Thứ Năm, 20 tháng 12, 2012

GS Đặng Hùng Võ gửi thư khước từ cuộc đối thoại “phúc thẩm” với người dân Văn Giang

-basam-“
“Tôi thực sự cảm thấy mệt mỏi về việc cứ mãi tranh luận đúng sai theo cách thức gặp gỡ thế này … Cả tôi và các bác đều phải tiết kiệm tiền bạc, thời gian, sức khỏe để làm những việc thực sự hiệu quả cho mình và mang lại lợi ích cho đất nước … đều không muốn mình bị lợi dụng vào việc gây tác động xấu tới an ninh xã hội”.
1
23
4

-GS Đặng Hùng Võ gửi thư khước từ cuộc đối thoại “phúc thẩm” với người dân Văn Giang


- Phá nhà ông Đoàn Văn Vươn, 4 cựu cán bộ bị buộc tội hủy hoại tài sản (CAND).
- Xét xử thêm 1 bị cáo hành hung dân Văn Giang (TT).


-Kỳ 1: Giáo sư Đặng Hùng Võ nói lại về vụ Văn Giang
Thực hiện lời hứa với bà con Văn Giang trong cuộc đối thoại cách đây một tháng, GS Đặng Hùng Võ viết bài trả lời những khúc mắc của người dân.
>> Tiền lệ Đặng Hùng Võ/ GS Đặng Hùng Võ bày tỏ khoảnh khắc bất lực

LTS: Chiều ngày 8/11/2012, GS. Đặng Hùng Võ, nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, người đã ký 2 Tờ trình trình Thủ tướng Chính phủ vào Quý II năm 2004 về bổ sung kế hoạch sử dụng đất 2004, 2005 tỉnh Hưng Yên và về giao đất, thu hồi đất đối với dự án xây dựng hạ tầng đường liên tỉnh Hà Nội - Hưng Yên theo phương thức đổi đất lấy hạ tầng, đã chấp nhận gặp gỡ với đại diện một số người dân bị thu hồi đất mà đang còn những kiến nghị tại dự án Văn Giang, thắc mắc theo đề nghị của họ.

Tại cuộc gặp gỡ, luật sư trợ giúp pháp lý cho những người dân nói trên cho rằng 2 Tờ trình của ông Võ đã trình lên Thủ tướng CP là trình lên nơi không đúng thẩm quyền, nội dung đề nghị phê duyệt Dự án chưa phù hợp quy hoạch sử dụng đất, không có quyết định thu hồi đất đến từng hộ dân, như vậy trái với quy định của Luật Đất đai 1993.

Ghi nhận ý kiến của luật sư và nhận lỗi với những người dân Văn Giang, GS Võ hứa sẽ kiểm tra, rà soát lại chi tiết toàn bộ quá trình xem xét Dự án này, tham khảo ý kiến các chuyên gia, đối chiếu lại với những quy định của pháp luật. Ông cũng hẹn sẽ viết bài chi tiết gửi đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng để trả lời những khúc mắc của người dân đã nêu ra.

Tôn trọng tính đa chiều của thông tin, VietNamNet xin giới thiệu với bạn đọc bài viết của Gs. Đặng Hùng Võ.

Phần 1: Lộ trình dự án và thẩm quyền phê duyệt

Không chạy dự án vì tư lợi

Cuối năm 2003, quy hoạch vùng Thủ đô đã được đưa ra với những kỳ vọng quy hoạch mới về kết cấu hạ tầng giữa Hà Nội và các tỉnh ngoại vi. Cầu Thanh Trì và con đường nối thẳng Hà Nội - Hưng Yên đã được Tỉnh ủy, UBND tỉnh Hưng Yên và Chính phủ coi là một dự án trọng điểm, cần sớm triển khai và đưa vào sử dụng. Mặt khác, thời điểm này cũng là giai đoạn chuyển tiếp từ Luật Đất đai 1993 sang Luật Đất đai 2003. Chính phủ đã chỉ đạo dừng phê duyệt những dự án chưa đủ điều kiện để thực hiện theo Luật Đất đai 2003 và đẩy nhanh tiến độ phê duyệt, triển khai các dự án đã đủ điều kiện để thực hiện theo Luật Đất đai 1993.

Dự án đường giao thông liên tỉnh Hà Nội - Hưng Yên thực hiện theo phương thức sử dụng quỹ đất để tạo vốn xây dựng cơ sở hạ tầng với quỹ đất đổi gần 500ha tại 3 xã Xuân Quan, Cửu Cao, Phụng Công thuộc huyện Văn Giang, Hưng Yên (sau này gọi là Dự án Văn Giang) thuộc diện được Chính phủ chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ phê duyệt. Đây là một cơ hội rất lớn để thực hiện đô thị hóa ở Hưng Yên và cả vùng phía Đông thủ đô Hà Nội.

Trong hoàn cảnh các địa phương không có ngân sách để phát triển hạ tầng, cơ chế "đổi đất lấy hạ tầng" đã được coi như một sáng kiến và được áp dụng rộng rãi trong suốt giai đoạn 1993 - 2003. Sáng kiến này bắt đầu từ Bà Rịa - Vũng Tàu từ 1992. Sau khi cơ chế này được luật hóa tại Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 1998, hầu hết các tỉnh, thành đã đồng loạt áp dụng theo sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.

Tỉnh Hưng Yên, một tỉnh rất yếu kém về hạ tầng, lại chậm hơn cả, khá "lúng túng" trong việc tiến hành các thủ tục để triển khai các dự án. Đối với từng khâu công việc, UBND tỉnh Hưng Yên đều đã có công văn đề xuất và xin ý kiến chỉ đạo của Văn phòng Chính phủ, văn bản hướng dẫn của các Bộ, ngành ở trung ương, học tập kinh nghiệm triển khai dự án của Nam Định, Hải Dương, v.v.

Mãi tới tháng 10/2003, Tỉnh ủy và UBND Hưng Yên mới trình chính thức các dự án đổi đất lấy hạ tầng, trong đó Dự án đổi đất lấy đoạn đường Văn Giang - Khoái Châu trên tuyến đường liên tỉnh Hà Nội - Hưng Yên là Dự án đầu tiên.

Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ, ngành giúp Hưng Yên đẩy nhanh tiến độ đối với Dự án đầu tiên này để thực hiện thành công. Bộ TN và MT cũng đã tham gia trao đổi, làm việc với Bộ Xây dựng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Văn phòng CP để giúp tỉnh nghèo Hưng Yên phát triển hạ tầng.

Từ cuối tháng 10/2003 tới cuối tháng 6/2004, tất cả các thủ tục về thẩm định dự án đổi đất lấy hạ tầng, thẩm định hồ sơ đất đai đã được thực hiện đúng quy trình với Tờ trình Thủ tướng CP của UBND Hưng Yên, của Bộ TN và MT, ý kiến thẩm định của Bộ Xây dựng, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Thủ tướng CP đã ban hành Quyết định 303/QĐ-TTg ngày 30/03/2004 về phê duyệt điều chỉnh kế hoạch sử dụng đất của Hưng Yên và Quyết định 742/QĐ-TTg ngày 30/06/2004 về giao đất.

Trong các văn bản nêu trên, có 3 văn bản được ký trong 3 ngày cuối trước khi Luật Đất đai 1993 hết hiệu lực thi hành làm mọi người lưu ý. Đó là Tờ trình 704/TT-UB ngày 28/6/2004 của UBND Hưng Yên lên Thủ tướng CP về việc thu hồi đất, giao đất cho Công ty CP Việt Hưng để xây dựng hạ tầng khu đô thị Văn Giang và tuyến đường liên tỉnh Hưng Yên - Hà Nội đoạn từ Văn Giang đến Khoái Châu; Tờ trình 99/TTr-BTNMT ngày 29/06/2004 của Bộ TN và MT lên Thủ tướng CP về việc giao đất cho dự án xây dựng hạ tầng khu đô thị Văn Giang và tuyến đường liên tỉnh Hưng Yên - Hà Nội đoạn từ Văn Giang đến Khoái Châu theo phương thức sử dụng quỹ đất để tạo vốn xây dựng cơ sở hạ tầng; Quyết định 742/QĐ-TTg ngày 30/06/2004 của Thủ tướng CP về giao đất để thực hiện dự án xây dựng đường từ cầu Thanh Trì đi thị xã Hưng Yên đoạn từ huyện Văn Giang đến Khoái Châu theo phương thức sử dụng quỹ đất để tạo vốn xây dựng cơ sở hạ tầng.







Nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên - Môi trường Đặng Hùng Võ trong cuộc gặp với đại diện nông dân Hưng Yên ngày 8-11. Ảnh: T.Kha/ NLĐ


Khi nhìn vào mốc thời gian được ghi trên các văn bản, nhiều người nghi vấn "liệu việc phê duyệt được tiến hành nhanh chóng như vậy có yếu tố tiêu cực, tham nhũng, chạy dự án hay không?".

Thực chất, mốc thời gian thể hiện trên các văn bản trên chỉ mang tính hình thức. Hơn nữa, thực hiện nhanh các thủ tục không phải là hành vi vi phạm pháp luật. Việc thẩm định dự án, đất đai cho dự án là một quá trình hơn 8 tháng, đã thực hiện đúng nội dung và trình tự.

Tôi đã kiểm tra và rà soát lại, trong quá trình hơn 8 tháng các cơ quan có liên quan đã thực hiện đầy đủ các thủ tục về dự án đầu tư như: lập báo cáo nghiên cứu khả thi; lập dự án đầu tư; thẩm định dự án; ý kiến thẩm định các mặt của Bộ Xây dựng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính; lập hồ sơ đất đai phục vụ thu hồi đất, giao đất cho dự án, v.v. theo đúng quy định của pháp luật.

Nếu không trình và phê duyệt kịp thời hạn, Dự án có thể bị kéo dài thêm khoảng 2 năm nữa. Việc áp dụng Luật Đất đai mới cần tới một thời gian nhất định để ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành. Dự án đầu tư phải chuẩn bị lại theo các quy định mới của Luật Đất đai 2003 về phương thức sử dụng quỹ đất để tạo vốn xây dựng cơ sở hạ tầng. Trong ngữ cảnh này, cơ hội đầu tư có thể bị mất. Chính vì vậy mà Chính phủ và tỉnh Hưng Yên đã quyết tâm đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án, muốn phê duyệt kịp Dự án "đổi đất lấy hạ tầng" đầu tiên của Hưng Yên theo các quy định pháp luật hiện hành. Tôi ý thức rất rõ việc này khi ký các tờ trình.

Từ chỉ đạo của Chính phủ, của Tỉnh ủy và UBND Hưng Yên, Huyện ủy và UBND huyện Văn Giang, tới ý kiến các chuyên gia và cá nhân tôi đều khẳng định rằng dự án tuyến đường liên tỉnh Hà Nội - Hưng Yên qua cầu Thanh Trì và Khu đô thị Văn Giang tiếp giáp ranh giới Hà Nội có vai trò chiến lược để phát triển kinh tế vùng phía Đông Thủ đô, của tỉnh Hưng Yên, của huyện Văn Giang và của 3 xã vùng Dự án.

Chắc chắn, không thể vì bất kỳ lý do gì mà dừng lại dự án đầu tư. Việc phát hiện và chống tham nhũng, việc giải quyết thỏa đáng các khiếu nại của dân phải thực hiện triệt để, nhưng không vì thế mà dừng lại quá trình đầu tư phát triển. Đây chính là thách thức lớn nhất trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Phù hợp pháp luật

Trong khoảng vài tháng nay, dư luận bắt đầu nổi lên rằng các văn bản hành chính liên quan tới Dự án Văn Giang nói trên là trái pháp luật và tập trung vào 2 Tờ trình do tôi ký. Theo Luật Đất đai phải trình Chính phủ nhưng lại trình Thủ tướng CP. Thế là sai với Luật Đất đai.

Nói riêng về Tờ trình thì trình lên người đứng đầu Chính phủ để Chính phủ giải quyết theo quy trình cũng đâu phải là trái luật. Nhưng tôi biết rằng các luật sư muốn hướng tới việc Thủ tướng CP thực hiện thẩm quyền của Chính phủ, đó mới là việc quan trọng. Tôi cho rằng, cần phải cảm ơn các luật sư đã phát hiện vấn đề, vậy cần làm rõ để nhân dân không hiểu sai.

Trước đây, tôi luôn chắc chắn rằng các Quyết định của Thủ tướng CP là đúng pháp luật.

Luận cứ rất đơn giản: kể từ Luật Đất đai 1993 tới nay, thẩm quyền quyết định của cấp trung ương về đất đai luôn thuộc Chính phủ nhưng quy trình thực hiện của Văn phòng CP và Tổng cục Địa chính (sau này là Bộ TN và MT) lại do Thủ tướng CP giải quyết và trình tự, thủ tục đối với Dự án Văn Giang đã được thực hiện giống như tất cả quyết định giải quyết về đất đai thuộc thẩm quyền của Chính phủ trong suốt 10 năm từ 15/10/1993 tới 30/06/2004.

Hơn nữa, Dự án Văn Giang đã được Thanh tra Chính phủ tiến hành thanh tra ít nhất 2 lần, phối hợp với tất cả các Bộ, ngành có liên quan, đều đã có kết luận rằng các văn bản pháp lý của Dự án là đúng pháp luật. Ý kiến này càng được khẳng định trong cuộc họp của Thường trực Chính phủ về xử lý sau thanh tra dự án Văn Giang vào tháng 05/2010.

Trên cơ sở báo cáo của các Bộ, Ngành chức năng, và ý kiến của nguyên Phó Thủ tướng Trương Vĩnh Trọng, Thủ tướng CP đã có ý kiến kết luận cuối cùng, được thể hiện tại thông báo số 127/TB-VPCP ngày 20/05/2010 của Văn phòng Chính phủ.

Nếu các văn bản của Dự án Văn Giang là trái pháp luật thì có nghĩa là hơn 3.000 Quyết định về đất đai thuộc thẩm quyền của Chính phủ trong suốt 10 năm đó cũng trái pháp luật. Nếu điều này xẩy ra thì quả đây là một vụ tai tiếng hành chính hy hữu cấp quốc tế. Hậu quả gây ra sẽ vô cùng phức tạp, thậm chí làm mất ổn định xã hội. Đây chính là việc cần minh giải cho thật rõ ràng.

Các luật sư trợ giúp pháp lý cho một số người dân bị thu hồi đất ở Văn Giang đã căn cứ vào Điểm 1.10 Khoản 1 Điều 1 của Quy chế làm việc của Chính phủ ban hành kèm theo Nghị định số 11/1998/NĐ-CP ngày 24/01/1998 về quy định "Chính phủ quyết định tập thể những công việc", trong đó có "Những vấn đề khác mà pháp luật quy định thuộc thẩm quyền của Chính phủ". Khi Luật Đất đai quy định thuộc thẩm quyền của Chính phủ thì phải được Chính phủ quyết định tập thể.

Sau khi thảo luận với một số luật sư chuyên về pháp luật hành chính, chúng tôi rút ra được những căn cứ pháp lý chắc chắn của việc Thủ tướng CP được quyền thực hiện thẩm quyền của Chính phủ về đất đai dựa trên Luật tổ chức Chính phủ và Quy chế làm việc của Chính phủ. Hãy lưu ý tới Điều 2 của Quy chế làm việc của Chính phủ nói trên về "Phạm vi giải quyết công việc của Thủ tướng CP". Điểm 1.1 Khoản 1 của Điều 2 này quy định "Thủ tướng Chính phủ giải quyết các công việc", trong đó có "Những vấn đề được Hiến pháp, Luật Tổ chức Chính phủ, các văn bản pháp luật khác quy định thuộc thẩm quyền giải quyết của Thủ tướng và những vấn đề được Hiến pháp, Luật Tổ chức Chính phủ và các văn bản pháp luật khác quy định thuộc thẩm quyền của Chính phủ, nhưng không do Chính phủ quyết định tập thể".

Như vậy, Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền giải quyết các việc thuộc thẩm quyền của Chính phủ khi pháp luật quy định hoặc Chính phủ tự thấy không cần quyết định tập thể.

Mặt khác, theo Luật Đất đai 1993 với sửa đổi, bổ sung 2 lần vào năm 1998 và 2001 luôn quy định thẩm quyền giải quyết các công việc về đất đai ở Trung ương thuộc Chính phủ nhưng không nói cần phải có quyết định tập thể của Chính phủ hay không. Luật Tổ chức Chính phủ 1992 có Điều 19 quy định về những việc mà Chính phủ phải quyết định tập thể, trong đó không có các công việc về đất đai.

Sau 10 năm, Luật Tổ chức Chính phủ 2001 cũng có Điều 19 với các quy định tương tự về những việc mà Chính phủ phải quyết định tập thể, cũng không bổ sung các công việc về đất đai. Như vậy, có thể hiểu rằng các công việc về đất đai ở Trung ương thuộc thẩm quyền Chính phủ nhưng do Thủ tướng Chính phủ giải quyết và Chính phủ không cần phải quyết định tập thể.

Tại sao Chính phủ lại quy định như vậy cũng là điều dễ giải thích. Thứ nhất, các văn bản về đất đai đều dưới dạng quyết định như quyết định phê duyệt quy hoạch sử dụng đất, quyết định giao đất, thu hồi đất, v.v. nhưng hình thức văn bản thuộc thẩm quyền của Chính phủ chỉ có Nghị định và Nghị quyết, Quyết định là hình thức văn bản thuộc thẩm quyền của Thủ tướng CP.

Thứ hai, đất đai là một yếu tố quan trọng của môi trường đầu tư ở địa phương, UBND các tỉnh chịu trách nhiệm trực tiếp, nếu phải chờ Chính phủ họp mỗi tháng một lần thì thủ tục hành chính nặng nề ở Trung ương sẽ gây khó khăn cho địa phương. Chính vì lý do này mà Luật Đất đai 2003 đã chuyển toàn bộ thẩm quyền quyết định thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất về địa phương.

Thứ ba, trong lịch sử hoạt động của Chính phủ nước ta, thẩm quyền riêng của người đứng đầu Chính phủ và thẩm quyền chung của Chính phủ chưa được phân định rõ ràng như hiện nay. Trước đây, chỉ sử dụng một con dấu chung của Chính phủ, mãi đến năm 2005 mới chính thức có con dấu riêng của Thủ tướng CP để phân định rành mạch về thẩm quyền.

Phù hợp quy hoạch

Về điều chỉnh kế hoạch sử dụng đất, Khoản 2 Điều 22 của Nghị định 04/2000/NĐ-CP ngày 11/02/2000 về thi hành Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất đai có quy định "Hàng năm UBND cấp tỉnh lập và trình Thủ tướng CP phê duyệt kế hoạch sử dụng quỹ đất để tạo vốn xây dựng cơ sở hạ tầng", không quy định thời hạn trình. UBND tỉnh Hưng Yên và Bộ TN và MT đã trình Thủ tướng CP phê duyệt kế hoạch sử dụng quỹ đất để tạo vốn xây dựng cơ sở hạ tầng cho 2 năm 2004, 2005 như một điều chỉnh kế hoạch sử dụng đất 5 năm 2001 - 2005 (điều chỉnh cho 2 năm còn lại), không phải là điều chỉnh kế hoạch sử dụng đất hàng năm.

Cách làm này cũng phù hợp với quy định về điều chỉnh kế hoạch sử dụng đất 5 năm tại Nghị định 68/2001/NĐ-CP ngày 01/10/2001 về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Tôi đã xem lại chi tiết Bản thuyết minh Quy hoạch sử dụng đất Hưng Yên đã được phê duyệt. Việc điều chỉnh kế hoạch sử dụng đất nói trên hoàn toàn phù hợp với diện tích đất chuyên dùng đã được xác định trong quy hoạch sử dụng đất Hưng Yên thời kỳ 2001 - 2010 đã được phê duyệt.

Không nhất thiết phải có quyết định thu hồi đất đến từng hộ dân

Cơ chế thực hiện thu hồi đất, giao đất theo Luật Đất đai 1993 khác hẳn với quy định của Luật Đất đai 2003. Tôi đã tìm gặp nhiều chuyên gia tham gia xây dựng Luật Đất đai 1993 để hỏi về việc này. Theo Điều 28 của Luật Đất đai 1993 quy định "Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định giao đất nào thì có quyền thu hồi đất đó" và "Trước khi thu hồi đất phải thông báo cho người đang sử dụng biết về lý do thu hồi, thời gian, kế hoạch di chuyển, phương án đền bù thiệt hại".

Như vậy, thẩm quyền thu hồi đất phụ thuộc thẩm quyền giao đất. Thủ tướng CP quyết định giao đất thì quyết định thu hồi đất đó trên cùng một văn bản Quyết định. Chính quyền địa phương phải thực hiện việc thông báo cho người đang sử dụng biết về lý do thu hồi, thời gian, kế hoạch di chuyển, phương án đền bù thiệt hại.

Như vậy, theo Luật Đất đai 1993, không có quy định phải có quyết định thu hồi đất tới từng hộ gia đình mà chỉ có thông báo kế hoạch thu hồi đất và phương án bồi thường tới từng hộ gia đình. Nhiệm vụ thông báo này thuộc chính quyền địa phương.

Tôi đã gặp trực tiếp lãnh đạo Sở TN và MT Hưng Yên, Bí thư và Chủ tịch cả 3 xã Xuân Quan, Phụng Công, Cửu Cao và nhiều người dân để hỏi thêm về việc thực hiện thông báo này. Tất cả đều xác nhận rằng đã biết trước khi có quyết định thu hồi đất, điển hình như xã Xuân Quan đã tổ chức gần 200 cuộc họp từ Đảng bộ đến các tổ chức đoàn thể, nhân dân trong xã, nhưng cũng có xã không thể họp được các thôn vì đã có một số người dân phản ứng và cố tình cản trở không cho tổ chức họp.

Sau khi xem xét và rà soát lại, tôi cho rằng các thủ tục liên quan đến việc thu hồi đất tại Dự án Văn Giang là phù hợp pháp luật, như tôi đã nghĩ trước đây, cũng như Thanh tra Chính phủ và các Bộ, ngành ở Trung ương đã kết luận, Thủ tướng CP đã kết luận.






Tôi đã về hưu từ tháng 3/2007, đến nay đã được 5 năm, kể từ Tờ trình về Dự án Văn Giang cũng đã được 8 năm. Tôi cũng không nhớ là mình đã ký 2 Tờ trình về Dự án Văn Giang. Đến giữa tháng 10 năm nay, có mấy người bạn đã cho tôi biết rằng có một thư ngỏ của 9 đại diện nông dân Văn Giang đăng trên blog cá nhân với yêu cầu gặp gỡ, đối thoại trực tiếp với tôi về 2 Tờ trình do tôi ký và họ cho rằng có những nghi vấn về tham nhũng và trái pháp luật.

Một số người bạn có khuyên tôi nên viết thư ngỏ trả lời, về hưu là để lại mọi thứ giấy tờ ở cơ quan, còn nhớ gì công việc hành chính cũ nữa mà tranh luận về dự án. Về phương diện cá nhân, tôi nghĩ mình nên gặp gỡ, đó là sự thành tâm, ít nhất để minh giải về nghi vấn tham nhũng và hơn nữa để nghe ý kiến của những người bị thu hồi đất ở đó ra sao. Vì gặp nhau nói được trực tiếp vẫn tốt hơn nên tôi đã chấp nhận cuộc gặp gỡ cá nhân này.

Cuộc gặp gỡ được ấn định vào chiều ngày 08/11/2012 tại hội trường của Tổng công ty Tài nguyên và Môi trường (trụ sở cũ của Bộ TN và MT) giữa thanh thiên bạch nhật, không hạn chế sự tham gia của các nhà báo. Một số người bạn có nói với tôi rằng về chiến thuật, cần yêu cầu phía đại diện dân Văn Giang đưa ra giấy tờ khẳng định về vai trò đại diện, cũng như vai trò đại diện của luật sư. Tôi cũng lại nghĩ khác, người dân gặp người dân thì chẳng cần giấy tờ gì cả, có thế nào cứ để vậy diễn ra.

Vào cuộc, tôi hoàn toàn bị bất ngờ vì có mặt và sự dồn ép lý lẽ của vị luật sư đại diện, kể cả sự có mặt của một số người chẳng liên quan gì đến dự án. Cuộc tranh luận pháp lý về một dự án mà tôi không có một chút hồ sơ, tài liệu gì về Dự án trong tay thì quả là "hư vô". Khi nghe tâm tư của đại diện một số bà con huyện Văn Giang, tôi có phần chia sẻ và cảm thông nên đã lên tiếng “nhận lỗi về mình”, âu cũng là sự tử tế mang tính nhân văn.







Còn nữa

GS Đặng Hùng Võ



Giáo sư Đặng Hùng Võ nói lại về vụ Văn Giang vnn

-- Hồi đáp của GS Đặng Hùng Võ về khúc mắc quanh dự án Văn Giang (DV).

--
Bài học Văn Giang và những kiến nghị


Một hệ thống pháp luật, chính sách tốt có thể tăng sức đầu tư nhưng vẫn kiểm soát được tham nhũng và hạn chế được khiếu kiện của dân. Dự án Văn Giang đã cho chúng ta những bài học đắt giá.

Được lãnh đạo ở cơ sở cho biết, lãnh đạo và đa số người dân đều đồng thuận với chủ trương đô thị hóa Văn Giang, nơi giáp với Thủ đô Hà Nội. Nhưng vì sao mà khiếu nại đông người và dài ngày ở đây vẫn không thể dứt. Tôi rất hiểu những bất bình của người dân bị thu hồi đất, chính sách bồi thường chưa thỏa đáng, sinh kế bị mất, cuộc sống bị đảo lộn. Từ đây, có thể rút ra nhiều bài học kinh nghiệm có ích để giải quyết tận gốc khiếu nại của dân, cũng như cho quá trình hoàn chỉnh Dự thảo Luật Đất đai sửa đổi hiện nay.




Những bài học kinh nghiệm từ Văn Giang

Bài học thứ nhất về sự tham gia của cộng đồng vào các quyết định đầu tư

Thực hiện công nghiệp hóa, đô thị hóa là quá trình tất yếu để phát triển đất nước và tìm kiếm sự giầu có cho người dân. Đối với khu vực Văn Giang chỉ cách trung tâm Hà Nội hơn 10km, đô thị hóa càng sớm thì cơ hội phát triển càng cao. Nhưng tại sao người dân vẫn thể hiện không đồng tình trong triển khai thực hiện. Một trong những ý kiến chính là người dân không được biết.

Nói cho cùng là người dân đã phải thụ động tiếp nhận quyết định của lãnh đạo, không được bàn thảo và không được tham gia vào quá trình ra quyết định.

Vấn đề là làm sao để tư duy của người lãnh đạo và người dân phải tìm được tiếng nói chung, chuyển hóa nhận thức để tiến trình đô thị hóa diễn ra được thuận hơn và nhanh hơn. Cộng đồng được tham gia vào quá trình từ quy hoạch cho tới lựa chọn dự án đầu tư sẽ ý thức rõ được những bước đi mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn. Sự tham gia và sự đồng thuận của cộng đồng dân cư chính là giải pháp cốt lõi để loại bỏ khiếu kiện của dân, đẩy nhanh tiến trình đô thị hóa.

Cơ chế tham vấn cộng đồng và tạo đồng thuận của cộng đồng trong các quyết định về đất đai cần được quy định cụ thể trong Luật Đất đai, trước hết là tiêu chí bao nhiều phần trăm ý kiến đồng thuận được coi như cộng đồng đồng thuận.

Bài học thứ hai về chính sách bồi thường, hỗ trợ cho người bị thu hồi đất

Từ ban đầu, người bị thu hồi đất ở Văn Giang đã bức xúc về mức bồi thường, hỗ trợ chưa thỏa đáng. Mức này đã tăng dần từ hơn 20 triệu lên hơn 36 triệu và cho đến nay là 59 triệu đồng cho mỗi sào ruộng, cùng một suất đất dịch vụ. Tỉnh Hưng Yên nói rằng đã vận dụng mức bồi thường, hỗ trợ cao nhất cho Dự án Văn Giang mà người bị thu hồi đất vẫn bức xúc.

Từ những bức xúc về mức bồi thường, hỗ trợ chưa thỏa đáng đã dẫn tới việc người bị thu hồi đất tìm kiếm những sơ hở về pháp luật, về quy hoạch để gây khó khăn cho dự án.

Việc này không chỉ xẩy ra ở Văn Giang mà xẩy ra phổ biến ở nhiều dự án tại các địa phương khác. Hầu hết các dự án rơi vào tình trạng "giải tỏa treo" đều do quy hoạch hoặc văn bản có những sai sót về pháp luật.

Điều này cho thấy các cơ quan nhà nước phải rất chăm chút về tính pháp lý của các văn bản. Dự án Văn Giang đã được chứng minh không có sơ hở về pháp luật.





Quê hương và gia đình tôi ở xã Đa Tốn thuộc huyện Gia Lâm, tiếp giáp với xã Xuân Quan. Hầu hết các gia đình đều bị thu hồi đất để làm con đường Hà Nội - Hưng Yên nói trên thuộc địa phận Hà Nội và con đường 5 B đi Hải Phòng. Gia đình tôi cũng bị thu hồi hết đất nông nghiệp. Hầu hết mọi người đều cho rằng được bồi thường, hỗ trợ quá ít nhưng ai cũng mừng vì 2 con đường quốc lộ này sẽ đem lại lợi ích lớn cho dân trong tương lai. Không có ai mang đơn đi khiếu nại.


Sự thực, chính sách bồi thường bằng tiền một lần cho người bị thu hồi đất không phù hợp với đòi hỏi về ổn định sinh kế của người bị thu hồi đất. Người bị mất đất phải được thụ hưởng trực tiếp lợi ích từ quá trình đô thị hóa, phải đóng vai trò động lực trong quá trình đô thị hóa. Điều này có nghĩa là Nhà nước cần đổi mới toàn diện chính sách về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho người bị thu hồi đất, ngay trong Dự thảo Luật Đất đai sửa đổi. Người bị thu hồi đất cần được bảo đảm sinh kế gắn với quá trình phát triển các khu đô thị mới.

Bài học thứ ba về công khai, minh bạch tài chính

Người bị thu hồi đất ở Văn Giang luôn so sánh giá đất được áp dụng để tính bồi thường, hỗ trợ với giá nhà đất mà nhà đầu tư bán ra trên thị trường. Người dân địa phương cũng không biết giá đất đem đổi lấy hạ tầng được tính như thế nào, giá trị đầu tư hạ tầng là bao nhiêu cũng không rõ. Giá trị đầu tư hạ tầng, cây xanh tại khu đô thị Văn Giang là bao nhiêu trong giá thành nhà ở bán ra trên thị trường cũng không được biết cụ thể. Người dân địa phương cũng không biết nhà đầu tư đã bỏ bao nhiêu tiền hàng năm để đầu tư khu đô thị và nộp ngân sách bao nhiêu. Tất cả những điều này chưa được công khai, minh bạch, làm cho người dân càng nghi ngờ, bức xúc nhiều hơn. Nhà đầu tư cố gắng về vốn rất nhiều, nhất là trong lúc thị trường bất động sản trầm lắng, cũng không khỏi bức xúc.

Như vậy, công khai, minh bạch đối với các dự án đầu tư vẫn là điều cần phải làm triệt để, có như vậy mới nhận được sự đồng thuận của người dân địa phương và động viên được nhà đầu tư. Chủ trương đảm bảo hài hòa 3 lợi ích của Nhà nước, người dân và doanh nghiệp đã đưa ra từ lâu nhưng gần như chưa được triển khai cụ thể. Chỉ có công khai, minh bạch về tài chính của quá trình đầu tư mới hy vọng thực hiện được chủ trương hài hòa 3 lợi ích. Luật Đất đai sửa đổi cần quan tâm đặc biệt tới cơ chế công khai, minh bạch về tài chính của quá trình đầu tư.

Bài học thứ tư về giảm tham nhũng và khiếu kiện đối với đất đai

Tham nhũng và khiếu kiện là 2 hiện tượng luôn được coi là đồng hành với các dự án đầu tư. Đối với các dự án lớn có tác động trên phạm vi rộng, vấn đề kiểm soát tham nhũng và chuẩn bị giải quyết khiếu nại đông người cần được đặt ra ngay từ đầu để có những giải pháp phù hợp. Những nghi ngờ, phát hiện của người dân về tham nhũng cần được xem xét, giải quyết kịp thời và công khai. Những dự án có tác động trên phạm vi rộng thường gây khiếu nại đông người. Dự án Văn Giang là một ví dụ cụ thể về khiếu nại đông người, dài ngày, rất phức tạp. Chính phủ đã ban hành Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Khiếu nại 2011 về khiếu nại đông người. Việc giải quyết khiếu nại đông người ở Văn Giang cần được giải quyết tận gốc theo quy định của pháp luật. Dự thảo Luật Đất đai sửa đổi cần đưa vào các quy định cụ thể về kiểm soát tham nhũng và giải quyết khiếu nại đông người.

Bài học thứ năm về nhận thực pháp luật của cán bộ quản lý đất đai

Pháp luật hiện hành về khiếu nại, về tố tụng hành chính đã cho phép luật sư tham gia vào quá trình khiếu kiện của dân với vai trò đại diện. Đây là một quy định rất tiến bộ, tạo điều kiện tốt để hoàn thiện một hệ thống pháp luật đồng bộ và nâng cao nhận thức pháp luật của các cán bộ quản lý. Các cán bộ nhà nước không chỉ cần nắm vững, hiểu sâu về pháp luật chuyên ngành và cần nắm vững cả hệ thống pháp luật chung. Cần xây dựng một hành lang pháp lý chi tiết, cụ thể để việc tham gia của các luật sư vào quá trình khiếu nại và giải quyết khiếu nại của dân mang lại hiệu quả cao.




Ông Đặng Hùng Võ trong cuộc đối thoại ngày 8/11. Ảnh: Nguyễn Hưng/ VNE

Những kiến nghị

Từ những bài học Văn Giang nói trên, có thể đưa ra các kiến nghị cho Dự án Văn Giang, cũng như các kiến nghị chung về đổi mới chính sách, pháp luật đất đai.

Kiến nghị thứ nhất: Đối với Dự án Văn Giang, cần phải đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền vận động, tạo sự đồng thuận trong nhân dân. Các cấp chính quyền tỉnh Hưng Yên, huyện Văn Giang phải trực tiếp tiếp xúc với người dân, sát dân hơn nữa để lắng nghe từng tâm tư, nguyện vọng chính đáng của người dân, không nên "khoán trắng" cho chính quyền cấp xã và nhà đầu tư. Các vấn đề người dân khiếu nại phải được giải đáp cho tường tận, triệt để. Những thiếu sót nếu có cũng phải được giải thích rõ ràng, thấu tình đạt lý để nhân dân thông cảm. Chính các cấp từ Trung ương tới xã cần thống nhất, không được ngần ngại, né tránh, ngập ngừng, phải đối mặt với sự thật mới làm mất đi sự hoài nghi, thắc mắc của dân. Càng thiếu minh bạch càng làm cho người dân dễ hiểu lầm, làm người dân vẫn phải tiếp tục khiếu kiện kéo dài.







Sau buổi gặp gỡ với một số hộ dân bị thu hồi đất ở Văn Giang, tôi đã phải xếp lại mọi việc đang làm để tìm hiểu thật kỹ về câu chuyện Văn Giang. Các cơ quan nhà nước như Thanh tra CP, Văn phòng CP, Bộ Tài nguyên và Môi trường cùng nhiều Bộ, ngành khác đã có nhiều nỗ lực giải quyết mà mình không có thông tin. Nhìn lại mới thấy buổi gặp gỡ của mình với một số người dân tưởng như đơn giản mang tính nhân văn nhưng lại có thể gây phức tạp thêm cho quản lý. Bài viết này được viết khi tôi đã có đầy đủ thông tin về câu chuyện Văn Giang trong suốt thời gian tôi về hưu.

Tôi mong rằng các cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương, nhà đầu tư và những người dân Văn Giang hãy coi bài viết này là ý kiến của tôi khi có đủ thông tin. Bài viết được hình thành từ tư duy của tri thức quản lý, có đủ tình người, với trách nhiệm của người quản lý trong cuộc trước đây cũng như trong vai chuyên gia hiện nay.

Cuối cùng, tất cả chúng ta đều phải thực hiện đúng pháp luật. Đó là cơ sở để xây dựng một nhà nước pháp quyền tiến bộ.


Kiến nghị thứ hai: Cần phải thực hiện triệt để những kết luận của Thanh tra Chính phủ vào năm 2007 và 2009. Tôi đã đọc khá kỹ các kết luận của Thanh tra Chính phủ. Đây là những kết luận rất chân thực về những điểm được cũng như chưa được của Dự án Văn Giang và đưa được ra những đề nghị hợp lý về những việc phải làm. Thanh tra Chính phủ cần tiếp tục giám sát thực hiện các kết luận trên, tập trung làm rõ các dấu hiệu tham nhũng mà người dân đã phát hiện, xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật và kịp thời công khai trước công luận.



Kiến nghị thứ ba: Dù sao, việc thu hồi một diện tích lớn đất nông nghiệp để triển khai đầu tư xây dựng dự án Văn Giang cũng phần nào đã làm ảnh hưởng tới quyền lợi trước mắt của người dân. Những quyền lợi về sinh kế mà người dân được hưởng lợi từ dự án cũng không phải một sớm một chiều đưa lại ngay được khi vẫn đang còn những nhận thức khác nhau về vấn đề triển khai dự án và những khó khăn khách quan mà cả Nhà nước, người dân và doanh nghiệp gặp phải. UBND tỉnh Hưng Yên và huyện Văn Giang cần ưu tiên thực hiện lồng ghép chương trình xây dựng nông thôn mới tại 3 xã vùng đô thị Văn Giang có nhiều làng nghề với việc triển khai khu đô thị sinh thái Ecopark để tạo thành một vùng đô thị đa dạng, bảo đảm lợi ích cho cả nhà đầu tư và mọi người dân trong quá trình đô thị hóa. Chủ đầu tư cần trích một phần lợi ích từ dự án để phát triển hạ tầng đô thị cho phần nông thôn mới, đầu tư các công trình phúc lợi xã hội cần thiết, phát triển quỹ hỗ trợ người hết tuổi lao động, lập mới các quỹ hỗ trợ các nhóm đối tượng khác mất sinh kế cho cộng đồng dân cư thuộc vùng Dự án. Chủ đầu tư cần có những biện pháp hữu hiệu, cụ thể nhằm ưu tiên đào tạo và sử dụng lao động người địa phương với một mức thu nhập tốt để người dân hưởng lợi trực tiếp từ dự án đầu tư.

Người dân 3 xã trong vùng dự án bị thu hồi diện tích lớn về đất đai để đô thị hóa, đem lại lợi ích cho cả tỉnh, cả vùng. Đó là sự hy sinh mà họ xứng đáng nhận được những sự tôn trọng của xã hội, của cả cộng đồng và họ phải được hưởng lợi ích trực tiếp và trước mắt từ dự án đầu tư.

Kiến nghị thứ tư: Cần công khai, minh bạch việc đổi đất lấy hạ tầng như xác định giá trị hạ tầng đã xây dựng, xác định giá trị đất đai đem đổi, giá trị bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đã thực hiện, v.v. để những người dân bị thu hồi đất biết thông tin và có thể tham gia giám sát.

Kiến nghị thứ năm: Những bài học Văn Giang cần được nghiên cứu kỹ để hoàn chỉnh Dự thảo Luật Đất đai sửa đổi, tập trung chủ yếu vào đổi mới toàn diện cơ chế công khai, minh bạch tài chính; cơ chế tham vấn cộng đồng và tạo đồng thuận cộng đồng trong quá trình lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, thực hiện thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất; cơ chế thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho người có đất bị thu hồi.

Quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa để phát triển đất nước luôn là một quá trình phức tạp. Bằng mọi giá, quá trình chuyển dịch đất đai để thực hiện các dự án đầu tư phải được thực hiện. Tham nhũng trong quản lý và khiếu kiện của dân luôn đồng hành với quá trình thực hiện các dự án đầu tư nếu không được quản lý chặt chẽ. Nhưng không phải vì sợ tham nhũng và khiếu kiện mà ngừng lại quá trình đầu tư. Một hệ thống pháp luật, chính sách tốt có thể tăng sức đầu tư nhưng vẫn kiểm soát được tham nhũng và hạn chế được khiếu kiện của dân. Dự án Văn Giang đã cho chúng ta những bài học đắt giá.Gs. TsKh. Đặng Hùng Võ

Tổng số lượt xem trang