----Phần này đính kèm cùng bài đăng : -Nhân đọc bên thắng cuộc (6) : VÀI CẢM NGHĨ VỀ QUYỂN BÊN THẮNG CUỘC-
Sài Gòn thay đổi
Tháng 12-1976, sau Đại hội Đảng lần thứ IV, ông Võ Văn Kiệt trở thành ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị; ông Nguyễn Văn Linh là ủy viên chính thức, được điều về Trung ương, chức bí thư Thành ủy giao lại cho ông Kiệt. Từ trước đó, ông Võ Văn Kiệt thừa nhận là chính ông đã thúc đẩy việc lấy tên Chủ tịch Hồ Chí Minh chính thức đặt cho Sài Gòn-Gia Định.
Không chỉ Tướng Đinh Đức Thiện nghĩ “kinh tế mới” có thể giải tỏa những bế tắc cho người dân miền Nam. Báo cáo của Bộ Chính trị tại Hội nghị Trung ương 24, họp từ ngày 13-8-1975, xác định: “Cấp bách nhất hiện nay là sắp xếp công ăn việc làm cho ba triệu người. Đây là một công việc khó khăn, nhưng ta có thuận lợi lớn là có thể mở thêm ngay vài triệu hecta canh tác đất tốt, dễ làm, nhiều vùng lại không xa Sài Gòn lắm. Hướng sắp xếp là giảm bớt dân các thành thị, đưa 1,5 triệu đến hai triệu người về nông thôn, vừa sản xuất nông nghiệp, vừa sản xuất tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp”.
Khi chiến tranh chưa kết thúc, ít có thanh niên miền Bắc nào có hơn hai bộ áo quần, chủ yếu bằng vải sợi xanh; ít có cô gái nào có được cái quần lụa và chiếc áo “Hong Kong” bằng vải “phin”. Sau ngày 30-4-1975, khi những cán bộ miền Nam tập kết được lần lượt về thăm quê, một số bộ đội cũng bắt đầu được xuất ngũ hoặc về phép thăm nhà. Trong cuộc họp ngày 16-6-1975, Ban Bí thư đã cho “một số ý kiến” bổ sung Chỉ thị 181 của thủ tướng, theo đó: “Việc kiểm soát sự ra vào vùng mới giải phóng cần được tăng cường chặt chẽ nhằm thỏa mãn yêu cầu của cán bộ và nhân dân đi lại thăm viếng gia đình ở miền Nam, nhưng đồng thời để phòng bọn xấu lợi dụng cơ hội để buôn lậu và phá rối trị an. Việc mang theo hàng hóa từ miền Nam ra miền Bắc phải được kiểm soát chặt chẽ, ngăn cấm bọn buôn lậu đầu cơ; nhưng mặt khác, đối với cán bộ và nhân dân cần có những quy định rõ ràng cho phép họ được mua sắm và mang theo một số đồ dùng riêng cho bản thân họ, tránh tình trạng bắt giữ lung tung, gây căng thẳng không cần thiết”. Tuy nhiên, miền Bắc lúc đó đã phải rất vất vả để chống lại những biểu hiện “văn hóa lai căng” không chỉ lây lan từ miền Nam348.
Ngay tại Sài Gòn, những người vừa được “giải phóng” đã biết dùng những biểu tượng của chế độ làm thơ ta thán về sự bất bình thường của Chế độ: “Các-mác (Karl Marx) mà đến Việt Nam / Râu dài róc rậm công an bắt liền / Các-mác cầu cứu Ăng-ghen (Angel) / Ăng-ghen cũng phải đóng tiền tóc râu / Truyền cho bốn biển năm châu / (Đến Việt Nam thì nhớ) Râu Mao Chủ tịch tóc đầu Lê nin (Lenin)349” .
Lúc đầu ông Võ Văn Kiệt cũng không hiểu tại sao người dân Sài Gòn lại không ủng hộ Cách mạng bảo vệ “thuần phong mỹ tục”. Tuy nhiên, vốn là một nhà lãnh đạo kháng chiến khá nhạy cảm trước các phản ứng của dân, ông Kiệt yêu cầu tổng biên tập Tuổi Trẻ, khi ấy là ông Võ Như Lanh, tổ chức làm sao để ông nghe được thanh niên nói thật.
Không chỉ có trong lĩnh vực chính trị, văn hóa, trên nhiều mặt của đời sống, người dân miền Nam chỉ mong có được những điều kiện sống mà họ đã có trước khi được những người anh em “giải phóng”. Ngay từ cuối thập niên 1960, trong khi ở miền Bắc xe đạp cũng rất hiếm người có mà đi, ở miền Nam người dân đã có thể sở hữu ô tô, còn xe máy hai bánh thì tới đầu thập niên 1970 đã trở thành phương tiện giao thông cá nhân phổ biến350.
Mỗi khi có việc đi xa, người dân phải xếp hàng từ nửa đêm ở bến xe, nhưng sáng ra cũng không chắc có thể mua được vé. Lên xe rồi còn phải chịu sự hành hạ của những chuyến xe già nua, cũ nát không có phụ tùng thay thế; đường sá xuống cấp không có kinh phí bảo trì. Vô phúc đi trên những chiếc xe “cải tiến thành công” từ chạy xăng sang chạy than, nếu may mắn tới đích, thì ngoại trừ hai con mắt, từ đầu đến chân của mọi hành khách đều bị bọc trong khói bụi.
Trong một bài phỏng vấn đăng trên Tuổi Trẻ, Trần Bạch Đằng cho rằng “không nên có chủ trương cho thiếu nhi ca vọng cổ”. Ông nói: “Tuy vọng cổ phổ biến ở nước ta, đặc biệt ở Nam Bộ, nhưng đối với lứa tuổi nào đó, tỷ như các em nhi đồng và thiếu niên, thì vọng cổ chưa hẳn có lợi hoàn toàn trong mục đích giáo dục… Âm điệu vọng cổ thường khó gây phấn chấn và nhứt là hạn chế tập thể trong khi biểu diễn tập thể lại là hình thức biểu diễn cần khuyến khích hiên nay”356.
Theo ông Trần Bạch Đằng: “Một trong những tội ác tày trời của đế quốc Mỹ và bọn tay sai” là “phủ nhận cái đẹp chân chính, cái đẹp về nội dung, cái đẹp tinh thần” và “cổ vũ cho cái đẹp hình thức, cái đẹp giả tạo, cái đẹp vật chất đơn thuần”. Sau khi chỉ trích các mỹ viện đua nhau ra đời theo sau sự “triển khai ồ ạt của chủ nghĩa thực dân mới” tại miền Nam, ông Trần Bạch Đằng kết luận: “Nói cho cùng, chủ nghĩa thực dân mới mang đến cho một bộ phận thanh niên ta cái đẹp của người nô lệ, một cái đẹp vay mượn. Muốn giữ cái đẹp kiểu đó thì phải suốt đời mất nước, suốt đời ăn xin”. Rồi ông kêu gọi thanh niên “đi vào lao động, phát giương cái đẹp của lao động đối với thanh niên, định lại chân lý, định lại giá trị của con người”357. Ông Trần Bạch Đằng nhấn mạnh: “Đó là một cuộc cách mạng, một cuộc cách mạng rộng lớn, sâu sắc, một sự đảo lộn và là một sự đảo lộn cần thiết”358.
Các đoàn nghệ thuật Cách mạng, số từ trong rừng ra, số từ ngoài Bắc vào bắt đầu chiếm lĩnh các sân khấu Sài Gòn. Nhân dịp 2-9-1975, ngày Quốc khánh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, 1.300 diễn viên từ các đoàn nghệ thuật đã tập trung ở Sài Gòn chuẩn bị cho những chương trình biểu diễn mới. Đặc biệt, Đoàn Văn công Tổng cục Chính trị, Đoàn Ca Múa Quân Giải phóng, Đoàn Ca Múa Phòng Không Không quân, Đoàn Văn Công Hải quân, Đoàn Cải lương Giải phóng, Đoàn Kịch nói Nam Bộ, Đoàn Kịch nói Hà Nội… cũng bắt đầu đến Sài Gòn với các vở diễn như: Tiền Tuyến Gọi, Lam Sơn Tụ Nghĩa…
Sài Gòn cũng không còn “Nỗi Buồn Hoa Phượng” với tiếng hát Thanh Tuyền; không còn “Chuyện Một Chiếc Cầu Gãy” với Hoàng Oanh; không còn “Đêm Đông” với Bạch Yến; không còn “Tà Áo Xanh” với Lệ Thanh; không còn được “Ngậm Ngùi” với Lệ Thu và, cho dù đang bị kẹt lại, Thái Thanh cũng không còn được hát Phạm Duy, Phạm Đình Chương… Chỉ những “nghệ sỹ Ngụy” được xếp vào hàng “không chống đối cách mạng” và được Hội Văn Nghệ cho làm tự kiểm điểm mới bắt đầu được bước lên sân khấu.
Ông Võ Văn Kiệt nhớ lại, đấy không chỉ là sự ganh tị trong giới mà còn là nhận thức ấu trĩ về chính trị của khá nhiều lãnh đạo. Ông đặt câu hỏi: “Ở Sài Gòn nếu đòi hỏi người xứng đáng theo tiêu chuẩn chính trị để đóng Hai Bà Trưng thì chỉ có Bà Định; đóng Lenin thì chỉ có Bác Tôn thôi. Các anh cứ mời các vị ấy đóng xem thử có ai đi coi không?”362.
Ông Vũ Quần Phương thừa nhận, bài thơ này đã được hình thành ngay từ những ngày đầu ông tới Sài Gòn, tháng 5-1975. Hôm ấy, tại Sài Gòn, có một cuộc gặp mặt giới văn nghệ của cả hai miền. Ông Phương, phóng viên Đài tiếng nói Việt Nam, được cử đi đón nghệ sỹ Kim Cương. Nữ sỹ Kim Cương khi ấy cũng tỏ ra giản dị, thay vì đi xe hơi riêng đã chấp nhận ngồi sau xe Honda do ông Phương chạy. Ông Phương nói với nữ sỹ: “Chị ngồi cẩn thận bởi tôi lái xe máy chưa quen”. Nghệ sỹ Kim Cương đùa: “Anh yên tâm, nếu tôi có bị gì mai anh xách chiếc xe ‘làm Kim Cương té’ này ra chợ trời bán là được giá lắm”. Ông Phương hiểu sức mạnh công chúng trong thông điệp như đùa đó của Kim Cương.
Đêm ấy, cho dù các nghệ sỹ Sài Gòn đã cố gắng ăn mặc giản dị, họ vẫn “sáng rực” hơn so với những người từ miền Bắc vào hoặc từ trong rừng ra. Nhà thơ Vũ Quần Phương nói: “Khi nghe cô ca sỹ hát bài ‘Mắc võng trên rừng Trường Sơn’, tôi nhớ tới Phạm Tiến Duật, tác giả lời thơ của bài hát đó. Khi ấy Duật đang bị kiểm điểm không biết số phận thế nào vì bài thơ Vòng Trắng. Nhưng bài thơ chỉ bật ra khi năm 1976, trong chuyến đầu tiên sau giải phóng, các văn nghệ sỹ Việt Nam được đi Liên Xô, người ta đã để ca sỹ Trường Sơn Tô Lan Phương ở lại lấy chỗ cho một ca sỹ miền Nam. Tôi hiểu cử chỉ chính trị của các nhà lãnh đạo nhưng vẫn không khỏi chạnh lòng cho những người đã hy sinh tuổi trẻ của mình. Tuy nhiên, khi viết cái kết của bài thơ, tôi vẫn theo chuẩn mực giáo dục lúc bấy giờ, ai sớm
Lòng người
Không muốn ngồi yên để đợi trông
Theo bà thì không phải là học sinh này đã viết sai lỗi chính tả chữ “sảng” thành chữ “sản” mà học sinh ấy có ý định ghép bốn từ đầu ở các câu lại thành cụm từ: không thích cộng sản. Thái độ ấy có lẽ đã qua mấy năm tích tụ, nhưng hành động viết ra thì chỉ là một phút bốc đồng. Có người đã báo cáo và học sinh đó đã bị bắt, bị điều tra và bị đuổi học. Bà Nguyễn Thị Hoàng Bắc kể: “Tôi và một cô giáo đồng nghiệp khác (về sau định cư ở Canada) đã cố hết sức giúp em. Hai chúng tôi đứng trước cửa lớp giờ tan học che cho một cô giáo khác lấy dao cố cạo cho hết những nét khắc sâu vào gỗ của bài thơ nhưng có người đã nhanh tay sao chép, gửi đi cho công an. Nét khắc còn lờ mờ nhưng vẫn là bằng cớ”365.
Tôn Thất Thiện Nhân366 năm 1975 đang là một học sinh cấp III. Anh nhớ lại:
Cha của Nhân trước 1975 cũng là giáo viên. Do đã từng đi lính, tuy chưa phải sỹ quan nên không phải đi cải tạo, nhưng sau 1975 ông không còn được đi dạy. Ông đã phải bươn chải vô số nghề trong đó có nghề nhảy tàu lên Long Khánh mua than củi mang về Sài Gòn bán. Mấy anh em Nhân thỉnh thoảng lại ra ga đợi ông như chờ đợi một điều gì đó khác hơn ngày thường. Một hôm, hai anh em nhìn thấy cha mình, năm ấy chỉ mới gần bốn mươi tuổi, đu cạnh thành con tàu đang tiến dần vào ga, vứt bao than trước rồi nhảy xuống; không may, ông bị trượt chân. Nhìn gương mặt khắc khổ, tay chân đen đúa, bị những nhát cắt của những viên đá lót đường rày làm cho túa máu, Thiện Nhân nói: “Một cảm giác mất mát kinh khủng xâm chiếm con người tôi, hình như đó vừa là tình thương vừa là sự thất vọng về ông, về một thế hệ không còn có khả năng gượng lên được nữa”.
Không chỉ có những đứa trẻ bồng bột phản ứng bằng những câu thơ, tình cảm học trò, sự trải nghiệm “Sài Gòn giải phóng” đã giúp Đỗ Trung Quân thai nghén những vần thơ cũng đau như những nhát cắt của dao, nhưng nó không được dại dột khắc xuống mặt bàn để bàn tay học trò phải nhận cây còng số 8. Năm 1982, Đỗ
Một ngàn chín trăm bảy mươi lăm
Năm 1975, Đỗ Trung Quân hai mươi mốt tuổi, anh đang học năm thứ hai khoa Sử-Địa, Đại học Văn Khoa. Khi Sài Gòn “giải phóng” anh phải nghỉ học vì Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp cần thời gian để “sửa đổi chương trình, nội dung và phương pháp đào tạo, đặc biệt chú trọng các môn khoa học xã hội, sao cho phù hợp với phương hướng tiến lên thống nhất dần với hệ thống giáo dục xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc”368.
Chỉ thị 221 về ý nghĩa chính trị đã thúc đẩy việc xóa nạn mù chữ cho không ít người dân, nhất là ở giai đoạn “hồ hởi phấn khởi” ban đầu của Cách mạng. Ngay khi vừa “giải phóng”, Chính quyền Sài Gòn-Gia Định “hạ quyết tâm” trong năm 1975 sẽ xóa mù chữ cho 250.000/500.000 người mà Cách mạng ước tính là mù chữ. Công việc này “giữ được khí thế” cho tới tháng 9-1975 với 1.596 lớp bình dân và 53.498 học viên. Tuy nhiên, không chỉ là một chính sách với dân, chương trình “bổ túc văn hóa” này đã góp phần tạo ra một đội ngũ cán bộ sẽ đi rất xa trong Đảng.
Chỉ thị 222 của Ban Bí thư đặt ra yêu cầu: “Qua con đường bổ túc văn hóa và tuyển sinh mà cải biến nhanh chóng thành phần giai cấp trong học sinh đại học và chuyên nghiệp, tích cực tạo điều kiện cho các chiến sĩ quân giải phóng, cán bộ cách mạng, con em nhân dân lao động được vào học ngày một đông và chiếm đại đa số trong các trường đại học và chuyên nghiệp ở miền Nam. Cho các học sinh miền Nam đã tốt nghiệp lớp 10 ở miền Bắc và có gia đình ở trong Nam về học tại các trường đại học ở miền Nam. Giáo dục, bồi dưỡng và sử dụng các thầy giáo do chế độ cũ để lại, đồng thời đưa một số thầy giáo, nhất là các thầy giáo quê ở miền Nam đang công tác ở miền Bắc, có trình độ chuyên môn khá, có phẩm chất chính trị tốt, bổ sung vào đội ngũ các thầy giáo của các trường ở miền Nam để làm nòng cốt”.
Trên tinh thần chỉ đạo đó, thanh niên được chia làm “13 đối tượng” để xét tuyển sinh vào đại học. Các đối tượng được ưu tiên nhận vào đại học và trung học chuyên nghiệp gồm “anh hùng dũng sĩ các lực lượng vũ trang nhân dân, bộ đội, thương binh, thanh niên xung phong, cán bộ cách mạng, con của các liệt sĩ, con em các gia đình có công với cách mạng, con em các dân tộc ít người, con em miền Nam đã tốt nghiệp lớp 10 ở miền Bắc về Nam học, công nhân và những người lao động chân tay khác…”. Ngoài ra: “Trừ những phần tử phản động, tất cả nam nữ công dân, có lý lịch rõ ràng, có các điều kiện quy định về tuổi, bằng cấp và sức khỏe đều được quyền nộp đơn xin thi tuyển vào các trường đại học và trung học chuyên nghiệp”.
Một số “đối tượng” được quyền nộp đơn, nhưng có được đi học ngay cả khi đã thi đỗ đại học hay không lại còn tùy thuộc vào quan điểm của các ban tuyển sinh về mức độ rõ ràng của lý lịch. Tính “giai cấp” thể hiện qua lý lịch đã làm tan vỡ biết bao giấc mơ của những thanh niên lớn lên sau năm 1975.
Chỉ thị của Ban Bí thư từng được nhiều cơ sở Đảng thi hành theo hướng tùy tiện siết chặt hơn. Phan Vĩnh Hiệp, quê ở xã Nhơn Thọ, huyện An Nhơn, Nghĩa Bình, là học sinh giỏi vật lý cấp quốc gia nhưng vẫn bị chính quyền xã giữ lại không cho đi thi ở Tiệp Khắc. Năm sau, Hiệp thi đậu vào Đại học Bách Khoa với số điểm đủ đi học nước ngoài, địa phương vẫn không cho học chỉ vì cha Hiệp, ông Phan Vĩnh Long, đã bỏ Đảng trong đợt “tố cộng” năm 1954 của Chính quyền Ngô Đình Diệm.
Nguyễn Mạnh Huy, phường Lê Hồng Phong, Thành phố Quy Nhơn, tốt nghiệp cấp III năm 1981. Cũng năm ấy, Huy thi đỗ vào Bách khoa Đà Nẵng với số điểm 26,5 (Á khoa) trong khi điểm chuẩn chỉ cần 17 điểm. Thay vì có thể thực hiện ước mơ, Huy nhận được lời thông báo lạnh lùng ở Ban Tuyển sinh Tỉnh: “Không được đi học vì cha chết trận”. Như hàng triệu thanh niên miền Nam khác, cha của Huy cũng đã bị “động viên” ngay sau khi “rớt tú tài”. Năm 1965, khi Huy lên hai, cha anh, một trung úy bộ binh, đã dẫm phải mìn và chết. Mẹ Huy là thư ký đánh máy cho Sở Thông tin. Tuy là con “sỹ quan ngụy”, nhưng kể từ năm hai tuổi, Huy chủ yếu lớn lên trong nhà ông nội, vốn là một đảng viên thời kháng Pháp, ngoài ra Huy còn có một người cậu và một người dì đi tập kết. “Cuộc đời tôi, việc học của tôi bị chặn ở đây sao?”, nhật ký ngày 25-11-1981 của Huy viết.
Năm 1982, Nguyễn Mạnh Huy chọn một trường ít đòi hỏi về lý lịch hơn: Đại học Nông Nghiệp IV; kết quả: 22,5 điểm, vượt xa điểm chuẩn. Nhưng bức điện đánh từ Ban Tuyển sinh vẫn cứ lạnh lùng: “Không được đi học vì cha chết trận”. Nhật ký ngày 6-1-1983 của Huy ghi: “Một người có quyền dự báo một tương lai đen tối, nhưng bất hạnh nhất khi tự khẳng định nó là một sự thật bất biến”.
Chàng thanh niên nặng bốn mươi ký Nguyễn Mạnh Huy từ đó đi làm thợ mộc kiếm sống nhưng vẫn nhắc mình: “Đừng buông súng khi còn sức chiến đấu”. Thế rồi cho đến sát ngày thi của năm 1983, vì quá “nôn nao, bứt rứt”, Nguyễn Mạnh Huy lại nộp đơn thi vào Sư Phạm Quy Nhơn, được 18,5 điểm trong khi điểm chuẩn chỉ là 12. Lần này thì Huy không buồn đi xem kết quả nữa.
Ông Võ Văn Kiệt nhìn nhận: “Khắc phục những hậu quả do chế độ cũ để lại đã khó, nhưng khắc phục những cái do chế độ mới sinh ra lại còn khó hơn”. Chuẩn bị Đại hội Đoàn Thành phố lần thứ Nhất, Ông Kiệt nói với nhà báo Thép Mới, lúc ấy đang cộng tác như một người viết diễn văn cho ông: “Tại sao hồi Đảng còn hoạt động bí mật mình không phân biệt, tại sao hồi đó mình vận động cả con em địa chủ, con em tư sản, con em các quan chức trong chế độ Sài Gòn… để giờ đây khi có chính quyền trong tay mình lại phân biệt! Nếu cứ kéo dài tình trạng này thì tới bao giờ thanh thiếu niên mới có thể hòa hợp được với nhau?”. Theo ông Phạm Văn Hùng, thư ký của Võ Văn Kiệt: “Trong khi trao đổi, ông Võ Văn Kiệt gần như buột miệng nói, ‘Không ai chọn cửa sinh ra’, làm cho cả ông Thép Mới và chúng tôi đều rất thích thú”.
Tuy nhiên, trong vấn đề “lý lịch”, tư duy theo kiểu ông Kiệt là rất “thiểu số”. Ông Kiệt nói: “Tôi suy nghĩ rất nhiều, nhưng biết thay đổi không phải là việc giản đơn vì đó là nhận thức và tính nguyên tắc của cả hệ thống”. Ngày 3-7-1977, tại Đại hội Đoàn Thành phố lần thứ Nhất, Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt phát biểu: “Thế hệ trẻ đang lớn lên ở Thành phố ta, ra đời từ những hoàn cảnh xã hội khác nhau, chịu ảnh hưởng tinh thần và tín ngưỡng khác nhau. Không ai chọn cửa mà sinh ra. Đối với mỗi người trẻ tuổi đang bước vào đời, chúng ta nhìn họ như nhau, cùng là những người chủ tương lai của Thành phố. Xã hội muốn tuổi thanh xuân không mặc cảm và rất thanh thản trong tâm hồn…”. Ông kêu gọi: “Xã hội phải đối xử công bằng với tất cả lớp người trẻ đi lên với xã hội này, ai ai cũng có nghĩa vụ và quyền lợi như nhau… Chúng ta lấy thực tâm, thực học, thực tài làm tiêu chuẩn, không để quá khứ ràng buộc tương lai mà hạn chế chí tiến thủ và hoài bão cống hiến của mỗi người trẻ tuổi”.
“Cánh cửa” Thanh niên Xung phong
Chương VII: “Giải Phóng”
Nhiều người Việt đã cầm súng với niềm tin họ chiến đấu là để giải phóng miền Nam. Trong suốt nhiều thập niên, truyền thông nhà nước đã lặp đi lặp lại điều này như là chân lý. “Giải phóng” là cách nói để mô tả sự kiện kết thúc vào ngày 30-4-1975. “Giải phóng” là từ không chỉ được dùng bởi những người đi từ trong các chiến khu mà còn được nói như một phản xạ tự nhiên của không ít người dân. Có hàng triệu người đã bỏ nước ra đi, nhưng hàng chục triệu người miền Nam vẫn chọn con đường ở lại, rồi chính họ sẽ có những trải nghiệm đáng nhớ về “giải phóng”.
Sài Gòn thay đổi
Chiều 2-5, từ trường Petrus Ký, Ban Kinh tài Thành ủy đưa nhóm ông Võ Văn Kiệt sang “tiếp quản” nhà 222 và 224 đường Phan Thanh Giản321. Ngôi nhà này vốn là nơi ở của tùy viên quân sự Anh. Người giúp việc cho ông tùy viên lại cũng là một cơ sở bí mật của Cách mạng. Ông Võ Văn Kiệt tới, gia đình rất mừng, và từ hôm đó họ trở thành “cán bộ Thành ủy”.
Lại nói về người lái chiếc xe GMC chở “đại quân” vô Sài Gòn chiều 30-4. Khi đưa ông Kiệt tới trường Petrus Ký, Tư Thạch kêu anh lái xe quay lại đón những anh em đi sau. Xong việc, Tư Thạch cho anh về. Tới chiều ông Kiệt hỏi: “Hai chú tài xế chiều nay đâu?”. Anh em nói: “Ảnh về rồi”. Ông Kiệt kêu: “Có hỏi tên tuổi, nhà cửa người ta không?”. Không ai hỏi cả.
Trong ngày hôm đó, biết bao người đã “xuống đường”, rất nhiều người trong số họ đã làm một việc gì đó rồi trở thành “cán bộ”, lớp cán bộ về sau được gọi là “Cách mạng 30-4”; rất nhiều người khác, sau khi “phục vụ cách mạng”, đã trở về nhà và đã vô danh như thế.
Chiều 2-5-1975, khi tình hình đã tạm ổn định, ông Kiệt kêu Chín Anh về Bình Thạnh kiếm gia đình ông Sáu Hoa. Gia đình ông Sáu Hoa là một cơ sở nuôi giấu “Việt Cộng” trong nội thành từ đầu thập niên 1950. Giữa năm 1956, ông Lê Duẩn được ông Nguyễn Văn Linh đón lên Sài Gòn và đưa về giấu trong nhà ông Sáu Hoa gần ba tháng. Năm 1963, từ Củ Chi, ông Võ Văn Kiệt cũng vào Sài Gòn trên một chuyến xe do Sáu Hoa lái ra đón. Cùng với nữ giao liên Sáu Trung, từ đó, theo yêu cầu của ông Kiệt, Sáu Hoa sẽ còn đưa ông Kiệt đi lại công khai nhiều lần. Khi từ Trung ương Cục xuống Khu IX nhận chức bí thư khu ủy, ông Kiệt đã dùng xe của Sáu Hoa đi công khai từ Châu Đốc xuống Rạch Giá. Ông Kiệt cũng đã từng ở lại căn nhà 99/9 Nơ Trang Lơng, Bình Thạnh của Sáu Hoa. Từ đây, một người cháu của ông, Chín Anh, sẽ theo ông Kiệt ra “Khu”.
Chiều 1-5-1975, Chín Anh về Bình Thạnh. Chiếc U-oat 322 đi tới đâu, người dân nghiêng ngó, xầm xì tới đó, và khi nó quẹo vô hẻm 99/9, bà con ngỡ ngàng. Mấy đứa con nhà Sáu Hoa kêu to: “Việt cộng! Việt cộng!”. Có lẽ bọn trẻ cũng không biết đó là tiếng kêu mừng hay sợ. Cho đến lúc này, vợ chồng ông Sáu Hoa vẫn hết sức dè dặt, cái dè dặt của người hoạt động trong lòng đối phương quá nhiều năm và đã gặp quá nhiều bất trắc. Lúc đó, vẫn chưa có ai trong xóm biết rõ Sáu Hoa là “Cộng”, kể cả mấy người con của ông. Nhưng lũ trẻ nhanh chóng nhận ra một trong mấy ông đi xe là Chín Anh. Bấy giờ thì chúng mừng rỡ thật.
Chưa kịp ngồi xuống, Chín Anh nói: “Chú Sáu Dân cho gọi bác lên gặp ổng gấp”. “Ảnh ở đâu?”, Sáu Hoa lập cập hỏi. “Thì bác thay đồ lẹ lên, sáng giờ ổng nhắc bác hoài”, Chín Anh giục. Sáu Hoa khoác vội áo, ra xe. Tới nơi, ông Kiệt chạy ra tận cửa, hai người ôm lấy nhau: “Mạnh hả? Hết chết rồi hả?”. Hai ngày sau, ông Kiệt về nhà Sáu Hoa ăn bữa cơm đoàn tụ. Ông ôm từng đứa con của vợ chồng Sáu Hoa, lòng lặng đi. Tính mạng của những thiếu niên này đã từng bị đe doạ ngay chính trong ngôi nhà đó, trong suốt những năm ông Lê Duẩn, ông Nguyễn Văn Linh và ông Kiệt sống bí mật ở đây. Ông Kiệt bước tới, bước lui, lên gác, nhìn căn phòng, sờ những đồ vật quen thuộc, những thứ đã từng che cho ông sống.
Năm 1957, trước khi ra Bắc, ông Lê Duẩn triệu tập Xứ ủy sang Phnom Penh và quyết định điều ông Võ Văn Kiệt về Sài Gòn thay ông Linh làm bí thư Khu ủy. Sài Gòn cuối năm 1958, khi ông Kiệt đặt chân trở lại, không còn bình yên. Chính quyền Ngô Đình Diệm đánh tróc từng cơ sở của những người cộng sản. Những cấp ủy viên mà ông Kiệt nhận bàn giao từ Phnom Penh lần lượt bị giết hoặc vô tù. Ông Kiệt đành phải tiếp cận Sài Gòn qua ngả Gia Định. Ông nhận thấy nếu có Gia Định thì Sài Gòn sẽ “tiến thoái” dễ hơn. Ông đề nghị sáp nhập Gia Định vào Khu ủy Sài Gòn và được Trung ương chấp thuận.
Sau ngày 30-4-1975, trước nhu cầu sắp xếp cho hàng loạt bí thư khu ủy, tỉnh ủy từ trong rừng ra, việc định lại địa giới hành chánh đã có nhiều bàn cãi. Theo ông Nguyễn Thành Thơ323: “Ngày 3-5-1975, anh Mai Chí Thọ mời tôi tới truyền đạt chủ trương tách T4 324: tôi làm bí thư Sài Gòn; anh Mai Chí Thọ làm bí thư tỉnh Gia Định. Rồi anh Mai Chí Thọ kêu tôi bàn giao hết”. Sau khi “bàn giao gần hết cho ông Mai Chí Thọ”, ngày 5-6-1975, ông Thơ lại nhận được thư mời tới số 7 Thống Nhất325, nghe ông Võ Văn Kiệt phổ biến chính thức: “Trung ương Cục không tán thành tách Sài Gòn-Gia Định, vậy anh là phó bí thư Thành ủy, công việc cũ không thay đổi, nay mai sẽ giao việc mới cho anh”.
Trong thời kỳ quân quản, ông Võ Văn Kiệt là bí thư Đảng ủy Đặc biệt, đồng thời được giới thiệu là bí thư Thành ủy Sài Gòn-Gia Định. Ngày 20-1-1976, Chủ tịch Hội đồng Chánh phủ Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam Huỳnh Tấn Phát ký Quyết định 03, thay thế Ủy ban Quân quản bằng Ủy ban Nhân dân Cách mạng, chức chủ tịch được giao cho ông Võ Văn Kiệt; chức bí thư Thành ủy được giao cho ông Nguyễn Văn Linh; ông Mai Chí Thọ lãnh chức phó chủ tịch Ủy ban kiêm giám đốc Công an Thành phố.
Trong buổi lễ bàn giao tổ chức vào sáng 21-1-1976 tại Dinh Độc Lập, Thượng tướng Trần Văn Trà cho rằng: “Chúng ta đã nắm chắc tình hình trong tay, chế độ cách mạng đã được bảo đảm vững chắc, trật tự trị an ngày càng ổn định. Thành quả ấy đạt được nhờ… nhân dân đã thực sự tham gia xây dựng chính quyền của mình”326.
Tháng 12-1976, sau Đại hội Đảng lần thứ IV, ông Võ Văn Kiệt trở thành ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị; ông Nguyễn Văn Linh là ủy viên chính thức, được điều về Trung ương, chức bí thư Thành ủy giao lại cho ông Kiệt. Từ trước đó, ông Võ Văn Kiệt thừa nhận là chính ông đã thúc đẩy việc lấy tên Chủ tịch Hồ Chí Minh chính thức đặt cho Sài Gòn-Gia Định.
Mấy câu thơ: “Ai đi Nam Bộ / Tiền Giang, Hậu Giang / Ai về Thành phố Hồ Chí Minh / Rực rỡ tên Vàng…”327, mà Tố Hữu viết tháng 8-1954, khi Hồ Chí Minh còn nắm quyền, được coi là “sáng kiến thành văn” đầu tiên về việc đặt tên mới cho Sài Gòn. Có lẽ vì Tố Hữu khi ấy không chỉ là một nhà thơ “anh cả” mà còn là trưởng Ban Tuyên huấn Trung ương, nên ý kiến của ông gần như được mặc nhiên thừa nhận. Lịch sử cũng không ghi nhận bất cứ một phản ứng nào từ Hồ Chí Minh. Các văn nghệ sỹ cách mạng cũng coi đó là “vinh dự” của Sài Gòn.
Trong tuần lễ trước ngày 30-4-1975, nhạc sỹ Cao Việt Bách đã đặt tên cho một bài hát của mình là Tiếng Hát Từ Thành Phố Mang Tên Bác. Bản Thông cáo ngày 3- 5-1975 về việc thành lập Ủy ban Quân quản cũng nói: “Thành phố Sài Gòn, thành phố được vinh dự mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại”. Ngày 6-5-1975, tờ Sài Gòn Giải Phóng ra đời. Sau đó, tờ Tin Sáng, tờ báo của những người thuộc “lực lượng thứ ba” của Sài Gòn trước 30-4-1975, trên nhiều chuyên mục cũng cho chạy những hàng tít lớn: Thành phố Hồ Chí Minh…
Tuy nhiên, tại kỳ họp đầu tiên của quốc hội thống nhất, khai mạc tại thủ đô Hà Nội ngày 25-6-1976, ông Trường Chinh đã không hoàn toàn đồng ý với cách đặt vấn đề của ông Võ Văn Kiệt. Khi ông Kiệt đề nghị Bộ Chính trị để Quốc hội “công nhận Sài Gòn mang tên Thành phố Hồ Chí Minh”, ông Trường Chinh nói: “Quốc hội không phải công nhận mà là xem xét việc đặt tên cho thành phố, vì chỉ Quốc hội mới có thẩm quyền này”.
Ông Võ Văn Kiệt nhớ lại: Đến giờ giải lao, ông vào phòng dành riêng cho chủ tịch đoàn ở phía sau Hội trường Ba Đình, nơi có mặt Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng và Trường Chinh, phản đối: “Tại sao Quốc hội lại còn phải đặt tên cho Thành phố trong khi chỉ là thừa nhận một sự thật lịch sử?”. Ông Trường Chinh dứt khoát: “Lịch sử phải có văn bản, chưa có văn bản nào nói Sài Gòn đã được đổi tên”. Ông Kiệt nói: “Lịch sử có nhiều điều không có văn bản”. Ông Trường Chinh ôn tồn: “Thường người ta lấy tên lãnh tụ đặt cho thủ đô”. Ông Võ Văn Kiệt cãi: “Thưa anh, tên của Lênin có phải đặt cho thủ đô đâu!”. Ông Trường Chinh vẫn kiên định: “Quốc hội vẫn phải là cơ quan quyết định việc này”. Ông Kiệt không thể thuyết phục ông Trường Chinh, đành đề nghị: “Nếu như các anh đưa ra Quốc hội quyết định thì các anh phải giải trình đầy đủ quá trình Thành phố mang tên Bác”. Trước Quốc hội, ông Trường Chinh chỉ nói rất ngắn gọn về việc đổi tên Sài Gòn.
Nhiều năm sau, ông Võ Văn Kiệt mới hiểu ông Trường Chinh lưỡng lự không chỉ vì vấn đề thủ tục. Ông Kiệt nói: “Anh Trường Chinh muốn giữ tên Sài Gòn, một cái tên đã được biết đến suốt gần 300 năm”. Tuy nhiên, trong suốt hàng chục năm, Hồ Chí Minh đã được cả hệ thống chính trị suy tôn làm “Cha Già Dân Tộc”, nên khi có người muốn lấy tên ông đặt cho Sài Gòn thì không ai dám đứng ra ngăn cản. Quốc hội đã dễ dàng biểu quyết việc đổi tên Sài Gòn; cũng như, vào lúc 8:20 sáng ngày 2-7-1976, đã dễ dàng đổi tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Trước đó, tháng 8-1975, một loạt đường phố ở Sài Gòn cũng đã được Tuyên huấn Thành ủy cho đổi tên. Tên của các liệt sỹ cách mạng đã được dùng để thay cho tên của những vua chúa, danh nhân thời “đế quốc phong kiến”: Lý Tự Trọng thay thế Gia Long, Võ Thị Sáu thay thế Hiền Vương, Lý Chính Thắng thay cho cụ Tam Nguyên Yên Đỗ,… Các sự kiện mà những người cộng sản đã ghi vào lịch sử cũng được sử dụng để đổi mới các tên đường như Cách Mạng Tháng Tám, Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Đồng Khởi… Người dân Sài Gòn tức cảnh: “Nam Kỳ Khởi Nghĩa tiêu Công Lý / Đồng Khởi lên rồi hết Tự Do”. Những thay đổi của miền Nam, của Sài Gòn, không chỉ ở trên những tên đường, tên phố.
Kinh tế mới
Đầu năm 1977, cậu bé Thái Cẩm Hoàng328 thấy nhà mình thường xuyên có khách. Ông tổ trưởng tổ dân phố cùng vài cán bộ ngày nào cũng tới vận động gia đình đi kinh tế mới. Ông nói với mẹ Hoàng: “Chị phải đi thì chồng chị mới được về sớm”. Cha Hoàng, Đại úy Thái Tú Bình, đại đội trưởng đại đội chiến tranh chính trị thuộc tiểu khu Quảng Nam, giờ ấy đang là tù cải tạo. Ông Bình bị bắt ngay sau ngày 29-3-1975, ngày Đà Nẵng được “giải phóng”.
Cuối tháng 3-1975, Hoàng – năm ấy lên bảy – theo mẹ di tản vào Sài Gòn. Ở bãi biển Đà Nẵng, Hoàng đã phải bước trên những xác chết để lên tàu. Kết thúc chiến tranh, Chính quyền Sài Gòn yêu cầu người dân trở về quê cũ, Thái Cẩm Hoàng và các em được mẹ đưa trở lại Hội An, mở một tiệm chạp-pô. Buôn bán khó khăn nhưng trong thời gian đó, mẹ Hoàng còn phải bỏ tiệm đi đắp đập Phú Ninh hơn ba tháng. Hoàng kể: “Một hôm, vừa đói, vừa nhớ mẹ quá, tôi đi bộ từ Hội An lên Đà Nẵng tìm đến nhà dì. Cả nhà hoảng hốt đi tìm. Khi trở về, ông chú đánh cho một trận. Đánh xong, ông ôm tôi vào lòng, khóc”.
Mẹ Hoàng hình dung được điều gì chờ đợi gia đình ở khu kinh tế mới. Nhưng đấy không phải là lựa chọn của những người vợ lính. Hàng xóm chạy qua chạy lại, những người có cùng hoàn cảnh chỉ biết nhìn nhau gạt nước mắt. Biết không thể “chống chính quyền cách mạng”, trước thời điểm rời Hội An, mẹ Hoàng nhờ bà nội qua sống cùng, hy vọng giữ lại được căn nhà. Bà nội tuổi cao, chính quyền không thể buộc bà đi kinh tế mới.
Ngày đi, từ sáng sớm, xe ca mấy chục chiếc đậu trên đường Phan Chu Trinh, nối đuôi nhau từ trường Bồ Đề đến sân Ty Thông tin Chiêu hồi. Thoạt đầu bọn trẻ con rất vui vì sắp được đi chơi xa, nhưng khi thấy người lớn khóc, bọn trẻ bắt đầu hiểu vấn đề nghiêm trọng hơn chúng tưởng. Xe chạy ba ngày hai đêm thì hết đường. Đoàn xe ca dừng lại, chờ xe ủi, ủi đường tới đâu thì tiến vào tới đó. Chập tối, đoàn xe dừng lại cho mọi người lấy đồ đạc rồi quay về, để lại hơn nghìn con người giữa rừng.
Hoàng nhớ lại: “Hôm sau, các gia đình được chia đất. Từ người lớn cho tới trẻ con đều phải đi chặt cây làm nhà”. Mấy ngày tiếp đó, một đoàn xe tải khác đến, Chính quyền cấp cho dân kinh tế mới khẩu phần lương thực đủ ăn trong ba tháng. Hoàng kể: “Khi biết đoàn người mới đến dựng nhà là dân miền Nam, đồng bào ở buôn Chư Cà Ti, huyện Krongpak, Daklak, đã chủ động sang giúp. Đó là một khu vực đêm đêm Fulro vẫn quấy phá chính quyền nhưng Fulro để yên cho người Thượng và dân kinh tế mới. Chiều chiều, bọn trẻ vẫn cắt rừng đi lấy nước ở sông Ana, cách đấy hàng cây số”.
Chính sách được thi hành ở mỗi địa phương thường có những điểm khác nhau. Không phải ở đâu vợ con những người đang ở trong các trại cải tạo cũng phải đi kinh tế mới. Nhiều địa phương coi đưa dân ra khỏi thành phố là để phân bố lại lao động và giải tỏa những áp lực xã hội nảy sinh sau ngày 30-4-1975. Ông Nguyễn Văn Ly, tên thường gọi là Tư Kết, năm 1975 là thư ký riêng của ông Mai Chí Thọ329, kể: “Mỗi đêm, vào khoảng mười một giờ, tôi lại cập nhật các báo cáo nhanh của công an và Bộ Tư lệnh Thành. Không có báo cáo nào là không nói về tình hình người tự tử. Thỉnh thoảng, anh trai của ông Mai Chí Thọ là Tướng Đinh Đức Thiện qua thành phố, ghé chơi. Thấy tôi loay hoay với mấy bản báo cáo, ông hỏi, ‘Tình hình sao?’. Tôi kể cho ông tình trạng nhiều người cảm thấy bế tắc dẫn đến nạn tự tử ở Sài Gòn. Ông Đinh Đức Thiện nói: vậy là bỏ mẹ rồi, phải đưa đi kinh tế mới mới có công ăn việc làm cho người ta, chứ không còn chết nữa”.
Không chỉ Tướng Đinh Đức Thiện nghĩ “kinh tế mới” có thể giải tỏa những bế tắc cho người dân miền Nam. Báo cáo của Bộ Chính trị tại Hội nghị Trung ương 24, họp từ ngày 13-8-1975, xác định: “Cấp bách nhất hiện nay là sắp xếp công ăn việc làm cho ba triệu người. Đây là một công việc khó khăn, nhưng ta có thuận lợi lớn là có thể mở thêm ngay vài triệu hecta canh tác đất tốt, dễ làm, nhiều vùng lại không xa Sài Gòn lắm. Hướng sắp xếp là giảm bớt dân các thành thị, đưa 1,5 triệu đến hai triệu người về nông thôn, vừa sản xuất nông nghiệp, vừa sản xuất tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp”.
Chỉ sau Hội nghị Trung ương lần thứ 24 không lâu, ngày 14-9-1975, trong một cuộc làm việc với khoảng bảy mươi kiến trúc sư tại hội trường Đại học Kiến Trúc Sài Gòn, Giám đốc Sở Kiến trúc và Quản lý Nhà đất Huỳnh Kim Trương nói rằng Thành phố sẽ đưa khoảng 1,5 triệu dân “về quê lập nghiệp”. Báo Tin Sáng ngày 16-9-1975 dẫn lời ông Trương: “Từ đây cho tới cuối năm 1975 chúng ta còn phải giảm bớt ba trăm ngàn dân ra khỏi Thành phố Hồ Chí Minh để đưa họ về các vùng lân cận tham gia vào công tác sản xuất. Và đến hết năm 1976 sẽ có thêm một triệu hai trăm ngàn dân về quê làm ăn theo đúng chương trình đã được ấn định”.
Ông Trương cho biết: “Khoảng 600 kiến trúc sư và sinh viên sắp tốt nghiệp kiến trúc sẽ nắm giữ vai trò thiết kế các khu chỉnh trang, cũng như các loại nhà ở cho dân chúng. Ưu tiên này nhằm phục vụ cho các giới đồng bào lao động, những gia đình cách mạng, từ lâu đã hy sinh nhiều nhưng cho đến nay vẫn còn ăn nhờ ở đậu”330. Ông nhấn mạnh: “Công việc của chúng ta hiện này chỉ là một cách trả ơn, trả nghĩa cho những người đó”.
Từ những ngày cuối tháng 8-1975, chính quyền cho xe chở hàng chục nghìn dân về quê. Tính đến đầu tháng 10-1975, có hơn 15.000 dân được đưa đi xây dựng các vùng kinh tế mới. Người thì lên Bình Phước, Tân Phú, Tây Ninh; người thì xuống Sóc Trăng, Kiến Tường, Vĩnh Long. Chỉ riêng tháng 10-1975, đã có “hơn 100.000 đồng bào Thành phố lên đường xây dựng vùng kinh tế mới. Tính cả gần năm tháng sau giải phóng, đã có gần 240.000 người phấn khởi trở về quê cũ làm ăn”331. Ngày 28- 10-1975, hội nghị mở rộng của Thường vụ Thành ủy chính thức thông qua chủ trương “đẩy mạnh cuộc vận động chính trị sâu rộng trong quần chúng nhân dân nhằm đưa 1,5 triệu người không có công ăn việc làm đi xây dựng các vùng kinh tế mới”.
Trước đó, theo “Bản Báo cáo về Thực trạng và Khả năng Kinh tế miền Nam” được ông Nguyễn Văn Nam, một quan chức của Ủy ban liên lạc công thương đọc tại “Nhà hát Tây”332 ngày 4-8-1975: “Phân bố lại lực lượng lao động trong cả nước là yêu cầu khách quan cần thiết của đất nước”. Bản Báo cáo cho rằng: “Nền kinh tế do Mỹ để lại chỉ là một sự phồn vinh giả tạo. Kẻ thụ hưởng chỉ là các tầng lớp tư sản quan liêu còn đại đa số quần chúng vẫn sống một cuộc đời cơ cực, không có ngày mai”333.
Không phải mọi người dân đi kinh tế mới đều bị ép buộc. Theo ông Nguyễn Thành Thơ: “Anh Phạm Văn Xô phụ trách vấn đề kinh tế mới, anh Kiệt giao cho tôi phục vụ anh Hai Xô. Nhiệm vụ của tôi là làm việc với từng địa phương để nắm các đối tượng phải đi kinh tế mới. Tôi thấy nhiều người dân ở trong những căn nhà chật chội, cạnh ao tù, nghèo đói. Chúng tôi vận động thì họ vui vẻ đi”. Ngay cả ông Tư Kết, đang là thư ký riêng của một nhân vật quyền bính như ông Mai Chí Thọ, cũng tin tưởng vào chính sách này nên đã cùng với anh trai khuyên mẹ, một “bà má phong trào”, bán căn nhà của bà ở Bùi Viện, Quận 1 để đi kinh tế mới. Các quận đoàn lúc ấy đã cử đoàn viên thanh niên, tiên phong phát hoang, mở đường, làm nhà, lập các làng mới trước khi đưa bà con lên.
Theo ông Nguyễn Thành Thơ, nhà nước cấp đất đai, nhà cửa, gạo và tiền để sống ba tháng đầu. Nhưng thực tế không như mơ tưởng, nhất là với những người dân trước đó quen sống ở thành phố có điện, có nước, chỉ biết ngồi bàn giấy hay buôn bán, nay bỗng nhiên phải cuốc đất, trồng khoai ở nơi thâm sơn. Ông Nguyễn Thành Thơ thừa nhận, ăn hết tiền, hết gạo do Nhà nước cấp, nhiều người dân lục tục bỏ về. Các thành phố lại phải gánh chịu thêm những áp lực mới, nhất là từ những người dân bỏ kinh tế mới về khi nhà cửa không còn, do đã bán đi trước đó hoặc do bị coi là nhà “vắng chủ” đã bị “Cách mạng 30-4” nhảy vào “chốt” mất.
Không phải khu kinh tế mới nào cũng cho dân quay trở về thành phố một cách dễ dàng. Mỗi khi người dân trong vùng kinh tế mới Krongpak, Daklak, muốn về thăm quê đều phải cắt rừng đi từ nửa đêm. Mỗi gia đình chỉ đi mỗi lần một hai người để tránh bị chính quyền để ý. Có rất ít người nghĩ tới việc bám trụ lại, nhưng những người vợ lính vẫn lo sợ, nếu trốn, chồng mình sẽ không sớm được về. Gần một năm sau, khi tình hình có vẻ yên yên, mẹ của Thái Cẩm Hoàng mới lén gửi Hoàng về Hội An đi học. Nhưng ngay trong năm kế tiếp, khi về thăm lại Hội An lần đầu tiên, mẹ Hoàng đưa hai đứa em về và mang Hoàng lên để chính quyền trên khu kinh tế mới khỏi nghi ngờ. Ba tháng sau, bà mới dám gửi Hoàng về lại.
Tháng 4-1979, ông Thái Tú Bình được tha. Ông viết thư nhắn vợ bỏ khu kinh tế mới về, dự định sẽ đưa cả nhà vượt biên theo Phương án II. Bức thư ông Bình gửi vợ ở khu kinh tế mới mà cứ như đang ở trong chiến khu: “Con ở trên đó ráng xây dựng kinh tế mới, để chồng con sớm được về. Trong xóm có ông Giới đã được về rồi con ạ”. Mẹ Hoàng nhận thơ, rơi nước mắt vì nhận ra nét chữ chồng mình. Giới cũng là tên ông Thái Tú Bình mà chỉ người trong nhà mới biết. Bốn tháng sau mẹ Hoàng mới bế được cậu em út về gặp cha sau khi tìm cách gửi một đứa con, một đứa cháu về trước. Khi ấy, Phương án II đã bị cắt.
Một lượng lớn người dân thuộc diện “hồi hương” hoặc đi kinh tế mới sau đó đã quay trở về Thành phố. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian 1975-1980, vẫn còn hơn 700.000 người dân đã từng sống ở Sài Gòn trước ngày 30-4-1975 không có cơ hội quay lại Sài Gòn sau khi bị buộc “hồi hương” hoặc bị đưa đi kinh tế mới334. Từ 1976- 1995, có gần 4,5 triệu người từ các địa phương trên cả nước được đưa đi xây dựng vùng kinh tế mới335.
Đốt sách
Năm 1953, khi từ Việt Bắc trở về, ông Võ Văn Kiệt được phân công trở lại Bạc Liêu làm phó bí thư Tỉnh ủy, bí thư là ông Ung Văn Khiêm. Cũng trong những ngày đó, ông Kiệt đã cùng với các đồng chí của mình xây dựng một “xã hội lý tưởng” trong “vùng giải phóng”: Cách mạng cấp hàng trăm nghìn héc-ta đất cho nông dân, xoá bỏ chế độ tô tức của địa chủ, phát triển các mặt chính trị, văn hóa, y tế, giáo dục. Ông Kiệt nhớ lại: “An ninh tuyệt vời, nhà không phải khóa, vườn không phải rào; vệ sinh từ nhà ở đến xóm ấp đều sạch sẽ; dân chúng hát những bài ca cách mạng, xem văn công cách mạng”.
Ông Võ Văn Kiệt thừa nhận, vào năm 1975, ông cũng mong muốn xây dựng ở Sài Gòn “một xã hội lành mạnh” như ông đã từng làm ở Bạc Liêu. Như nhiều địa phương lúc bấy giờ, một trong những công việc đầu tiên mà chính quyền quân quản Sài Gòn ra tay là “chiến dịch quét sạch những tàn dư văn hoá phản động và đồi truỵ”. Thành đoàn Thanh niên Cộng sản đã đứng ra thực hiện chiến dịch này.
Ngày 23-5-1975, trên nhiều đường phố Sài Gòn, “khí thế ra quân” của chiến dịch vô cùng sôi nổi: “Đoàn thanh niên nam nữ đi qua các đường phố và hô to nhiều khẩu hiệu đả đảo văn hoá ngoại lai đồi truỵ mất gốc phản động. Đi đầu là xe phóng thanh với một biểu ngữ dài có ghi: ‘Đội thanh niên sinh viên học sinh xung kích bài trừ văn hoá dâm ô phản động’. Theo sau là sinh viên, học sinh sắp hàng bảy, hàng tám xuất phát từ trụ sở của lực lượng thanh niên tự vệ Thành phố, số 4 Duy Tân. Đoàn diễu hành kéo dài có đến hàng cây số đường, tất cả mọi người đều có một tấm biểu ngữ trên tay…”336.
Người dân đã đổ xô ra hai bên đường xem rất đông. “Bản hiệu triệu” mà “đoàn diễu hành” đã dùng loa phóng thanh phát oang oang, có đoạn: “Mỹ đã cút, ngụy đã nhào, Miền Nam đã hoàn toàn giải phóng… Tuy vậy, còn rất nhiều khó khăn phải khắc phục. Dù đế quốc Mỹ đã nhục nhã rút lui, bọn Ngụy quyền và tay sai đã tan rã, nhưng sau hơn hai mươi năm cai trị, chúng đã để lại một xã hội băng hoại, sa đoạ, đầy rẫy người ăn xin, cao bồi, gái điếm, nghiện ngập; một nền kinh tế ăn bám, thiếu sản xuất; một nền văn hoá nô dịch, mất gốc, đồi truỵ, phản động. Cùng với sự xâm lăng bằng súng đạn, xâm lăng kinh tế, chúng nó đã cho xâm nhập hàng loạt sách báo, phim ảnh dâm ô, cổ động chủ nghĩa khoái lạc vật chất, xô đẩy thanh niên vào hố sâu tội lỗi. Bọn tay sai bán nước, trí thức vong bản đã đầu độc quần chúng, thanh niên, học sinh sinh viên bằng những tư tưởng phản động, ru ngủ, bưng bít lịch sử, chống lại Cách mạng. Đứng trước những tàn dư do Mỹ Thiệu để lại, đứng trước yêu cầu của Cách mạng nhằm tạo dựng một nền sống mới, một con người mới từ suy nghĩ tới hành động, nhiệm vụ của đồng bào và thanh niên ta hiện nay là tẩy xoá tận gốc rễ nền văn hoá nô dịch mất gốc, đồi trụy, phản động để thay thế vào đó một nền văn hoá dân tộc, cách mạng và lành mạnh… ”337.
Ngay sau cuộc tuần hành trên đường phố của hàng chục ngàn thanh niên vệ binh, “đồng bào và các tiệm sách đã đem nộp cho đội Quận 7 một số lượng sách báo đồi trụy phản động, tất cả là mười ba xe ba gác. Ngoài ra các hàng sách bày bán trên hai lề đường Lê Lợi, Công Lý cũng tự nguyện dọn sạch và đem nộp. Trên đường Hai Bà Trưng cũng có ba nhà sách tự động đem nộp trên hai mươi cuốn. Đặc biệt, cùng ngày này, 22-5-1975, nhà sách Phúc Bài, 186 Nguyễn Thiện Thuật, Sài Gòn 3 đã tự nguyện đem nộp cho Hội Bài trừ Văn hoá đồi truỵ phản động bốn ngàn cuốn sách các loại”338.
Ông Võ Văn Kiệt nhìn nhận, ngay từ ngày 28-5-1975, Quân quản đã cảnh báo thanh niên, sinh viên học sinh: “Chúng ta không bao giờ chủ trương đốt sách”, và nói rõ “Chiến dịch chỉ thu hồi các sách báo mang nội dung đồi trụy, đầu độc tinh thần thanh thiếu niên, bóp méo xuyên tạc cuộc chiến dành độc lập tự do của dân tộc”. Tuy nhiên, trong một không khí hết sức cách mạng được lãnh đạo bởi người mới từ trong rừng ra, sự “nhầm lẫn”, sự “quá tay” là không tránh khỏi. Các đội “thanh niên xung kích” nhiều khi đã không cần phân biệt những sách y học có vẽ cơ thể người với những tranh ảnh khỏa thân khiêu dâm, không phân biệt sách triết học với sách chống cộng. Nhiều trí thức đã tìm gặp ông Kiệt để phản ánh tình hình, nhưng, như ông Kiệt nhìn nhận: “Cả tôi và chính quyền đã phải mất khá lâu mới nhận ra những sai lầm đó”339.
Điều khó khăn theo ông Dương Đình Thảo, giám đốc Sở Văn hóa Thông tin, là làm sao để xác định như thế nào là một văn hoá phẩm xấu. Một cơ quan tuyển chọn đánh giá văn hóa phẩm sau đó đã được ông Võ Văn Kiệt cho thành lập. Tuy nhiên, trước khi có những đánh giá cẩn trọng, các nhà báo cách mạng đã thỏa sức đưa ra các tiêu chí của mình.
Tư Cua, một cây viết “cà rỡn” trên mục Sài Gòn Đó Đây của báo Sài Gòn Giải Phóng đã mượn chuyên mục của mình để “tuyên ngôn” nhiều giá trị văn hóa đậm màu quân quản: “Một đồng bào và cũng là độc giả của báo Sài Gòn Giải Phóng đến toà soạn than thở: Trên một chuyến xe buýt Sài Gòn – Lăng Cha Cả, ngày 29-5, chiếc xe mang số EG 6198, đồng bào rất bực mình vì phải nghe chủ xe mở băng nhạc gồm những bản nhạc rã rời, rên rỉ, dã dượi như người mất hồn: “Khi biết em mang kiếp cầm ca / Đêm đêm phòng trà / Mang tiếng hát cho mọi người”. Độc giả này than phiền rằng giữa lúc mọi người đang phấn khởi xây dựng một xã hội mới mà ông chủ xe buýt lại cho đồng bào nghe những thứ mà hồi Mỹ-Ngụy chúng nó dùng để ru ngủ tuổi trẻ, như thế có phải là trật đường rầy không?… Thời buổi này làm chi còn có cái “kiếp cầm ca”, còn đâu có “đêm đêm phòng trà”, làm chi có chuyện “chỉ còn anh thôi, chỉ còn em thôi”… Bây giờ là lúc ta có tất cả, còn tất cả, chớ đâu có cái lạc lõng bơ vơ, sờ soạng “chỉ còn anh, chỉ còn em” như thế”340.
Tư Cua còn định nghĩa về “sách xấu”: “Nghe nói, trong đám sách ngổn ngang đó, có những tác giả nay đã phủ nhận quê hương, xa lìa dân tộc, chuồn ra ngoại quốc, làm nô lệ đi xin cơm, xin áo ở xứ người! Họ biết không nhỉ! Nghe nói, trong số đám sách ngổn ngang đó, có những cuốn sách đã ru ngủ họ trong suốt hai mươi mốt năm dài chiến tranh và mất nước, ngược lại đã đánh thức những “con heo” trong lòng họ dậy và đã biến cả Sài Gòn thành một “ổ điếm khổng lồ”341.
Ngày 30-10-1975, trên báo Sài Gòn Giải Phóng, chính quyền công bố một danh sách năm mươi sáu tác giả có tác phẩm bị liệt vào hàng “phản động, dâm ô, đầu đôc̣ ”, bi cấm lưu hành, trong đó có Hoàng Ngọc Liên, Hà Huyền Chi, Phan Nghị, Võ Hữu Hạnh, Nguyên Vũ, Lê Xuyên, Nhã Ca, Văn Quang, Chu Tử, Doãn Quốc Sĩ, Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Dương Nghiễm Mậu.… Nhưng, ngay khi những cuốn sách đầu tiên bắt đầu được đốt ngoài đường bởi Thành đoàn, cũng như nhiều chủ nhà sách khác, chủ nhà xuất bản Cảo Thơm, ông bà Hồ Hải Trần Thế Nam342, đã họp với cộng sự của ông là gia đình ông bà Nguyễn Đức Phong, bàn việc xử lý kho sách lưu trữ của Cảo Thơm.
Trước năm 1954, ông Hồ Hải đã từng có một tiệm sách ở Bờ Hồ. Khi rời Hà Nội di cư vào Sài Gòn, ông cho xuất bản Vang Bóng Một Thời, tập sách được coi là đẹp nhất thời bấy giờ. Chính quyền Sài Gòn thời Ngô Đình Diệm lúc đầu cấm vì tác giả của nó, nhà văn Nguyễn Tuân, đang sống ở Hà Nội, nhưng bộ máy kiểm duyệt sau đó đã chấp nhận. Cuối thập niên 1960, ông Trần Thế Nam cùng với ông Nguyễn Đức Phong thành lập nhà xuất bản Cảo Thơm. Do ông Phong đang là công chức nên ông Trần Thế Nam đứng tên.
Ngay sau khi quân Giải phóng vào Sài Gòn, cũng như các cơ sở in ấn khác, nhà in số 326/20 Võ Di Nguy343 của Cảo Thơm bị chính quyền Quân quản quản lý. Số sách vở để bên nhà 326/18 bắt đầu được phân ra: Những tập sách khảo cứu của Nguyễn Hiến Lê, sách Lịch sử Triết học Đông phương của Giản Chi, thơ Nguyễn Nhược Pháp, Vang Bóng Một Thời của Nguyễn Tuân… thì được chia nhỏ, giao cho người già, trẻ em mang đi giấu hoặc gửi ở nhà người quen344. Những sách “thị trường” khác thì Cảo Thơm huy động toàn bộ nhân lực trong hai gia đình, xé ra rồi âm thầm bán cho các bà đồng nát345.
Cạo râu
Từ “văn hóa phẩm”, Cách mạng muốn thay đổi đến tận gốc rễ cuộc sống của người dân. Tháng 10-1975, đợt phát động thanh niên “hớt tóc ngắn, sửa quần áo lai căng” bắt đầu được triển khai. Ở Quận 10, Đoàn Thanh niên Cộng sản liên tục mở nhiều cuộc thảo luận về “tư cách tác phong của người thanh niên” và Quận Đoàn đã đi đến quyết định: “Hớt tóc ngắn, sửa lại áo, eo quần loe, quần bó, không mang áo hở ngực, không ăn mặc lố lăng, sặc sỡ… Quận đoàn đã liên hệ với một số tiệm hớt tóc và nhà may để giới thiệu anh em đến hớt tóc và sửa lại áo quần với giá rẻ và mở ba địa điểm hớt tóc miễn phí tại phường Nhật Tảo và tại trụ sở quận đoàn”346.
Khi tường thuật một “phiên tòa quân sự”, trước khi nói rõ tội trạng của các bị cáo, báo chí đã dành nhiều dòng để bày tỏ thái độ của Chính quyền Cách mạng về lối sống: “Lúc ấy là 13 giờ15 ngày 23-12-1975. Mọi cặp mắt đều đổ dồn về phía vành móng ngựa khi Thượng tá Chánh thẩm truyền đưa hai can phạm vào. Cả hai đều để tóc dài phủ gáy, đều rất trẻ nhưng vẻ mặt hiện rõ nét ăn chơi, trác táng.
Tên mặc áo sơ mi trắng bỏ ngoài quần, không cài nút cổ, là Đặng Vũ Trường, sinh viên năm thứ nhất. Tên mặc áo đen nâu phủ ngoài một chiếc áo sơ mi vàng sậm là Nguyễn Đắc Hy, quê quán ở An Cựu Đông, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Cả hai đều bị bắt quả tang vào lúc 17 giờ 30 ngày 21-12-1975, ngay sau khi chúng nổ sáu phát súng vào người anh Nghiêm Mạnh Chu để đoạt chiếc Honda-50 kiểu nữ”347.
Chuyện “hớt tóc ngắn, sửa quần ống loe” không chỉ do những phong trào tự phát của “Cách mạng 30-4”. Ngay từ ngày 3-5-1975, Ban Bí thư đã có Điện số 610: “Gửi: Trung ương Cục, anh Sáu, anh Bảy – Bộ Chính trị trao đổi ý kiến thấy rằng trong điều kiện ta thắng to và nhanh, gọn, thế ta mạnh, cho nên càng sớm ổn định mọi mặt càng tốt. Đối với quần chúng cơ bản phải giải thích chính sách, ổn định tư tưởng, làm cho họ tích cực hồ hởi tham gia bảo đảm trận tự an ninh… Đối với báo chí, nên có chủ trương rộng rãi, có cách lãnh đạo thích hợp, như vậy có lợi cho ta trên mặt trận dư luận rộng rãi. Đối với cách ăn mặc của dân, không nên dùng mệnh lệnh cấm đoán, làm phiền phức cho dân mà nên dùng giải thích thuyết phục, khuyên bảo để tránh những kiểu ăn mặc càn quấy, không để dân lầm lẫn rằng ta chống việc ăn mặc đẹp. (Lê Văn) Lương”.
Có những người dân Sài Gòn, khi thấy “quân Giải phóng” tràn về đã nhuộn đen quần áo của các thành viên trong gia đình. Trong những show diễn hiếm hoi sau ngày 30-4-1975, nhiều nghệ sỹ Sài Gòn lên sân khấu mà không dám trang điểm. Nhiều người nghĩ một cách chân thành, Cách mạng về là không còn son phấn và giày cao gót. Nhưng những thứ quần áo mà công điện của Ban Bí thư gọi là “lai căng” đó chỉ một thời gian ngắn sau lại trở thành sự thèm khát của những thanh niên “lớn lên dưới mái trường xã hội chủ nghĩa”.
Khi chiến tranh chưa kết thúc, ít có thanh niên miền Bắc nào có hơn hai bộ áo quần, chủ yếu bằng vải sợi xanh; ít có cô gái nào có được cái quần lụa và chiếc áo “Hong Kong” bằng vải “phin”. Sau ngày 30-4-1975, khi những cán bộ miền Nam tập kết được lần lượt về thăm quê, một số bộ đội cũng bắt đầu được xuất ngũ hoặc về phép thăm nhà. Trong cuộc họp ngày 16-6-1975, Ban Bí thư đã cho “một số ý kiến” bổ sung Chỉ thị 181 của thủ tướng, theo đó: “Việc kiểm soát sự ra vào vùng mới giải phóng cần được tăng cường chặt chẽ nhằm thỏa mãn yêu cầu của cán bộ và nhân dân đi lại thăm viếng gia đình ở miền Nam, nhưng đồng thời để phòng bọn xấu lợi dụng cơ hội để buôn lậu và phá rối trị an. Việc mang theo hàng hóa từ miền Nam ra miền Bắc phải được kiểm soát chặt chẽ, ngăn cấm bọn buôn lậu đầu cơ; nhưng mặt khác, đối với cán bộ và nhân dân cần có những quy định rõ ràng cho phép họ được mua sắm và mang theo một số đồ dùng riêng cho bản thân họ, tránh tình trạng bắt giữ lung tung, gây căng thẳng không cần thiết”. Tuy nhiên, miền Bắc lúc đó đã phải rất vất vả để chống lại những biểu hiện “văn hóa lai căng” không chỉ lây lan từ miền Nam348.
Ngay tại Sài Gòn, những người vừa được “giải phóng” đã biết dùng những biểu tượng của chế độ làm thơ ta thán về sự bất bình thường của Chế độ: “Các-mác (Karl Marx) mà đến Việt Nam / Râu dài róc rậm công an bắt liền / Các-mác cầu cứu Ăng-ghen (Angel) / Ăng-ghen cũng phải đóng tiền tóc râu / Truyền cho bốn biển năm châu / (Đến Việt Nam thì nhớ) Râu Mao Chủ tịch tóc đầu Lê nin (Lenin)349” .
Lúc đầu ông Võ Văn Kiệt cũng không hiểu tại sao người dân Sài Gòn lại không ủng hộ Cách mạng bảo vệ “thuần phong mỹ tục”. Tuy nhiên, vốn là một nhà lãnh đạo kháng chiến khá nhạy cảm trước các phản ứng của dân, ông Kiệt yêu cầu tổng biên tập Tuổi Trẻ, khi ấy là ông Võ Như Lanh, tổ chức làm sao để ông nghe được thanh niên nói thật.
Báo Tuổi Trẻ liền cho mời thanh niên thuộc các thành phần khác nhau, những người đã bị cưỡng bức cắt tóc, cắt quần, đến phòng họp của báo. Trước đó, ông Võ Văn Kiệt và Thư ký Nguyễn Văn Huấn đã đến sớm, ngồi “buông rèm” phía sau lắng nghe.
Những bức xúc, dồn nén đã được các thanh niên Sài Gòn nói ra. Họ không biết một ông “Việt Cộng gộc” cũng đang “tâm trạng” lắm khi nghe họ nói. Theo ông Võ Như Lanh, khi những thanh niên này về hết, kéo rèm ra, thấy ông Võ Văn Kiệt ngồi lặng, mặt rất đăm chiêu. Khi ấy, chưa phải là ông Kiệt đã đồng ý hoàn toàn với những “đòi hỏi” của thanh niên, nhưng ông nhận ra ngay là các giá trị văn hóa không thể được ứng xử bằng những đám đông nồng nhiệt.
Không chỉ có trong lĩnh vực chính trị, văn hóa, trên nhiều mặt của đời sống, người dân miền Nam chỉ mong có được những điều kiện sống mà họ đã có trước khi được những người anh em “giải phóng”. Ngay từ cuối thập niên 1960, trong khi ở miền Bắc xe đạp cũng rất hiếm người có mà đi, ở miền Nam người dân đã có thể sở hữu ô tô, còn xe máy hai bánh thì tới đầu thập niên 1970 đã trở thành phương tiện giao thông cá nhân phổ biến350.
Trước khi “được giải phóng”, xăng dầu phục vụ cho các loại xe có động cơ lúc nào cũng sẵn sàng. Nhưng, để thi hành Nghị định 18 của Chính phủ, ngày 12-9-1975, Ủy ban Quân quản Sài Gòn-Gia Định đã ra thông cáo về việc “cấm tồn trữ và bán xăng dầu trên thị trường tự do”. Cùng ngày, Tổng cục Vật tư ra thông báo yêu cầu đến hết ngày 18-9-1975, những ai đang tồn trữ xăng dầu đều phải khai báo và tự bảo quản cho đến ngày 19-9-1975, ngày nhà nước trưng mua toàn bộ xăng dầu. Sau ngày đó, “tư nhân mua bán, đổi chác hoặc tồn trữ xăng dầu bị coi là phạm pháp”351.
Bắt đầu ngày 29-12-1975, xăng dầu bắt đầu được cung cấp theo chế độ tem phiếu. Người dân phải “mang theo tờ khai gia đình, thẻ chủ quyền, thẻ căn cước, giấy giới thiệu của cơ quan hiện đang công tác, mang theo tiền lệ phí mỗi phiếu 0,04 đồng” để đăng ký lấy phiếu cung cấp xăng”.
Chính sách tập trung quản lý các nguồn nhiên liệu và độc quyền xuất nhập khẩu vào tay nhà nước đã làm cho tình trạng khan hiếm xăng dầu trở nên nghiêm trọng. Từ năm 1976, một phần xe cộ bắt đầu bị xếp xó vì không có nhiên liệu hoặc không có phụ tùng thay thế. Ban liên lạc công thương đã phải “hướng dẫn một số nhà tư sản công nghiệp áp dụng nhiều sáng kiến có giá trị trong sản xuất, phục vụ đời sống nhân dân”. Sáng kiến đáng chú ý nhất là việc “chế tạo thành công” một loại chất lợp với giá thành hạ được đặt tên là ca-rô-đa (viết tắt tên những nguyên liệu, vật liệu cấu tạo ra nó là cao su, rơm, đất) của một số nhà tư sản thuộc ngành chế biến cao su và nhựa dẻo. Hợp chất này có đặc tính mềm, không bắt lửa, không hút nóng, rất tiện dụng trong việc lợp nhà, làm mặt bàn, mặt giường352.
Đích thân Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt cũng phải lăn lộn ở những cơ sở chế biến than quả bàng353. Các xưởng đúc gang thì tìm tòi chế tạo những lò nấu than quả bàng bằng đất có vỏ bằng gang. Còn các nhà tư sản thuộc ngành nông lâm cơ thì đã “cải tiến thành công” xe ô tô chạy bằng than và củi: “Bộ phận lò hơi của xe ô tô chạy than củi có thể sử dụng cho các loại máy bơm nước, máy tàu, máy điện: Lâm trường La Ngà, hãng kem Péc-lông đang sử dụng loại xe cải tiến này”354.
Cùng với chính sách cải tạo trong lĩnh vực kinh doanh vận tải, sự khan hiếm nhiên liệu cũng làm thay đổi địa vị con người. Hình ảnh hành khách được các lơ xe đón tận nơi, nâng từng túi hành lý, đỡ lên những chiếc xe máy lạnh của các hãng xe đò tư nhân Liên Hiệp, Hiệp Thành, Đông Á, Đại Nam, Phi Long, Tiến Lực từng “chạy suốt” ra Bắc, chỉ mấy tháng sau ngày 30-4-1975 đã nhanh chóng biến mất.
Mỗi khi có việc đi xa, người dân phải xếp hàng từ nửa đêm ở bến xe, nhưng sáng ra cũng không chắc có thể mua được vé. Lên xe rồi còn phải chịu sự hành hạ của những chuyến xe già nua, cũ nát không có phụ tùng thay thế; đường sá xuống cấp không có kinh phí bảo trì. Vô phúc đi trên những chiếc xe “cải tiến thành công” từ chạy xăng sang chạy than, nếu may mắn tới đích, thì ngoại trừ hai con mắt, từ đầu đến chân của mọi hành khách đều bị bọc trong khói bụi.
Thêm nữa, không phải cứ có tiền là có thể đi lại. Từ ngày 4-1-1977, việc “đi lại của nhân dân và cán bộ” đều phải có giấy tờ. Đi lại trong phạm vi thành phố và các tỉnh thành phố đều phải xin phép, phải đưa giấy chứng nhận nhân khẩu thường trú và giấy căn cước hoặc giấy chứng nhận cải tạo nếu có, đến công an phường, xã trình bày lý do xin đi sẽ được xét cấp. Người đi đến các vùng bờ biển thì phải mất nhiều ngày và không chắc được cấp giấy đi đường vì chính quyền chống dân vượt biên355. Trong khi đó, trên các diễn đàn, chính quyền tiếp tục ngợi ca “những giá trị mới” mà người dân đang “được hưởng”.
“Cách mạng là đảo lộn”
Tại Sài Gòn, kể từ sau 30-4, ông Trần Bạch Đằng, với danh nghĩa là Chủ tịch Hội Liên hiệp Thanh niên Giải phóng, thường xuyên nói chuyện tại Câu lạc bộ Thanh niên Thành phố. Quan điểm của Trần Bạch Đằng lúc ấy đóng một vai trò quan trọng trong việc “định hướng thẩm mỹ Cách mạng” cho người dân miền Nam.
Trong một bài phỏng vấn đăng trên Tuổi Trẻ, Trần Bạch Đằng cho rằng “không nên có chủ trương cho thiếu nhi ca vọng cổ”. Ông nói: “Tuy vọng cổ phổ biến ở nước ta, đặc biệt ở Nam Bộ, nhưng đối với lứa tuổi nào đó, tỷ như các em nhi đồng và thiếu niên, thì vọng cổ chưa hẳn có lợi hoàn toàn trong mục đích giáo dục… Âm điệu vọng cổ thường khó gây phấn chấn và nhứt là hạn chế tập thể trong khi biểu diễn tập thể lại là hình thức biểu diễn cần khuyến khích hiên nay”356.
Theo ông Trần Bạch Đằng: “Một trong những tội ác tày trời của đế quốc Mỹ và bọn tay sai” là “phủ nhận cái đẹp chân chính, cái đẹp về nội dung, cái đẹp tinh thần” và “cổ vũ cho cái đẹp hình thức, cái đẹp giả tạo, cái đẹp vật chất đơn thuần”. Sau khi chỉ trích các mỹ viện đua nhau ra đời theo sau sự “triển khai ồ ạt của chủ nghĩa thực dân mới” tại miền Nam, ông Trần Bạch Đằng kết luận: “Nói cho cùng, chủ nghĩa thực dân mới mang đến cho một bộ phận thanh niên ta cái đẹp của người nô lệ, một cái đẹp vay mượn. Muốn giữ cái đẹp kiểu đó thì phải suốt đời mất nước, suốt đời ăn xin”. Rồi ông kêu gọi thanh niên “đi vào lao động, phát giương cái đẹp của lao động đối với thanh niên, định lại chân lý, định lại giá trị của con người”357. Ông Trần Bạch Đằng nhấn mạnh: “Đó là một cuộc cách mạng, một cuộc cách mạng rộng lớn, sâu sắc, một sự đảo lộn và là một sự đảo lộn cần thiết”358.
Cùng thời gian đó, chính quyền cho phát hành tại Miền Nam một loạt sách báo cách mạng như: Học Tập Và Làm Theo Gương bác Hồ Vĩ Đại; Sống Như Anh (viết về liệt sỹ Nguyễn Văn Trỗi); Chuyện kể về Lý Tự Trọng, một người cộng sản chết trẻ với câu nói được cho là của anh và được Đoàn sử dụng như là một tuyên ngôn: “Con đường của thanh niên chỉ có thể là con đường cách mạng chứ không còn con đường nào khác”. Đặc biệt, cuốn sách gối đầu giường của nhiều thế hệ cộng sản – Thép Đã Tôi Thế Đấy – bắt đầu được đưa đến miền Nam. Đây là cuốn tiểu thuyết từng được dịch ra bảy mươi thứ tiếng do nhà văn Nga Nikolai Alexeevich Ostrovsky viết trong thời kỳ Stalin. Nhân vật chính của cuốn sách là Pavel Korchagin, được coi là “hóa thân” của Ostrovsky.
Phương châm sống của Pavel đã được chép lại trong hàng triệu cuốn sổ tay: “Đời người chỉ sống có một lần. Phải sống sao cho khỏi xót xa, ân hận vì những năm tháng đã sống hoài, sống phí, cho khỏi hổ thẹn vì dĩ vãng ti tiện và hèn đớn của mình, để khi nhắm mắt xuôi tay có thể nói rằng: tất cả đời ta, tất cả sức ta, ta đã hiến dâng cho sự nghiệp cao đẹp nhất trên đời, sự nghiệp đấu tranh giải phóng loài người”. Thời gian đó, không ít thanh niên ngoài đời và thanh niên là nhân vật của những tác phẩm văn học mới, mỗi khi thấy “dao động”, lại ghi vào Nhật Ký: “Đồng chí Pavel ơi! ”359.
Các đoàn nghệ thuật Cách mạng, số từ trong rừng ra, số từ ngoài Bắc vào bắt đầu chiếm lĩnh các sân khấu Sài Gòn. Nhân dịp 2-9-1975, ngày Quốc khánh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, 1.300 diễn viên từ các đoàn nghệ thuật đã tập trung ở Sài Gòn chuẩn bị cho những chương trình biểu diễn mới. Đặc biệt, Đoàn Văn công Tổng cục Chính trị, Đoàn Ca Múa Quân Giải phóng, Đoàn Ca Múa Phòng Không Không quân, Đoàn Văn Công Hải quân, Đoàn Cải lương Giải phóng, Đoàn Kịch nói Nam Bộ, Đoàn Kịch nói Hà Nội… cũng bắt đầu đến Sài Gòn với các vở diễn như: Tiền Tuyến Gọi, Lam Sơn Tụ Nghĩa…
Sài Gòn cũng không còn “Nỗi Buồn Hoa Phượng” với tiếng hát Thanh Tuyền; không còn “Chuyện Một Chiếc Cầu Gãy” với Hoàng Oanh; không còn “Đêm Đông” với Bạch Yến; không còn “Tà Áo Xanh” với Lệ Thanh; không còn được “Ngậm Ngùi” với Lệ Thu và, cho dù đang bị kẹt lại, Thái Thanh cũng không còn được hát Phạm Duy, Phạm Đình Chương… Chỉ những “nghệ sỹ Ngụy” được xếp vào hàng “không chống đối cách mạng” và được Hội Văn Nghệ cho làm tự kiểm điểm mới bắt đầu được bước lên sân khấu.
“Vua vọng cổ” Út Trà Ôn tự kiểm điểm với Cách mạng: “Tôi chỉ có một khuyết điểm không sửa được là có 5 bà vợ; còn đối với Cách mạng thì tôi trong sạch”360. Chỉ một thời gian ngắn sau, Út Trà Ôn liên tục “lên sóng” với bài vọng cổ có tên “Đài Hoa Dâng Bác”. Nhờ những mối quan hệ đặc biệt, nữ nghệ sỹ Bạch Tuyết, người từng tham gia ký tên lên trái bom mà các phi công Sài Gòn mang ném ra miền Bắc, cũng bắt đầu được diễn trở lại. Những người không thực sự được nâng đỡ thì chỉ có thể bước lên các sân khấu nhỏ. “Nhạc sĩ Trịnh Lâm Ngân lập đoàn gồm Duy Khánh, Nhật Trường, Thanh Lan… bữa đói, bữa no, ngủ đình, ngủ chợ, mong được hát nhiều hơn là kiếm miếng ăn dẫu rằng ai cũng đói”361.
Ở các rạp chiếu bóng, những phim cũ cũng biến mất, nhường chỗ cho những phim của Liên Xô, Trung Quốc như: Bạch Mao Nữ, Cát Đỏ, Những Người Báo Thù Không Bao Giờ Bị Bắt… Lúc đầu, người dân Sài Gòn chưa quen những loại phim này, các rạp kêu rất dữ vì có những suất chiếu chỉ có 14-15 người xem. Người dân cũng đã phản ứng trước một số chương trình biểu diễn của các đoàn văn công miền Bắc. Theo Điện đề ngày 17-6-1975 của Ban Bí Thư, do “ông Lành” (Tố Hữu) ký gửi “anh Tư Ánh” (Trần Bạch Đằng): “Về việc các đoàn văn công biểu diễn gần đây bị quấy rối nhiều như điện anh đã báo, đề nghị các anh kiểm tra kỹ tình hình cùng cấp ủy địa phương có biện pháp tích cực ngăn chặn những hoạt động mất trật tự, phải giáo dục quần chúng”.
Chính quyền cũng nhận thấy không thể buộc người dân miền Nam phải “cai” những nhu cầu tinh thần đã gắn bó với họ hàng thập kỷ. Tuy nhiên, theo giám đốc Sở Văn hóa Thông tin Sài Gòn sau 1975, ông Dương Đình Thảo: Khi cho các nghệ sỹ diễn lại các vở cải lương ăn khách ở miền Nam như Lá Sầu Riêng, Đời Cô Lựu, lập tức có phản ứng: “Thành phố đang vui vẻ đi lên thế này sao cho diễn những tuồng rên rỉ ấy”. Nhưng khi các nghệ sỹ Sài Gòn cố gắng diễn những vở “tráng ca”, không chỉ “dư luận” mà ở bên hành lang Quốc Hội nhiều vị khá quan trọng đã than phiền, “Thành ủy TP HCM để cho ‘nghệ sỹ Ngụy’ đóng cả Hai Bà Trưng”.
Ông Võ Văn Kiệt nhớ lại, đấy không chỉ là sự ganh tị trong giới mà còn là nhận thức ấu trĩ về chính trị của khá nhiều lãnh đạo. Ông đặt câu hỏi: “Ở Sài Gòn nếu đòi hỏi người xứng đáng theo tiêu chuẩn chính trị để đóng Hai Bà Trưng thì chỉ có Bà Định; đóng Lenin thì chỉ có Bác Tôn thôi. Các anh cứ mời các vị ấy đóng xem thử có ai đi coi không?”362.
Dưới góc độ con người, những văn nghệ sỹ đến từ miền Bắc cũng có nhiều tâm trạng. Năm 1976, nhà thơ ba mươi sáu tuổi Vũ Quần Phương363 khi từ miền Bắc vào thấy “Cô ca sĩ Sài gòn hát bài hát Trường Sơn”, đã viết:
Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn
Bài hát viết từ rừng le, rừng khộp
Năm ấy Sài Gòn lô nhô cao ốc
Em chưa biết gì về rừng khộp, rừng le
Anh lên xe trời đổ cơn mưa
Mưa chưa ướt vai em khi ấy
Rau hết rồi, măng rừng anh hái
Hái măng rừng chưa có em đi
Trường Sơn đông gánh gạo rừng khuya
Cô gái ấy gánh đi, chứ em chưa biết gánh
Thuở cô ấy ở rừng em ngồi phòng máy lạnh
Cô gái ấy không về và em hát hôm nay.
Đêm Sài Gòn đỏ rực cờ bay
Trước sân khấu, tôi ngồi nghe em hát
Em tô đỏ môi son, em kẻ xanh mi mắt
Cô gái ấy ở rừng không có gương soi
Bài hát như bàn tay còn ấm mồ hôi
Em đang vịn và đi từng hồi, từng nhịp
Những vui buồn đã xa, hôm nay em mới biết
Cô gái ấy rất hiền sẽ dắt tiếp em đi.
Ông Vũ Quần Phương thừa nhận, bài thơ này đã được hình thành ngay từ những ngày đầu ông tới Sài Gòn, tháng 5-1975. Hôm ấy, tại Sài Gòn, có một cuộc gặp mặt giới văn nghệ của cả hai miền. Ông Phương, phóng viên Đài tiếng nói Việt Nam, được cử đi đón nghệ sỹ Kim Cương. Nữ sỹ Kim Cương khi ấy cũng tỏ ra giản dị, thay vì đi xe hơi riêng đã chấp nhận ngồi sau xe Honda do ông Phương chạy. Ông Phương nói với nữ sỹ: “Chị ngồi cẩn thận bởi tôi lái xe máy chưa quen”. Nghệ sỹ Kim Cương đùa: “Anh yên tâm, nếu tôi có bị gì mai anh xách chiếc xe ‘làm Kim Cương té’ này ra chợ trời bán là được giá lắm”. Ông Phương hiểu sức mạnh công chúng trong thông điệp như đùa đó của Kim Cương.
Đêm ấy, cho dù các nghệ sỹ Sài Gòn đã cố gắng ăn mặc giản dị, họ vẫn “sáng rực” hơn so với những người từ miền Bắc vào hoặc từ trong rừng ra. Nhà thơ Vũ Quần Phương nói: “Khi nghe cô ca sỹ hát bài ‘Mắc võng trên rừng Trường Sơn’, tôi nhớ tới Phạm Tiến Duật, tác giả lời thơ của bài hát đó. Khi ấy Duật đang bị kiểm điểm không biết số phận thế nào vì bài thơ Vòng Trắng. Nhưng bài thơ chỉ bật ra khi năm 1976, trong chuyến đầu tiên sau giải phóng, các văn nghệ sỹ Việt Nam được đi Liên Xô, người ta đã để ca sỹ Trường Sơn Tô Lan Phương ở lại lấy chỗ cho một ca sỹ miền Nam. Tôi hiểu cử chỉ chính trị của các nhà lãnh đạo nhưng vẫn không khỏi chạnh lòng cho những người đã hy sinh tuổi trẻ của mình. Tuy nhiên, khi viết cái kết của bài thơ, tôi vẫn theo chuẩn mực giáo dục lúc bấy giờ, ai sớm
muộn gì rồi cũng phải đi theo con đường cách mạng”. Khi ấy, không chỉ có ông Vũ Quần Phương nghĩ con đường “trở thành người tốt” cho các cô gái Sài Gòn là phải được dẫn dắt bởi các “cô gái Trường Sơn”.
Lòng người
Nhanh chóng “xóa bỏ tình trạng lạc hậu và phản động” ở miền Nam là một nỗ lực mà những người Cách mạng tin là nhân đạo. Nhưng “đôi khi, con đường đi tới địa ngục lại được đắp bởi những ý định tốt”364. Đã mất hàng chục năm sống trong rừng hoặc sống trong một xã hội khép kín, bưng bít nhưng “Cách mạng” lại quá nồng nhiệt, nôn nóng giáo dục cho những người được học hành từ những xã hội cởi mở hơn, tiếp cận với thế giới đa dạng hơn. Niềm tin và sự nhiệt tình ấy lại được hỗ trợ một cách đắc lực bởi quyền lực tuyệt đối của cả một bộ máy. Cách mạng càng hăng say, càng để lại nhiều tổn thương cả về thể chất lẫn tinh thần cho những người dân “trong vùng giải phóng”.
Cái khí thế quần chúng nhìn thấy trên đường phố và được tường thuật trên báo chí nhà nước trong những ngày ấy không phải là những gì đang diễn ra trong lòng người dân Sài Gòn, người dân miền Nam. Bà Nguyễn Thị Hoàng Bắc, khi ấy, đang dạy học ở trường Hoàng Văn Thụ, Nha Trang. Năm học 1976-1977, trong lớp bà có một học sinh, khi ấy đang học lớp 10, đã khắc mấy câu thơ lên bàn học:
Không muốn ngồi yên để đợi trông
Thích làm Từ Hải giữa muôn lòng.
Cộng lại những gì trong quá khứ,
Sản khoái trong lòng thoả ước mong
Theo bà thì không phải là học sinh này đã viết sai lỗi chính tả chữ “sảng” thành chữ “sản” mà học sinh ấy có ý định ghép bốn từ đầu ở các câu lại thành cụm từ: không thích cộng sản. Thái độ ấy có lẽ đã qua mấy năm tích tụ, nhưng hành động viết ra thì chỉ là một phút bốc đồng. Có người đã báo cáo và học sinh đó đã bị bắt, bị điều tra và bị đuổi học. Bà Nguyễn Thị Hoàng Bắc kể: “Tôi và một cô giáo đồng nghiệp khác (về sau định cư ở Canada) đã cố hết sức giúp em. Hai chúng tôi đứng trước cửa lớp giờ tan học che cho một cô giáo khác lấy dao cố cạo cho hết những nét khắc sâu vào gỗ của bài thơ nhưng có người đã nhanh tay sao chép, gửi đi cho công an. Nét khắc còn lờ mờ nhưng vẫn là bằng cớ”365.
Tôn Thất Thiện Nhân366 năm 1975 đang là một học sinh cấp III. Anh nhớ lại:
“Thay vì xách cặp tới trường, tôi đi lang thang. Tôi như một đứa trẻ không nhìn thấy
một lối thoát nào trước mặt. Những khoảng sân trường thơ mộng trở thành chỗ cho những cô cậu con cái các gia đình tập kết hoặc được điều từ ngoài Bắc vào ‘lên mặt’ với con cái của những kẻ ‘lầm đường’. Cũng những thầy cô giáo mà học trò ngưỡng mộ ngày nào giờ trở thành những con người khác, hoảng hốt, sợ sệt. Mặc dù mấy năm trước 1975, cuộc sống của Sài Gòn đã trở nên khó khăn, nhưng không phải như những gì mà người Sài Gòn đang đối diện. Hàng tuần từ trường trở về, tôi lại thấy một đồ đạc gì đó ở trong nhà biến mất. Tôi ngạc nhiên là tại sao trong suốt nhiều ngày mẹ tôi, một cô giáo, lại chỉ thay đổi một hai bộ đồ trong khi tủ quần áo của bà có hàng chục bộ đồ dài rất đẹp. Tôi chạy vào mở tủ ra thì thấy nó trống hoác. Tôi có cảm giác sẽ không bao giờ có thể khép lại trong lòng cái cánh tủ trống hoác đó”.
Cha của Nhân trước 1975 cũng là giáo viên. Do đã từng đi lính, tuy chưa phải sỹ quan nên không phải đi cải tạo, nhưng sau 1975 ông không còn được đi dạy. Ông đã phải bươn chải vô số nghề trong đó có nghề nhảy tàu lên Long Khánh mua than củi mang về Sài Gòn bán. Mấy anh em Nhân thỉnh thoảng lại ra ga đợi ông như chờ đợi một điều gì đó khác hơn ngày thường. Một hôm, hai anh em nhìn thấy cha mình, năm ấy chỉ mới gần bốn mươi tuổi, đu cạnh thành con tàu đang tiến dần vào ga, vứt bao than trước rồi nhảy xuống; không may, ông bị trượt chân. Nhìn gương mặt khắc khổ, tay chân đen đúa, bị những nhát cắt của những viên đá lót đường rày làm cho túa máu, Thiện Nhân nói: “Một cảm giác mất mát kinh khủng xâm chiếm con người tôi, hình như đó vừa là tình thương vừa là sự thất vọng về ông, về một thế hệ không còn có khả năng gượng lên được nữa”.
Không chỉ có những đứa trẻ bồng bột phản ứng bằng những câu thơ, tình cảm học trò, sự trải nghiệm “Sài Gòn giải phóng” đã giúp Đỗ Trung Quân thai nghén những vần thơ cũng đau như những nhát cắt của dao, nhưng nó không được dại dột khắc xuống mặt bàn để bàn tay học trò phải nhận cây còng số 8. Năm 1982, Đỗ
Trung Quân viết bài Tạ Lỗi Trường Sơn367. Bài thơ cho thấy một góc nhìn của người dân Sài Gòn với những người đã “giải phóng mình”:
Một ngàn chín trăm bảy mươi lăm
Các anh từ Bắc vào Nam
Cuộc trường chinh 30 năm dằng dặc
Các anh đến
Và nhìn Sài Gòn như thủ đô của rác
Của xì ke, gái điếm, cao bồi
Của tình dục, ăn chơi
“Hiện sinh-buồn nôn-phi lý!!!”
Các anh bảo con trai Sài Gòn không lưu manh cũng lính ngụy
Con gái Sài Gòn không tiểu thư khuê các, cũng đĩ điếm giang hồ
Các anh bảo Sài Gòn là trang sách “hư vô”
Văn hóa lai căng không cội nguồn dân tộc
Ngòi bút các anh thay súng
Bắn điên cuồng vào tủ lạnh, ti vi
Vào những đồ tiêu dùng mang nhãn Hoa Kỳ
Các anh hằn học với mọi tiện nghi tư bản
Các anh bảo tuổi trẻ Sài Gòn là “thú hoang”
Nổi loạn / Là thiêu thân ủy mị, yếu hèn
Các anh hùa nhau lập tòa án bằng văn chương
Mang tuổi trẻ Sài Gòn ra trước vành móng ngựa!!!
…
Những người được sinh ra không đúng cửa
Năm 1975, Đỗ Trung Quân hai mươi mốt tuổi, anh đang học năm thứ hai khoa Sử-Địa, Đại học Văn Khoa. Khi Sài Gòn “giải phóng” anh phải nghỉ học vì Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp cần thời gian để “sửa đổi chương trình, nội dung và phương pháp đào tạo, đặc biệt chú trọng các môn khoa học xã hội, sao cho phù hợp với phương hướng tiến lên thống nhất dần với hệ thống giáo dục xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc”368.
Vì “công tác giáo dục ở miền Nam sau ngày giải phóng” được Ban Bí thư coi là “nhiệm vụ cấp thiết số một”, nên ngay trong ngày 17-6-1975, Tố Hữu đã ký hai chỉ thị, 221 và 222; một đưa ra các quy định cho bậc học phổ thông, một cho bậc đại học và trung học chuyên nghiệp. Chỉ thị do Tố Hữu ký cho thấy Ban Bí thư coi giáo dục là “cấp thiết số một” và muốn “nhanh chóng xóa bỏ tình trạng lạc hậu do chính sách ngu dân và nô dịch của chế độ phản động Mỹ-Ngụy để lại”.
Chỉ thị 221 về ý nghĩa chính trị đã thúc đẩy việc xóa nạn mù chữ cho không ít người dân, nhất là ở giai đoạn “hồ hởi phấn khởi” ban đầu của Cách mạng. Ngay khi vừa “giải phóng”, Chính quyền Sài Gòn-Gia Định “hạ quyết tâm” trong năm 1975 sẽ xóa mù chữ cho 250.000/500.000 người mà Cách mạng ước tính là mù chữ. Công việc này “giữ được khí thế” cho tới tháng 9-1975 với 1.596 lớp bình dân và 53.498 học viên. Tuy nhiên, không chỉ là một chính sách với dân, chương trình “bổ túc văn hóa” này đã góp phần tạo ra một đội ngũ cán bộ sẽ đi rất xa trong Đảng.
Cũng kể từ ngày 17-6-1975, Ban Bí thư có chủ trương “đối với trường tư ở vùng giải phóng”, theo đó: “Hạn chế và cải biến từng bước, tiến tới xóa bỏ hẳn các trường tư cùng với đà cải tạo xã hội. Từ đầu năm học 1975-1976 không cho phép các tôn giáo, các đoàn thể chính trị phản động, các ngoại kiều mở trường tư, không cho phép các trường tư đào tạo giáo viên phổ thông. Các tư nhân muốn mở trường tư phải xin phép chính quyền cách mạng”. Ngay trong năm học 1975-1976, 1.087 trường tư ở Sài Gòn-Gia Định đã bị “công lập hóa”. Chỉ thị 221 cũng quy định: “Đối với đội ngũ giáo chức của Mỹ, ngụy đã đăng ký và xin làm việc với chính quyền cách mạng, nói chung đều được thu nhận, giáo dục và sử dụng, trừ những phần tử phản động mà cơ quan an ninh xác nhận không nên cho tiếp tục dạy, những phần từ có sinh hoạt đồi trụy bị học sinh và nhân dân phản đối”369.
Những học trò miền Nam có lẽ đã khá phấn khởi khi Ban Bí thư chỉ thị: “Nay bỏ học phí trong tất cả các trường đại học và chuyên nghiệp của Nhà nước”. Thế nhưng, học phí rồi chỉ là một phần vô cùng bé nhỏ. Hàng trăm nghìn sinh viên miền Nam đã phải “dở dang đèn sách” vì Ban Bí thư “sửa đổi cơ cấu ngành học”. Theo đó: “Cần cải tạo về cơ bản các ngành khoa học xã hội (luật, văn, triết…) trước khi mở lại các khoa này. Đối với số học sinh đang học luật, văn, triết cần có kế hoạch chuyển sang học các ngành có yêu cầu lớn như sư phạm và kỹ thuật, kinh tế. Đối với các ngành khoa học xã hội, năm học 1975-1976 chưa tuyển sinh” (Chỉ thị 222). Ngay cả điều này cũng chỉ là những trắc trở tạm thời – nếu như sinh viên của các ngành khoa học xã hội có “lý lịch rõ ràng” thì họ cũng có thể xoay xở học xong nếu muốn.
Chỉ thị 222 của Ban Bí thư đặt ra yêu cầu: “Qua con đường bổ túc văn hóa và tuyển sinh mà cải biến nhanh chóng thành phần giai cấp trong học sinh đại học và chuyên nghiệp, tích cực tạo điều kiện cho các chiến sĩ quân giải phóng, cán bộ cách mạng, con em nhân dân lao động được vào học ngày một đông và chiếm đại đa số trong các trường đại học và chuyên nghiệp ở miền Nam. Cho các học sinh miền Nam đã tốt nghiệp lớp 10 ở miền Bắc và có gia đình ở trong Nam về học tại các trường đại học ở miền Nam. Giáo dục, bồi dưỡng và sử dụng các thầy giáo do chế độ cũ để lại, đồng thời đưa một số thầy giáo, nhất là các thầy giáo quê ở miền Nam đang công tác ở miền Bắc, có trình độ chuyên môn khá, có phẩm chất chính trị tốt, bổ sung vào đội ngũ các thầy giáo của các trường ở miền Nam để làm nòng cốt”.
Trên tinh thần chỉ đạo đó, thanh niên được chia làm “13 đối tượng” để xét tuyển sinh vào đại học. Các đối tượng được ưu tiên nhận vào đại học và trung học chuyên nghiệp gồm “anh hùng dũng sĩ các lực lượng vũ trang nhân dân, bộ đội, thương binh, thanh niên xung phong, cán bộ cách mạng, con của các liệt sĩ, con em các gia đình có công với cách mạng, con em các dân tộc ít người, con em miền Nam đã tốt nghiệp lớp 10 ở miền Bắc về Nam học, công nhân và những người lao động chân tay khác…”. Ngoài ra: “Trừ những phần tử phản động, tất cả nam nữ công dân, có lý lịch rõ ràng, có các điều kiện quy định về tuổi, bằng cấp và sức khỏe đều được quyền nộp đơn xin thi tuyển vào các trường đại học và trung học chuyên nghiệp”.
Một số “đối tượng” được quyền nộp đơn, nhưng có được đi học ngay cả khi đã thi đỗ đại học hay không lại còn tùy thuộc vào quan điểm của các ban tuyển sinh về mức độ rõ ràng của lý lịch. Tính “giai cấp” thể hiện qua lý lịch đã làm tan vỡ biết bao giấc mơ của những thanh niên lớn lên sau năm 1975.
Nhiều gia đình miền Nam, trên thực tế, bị đặt ở thứ hạng 14, 15370. Nếu như các gia đình “Ngụy” coi sự phân biệt ấy là những gì phải chịu trong “cuộc bể dâu”, thì đối với nhiều thanh niên, việc Cách mạng không cho vào đại học như là “một cái tát tai nghiệt ngã… Như một thân cây đang vươn lên khao khát đón ánh nắng cuộc đời thì bị bẻ cụt ngọn”371.
Chỉ thị của Ban Bí thư từng được nhiều cơ sở Đảng thi hành theo hướng tùy tiện siết chặt hơn. Phan Vĩnh Hiệp, quê ở xã Nhơn Thọ, huyện An Nhơn, Nghĩa Bình, là học sinh giỏi vật lý cấp quốc gia nhưng vẫn bị chính quyền xã giữ lại không cho đi thi ở Tiệp Khắc. Năm sau, Hiệp thi đậu vào Đại học Bách Khoa với số điểm đủ đi học nước ngoài, địa phương vẫn không cho học chỉ vì cha Hiệp, ông Phan Vĩnh Long, đã bỏ Đảng trong đợt “tố cộng” năm 1954 của Chính quyền Ngô Đình Diệm.
Nguyễn Mạnh Huy, phường Lê Hồng Phong, Thành phố Quy Nhơn, tốt nghiệp cấp III năm 1981. Cũng năm ấy, Huy thi đỗ vào Bách khoa Đà Nẵng với số điểm 26,5 (Á khoa) trong khi điểm chuẩn chỉ cần 17 điểm. Thay vì có thể thực hiện ước mơ, Huy nhận được lời thông báo lạnh lùng ở Ban Tuyển sinh Tỉnh: “Không được đi học vì cha chết trận”. Như hàng triệu thanh niên miền Nam khác, cha của Huy cũng đã bị “động viên” ngay sau khi “rớt tú tài”. Năm 1965, khi Huy lên hai, cha anh, một trung úy bộ binh, đã dẫm phải mìn và chết. Mẹ Huy là thư ký đánh máy cho Sở Thông tin. Tuy là con “sỹ quan ngụy”, nhưng kể từ năm hai tuổi, Huy chủ yếu lớn lên trong nhà ông nội, vốn là một đảng viên thời kháng Pháp, ngoài ra Huy còn có một người cậu và một người dì đi tập kết. “Cuộc đời tôi, việc học của tôi bị chặn ở đây sao?”, nhật ký ngày 25-11-1981 của Huy viết.
Năm 1982, Nguyễn Mạnh Huy chọn một trường ít đòi hỏi về lý lịch hơn: Đại học Nông Nghiệp IV; kết quả: 22,5 điểm, vượt xa điểm chuẩn. Nhưng bức điện đánh từ Ban Tuyển sinh vẫn cứ lạnh lùng: “Không được đi học vì cha chết trận”. Nhật ký ngày 6-1-1983 của Huy ghi: “Một người có quyền dự báo một tương lai đen tối, nhưng bất hạnh nhất khi tự khẳng định nó là một sự thật bất biến”.
Chàng thanh niên nặng bốn mươi ký Nguyễn Mạnh Huy từ đó đi làm thợ mộc kiếm sống nhưng vẫn nhắc mình: “Đừng buông súng khi còn sức chiến đấu”. Thế rồi cho đến sát ngày thi của năm 1983, vì quá “nôn nao, bứt rứt”, Nguyễn Mạnh Huy lại nộp đơn thi vào Sư Phạm Quy Nhơn, được 18,5 điểm trong khi điểm chuẩn chỉ là 12. Lần này thì Huy không buồn đi xem kết quả nữa.
Ông Võ Văn Kiệt nhìn nhận: “Khắc phục những hậu quả do chế độ cũ để lại đã khó, nhưng khắc phục những cái do chế độ mới sinh ra lại còn khó hơn”. Chuẩn bị Đại hội Đoàn Thành phố lần thứ Nhất, Ông Kiệt nói với nhà báo Thép Mới, lúc ấy đang cộng tác như một người viết diễn văn cho ông: “Tại sao hồi Đảng còn hoạt động bí mật mình không phân biệt, tại sao hồi đó mình vận động cả con em địa chủ, con em tư sản, con em các quan chức trong chế độ Sài Gòn… để giờ đây khi có chính quyền trong tay mình lại phân biệt! Nếu cứ kéo dài tình trạng này thì tới bao giờ thanh thiếu niên mới có thể hòa hợp được với nhau?”. Theo ông Phạm Văn Hùng, thư ký của Võ Văn Kiệt: “Trong khi trao đổi, ông Võ Văn Kiệt gần như buột miệng nói, ‘Không ai chọn cửa sinh ra’, làm cho cả ông Thép Mới và chúng tôi đều rất thích thú”.
Tuy nhiên, trong vấn đề “lý lịch”, tư duy theo kiểu ông Kiệt là rất “thiểu số”. Ông Kiệt nói: “Tôi suy nghĩ rất nhiều, nhưng biết thay đổi không phải là việc giản đơn vì đó là nhận thức và tính nguyên tắc của cả hệ thống”. Ngày 3-7-1977, tại Đại hội Đoàn Thành phố lần thứ Nhất, Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt phát biểu: “Thế hệ trẻ đang lớn lên ở Thành phố ta, ra đời từ những hoàn cảnh xã hội khác nhau, chịu ảnh hưởng tinh thần và tín ngưỡng khác nhau. Không ai chọn cửa mà sinh ra. Đối với mỗi người trẻ tuổi đang bước vào đời, chúng ta nhìn họ như nhau, cùng là những người chủ tương lai của Thành phố. Xã hội muốn tuổi thanh xuân không mặc cảm và rất thanh thản trong tâm hồn…”. Ông kêu gọi: “Xã hội phải đối xử công bằng với tất cả lớp người trẻ đi lên với xã hội này, ai ai cũng có nghĩa vụ và quyền lợi như nhau… Chúng ta lấy thực tâm, thực học, thực tài làm tiêu chuẩn, không để quá khứ ràng buộc tương lai mà hạn chế chí tiến thủ và hoài bão cống hiến của mỗi người trẻ tuổi”.
Phát biểu này của ông Võ Văn Kiệt đã không được ngay cả báo chí dưới quyền của ông đăng tải. Mãi tới hai tháng sau, báo Tuổi Trẻ mới cho đăng lá thư của “bạn đọc” Nguyễn Kỳ Tâm, nói về những bế tắc của anh vì lý lịch372 để sau đó, ngày 30- 9-1977, báo Tuổi Trẻ cho đăng tuyên bố “không ai chọn cửa sinh ra” mà ông Võ Văn Kiệt đã nói tại Đại hội Đoàn vào ngày 3-7-1977. Tổng Biên tập Tuổi Trẻ từ năm 1977, ông Võ Như Lanh, thừa nhận: “Tòa soạn phải dành thời gian cân nhắc để chuẩn bị vì khi ấy không khí phân biệt lý lịch rất căng thẳng, mặc dù ông Kiệt nói vậy, nhưng Thành đoàn vẫn rất gay gắt. Thành ủy thì ngoài ông Kiệt, không có ai công khai nói gì”. Ông Võ Văn Kiệt, với vai trò hạn chế của một nhà lãnh đạo địa phương, cũng chỉ có thể xử lý vấn đề lý lịch ở tầm vụ việc373. Biết bao trường hợp vì lý lịch mà không được tới trường khi cái đúng chỉ mới tùy thuộc vào ứng xử cá nhân chứ chưa trở thành chính sách.
“Cánh cửa” Thanh niên Xung phong
Từ tháng 8-1975, ông Võ Văn Kiệt đã giao cho Thành đoàn tổ chức một lực lượng thanh niên xung phong đi “thí điểm” khai khẩn đất hoang. Cuối năm ấy, ông Võ Văn Kiệt triệu tập Ban Thường vụ Thành đoàn đến nhà riêng ông Phan Minh Tánh, bí thư Trung ương Đoàn Thanh niên Cách mạng miền Nam. Vào họp, ông Kiệt giao nhiệm vụ: “Thành phố cần một lực lượng, lực lượng đó là thanh niên xung phong. Giao Thành đoàn đứng ra tổ chức, cần Thành ủy hỗ trợ gì, Thành ủy sẽ đáp ứng”. Ông giải thích: “Phải tạo ra một môi trường để mọi thanh niên đều có thể tham gia lao động để có suy nghĩ tích cực và để hãnh diện về bản thân mình”.
Ông Võ Ngọc An năm ấy ba mươi mốt tuổi, đang là ủy viên Thường vụ Thành đoàn phụ trách báo Tuổi Trẻ, nhớ lại: “Lúc đó, nghe ông Kiệt nói cảm thấy như đang nghe một điều gì đó thật thiêng liêng”. Sau cuộc họp ấy, ông Võ Ngọc An lãnh trách nhiệm huy động tiền bạc để may hàng ngàn bộ đồng phục xanh.
Hàng chục năm sau, nhiều người dân Thành phố nhớ tới ngày 28-3-1976, không chỉ vì tính hoành tráng của cuộc biểu dương lực lượng ở sân vận động Thống Nhất với một “rừng người” áo xanh, tay cầm cuốc xẻng, mà ở cách mở đầu bài nói chuyện của một bí thư cộng sản. Thay vì, “các đồng chí” như cách xưng hô thống trị thời bấy giờ ở trên mọi diễn đàn, ông Võ Văn Kiệt đã làm nhiều thanh niên ứa nước mắt khi nói: “Các em đoàn viên, thanh niên yêu quý!”.
Trong số hàng vạn thanh niên có mặt hôm ấy không chỉ có con em Cách mạng. Theo yêu cầu của ông Võ Văn Kiệt, Thành đoàn đã vận động được cả những thanh niên nghiện xì ke, ma túy, có người đã từng là “đĩ, điếm”, có người là “lính ngụy”. Theo ông Võ Ngọc An, trong số ấy có một đại úy Sài Gòn, cha anh đã từng bị giết nhầm bởi “Việt Cộng”. Những thanh niên ấy, từ sau ngày 30-4, thông qua cách cư xử của các cán bộ phường, thông qua những ngôn từ cao ngạo trên báo đài, biết được thân phận của mình, dám mong chi có ngày một ông bí thư gọi mình là “các em yêu dấu”.
Với tư cách là một nhà lãnh đạo Đảng, ông Võ Văn Kiệt cũng nói về truyền thống theo cách của mình: “Tôi cũng xin phép được bày tỏ với lứa tuổi hai mươi của đất nước đã hết đau thương và từ đây thẳng đường đi tới chủ nghĩa xã hội với tất cả tấm lòng trìu mến và kỳ vọng thiết tha của những lớp thanh niên nối tiếp nhau đã từng tham gia khởi nghĩa Nam Kỳ, cách mạng Tháng Tám…”. Ông nói tiếp: “Lý tưởng của họ, ước mơ của họ chính là hiện tại mà hôm nay các em đang sống. Nếu các em sau này có điều kiện ôn lại kỹ càng một giai đoạn cách mạng hùng vĩ đã qua của dân tộc, các em sẽ biết thương yêu vô hạn Tổ quốc Việt Nam nghìn lần yêu dấu. Các em sẽ mạnh lên gấp bội vì một niềm tin ở nhân dân và đất nước”.
Bài diễn văn được chấp bút bởi nhà báo Thép Mới, một người viết tùy bút nổi tiếng, tác giả của bài “Tre Việt Nam” in trong sách giáo khoa được thuộc lòng bởi nhiều thế hệ. Tinh thần của ông Võ Văn Kiệt, có lúc, được ông Thép Mới thể hiện với giọng văn nồng nàn. Ông Võ Văn Kiệt, lúc này, vẫn để cho Thép Mới sử dụng hình tượng Pavel, hình tượng về một thế hệ quên mình để “tạo lập nên nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên”. Tuy không hùng hồn như ông Trần Bạch Đằng, nhưng cái đẹp của thanh niên theo ông Kiệt vẫn là lao động374. Kết thúc bài diễn văn, ông Kiệt nói: “Chúng tôi xin nhiệt liệt chào mừng những lớp công dân xã hội chủ nghĩa của thành phố chúng ta từ đây nối tiếp nhau nẩy nở và trưởng thành trên những công trường lao động tình nguyện. Chúc các em thành công thắng lợi, trên trận tuyến mới, trận tuyến lao động vinh quang”.
Không có mặt ở sân vận động Thống Nhất sáng 28-3-1976, nhưng giáo sư trung học Trần Ngọc Châu vẫn chịu ảnh hưởng bởi bài diễn văn. Năm ấy, ông Châu nằm trong toán vận động thanh niên đi thanh niên xung phong của Quận đoàn I. Ông Trần Ngọc Châu kể: “Bài diễn văn của ông Võ Văn Kiệt được quay ronéo, chúng tôi cho họp dân ở phường, đọc những đoạn cảm động nhất”.
Theo ông Trần Ngọc Châu thì khi ấy, phường đoàn cũng có chuyện, họ lập danh sách và thường xuyên bắt tập trung những thanh niên chưa có công ăn việc làm, khiến nhiều người bất mãn. “Cộng sản” và “đồng chí” là những khái niệm rất xa cách và có khi là ác cảm với thanh niên, cho nên theo ông Châu: “Nhiều người chỉ vì thấy ông bí thư cộng sản gọi họ là em mà đi. Có người học thuộc nhiều đoạn trong bài diễn văn của ông Võ Văn Kiệt”. Ông Châu trước đó là giáo viên Anh văn, đã có bằng cao học triết, thế nhưng sau một thời gian đi vận động người khác, chính ông Châu cũng nhận ra con đường để trụ lại trong chế độ tốt nhất là phải “chọn cánh cửa” này375.
Nguyễn Nhật Ánh376 cũng đã chọn thanh niên xung phong như là một con đường để giải tỏa áp lực nặng nề của lý lịch. Sau ngày 30-4-1975, ông hàng xóm làm thợ mộc ở phường Nhật Tảo, Quận 10, bố của ba cô con gái khá xinh mà sinh viên Nguyễn Nhật Ánh dạy kèm, bỗng nhiên trở thành chủ tịch khóm, về sau là chủ tịch phường. Nguyễn Nhật Ánh, khi ấy vừa học xong chương trình đệ nhất cấp ở Đại học Sư phạm, được ông thợ mộc đưa lên phường lo việc giấy tờ. Theo “tinh thần Chỉ thị 222”, năm 1976, anh được phép tốt nghiệp sau khi học thêm tám tháng “chính trị”. Tuy nhiên, Ánh không được phân công công tác chỉ vì cha anh lúc đó đang phải đi “học tập” do từng là trưởng Ty Thông tin Chiêu hồi Tỉnh Quảng Tín377.
Nguyễn Nhật Ánh trở về phường Nhật Tảo khi cô con gái ông chủ tịch đã trở thành bí thư Phường Đoàn. Cô bí thư chiếu cố thầy giáo cũ của mình, mỗi khi có “phong trào” lại gọi Nguyễn Nhật Ánh vác loa đi đọc bản tin hoặc kẻ lên tường những câu khẩu hiệu “xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Đổi lại, anh có thù lao mười ký gạo mỗi tháng. Nguyễn Nhật Ánh cũng tiếp cận bài diễn văn của ông Võ Văn kiệt thông qua những lần đi vận động thanh niên xung phong. Anh kể: “Khi mọi người đi hết, tôi chợt nhận ra, không lẽ mình cứ ăn bám bà dì hoài, năm 1977, tôi cũng lên đường”.
Chỉ huy Lực lượng Thanh niên xung phong khi ấy là ông Võ Viết Thanh. Năm 1975, khi ông Võ Văn Kiệt cần một sỹ quan trẻ biệt phái sang thanh niên xung phong, Đại úy, Tiểu đoàn trưởng Võ Viết Thanh đã được chọn. Ông Thanh nhớ lại: “Khi xuống U Minh, tôi cũng hơi suy nghĩ, đang là một sỹ quan được quân đội trọng dụng, giờ ra nằm giữa rừng, gian khổ không kém chi thời chiến”.
Thanh niên xung phong thuộc nhiều thành phần, có người là tướng cướp, có người xuất thân là trí thức, sỹ quan, nhưng chủ yếu là thanh niên học sinh. Theo ông Võ Viết Thanh, họ chịu đựng gian khổ không thua gì những chiến binh. Giữa rừng U Minh, giữa Chiến khu Dương Minh Châu… mùa mưa thì nước ngập mênh mang, mùa khô thì phải chia từng giọt nước ngọt, ăn không đủ no, rồi thì đỉa, vắt và đủ thứ bệnh tật, nhưng chỉ có một thứ thuốc lá duy nhất để chữa là “xuyên tâm liên”. Thế mà họ đã sống với nhau không câu nệ quá khứ. Đa phần đều trưởng thành. Ông Võ Viết Thanh thừa nhận, chính ông cũng phải dần dần mới “bắt được nhịp sống với họ”. Ông Thanh nói: “Hơn sáu vạn con người không biết Cách mạng là gì, chỉ nghe lời ông Sáu Dân mà kiên gan, bền bỉ”.
Một năm sau ngày phát động “phong trào thanh niên xung phong”, tại cuộc gặp mặt những “đại biểu thanh niên xung phong tiên tiến”, ngày 3-3-1977, ông Võ Văn Kiệt đã gọi thanh niên xung phong là một “trường đại học”. Ông Kiệt cho rằng sở dĩ các chàng trai cô gái đã “trưởng thành trên nhiều mặt” là vì họ đã “thấy được tiền đồ tương lai của mình nằm trong tiền đồ, tương lai của đất nước, dân tộc… Nhiều đồng chí đã xác định với tình cảm và lý trí sâu sắc lao động là vinh quang”378.
Môi trường thanh niên xung phong ở thời điểm ấy đúng là đã tạo ra không ít câu chuyện kỳ diệu379. Trước “giải phóng”, Vũ Hoàng Vi là một tướng cướp. Lúc đầu, Vi chỉ định “trà trộn” vào lực lượng thanh niên xung phong như là một nơi để trốn. Nhưng tung tích của Vũ Hoàng Vi bị tổ chức phát hiện. Anh không những không bị bắt mà còn được vận động thuyết phục. Lần đầu tiên, Vi nhận ra có một nơi tôn trọng mình, anh lao động tốt, được tuyên dương, được cho đi học, được đưa lên làm đại đội trưởng và về sau còn được kết nạp Đảng.
Trong những bài phát biểu với thanh niên xung phong về sau, ông Võ Văn Kiệt vẫn tiếp tục gọi họ là “các em”. Nhưng khi phát biểu với những “thanh niên tiên tiến”, ông đã gọi họ là “đồng chí”. Trong một đại hội thanh niên tiên tiến khác, ông Võ Văn Kiệt đã đưa một đội viên vốn là một tay anh chị nổi tiếng, “Bảy Đầu Bò”, ngồi chung trên ghế chủ tịch đoàn với mình.
Nếu như trong những ngày đầu, nhiều thanh niên miền Nam hết sức dị ứng với cách Cách mạng xưng hô với nhau, thì ở thời điểm ấy “đồng chí” lại là một sự thừa nhận mà nhiều thanh niên tìm kiếm.
Năm 1977, Nguyễn Nhật Ánh đang tham gia đào kênh Ba Gia ở Hố Bò, Phú Hòa. Lúc này anh đã có nhiều tác phẩm đăng trên tờ Tuổi Trẻ, nhưng với lý lịch cha là trưởng ty “chiêu hồi”, anh vẫn không được kết nạp Đoàn. Khi ấy, thanh niên xung phong ở trong những lán tranh, vách nứa, một bên là nơi ngủ của nam, một bên là nữ; phần giữa lán kê những bộ bàn ghế tạm do chính họ làm. Một buổi tối, chi đoàn nhóm họp nơi khoảng giữa lán có kê bàn ghế đó. Đang họp, một người trong Ban Chính trị Liên đội phát hiện ra Nguyễn Nhật Ánh đang nằm chèo queo trên giường, lập tức “phần tử chậm tiến” Nguyễn Nhật Ánh bị đuổi ra ngoài. Hôm ấy mưa, trời tối như bưng, Nguyễn Nhật Ánh phải đi ra, lang thang giữa rẫy khoai mì, mặt ướt đẫm vì nước mưa và nước mắt. Anh nhớ lại: “Tôi có cảm giác như bị đẩy ra khỏi đồng loại”. Nhưng cho dù cảm giác về thời đại mới ra sao thì Nguyễn Nhật Ánh cũng không có lựa chọn nào khác là phải “quay vào”, phải chứng tỏ mình là một thanh niên tiên tiến.
Ngày 26-3-1978, mười hai giờ đêm, ông Võ Văn Kiệt lên, Nguyễn Nhật Ánh, Trần Ngọc Châu và nhiều thanh niên khác được gọi dậy: bên ngoài, đuốc được đốt lên và nhiều thanh niên của chế độ cũ, trong đó có Trần Ngọc Châu, từ đêm ấy, “vinh dự được đứng trong hàng ngũ của Đoàn”. Theo ông Trần Ngọc Châu: “Ông Võ Văn Kiệt đến, mặc bộ đồ thanh niên xung phong, đầu đội nón tai bèo, đứng lên đánh trống. Hình ảnh một ông Kiệt sừng sững đã đọng lại trong ký ức của lực lượng thanh niên xung phong”. Ông Châu nói: “Khi ấy, vào Đoàn là thiêng liêng lắm”.
Đoàn thiêng liêng lắm, nhưng “ánh đuốc” trong đêm ấy không thể rọi sáng đến tất cả mọi người. Cũng như Trần Ngọc Châu, Nguyễn Nhật Ánh đã dùng cuốc chim, cuốc đá ong đào kênh cho đến khi hai tay tóe máu mà vẫn không được vào Đoàn chỉ vì cha là “Ngụy”. “Cánh cửa thanh niên xung phong” mà ông Kiệt thiết lập vẫn không đủ rộng cho các thanh niên miền Nam bước vào chế độ mới.
“Nổi loạn”
Nhiều thanh niên xung phong về sau vẫn nhớ về những ngày chặt cây rừng và hát tráng ca. Trong những ngày có quá nhiều người mất phương hướng ấy, phải công nhận là ông Võ Văn Kiệt đã tìm được một phương thức hiệu quả để thu hút thanh niên.
Họ đã bước vào những chuẩn mực chính trị mới do Cách mạng thiết lập, ít nhiều bằng cảm hứng. Không phải tự nhiên mà những gót son Sài Gòn bị đưa đến chốn rừng thiêng, đạp gai rừng ấy đã không trách gì ông. Họ cũng đã đi bởi niềm tin. Nhưng bộ đồng phục thanh niên xung phong không thể che hết lòng mặc cảm, bởi mặc cảm không xuất phát từ nơi mà những người thanh niên đó được sinh ra. Sự mặc cảm xuất hiện do chế độ thiết lập quá nhiều hàng rào lý lịch. Khi mà những hàng rào ấy chưa được gỡ bỏ thì đồng phục cũng không tạo ra được cảm giác đồng đội, cho dù họ ngủ cùng lán, đứng cùng hàng, chưa kể những người khi ấy vẫn ở “ngoài xã hội”380.
Sau “giải phóng”, Cư xá Bắc Hải, Quận 10 trở thành nơi ở của những gia đình sỹ quan cao cấp của Cách mạng. Gia đình một số tướng, tá của “chế độ cũ” vẫn sống “xôi đỗ” ở đây. Con em các gia đình cách mạng đương nhiên là “nòng cốt”. Nguyễn Thế Dũng là một thanh niên như vậy.
Dũng là con trai của Đại tá Nguyễn Thế Truyện, người được coi là “con hùm xám” khi còn là tư lệnh Sư 9. Đại tá Truyện hy sinh trong chiến dịch Mậu Thân khi tấn công đợt II vào Sài Gòn. Khi ấy ông Truyện là tư lệnh Phân khu I. Sau ngày 30-4-1975, vợ con của Đại tá Truyện được đưa về Sài Gòn sống trong căn nhà T10, Cư xá Bắc Hải. Trong những năm cuối thập niên 1970, Nguyễn Thế Dũng là phó bí thư phường đoàn, được giao đi vận động, cảm hóa con em sỹ quan “chế độ cũ”.
Cô “tiểu thư” Lê Bích Thúy ở nhà T4, con gái Trung tá Lê Văn Dương, trưởng Phòng Quân sử, Quân lực Việt Nam Cộng hòa là một trong những “đối tượng” của Dũng. Nhưng cuối cùng người bị “cảm hóa” lại là Dũng. Hai người, một là con trai vị tư lệnh khét tiếng của cộng sản, một là con của một “ngụy quân” đang bị cải tạo trong tù, yêu nhau và kiên quyết lấy nhau. Mẹ Dũng khóc lên, khóc xuống. Phu nhân các đồng đội cũ của Đại tá Nguyễn Thế Truyện, lúc bấy giờ đa số đã là tướng, khuyên bà quả phụ phải phá bằng được cuộc hôn nhân. Nhưng Nguyễn Thế Dũng dứt khoát không chịu, anh sang nhà người yêu nói với bà mẹ: “Má chịu gả thì con cưới chứ nhà con không ai chịu sang đâu”. Bà phu nhân Trung tá Lê Văn Dương chỉ biết gật đầu lặng lẽ.
Chị ruột của Nguyễn Thế Dũng là nhà báo Nguyễn Thế Thanh, sau là tổng biên tập báo Phụ Nữ Thành phố, chạy lên cầu cứu ông Võ Văn Kiệt. Nghe xong, ông Kiệt nói: “Mình dạy người khác không phân biệt, mình cố gắng để vợ con người ta đừng thù hận mà mình làm như thế sao người ta quên”. Rồi ông bảo: “Kêu hai đứa lên đây tao gặp”. Thế Thanh về kêu Dũng chở người yêu lên. Ông Võ Văn Kiệt tiếp hai người hết sức thân tình rồi, khi Dũng đi ra vườn, ông Kiệt hỏi Lê Bích Thúy: “Cháu có lường hết những khó khăn khi lấy Dũng không?”. Bích Thúy: “Dạ thưa, cháu yêu Dũng, cháu biết nhưng cháu chọn anh ấy”. Ông Kiệt: “Nhỡ khi đi học tập về, ba cháu không chịu thì sao?”. Bích Thúy: “Dạ không, ba cháu rất thương cháu, cháu tin là không có chuyện đó, nhưng nếu ba cháu không chịu thì cháu sẽ đấu tranh”. Ông Kiệt cho gọi Dũng vào hỏi: “Cháu có băn khoăn gì không?”. “Không!”, Dũng dứt khoát. Ông Kiệt nói: “Cháu lấy con một sỹ quan chế độ cũ thì không tránh khỏi bị nghi kỵ, bác không phải lúc nào cũng ở bên các con”. Rồi ông nói với hai đứa trẻ: “Giờ bác Sáu thay mặt ba, bác ủng hộ tụi bây”. Sau đó, ông Võ Văn Kiệt gặp bà quả phụ Đại tá Nguyễn Thế Truyện và ông chỉ dặn: “Thôi chuyện mấy đứa nhỏ chị cứ để cho tụi nó tính”.
Năm 1982, khi Trung tá Lê Văn Dương được tha về, con gái ông đã có con với con trai một người cộng sản. Ông chủ động qua nhà T10 gặp bà đại tá nói: “Tôi đi học không biết là hai nhà chúng ta đã thành thông gia, âu cũng là số phận lịch sử. Tôi đi, cũng học được nhiều điều, bác trai đã hy sinh, hai gia đình gặp nhau trong tình thông gia thế này cũng là điều tốt”. Rồi khi thắp hương cho Đại tá Nguyễn Thế Truyện, Trung tá Lê Văn Dương khấn: “Thưa bác, tôi là Lê Văn Dương cha của con dâu bác, xin thắp nén nhang này báo với bác, chúng ta giờ là thông gia của nhau”.
Tình yêu tự thân nó không phân chia lý lịch. Nhiều cuộc tình thanh niên xung phong cũng chịu ngang trái, có người cũng may mắn như Nguyễn Thế Dũng và Lê Bích Thúy nhưng cũng có những cuộc tình trắc trở. Cuối năm 1978, Đại úy Quân y Sài Gòn, Bác sỹ Thiều Huỳnh Chí đi học tập trở về, ông lên trình diện Sở Y tế và được đưa về Duyên Hải làm trạm trưởng y tế cho một đơn vị thanh niên xung phong, Nông trường Đỗ Hòa.
Vốn là một bác sỹ ngoại khoa nhưng ở đấy ông Thiều Huỳnh Chí đã tự thiết kế từ chiếc ghế nhổ răng, cái hố xí hai ngăn và nổi tiếng khắp vùng với tài đỡ đẻ. Bác sỹ Chí đã quyết định ở lại trong khi vợ ông đưa các con đi vượt biên. Giám đốc Nông trường lúc ấy là chị Võ Thị Bạch Tuyết, nguyên là một chỉ huy của phong trào đốt xe Mỹ, bị tra tấn và bị đày ra Côn Đảo nhiều năm. Những ngày làm việc bên nhau đã xích bác sỹ Thiều Huỳnh Chí và Giám đốc Võ Thị Bạch Tuyết lại gần nhau. Nhưng tình yêu của họ đã không được Thanh niên Xung phong ủng hộ.
Đảng ủy Thanh niên Xung phong kiên quyết không cho hai người lấy nhau vì Bác sỹ Chí không những là “ngụy” mà còn là một “người Việt gốc Hoa”. Ông Phan Minh Tánh nói: “Tôi hay xuống làm việc với cô Tuyết, tôi hiểu hoàn cảnh của cô ấy. Thành ủy chúng tôi ủng hộ nhưng Thanh niên Xung phong không chịu”. Sau đó, ông Mai Chí Thọ cho mời Thường vụ Đảng ủy Thanh niên Xung phong lên, hỏi họ theo cách rất Năm Xuân: “Nó (chị Bạch Tuyết) lớn tuổi lại bị tra tấn không sinh nở được, giờ không cho nó lấy chồng vậy trong tụi bây có ai lấy nó không?”.
Nhà văn Nguyễn Đông Thức, thuộc lớp thanh niên xung phong đầu tiên của Nông trường Đỗ Hòa, kể: “Trước hôm đám cưới, ông Võ Văn Kiệt, khi ấy đã ra Hà Nội làm phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, đã về, xuống nông trường ngủ lại một đêm và chung vui với họ”381.
Nhưng đám cưới của một nữ giám đốc nông trường và một “đại úy ngụy” đã không tạo ra tiền lệ. Năm 1982, Đảng ủy Thanh niên Xung phong lại ngăn cản cuộc hôn nhân của Nguyễn Nhật Ánh với Trần Thị Tiếng Thu. Tiếng Thu lúc ấy đang là phó Phòng Chính trị Lực lượng Thanh niên xung phong. Bốn ngày sau khi hội nghị chi bộ Cơ quan Lực lượng “biểu quyết khai trừ ra khỏi Đảng”, “cô dâu” Trần Thị Tiếng Thu đã viết đơn gửi Ban Tổ chức Thành ủy. Đơn của Tiếng Thu khai: “Vào khoảng giữa năm 1981, tôi và đồng chí Nguyễn Nhật Ánh đặt vấn đề tìm hiểu nhau để đi đến hôn nhân. Sau đó đã chính thức báo cáo với Đảng ủy và chi bộ cơ quan (đồng chí Nhật Ánh là thanh niên xung phong hiện công tác tại Phòng Chính trị)”. Đơn của Tiếng Thu cho biết: “Trong nửa năm qua, Đảng ủy và chi bộ đã nhiều lần thuyết phục tôi cắt đứt mối quan hệ này. Đồng chí bí thư Đảng ủy, hầu hết các
đồng chí trong Đảng ủy đã lần lượt gặp tôi. Sau đó, trong phiên họp chi bộ thường kỳ vào tháng 2-1982, chi ủy đã mang vấn đề của tôi ra kiểm điểm, nội dung: đồng chí Nguyễn Nhật Ánh tuy là một đồng chí tốt, nhưng đồng chí có người cha trước đây làm việc cho chế độ cũ với mức độ như thế thì đứng về mặt lập trường giai cấp, một đảng viên không thể chung sống với một gia đình như vậy… Đồng thời, chi bộ cũng kiểm điểm tôi về việc trước khi tìm hiểu đồng chí Nguyễn Nhật Ánh, tôi đã không xin ý kiến trước, để bây giờ đặt tổ chức vào một việc đã rồi”.
Lá đơn của Trần thị Tiếng Thu viết tiếp: “Trong phiên họp tháng 2 và phiên họp tháng 6 vừa qua, chi bộ đã đặt tôi vào hoàn cảnh phải chọn lựa: một là Đảng, hai là tôi sẽ tiếp tục xây dựng gia đình với đồng chí Nguyễn Nhật Ánh. Tôi đã khẳng định là tôi sẽ tiếp tục xây dựng gia đình với đồng chí Nguyễn Nhật Ánh, nhưng điều đó không có nghĩa là tôi đã chọn lựa, tôi không bao giờ có ý định rời bỏ Đảng”.
Quyết tâm của đôi lứa yêu nhau đã không dễ dàng để thành hiện thực. Cho dù là công dân, hai người có quyền đăng ký kết hôn, nhưng vì Trần Thị Tiếng Thu đang là người của lực lượng Thanh niên Xung phong, chính quyền địa phương chỉ cho phép đăng ký khi có xác nhận của lực lượng nơi chị đang đăng ký hộ khẩu tập thể. Trong khi đó, Phòng Tổ chức Lực lượng không chịu xác nhận thường trú một khi không có chấp thuận của Đảng ủy.
Tháng 10-1983, Trần Thị Tiếng Thu đành phải thực hiện quyền công dân của mình bằng cách: chị viết một lá đơn xin “xác nhận hộ khẩu” để “bổ túc hồ sơ xin đăng ký xe”. Phòng Tổ Chức đã xác nhận cho chị. Nhưng, chữ “xe” đã được hai người yêu nhau âm mưu viết sao để sau khi ký về sửa thành chữ “kết” và “bổ túc” thêm chữ “hôn”, đăng ký xe thành “đăng ký kết hôn”. Sau đám cưới, ngày 30-5- 1984, Trần Thị Tiếng Thu đã nhận được quyết định kỷ luật “cảnh cáo”. Căn cứ để Phó Bí thư Thành ủy Phan Minh Tánh ký quyết định này là: “Xét thấy đồng chí Thu còn non kém về quan điểm lập trường và thiếu ý thức tổ chức kỷ luật trong việc xây dựng gia đình”.
Không chỉ vượt qua những định kiến của chế độ mới dũng cảm bảo vệ tình yêu lứa đôi, rất nhiều người trong số họ đã chiến đấu để bảo vệ giang sơn vì tình yêu tổ quốc. Hàng ngàn thanh niên xung phong đã ra chiến trường khi Pol Pot giết thường dân ngoài biên giới. Theo nhà báo Trần Ngọc Châu, năm 1977-1978, khi chiến tranh Biên giới Tây Nam nổ ra, rất nhiều người xung phong ra tiền tuyến nhưng không phải ai cũng được chọn. Ngày 14-6-1978, 500 nam nữ thanh niên xung phong thuộc Liên đội 5 được điều ra biên giới, “phối thuộc” Sư đoàn 7, Quân đoàn IV, với nhiệm vụ cáng thương, tải đạn, làm đường, chống lầy, bốc xếp đạn dược, khâm liệm và chôn cất liệt sĩ. Đoạn đường mà Liên đội 5 đảm trách chỉ dài hơn 10km, nhưng lún, lầy rất nặng; thanh niên xung phong phải thường xuyên san lấp, chèn cây nhiều lớp, công việc vô cùng gian khổ.
Chiều 21-7-1978, Trung đội 3 được giao bám sát bộ đội đang vận động tấn công Khmer Đỏ. Trung đội có một tiểu đội nữ do Đại đội Trưởng Ngô Đức Minh trực tiếp chỉ huy, di chuyển lên chốt chặn gần ngã ba Koky Som. Rạng hôm sau, ngày 22-7- 1978, một tiểu đoàn Khmer Đỏ, trên đường luồn sâu vào phía sau mặt trận, đã chạm trán Trung đội 3. Trận đánh – giữa một bên là những tên lính Khmer Đỏ hung hãn với một bên là những thanh niên chưa có một ngày được huấn luyện chiến đấu và vũ khí thì chỉ có vài người được trang bị – đã biến thành một cuộc thảm sát. Khi lực lượng Sư đoàn 7 kịp đến bao vây và tấn công, tiêu diệt toàn bộ chín mươi sáu tên Pol Pot, thì bọn chúng đã kịp giết chết hai mươi bốn người: Xác Đại đội trưởng Ngô Đức Minh bị đốt; bảy cô gái thanh niên xung phong bị hãm hiếp trước khi bị giết giã man. Chỉ có hai người – Nguyễn Thị Lý và Nguyễn Văn Tuấn – là sống sót, nhờ được xác của đồng đội đè che, sau khi cả hai đều bị thương rất nặng.
Tin hai mươi bốn đồng đội bị thảm sát được truyền đi trong toàn lực lượng. Cái chết của họ không làm các nam nữ thanh niên xung phong run sợ cho dù thanh niên xung phong phục vụ chiến trường khi ấy chưa được trang bị súng đạn hay bất cứ vũ khí gì để tự vệ. Họ ở phía sau. Nếu bộ đội phía trước bị bật chốt hay bị tiêu diệt thì số phận tiếp theo là chính họ. Khi nghe tin Trung đội 3 của Liên đội 3 bị thảm sát, nhà thơ Đỗ Trung Quân – khi ấy đã rời Tòa soạn báo Tuyến Đầu, nhận nhiệm vụ ở một đơn vị Thanh niên xung phong phối thuộc Trung đoàn Gia Định – đã viết “Những bông hoa trên tuyến lửa”. Nhận được bài thơ, từ tòa soạn báo Tuyến Đầu, Cao Vũ Huy Miên viết thư tay gửi theo xe quân sự gửi Quân: “Lực lượng triệu tập, có hội diễn văn nghệ thanh niên xung phong. Ông xin phép rồi tìm xe bộ đội về thẳng Sài Gòn. Mong gặp ở Nhà Văn Hóa Thanh Niên”.
Từ Campuchia, lúc này được gọi là “Chiến trường K”, Đỗ Trung Quân theo xe bộ đội, về tới Thành phố sau ba ngày đường dò dẫm qua những Phum Sóc không còn bóng người và thỉnh thoảng lại gặp mìn gài lại của tàn quân Pol Pot. Sau gần hai năm nhìn lại những ánh đèn Thành phố, mắt cay cay, Quân chen qua đám đông, bước vào Nhà Văn Hóa Thanh Niên. Anh nhìn thấy ở đó những “chiến sỹ văn công Tổng đội”: Ánh Hồng, Ánh Thu, Trương Tam Sa, Hoàng Tuấn, Kiều Nga, Kiều Giang… Cao Vũ Huy Miên đón Quân sau cánh gà: “Tôi tưởng ông không về kịp…”.
Quân bước ra sân khấu, đặt chiếc ba lô xuống chân. Bộ đồng phục đã bị bụi đường nhuộn màu nâu đỏ. Đỗ Trung Quân năm ấy, một gã trẻ tuổi đeo kính cận, tóc tai bờm xờm, chỉ kịp giới thiệu mình bằng bài thơ vừa viết:
Ở giữa rừng đâu có gương soi
Làm sao em thấy được vết bầm trên má
Chuyến tải thương về mấy lần trượt ngã
Vì mùa mưa nào đã chịu dứt ở đây
Anh bộ đội thương binh vừa tỉnh lại sáng nay
Đã hỏi thăm em, người cáng thương đêm trước
Cô ấy ngã mấy lần tôi đếm được
Mà sao không khóc mới lạ lùng
Chắc anh hiểu rồi em ở tấm lòng
Nước mắt chỉ dành cho người ngã xuống
Nên dù té đau gai rừng tê chân buốt
Đâu để vết thương anh rỉ máu hai lần
Em là người thanh niên xung phong không-có-súng-chỉ-có-đôi-vai-cáng- thương-tải-đạn…
Theo ông Võ Viết Thanh, nếu ông Võ Văn Kiệt không kiên quyết thì lực lượng thanh niên xung phong đã không được trang bị súng. Sau những cái chết đau đớn của các đội viên, nhiều vị lãnh đạo vẫn sợ: “Giao vũ khí cho chúng à?”. Ông Võ Viết Thanh kể, khi đưa Lực lượng lên rừng, nhiều người vẫn lo “cái đội quân xô bồ, ô hợp ấy mà tan ra thì hậu quả không biết thế nào”. Tổng cộng đã có 5.000 lượt thanh niên xung phong tham gia phục vụ Chiến trường đánh Khmer Đỏ.
Ngoài ông Bảy Thanh, không phải nhà “lãnh đạo lực lượng” có “cầm cờ, đứng tên” nào cũng “có một ngày đi với anh em” để biết sự tàn bạo của quân Pol Pot. Khi được trang bị vũ khí, những thanh niên phục vụ chiến trường này đã chiến đấu như những đơn vị quân sự thật sự. Chính những đội viên thanh niên xung phong xuất thân từ những người lính chế độ cũ, từng được coi là “Ngụy”, giờ ấy đã tổ chức huấn luyện cấp tốc cho đồng đội về chiến thuật, về cách sử dụng vũ khí để đánh lại kẻ thù. Nhiều người trong số họ đã hy sinh anh dũng. Ông Trần Ngọc Châu cho biết: “Công việc làm đường, tải thương và tiếp đạn đôi khi còn nguy hiểm hơn những người chiến đấu. Trung đội tôi quân số 50 thanh niên xung phong, có 30 người chết”.
Năm 1982, khi tờ Tuyến Đầu của Thanh niên Xung phong bị lực lượng giải tán, Nguyễn Nhật Ánh, Đỗ Trung Quân, Trần Ngọc Châu, Nguyễn Đông Thức… trở về. Bộ đồng phục xanh lá cây đã làm họ thay đổi rất nhiều sau khi thấm bằng mồ hôi và cả máu. Thanh niên xung phong là tấm giấy thông hành đem lại ít nhiều kiêu hãnh cho những người có nó. Chế độ mới đã coi những tấm giấy ấy như một chứng chỉ hoàn thành cuộc sát hạch vinh quang. Hơn sáu vạn giáo sư, bác sỹ, sinh viên, thanh niên lẽ ra có thể dành những năm đẹp nhất của cuộc đời mình để cống hiến cho xã hội những gì mà họ thành thạo nhất. Vậy mà, để được chế độ thừa nhận, họ đã phải xuống biển, lên rừng, bàn tay chai sần đi và kiến thức chuyên môn thì mai một.
“Sài Gòn lại bắt đầu ghẻ lở”
Nhiều thanh niên “ngụy” đã bước qua cánh cửa Cách mạng thanh niên xung phong rồi được trọng dụng hơn trong chế độ. “Nước sông công lính” đã giúp khai hoang phục hóa hàng vạn hecta đất trong các vùng chiến tranh; đào được hàng trăm kilomet kênh mương. Nhưng, không phải con kênh nào cũng thực sự có ý nghĩa về thủy lợi; không phải cánh rừng nào bị tàn phá cũng để phục vụ quốc kế dân sinh.
Ngày 3-3-1977, khi nói chuyện tại Đại hội Thanh niên Xung phong Tiên tiến, ông Võ Văn Kiệt biểu dương: “Trong năm qua các đồng chí đã cất được hàng chục vạn nhà, đào hàng ngàn giếng, đốn và chặt hàng triệu cây, phát hoang hàng trăm mẫu, đã góp công góp sức vào việc hoàn thành trên ba mươi xã trong số tám mươi xã kinh tế mới”.
Thế nhưng, đến cuối năm, ngày 12-12-1977, trong lễ ra quân trên “Đại Công trường Thủ công” xây dựng khu kinh tế mới Dương Minh Châu, ông đã cảnh báo họ: “Đất nước còn nghèo, sống hôm nay phải nghĩ tới ngày mai, các em cần bảo nhau hết sức quý trọng… từng tấc đất và mọi tài nguyên của tổ quốc! Phải rèn giữ cho nhau từ bỏ thói quen xả láng, phung phí rất xa lạ với con người mới… Tôi dặn các em chớ thấy cây rừng mà chặt bừa bãi. Cành cây chặt xuống đừng để vương vãi, các em chịu khó thu nhặt lại, dành dụm được ít củi cho thành phố”.
Sau hai năm lên rừng để dọn sạch những “rác rưởi” của chiến tranh, mỗi lần trở về thành phố vẫn thấy “nhan nhản những đám thanh niên tiếp tục sống bám vỉa hè, nhởn nhơ bên lề xã hội, giết thời gian bằng cách lê la tiệm quán, hết đi lượn phố lại tụ năm tụ ba ở những nơi công cộng”, nhiều thanh niên xung phong đã không khỏi nhìn lại những năm tháng đi xa xây dựng chế độ mới của mình. Tại “Lễ mừng 46 năm thành lập Đoàn”, 26-3-1978, ông Võ Văn Kiệt nói: “Nhiều em cũng viết thư cho tôi tỏ ý bất bình… Nhiều bạn trí thức sống lâu năm ở thành phố này cũng nói với chúng tôi: Cảnh đó trước đây nhìn mãi quen mắt, không ai để ý đến nữa, tưởng đời sống thanh niên thành phố vốn nó là như thế. Đến bây giờ không sao coi được. Tôi rất muốn gặp các anh em đó, hỏi các em nghĩ gì về cuộc đời này, nghĩ gì về cuộc đời bản thân của các em”.
Ông Kiệt muốn những người “lê la tiệm quán” ấy phải tự đặt câu hỏi về tương lai của mình. Nhưng các “em thanh niên xung phong” viết thư cho ông Kiệt không chỉ để chất vấn những người “chậm tiến” ấy. Điều khiến họ hy sinh những năm tháng xa người thân, xa đèn điện là để kiến tạo một thành phố mới chứ không phải để thấy rồi những “tàn dư Mỹ Ngụy” lại vẫn cứ quay về. Sáu vạn thanh niên rời Thành phố đi xa, và sửa mình theo hướng mà Cách mạng cho là tích cực. Trong khi đó, bốn triệu thường dân khác vẫn có nhu cầu để sống một đời sống bình thường.
Nếu như năm 1975, 1976, những văn nghệ sỹ miền Bắc khi đến Sài Gòn vẫn thích đeo bên hông khẩu K54, thì những năm về sau, họ đã biết uống bia, biết áo phông, quần bò. Theo Đỗ Trung Quân, bài thơ Tạ Lỗi Trường Sơn, ngoài sự dồn nén sau bảy năm “giải phóng”, còn lập tức “bật” ra thành chữ khi có một nhà văn miền Bắc, đến trước mặt anh chỉ đôi dép sa-bô, cái quần bò đang mặc và hỏi: “Ê Quân, thấy bọn này Sài Gòn chưa?”.
Khi ấy, năm 1982, Đỗ Trung Quân viết:
Bảy năm qua đi với nhiều buồn vui đau xót
Một góc phù hoa ngày cũ qua rồi
Những con điếm xưa có kẻ đã trở lại làm người giã từ ghế đá công viên để sống đời lương thiện
Những gã du đãng giang hồ cũng khoác áo thanh niên xung phong lên rừng xuống biển
Tìm lại hồn nhiên cho cuộc sống của mình
Cuộc đổi thay nào cũng nhiều mất mát, hy sinh…
Và khi ấy
Thì chính “các anh”
Những người nhân danh Hà Nội
Các anh đang ngồi giữa Sài Gòn bắt đầu chửi bới
Chửi đã đời
Chửi hả hê
Chửi vào tên những làng quê ghi trong lý lịch của chính mình
Các anh những người nhân danh Hà Nội sợ đến tái xanh
Khi có ai nói bây giờ về lại Bắc!!!
Tội nghiệp những bà mẹ già miền Bắc
Những bà mẹ mấy mươi năm còng lưng trên đê chống lụt
Những bà mẹ làm ra hạt lúa
Những năm thất mùa phải chống gậy ăn xin
Những bà mẹ tự nhận phần mình tối tăm
để những đứa con lớn lên có cái nhìn và trái tim trong sạch
Bây giờ
Những đứa con đang tự nhận mình “trong sạch”
Đang nói về quê mẹ của mình như kẻ ngoại nhân
Các anh
đang ngồi giữa Sài Gòn nhịp chân
đã bờm xờm râu tóc, cũng quần jean xắn gấu
Cũng phanh ngực áo, cũng xỏ dép sa bô
Các anh cũng chạy bấn người đi lùng kiếm tủ lạnh ti vi, casette, radio…
Rượu bia và gái
Các anh ngông nghênh tuyên ngôn “khôn & dại”
Các anh bắt đầu triết lý “sống ở đời”
Các anh cũng chạy đứt hơi
Rượt bắt và trùm kín đầu những rác rưởi Sài Gòn thời quá khứ
Sài Gòn 1982 lẽ nào…
Lại bắt đầu ghẻ lở?
…
Tội nghiệp em
Tội nghiệp anh
Tội nghiệp chúng ta những người thành phố
Những ai ngổn ngang quá khứ của mình
Những ai đang cố tẩy rửa “lý lịch đen”
Để tìm chỗ định cư tâm hồn bằng mồ hôi chân thật
Xin ngả nón chào các ngài
“Quan toà trong sạch”
Xin các ngài cứ bình thản ăn chơi
Bình thản đổi thay lốt cũ
Hãy để yên cho hàng me Sài Gòn
Hồn nhiên xanh muôn thuở
để yên cho xương rồng, gai góc
Chân thật nở hoa
Này đây!
Xin đổi chỗ không kỳ kèo cho các ngài cái quá khứ ngày xưa
Nơi một góc (chỉ một góc thôi)
Sài Gòn bầy hầy, ghẻ lở
Bây giờ…
Tin chắc rằng trong các ngài đã vô số kẻ tin vào “thượng đế”
Khi sống hả hê giữa một thiên đường
Ai bây giờ
Sẽ
Tạ lỗi
Với Trường Sơn?
321 Từ tháng 8-1975 đổi tên thành đường Điện Biên Phủ.
322 Uaz một thương hiệu xe nổi tiếng của Liên Xô, ra đời từ năm 1941.
323 Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Khóa IV.
324 Khu ủy Sài Gòn-Gia Định.
325 Nay là đường Lê Duẩn.
326 Sài Gòn Giải Phóng, 22-1-1976.
327 Tố Hữu, Ta Đi Tới, in trong tập thơ Việt Bắc, xuất bản năm 1954.
328 Hiện định cư ở Orange County, California, Mỹ.
329 Lúc ấy là phó chủ tịch kiêm giám đốc Công an Thành phố.
330 Tin Sáng, 16-9-1975.
331 Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh, cuốn I, Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Thành phố.
332 Sau đổi tên thành Nhà hát Thành phố.
333 Sài Gòn Giải Phóng, 5-8-1975.
334 Báo cáo kết quả điều tra di dân tự do vào Thành phố Hồ Chí Minh, Viện Kinh tế, tháng 9-1997, trang 8.
335 Báo cáo kết quả điều tra di dân (trang 5) ghi những người đi kinh tế mới trong khoảng 1989-1995 chủ yếu là tự nguyện.
336 Sài Gòn Giải Phóng, 25-5-1975.
337 Sài Gòn Giải Phóng, 25-5-1975.
338 Sài Gòn Giải Phóng, 25-5-1975.
339 Không chỉ tuần hành thị uy ngoài đường, trong khí thế đó, các thanh niên bảo vệ Văn hoá còn dự định sẽ vào tận từng nhà để truy tìm, dẹp bỏ các văn hoá phẩm xấu. Tuy nhiên, theo ông Dương Đình Thảo, Giám đốc Sở Văn Hóa thông tin, sau chuyến công tác nước ngoài trở về, ông Thảo đã góp ý với ông Võ Văn Kiệt và đặc biệt với Trưởng Ban Tuyên huấn Trần Trọng Tân, để “chiến dịch bài trừ văn hoá” không lan vào các nhà dân.
340 Sài Gòn Giải Phóng, 1-6-1975.
341 Sài Gòn Giải Phóng, 4-6-1975.
342 Ông và gia đình vượt biên năm 1978.
343 Nay là đường Phan Đình Phùng.
344 Về sau, khi cuộc sống khó khăn, chúng được mang ra bán ở chợ sách Đặng Thị Nhu.
345 Theo lời kể của ông Nguyễn Diên Hồng, con trai cụ Nguyễn Đức Phong.
346 Sài Gòn Giải Phóng, 30-10-1975.
347 Sài Gòn Giải Phóng, 25-12-1975.
348 Từ Đông Đức trở về, quần áo mà ông Lê Xuân Nghĩa mang theo cũng là quần loe vì nó đang là “mốt của toàn thế giới”. Một hôm, ông đang đạp xe giữa đường phố Hà Nội thì bị công an ách lại và ngang nhiên rạch cả hai ống quần từ gấu đến ngang hông. Tức tối, ông Nghĩa về cơ quan là Ủy ban Vật Giá để nhờ giúp phản đối chuyện can thiệp thô bạo. Nhưng, cả lãnh đạo cơ quan và Bí thư Đảng ủy đều cho rằng công an làm thế là đúng. Chủ nhiệm Ủy Ban Vật giá, ông Tô Duy nhận xét: “Cái quần nó loe thì đầu óc nó cũng loe”. Tuy, ít nơi chính thức ban hành những “mệnh lệnh cấm đoán”; nhưng, nếu như các mệnh lệnh thường có giới hạn thì các “phong trào” lại không có điểm dừng, nhất là khi các đoàn viên “hồng vệ binh” được huy động để chống những “kiểu ăn mặc càn quấy” ấy. Nhiều nơi, những người mặc quần loe, để tóc dài đã bị các đoàn viên, có nơi bị công an, giữ lại dùng dao, kéo cắt quần, cắt tóc giữa đường (Theo Đặng Phong, Tư Duy Kinh Tế Việt Nam). Ông Phan Minh Tánh, Bí thư Đoàn Thanh niên Cách mạng miền Nam kể, khi ra Hà Nội ông thấy, ở cơ quan Trung ương Đoàn cũng có bảng “không tiếp thanh niên mặc quần loe để tóc dài”.
349 Mao không có râu còn đầu Lenin thì không có tóc.
350 Tính đến cuối năm 1974, ở miền Nam Việt Nam có 258.514 xe, gồm: 35.384 xe vận tải nặng; 64.229 xe du lịch; còn các xe máy dầu, xe gắn máy 2-3 bánh thì không tính hết vì chính quyền miền Nam không buộc các xe dưới 49cc phải đăng ký. Chỉ riêng Sài Gòn năm 1974 đã có 599.215 xe gắn máy, 3.025 xe taxi, 1.270 xích lô máy, 5.348 xích lô đạp. Tổng số xe công của các cơ quan và các đoàn ngoại giao có trên toàn miền Nam đến năm 1974 là 973.624 xe.
351 Sài Gòn Giải Phóng, 17-9-1975.
352 Sài Gòn Giải Phóng, 7-10-1976.
353 “Ngày 26-5-1976, trong cơn mưa bão tầm tã, đồng chí Võ Văn Kiệt, phó bí thư Thành ủy Đảng Lao động Việt Nam, chủ tịch Ủy ban nhân dân Cách mạng thành phố Hồ Chí Minh, đã đi xem cơ sở biến chế than quả bàng, nhằm giải quyết tốt vấn đề chất đốt cho nhân dân thành phố. Miền Nam trước kia rất dồi dào than củi. Nhưng từ khi đế quốc Mỹ tiến hành chiến xâm lược, bằng chính sách khai quang, dùng chất độc hủy hoại cây cối, khiến các rừng đước, rừng vẹt ở rừng Sác, Cà Mau, nơi cung cấp than củi cho nhân dân thành phố bị hủy diệt trên một quy mô rộng lớn, vấn đề chất đốt trở thành mối bận tâm lớn của nhân dân thành phố. Đồng bào phải dùng điện, dầu hôi hoặc hơi đốt để nấu ăn, như thế rất tốn kém. Hoặc phải dùng than hầm, củi của các rừng miền đông cũng rất đắt, lại thiếu vệ sinh. Đồng thời, cũng phí phạm rất nhiều cây gỗ, là nguồn tài nguyên quý báu của đất nước. Để giải quyết tình trạng trên, Đảng bộ và Ủy ban Thành phố đã chỉ thị cho các ngành chuyên môn phải khẩn trương nghiên cứu, tìm biện pháp giải quyết. Và lần đầu tiên, than quả bàng được phổ biến cho nhân dân dùng và được hoan nghinh như một loại chất đốt tiện lợi và tốt. Than quả bàng làm bằng than đá từ miền Bắc gởi vào, trộn với đất, rồi dùng máy ép lại cho chặt và phơi (hoặc sấy) khô. Trước hết, giá thành rất rẻ, chỉ bẳng từ 1 phần tư đến 1 phần ba giá than củi trên thị trường. Một gia đình 5 người ăn, nấu 2 bữa cơm và 3 món thức ăn chỉ tốn mỗi ngày khoảng 1kg than quả bàng, trị giá độ 7 xu (tức 35 đồng tiền cũ)” (Sài Gòn Giải Phóng, 28-5-1976).
354 Sài Gòn Giải Phóng, 7-10-1976.
355 “Người xin đi đem giấy chứng nhận nhân khẩu thường trú và thẻ căn cước đến công an phường, xã; Làm một đơn trình bày lý do xin đi (mẫu đơn đã in sẵn xin tại văn phòng công an phường, xã); Làm một bản tự khai (mẫu in sẵn tại văn phòng công an phường, xã); Công an phường, xã xác nhận đơn và tờ khai chuyển lên công an quận, huyện xét cấp. Thời gian xét cấp chậm nhất là ba ngày”. Đi các vùng biên giới, hải đảo, trên biển: “Người xin đi phải đem giấy chứng nhận nhân khẩu thường trú và thẻ căn cước đến công an phường, xã; Làm một đơn trình bày lí do xin đi (mẫu đơn in sẵn tại văn phòng công an phường, xã); Công an phường, xã xác nhận đơn và bản tự khai chuyển lên công an quận, huyện và chuyển lên Sở Công an thành phố xét cấp. Thời gian xét cấp sẽ được giải quyết trong vòng ba ngày”. Đi các tỉnh phía Bắc: “Người đi đem giấy chứng nhận nhân khẩu thường trú và thẻ căn cước đến Công an phường, xã; Làm một đơn trình bày lí do xin đi; Làm một bản tự khai (mẫu in sẵn tại văn phòng công an phường, xã); Công an phường, xã xác nhận đơn và bản tự khai chuyển lên công an quận, huyện xét duyệt cấp; Riêng đối với cán bộ, công nhân viên nhà nước chỉ cần có giấy phép và giấy giới thiệu của cơ quan (không phải làm đơn, không phải làm bản tự khai, đem tới Sở Công an thành phố sẽ được xép cấp)” (Sài Gòn Giải Phóng, 21-1-1977).
356 Tuổi Trẻ, 3-2-1976.
357 Trần Bạch Đằng nói: “Chúng ta quan niệm đẹp từ bản chất. Đó là luân lý dân tộc và đó cũng là quan điểm khoa học. Tuyệt đại đa số thanh niên chúng ta hiểu cái đẹp trong tư thế chiến đấu, trong động tác xung phong đánh giặc dũng cảm, trong tư thế đĩnh đạc trước hiểm nguy và trước mặt kẻ thù. Người ta có thể dựng tượng một thanh niên cắp lê phóng vào giặc Mỹ hoặc một thanh niên ưỡn ngực trước dùi cui của bọn cảnh sát ngụy nhưng không một nghệ sĩ nặn tượng nào hứng thú về một anh thanh niên tóc xấp xỏa ngang vai, quần áo nửa xanh nửa đỏ in đầy chữ quảng cáo pepsi cola, lái honda lượn nghinh ngang trên đường phố...”. Ông Trần Bạch Đằng kết luận: “Luân lý của chế độ cũ nhồi nắn cho chúng ta cái ý thức làm ít hưởng nhiều, sự khôn ngoan là biết cách không làm gì hết mà vẫn sống phè phỡn, học hành cốt chọn một nghề gì ít mất sức nhất mà hưởng lợi nhiều nhất. Luân lý phản động ấy đã tạo cho một số thanh niên ghét nắng, kỵ mưa, mù sương không ưa… Giữ cái mịn màng của làn da hơn là giữ độc lập, tự do của dân tộc và phẩm giá, tiết trinh của chính bản thân” (Trần Bạch Đằng, luận về cái đẹp, lược ghi, đăng trên báo Tuổi Trẻ ngày 7-5-1976).
358 Theo ông Võ Ngọc An, người phụ trách thời kỳ đầu của báo Tuổi Trẻ, hầu hết những bài báo “đánh tư sản mại bản”, dạy dỗ “Ngụy quân, Ngụy quyền” mà các báo đăng đều được lấy từ những tài liệu do Ban Tuyên huấn soạn sẵn và cung cấp. Ban Tuyên huấn Miền đến năm 1976 vẫn còn hoạt động, Trưởng Ban là ông Nguyễn Văn Linh và Phó Ban là ông Trần Bạch Đằng.
359 Xem Nhật ký Lý Mỹ, chương III - Đánh tư sản.
360 Theo Kim Hạnh, nguyên cán bộ Hội, tổng biên tập Tuổi Trẻ (1981-1991).
361 Theo ca sỹ Khánh Ly.
362 Dương Đình Thảo, trả lời phỏng vấn tác giả.
363 Bác sỹ Vũ Quần Phương được đào tạo trên miền Bắc, nhưng ông không phải là đảng viên vì có một người chú ruột di cư vào Nam.
364 Nguyên văn "the road to hell is paved with good intentions", bắt nguồn từ câu viết nổi tiếng L'enfer est plein de bonnes volontés et désirs của Thánh Bernard xứ Clairvaux
365 Trao đổi với tác giả qua email.
366 Tên thật của nhà thơ Thận Nhiên.
367 Mãi tới năm 2009 Đỗ Trung Quân mới công bố bài thơ này trên blog.
368 Chỉ thị 222 ngày 17-6-1975 của Ban Bí thư.
369 Trong Chỉ thị 222, Tố Hữu viết: “Trước hết, chúng ta cần nhận thức đầy đủ và sâu sắc rằng thầy giáo và học sinh ở các trường đại học và chuyên nghiệp ở miền Nam là những người con của dân tộc Việt Nam, là nạn nhân của một nền giáo dục nô dịch và phản động của Mỹ và tay sai, chúng ta phải có trách nhiệm giáo dục đầy đủ để họ nhanh chóng trở thành những người công dân trí thức yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội”.
370 Ông Phan Lạc Phúc viết: “Khi tôi đi cải tạo con gái út tôi mới có năm tuổi. Khi tôi về nó đã mười lăm tuổi bắt đầu thiếu nữ. Các chị nó “vượt biên” hết cả chỉ còn nó ở lại với “mẹ cháu” đợi tôi. Khi tôi về, nó theo tôi đi chơi tha thẩn. Ở Hóc Môn nó không có bao nhiêu bạn. Nó theo tôi lên Sài Gòn chơi với Tr. T. con gái Thanh Tâm Tuyền, hay “đi chợ” với chị Ch. con gái bác Hà Thượng Nhân. Thôi thì bố chơi với bố, con chơi với con cũng là phải đạo. Chưa được gặp nhưng con tôi nó muốn gần chị G., con gái đầu của Tô Thùy Yên. G. học thật giỏi. Trong một xã hội Xã hội Chủ nghĩa (không có giai cấp) nhưng khi thi vào đại học có 15 thứ hạng. Ưu tiên hạng 1,2,3 thuộc gia đình cách mạng hay “chính sách” thì, thi 3 bài từ 7 điểm trở lên đã được “chiếu cố” vô Đại học rồi. Con gái “ngụy quân” như chúng tôi đứng hạng thứ 14 áp chót (hạng chót là gia đình phản động, phản cách mạng). Khi bố đi tù cải tạo về rùi thì lại lên được một hạng, hạng 13. Con gái ngụy quân muốn vô Đại học phải đạt 21 điểm, gấp 3 số điểm gia đình chính sách thì mới vô đại học được” (Phan Lạc Phúc, Bạn Bè Gần Xa, Nhà Xuất bản Văn Nghệ, 2002, tr 420-421).
371 Nhật ký Nguyễn Mạnh Huy.
372 Thư bạn đọc Nguyễn Kỳ Tâm viết: “Khi giải phóng, tôi vừa 17 tuổi. Trong cái nô nức, hồ hởi của những người chung quanh, tôi cũng thấy lòng mình rộn lên bao niềm tự hào, hãnh diện. Tôi trở về Sài Gòn tiếp tục học để thi vào đại học. Tôi tham gia những hoạt động thanh niên, và chính nơi đây, trong những buổi sinh hoạt, qua những câu chuyện, sách báo... tôi dần dần thấy ra vấn đề lý lịch của mình. Rồi tôi rớt đại học. Tôi xin vào làm tại một số cơ quan nhà nước, nhưng chờ mãi cũng chưa thấy nơi nào trả lời. Gần hai năm rồi tôi vẫn cứ là cảm tình Đoàn, và nhiều sự việc khác cứ làm tôi suy nghĩ... Tuổi Trẻ ơi, phải chăng tương lai của chúng tôi coi như chấm dứt, xã hội mới sẽ không có chỗ đứng nào cho những người như chúng tôi? Có phải số phận đen đủi với cái lý lịch quái ác sẽ đưa tôi ra ngoài rìa xã hội? Mà tôi có ao ước gì cao xa đâu. Chỉ muốn sống và công tác bình thường mà không bị nghi kỵ, thành kiến”.
373 Năm 1978, Luật sư Trần Văn Tuyên, một trí thức nổi tiếng, có cô con gái thi đậu đại học nhưng không được học. Các trí thức Sài Gòn phản ứng nhưng không ai dám giải quyết vì đấy là nguyên tắc. Nhờ ông Kiệt can thiệp, con gái của Luật sư Trần Văn Tuyên, không những được vào đại học mà còn được đi du học tại Liên Xô.
374 Ông Võ Văn Kiệt nhấn mạnh“hậu quả của chính sách độc hại nhất của nước Mỹ”, rồi phê phán: “Một tâm lý xã hội tiêu thụ cực đoan đã giết chết thói quen và tinh thần yêu lao động cố hữu của dân tộc. Trong mọi vết thương của chiến tranh, chính vết thương tinh thần đó là khó chữa nhất". Ông kêu gọi: “Trong những năm chiến đấu,… có bạn trẻ nào không xúc động với câu hát: ‘Nếu là người tôi sẽ chết cho quê hương?’ Quê hương hôm nay không đòi hỏi mỗi người tuổi trẻ phải chết. Đất nước vĩnh viễn độc lập, tự do rồi. Quê hương đòi hỏi anh phải sống và sống cho ra sống. Câu hát đó ta nên sửa lại là: ‘Nếu là người tôi phải sống cho quê hương’. Sống là chia sẻ ngọt bùi với nhân dân. Sống không phải ăn bám mà là lao động”.
375 Về sau Trần Ngọc Châu trở thành Tổng thư ký tòa soạn báo Tuổi Trẻ, Phó TBT Thời báo Kinh Tế Sài Gòn.
376 Nhà văn viết chuyện thiếu nhi.
377 Cha Nguyễn Nhật Ánh phải cải tạo từ 1975-1982.
378Trong bài phát biểu này, ông Võ Văn Kiệt đã nêu những ví dụ: “Ở một đại đội có hai đồng chí gàn bướng nhất đơn vị, không biết nội quy kỷ luật là gì, đánh lộn gây gỗ là thường xuyên, thì nay đã là cá nhân xuất sắc của Đại hội, một đồng chí là tiểu đội trưởng, một đồng chí là tiểu đội phó của đơn vị. Có đồng chí trước đây xâm tay xâm mình, đã lấy thanh sắt hoặc đũa nướng xóa đi những vết xâm đó, thà rằng mang thẹo còn hơn”.
379 Theo phát biểu của ông Võ Văn Kiệt ngày 3-3-1977: “Có người xuất thân từ công nhân, ở đợ, văn hóa chưa làm được toán trừ thì nay đã là đại đội trưởng, liên đội phó xuất sắc, giỏi về công tác chính trị và cả về quản lý, kỹ thuật. Có người trước đây chuyên buôn bán chợ trời, thì nay trở thành cán bộ, giáo viên văn hóa. Có đại đội với ngót 40% thanh niên là binh lính thuộc chế độ cũ và lưu manh, xì ke ma túy, sau sáu tháng phấn đấu đã bình, tuyển được gần tám mươi cá nhân tiên tiến, xuất sắc và biểu dương. Nhiều anh em trước đây không biết chữ, nay vào thanh niên xung phong đã biết chữ”.
380 Cách nói chỉ những người không thuộc sự quản lý của một cơ quan nhà nước hoặc tổ chức chính trị nào.
381 Tiểu thuyết Trăm Sông Về Biển của Nguyễn Đông Thức là dựa trên câu chuyện có thật này.
Chiến dịch bài trừ văn hóa đồi trụy, độc hại (tháng 5, 1975), cấm lưu hành phần lớn sách xuất bản tại miền Nam kể cả sách về Nho Giáo. Thời đó chỉ có ai làm công tác nghiên cứu có giấy phép mới được phép vào thư viện đọc sách nói về Nho Giáo