thầu, cho phép Technip làm lại hồ sơ thầu và đàm phán kéo dài hơn 1 năm, không may lại rơi vào thời điểm mà giá thành thiết kế và mua sắm thiết bị công nghệ lọc dầu tăng vọt. Nhẽ ra, nếu chọn ngay nhà thầu ở thời điểm trước thì giá thành chỉ là 1,3 tỷ đô la nhưng khi chọn Technip thì giá lại đội lên nhiều. Lúc ấy,  PVN không thể nào giải thích được tại sao giá đàm phán cuối cùng lại tăng vọt lên như vậy nên tìm cách “gọt chân cho vừa giầy” bằng cách chuyển từ nguyên liệu dầu hỗn hợp sang 100% nguyên liệu dầu ngọt Bạch Hổ, thậm chí còn định cắt bỏ cả phân xưởng thu hồi lưu huỳnh vì định “lòe thiên hạ” là dầu ngọt ít lưu huỳnh nên có thể bỏ qua. Thực chất theo cân bằng vật chất nếu nhà máy không thu hồi S, thì tức là sẽ đốt bỏ ở flare và thải vào không khí toàn bộ lưu huỳnh ấy dưới dạng SO2, đây là lý do mà Bộ Tài nguyên và Môi trường không chấp thuận đề nghị cắt bỏ phân xưởng này.
Sau khi chọn nhà thầu, liên doanh chỉ tồn tại thêm hơn 1 năm do phía Nga rút. Đến lúc ấy,  Đảng và Chính phủ quyết định dự án này sẽ do Việt Nam tự đầu tư. Ngay từ ngày ấy, đã có một số chuyên gia tâm huyết,  am hiểu chuyên sâu kiến nghị không nên dùng chỉ một loại nguyên liệu dầu ngọt Bạch Hổ, và không nên thay đổi công nghệ (tức là giữ nguyên thiết kế FEED của Foster Weeler đã làm cho Liên doanh Việt Ross) để đảm bảo chất lượng sản phẩm và môi trường nhưng tất cả kiến nghị xác đáng đó đều bị bỏ ngoài tai của những người có thẩm quyền.
Năm 2010, Hội đồng thẩm định xây dựng cấp nhà nước cũng đã phát hiện  ra có nhiều lỗi trong thiết kế và xây lắp công nghệ tại dự án Nhà máy lọc dầu Dung Quất, nhưng “ý chí lãnh đạo” quyết định dự án vẫn được hoạt động, để rồi một năm mấy lần phải dừng lại sửa chữa.  Đấy cũng chính là nguyên nhân làm nhà máy bị lỗ lớn (mỗi lần khởi động lại nhà máy có thể tốn từ vài tỷ đến vài chục tỷ VND). Giờ cái họ gọi là nâng cấp nhà máy, thực chất là thay đổi cấu hình công nghệ vì dầu ngọt chuẩn bị hết, cấu hình công nghệ hiện nay không thể chế biến loại dầu khác.
Hiệu quả kinh tế
Nói đến nhà máy lọc dầu Dung Quất và Vinashin, chuyên gia của trường Đại học Havard là Gs David Dapice, có thể gọi là 1 người bạn lớn của Việt Nam, người đã có các góp ý thẳng thắn là không nên làm trước khi các dự án khủng này được phê duyệt. Nhưng nhà nước ta trong cơn “kiêu ngạo” đâu có thèm nghe. Đến nay, những gì đã xảy ra thậm chí còn tồi tệ hơn cả những gì mà ông đã cảnh báo.
Gs David Dapice đã từng cảnh báo đại ý là:
- Với sức vóc về kinh tế – kỹ thuật, lợi thế so sánh của Việt Nam thì không nên làm nhà máy lọc dầu Dung Quất.  Với tổng đầu tư 1,5 tỷ US$ đã lỗ to rồi, mà bây giờ lại lên đến 3.5 tỷ US$. Nhà máy lọc dầu Dung Quất đã thực sự trở thành một con nghiện của nền kinh tế.
- Nhà máy lọc dầu đặt ở Dung Quất là một cái sai lầm thứ 2, càng làm cho sai lầm trở nên trầm trọng.
- Nếu muốn tạo công ăn việc làm hoặc phát triển cơ sở hạ tầng của tỉnh Quảng Ngãi và miền Trung thì cần có Chương trình đầu tư riêng, rẻ, minh bạch và hiệu quả hơn nhiều. Bắt 1 Doanh nghiệp “cõng” sự phát triển của cả 1 vùng ( không thể đo lường được hiệu quả gián tiếp) thì chỉ có nhà nước ta mới tư duy và làm kiểu đó. Vậy mà gần đây công luận còn nghe thấy cả kế hoạch xây dựng nhà máy lọc dầu số 2 ở Nghi Sơn, Thanh Hoá nữa thì không biết rồi tình hình sẽ ra sao nữa.
Thảm họa ngày nay là giá thành nhà máy đã đội lên hơn 3,5 tỷ USD  phá vỡ mọi kỷ lục thế giới về tỷ suất đầu tư cao (gấp 3-4 lần suất đầu tư trung bình cho nhà máy lọc dầu tương đương của thế giới).  Nguồn dầu ngọt Bạch Hổ đã giảm sản lượng, không đủ cung cấp cho nhà máy và sẽ nhanh chóng dần hết hẳn trong vài năm tới, nên PetroVietnam đã và đang phải nhập dầu thô ngọt khác cho nhà máy lọc dầu Dung Quất. Nếu nhập dầu ngọt từ xa về chế biến nhà máy Dung Quất sẽ tiếp tục bị lỗ hàng vài trăm nghìn đôla mỗi ngày. Với công suất khoảng 6,5 triệu tấn/năm nhà máy Dung Quất sẽ lỗ khoảng vài trăm triệu USD mỗi năm.
Thay cho lời kết
Bê bối trong ngành dầu khí có lẽ còn nằm trong nhiều vấn đề khác, đặc biệt là sản xuất kinh doanh và sự quản lý của ngành, nhà máy lọc dầu Dung Quất mới chỉ là một mảng, thậm chí là một mảng nhỏ hơn rất nhiều so với toàn bộ ngành dầu khí. Sai lầm về nhà máy lọc dầu Dung Quất do Tập đoàn PetroVietnam  thực hiện đã được cảnh báo từ rất sớm không chỉ về nguồn dầu thô, nhưng tất cả đều rơi vào im lặng đáng sợ và bánh xe duy ý chí cứ quay theo “ý chí của hệ thống chính trị”. Những sai lầm lớn đó vẫn đang được PetroVietnam cố tình che dấu.
Câu chuyện lãng phí, quan liêu, tham nhũng, giả dối, quyền lực đều có trong dự án này. Hậu quả của bệnh duy ý chí thời Liên Xô có khá nhiều đã góp phần cho đế chế này sụp đổ không cưỡng nổi.  Thảm họa dưới cái tên niềm tự hào của ngành dầu khí VN  là Dung Quất đã thấy rõ nhưng chắc chắn người thua cuộc vẫn là nhân dân.
T.V.T.-THẢM HỌA DƯỚI CÁI TÊN “NIỀM TỰ HÀO CỦA NGÀNH DẦU KHÍ VIỆT NAM”

--Con đường đến nợ xấu
Bauxite Việt Nam

Nguyễn Y

Bản chất của nợ xấu là một khoản tiền cho vay mà chủ nợ xác định không thể thu hồi lại được và bị xóa sổ khỏi danh sách các khoản nợ phải thu của chủ nợ. Đối với các ngân hàng, nợ xấu tức là các khoản tiền cho khách hàng vay, thường là các doanh nghiệp, mà không thể thu hồi lại được do doanh nghiệp đó làm ăn thua lỗ hoặc phá sản.
Theo định nghĩa trên thì Nợ xấu đang tồn tại ở phân đoạn giữa Ngân hàng và Doanh nghiệp. Hiện tại Nợ xấu nằm ở các dạng như sau:
– Ngân hàng với các doanh nghiệp kinh doanh Bất động sản (chủ yếu) có thể lên đến 80% tổng nợ xấu.
– Ngân hàng (thông qua các công ty cho thuê tài chính) với các doanh nghiệp kinh doanh có liên quan đến tài sản cho thuê tài chính mà làm ăn bị thua lỗ.
– Ngân hàng (thông qua các công ty chứng khoán) vì “ôm cổ phiếu” không đúng thời điểm nay giá cổ phiếu .
Ở đây, tôi xin nêu chủ yếu về khoản nợ xấu thứ nhất “Ngân hàng với các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản” để cùng nhìn rõ bản chất sự việc và tìm cách nào đấy để tháo gỡ (Cứ như ông “Bình ruồi” thì đang tìm cách “đánh bùn sang ao”).

I . Bắt đầu từ các dự án  
Vào những năm 2002-2004 các dự án bắt đầu được cấp tốc vẽ ra và xin được phép đầu tư chủ yếu nằm ở đất nông nghiệp. Lấy giá đất năm 2009 theo Quyết định số: 62/2008/QĐ-UBND ngày 31/12/2008 của UBND Thành phố thì mức cao nhất đền bù là 260.000 đồng/m2.
Doanh nghiệp vẽ ra cái dự án (Giả thử đó là dự án khu chung cư cao tầng và văn phòng cho thuê có diện tích 10 ha (100.000 m2). Ta sẽ tính toán:
Tiền đền bù đất: 260.000 đ/m2 x 100.000 m2= 26 tỷ đồng.
Dự án đầu tư (có quyết định của UBND tỉnh thành phố), giả sử 350 tỷ đồng.
Muốn thực hiện dự án doanh nghiệp phải có tối thiểu 25% vốn (tức là 87,5 tỷ). Bằng bất kỳ giá nào doanh nghiệp phải có báo cáo tài chính (báo cáo đểu cũng được) về nguồn vốn cho đủ 87,5 tỷ.
Như vậy sau khi có dự án, doanh nghiệp vác tất cả đi làm HỒ SƠ VAY VỐN ĐẦU TƯ.

II. Quá trình vay vốn và tài sản thế chấp
Doanh nghiệp sẽ thế chấp bằng tài sản được cấp phép (đó là Đất đai).
Mấu chốt là ở chỗ này. Có phải doanh nghiệp định giá đất bằng chính cái giá doanh nghiệp đền bù (Không! Hoàn toàn không!). Doanh nghiệp sẽ thế chấp bằng giá đất trên thị trường (thời kỳ năm 2009 khi đã trở thành đất dự án nó có giá tối thiểu 40 triệu đồng/m2.

Bài toán thứ Hai:
Giá đất 100.000 m2 khi đó sẽ là 100.000 m2 x 40 triệu VND =  4000 tỷ đồng.
Chênh lệch khoản tiền so với đền bù là: 4000 tỷ – 26 tỷ = 3.974 tỷ (Ba ngàn chín trăm bảy mươi tư tỷ đồng).
Ngân hàng cho vay toàn bộ dự án 350 tỷ – 87,5 tỷ = 262,5 tỷ vì tài sản thế chấp lớn hơn giá trị dự án. 
Khi triển khai, doanh nghiệp không phải tập trung đầu tư vào mỗi một cái dự án này mà họ sẽ làm năm bảy cái dự án khác và với công việc trên cứ triển khai dự án, cứ vay tiền.

Bài toán thứ Ba:
Khi có tiền chủ doanh nghiệp lấy mỡ nó rán nó để tiêu tan một phần cái khoản lợi khủng 3.974 tỷ (Ba ngàn chín trăm bảy mươi tư tỷ đồng) là đi Bôi trơn hệ thống:
+ Từ cán bộ giải phóng mặt bằng trở lên đến các quan cấp trung ương không loại trừ cả đồng chí X.
+ Thậm chí có những doanh nghiệp mua cả xe cho xếp, và họ sẵn sàng trang bị cho xếp xe trị giá 6-7 tỷ đồng.
TỪ SỰ DÀN TRẢI ĐẾN BUÔNG LỎNG QUẢN LÝ NÊN TỶ LỆ CÁC DỰ ÁN HOÀN THÀNH ĐẾM ĐƯỢC TRÊN ĐẦU NGÓN TAY.

Hết ăn đất (cướp đất) mánh lới được tung ra là bán căn hộ chung cư dưới hợp đồng Hợp tác đầu tư.
Dân tôi ơi sao mà mê muội thế?!
(1) Nếu bán căn hộ chung cư thì hợp đồng phải có căn hộ tầng mấy? Số bao nhiêu? Của chung cư nào? Ai là chủ đầu tư? bao giờ hoàn thành? bao giờ bàn giao? v.v. và v.v. Và họ phải xuất hóa đơn tài chính được nhà nước quản lý như xe trả góp chứ! 
(2) Sao lại ký hợp đồng góp vốn đầu tư??? Đã không có nhà ở thì phải nộp tiền trước mà mua nhà chứ sao lại góp vốn đầu tư. Đã góp vốn đầu tư thì lời ăn lỗ chịu bây giờ còn kêu ca gì??? Tội nghiệp quá! 

III. Chung quy lại là tại ai?
Tại cái tam giác quỷ (Ngân hàng – Quan chức – Bất động sản) chúng bắt chính sách làm con tin để quanh co chối tội!
Việc của mọi người là phải xử tội cái tam giác quỷ ấy (xin thưa, chỉ cần thay từ “Bất động sản” bằng từ khác sẽ có một tam giác quỷ khác).
Các tam giác quỷ này đang bóp cổ nhân dân.
Và cũng cái tam giác quỷ ấy mà “Không kỷ luật ai?” và kết quả thật bất ngờ 129/174 là như vậy.
Hà Nội 01/11/2012
N.Y.
Tác giả gửi trực tiếp BVN

Tổng số lượt xem trang