- Tàu hải quân rầm rộ chuyển thành tàu hải giám
- Giải mã sắc phục nhân viên tàu sân bay Trung Quốc
- Trung Quốc "vác" tàu chiến ra Thái Bình Dương diễn tập
Hiện nay, trên phân mục “Các tàu hải quân chuyển đổi thành hải giám” thuộc chương mục “Bạn có biết” của trang Web tìm kiếm nổi tiếng của Trung Quốc “Baidu” thông báo tổng cộng có 11 tàu hải quân Trung Quốc đã và đang hoán cải thành tàu hải giám. Con số này dự kiến còn có thể tăng lên trong thời gian tới, các tàu chiến trá hình thành tàu hải giám cụ thể như sau:
Tổng đội hải giám Bắc Hải có 03 tàu, bao gồm: Tàu kéo Bắc Đà 710 chuyển loại thành Hải giám 110; tàu phá băng Hải Băng 723 biến tướng thành tàu Hải giám 111, tàu quét/rải lôi 814 Liêu Ninh lớp 918 hoán cải thành Hải giám 112. Tất cả các tàu này đều do Hạm đội Bắc Hải bàn giao cho lực lượng hải giám.
Tổng đội hải giám Đông Hải gồm 03 tàu: Tàu kéo Đông Đà 830 biến đổi thành Hải giám 137, tàu đo đạc luồng lạch Đông Trắc 226 và tàu khu trục tên lửa 131 Nam Kinh (lớp 051 - Lữ Đại I) hiện chưa hoán cải xong. Các tàu này trước khi chuyển sang lực lượng hải giám đều trực thuộc hạm đội Đông Hải.
Tổng đội hải giám Nam Hải được biên chế nhiều hơn với 05 tàu là: tàu kéo Nam Đà 154 trở thành Hải giám 167, tàu điều tra hải dương Nam Điều 411 (nguyên là Nam Tiêu 411) được “phù phép” trở thành Hải giám 168, tàu trinh sát điện tử Hải Vương Tinh 852 (nguyên là Hải Dương 13 hay còn gọi là Hướng Dương Hồng 21) biến hóa thành Hải giám 169, tàu vận tải đổ bộ Nam Vận 830 và tàu khu trục tên lửa 162 Nam Ninh (lớp 051 – Lữ Đại I) hiện chưa hoán cải xong nên không rõ phiên hiệu.
Khảo sát tất cả các tàu hải giám đã hoàn thành chuyển loại cho thấy, tàu hải quân ở hạm đội nào thì sẽ biên chế về Phân cục hải giám khu vực đó. Số hiệu các tàu hải giám chuyển loại từ tàu hải quân đều được đánh bằng 3 số có quy luật. Tàu thuộc Tổng đội hải giám Bắc Hải bắt đầu là 11x, tàu thuộc hải giám Đông Hải có thể là 13x (mới được 1 tàu nên chưa khẳng định), các tàu thuộc hải giám Nam Hải bắt đầu là 16x.
Tàu Nam Điều 411 được phù phép biến thành Hải giám 168
Lực lượng ngư chính Trung Quốc cũng có 2 tàu thuộc loại lớn nhất trong khu vực là Ngư chính 311 và Ngư chính 206, dự kiến sắp tới sẽ có thêm 1 tàu được hoán cải từ tàu Nam Bác 952 của hạm đội Nam Hải. Tàu Ngư chính 311 nguyên là tàu cứu hộ Nam Cứu 503 của Hạm đội Nam Hải có lượng giãn nước 4500 tấn.
Tiền thân của Ngư chính 206 là tàu điều tra hải dương kiểu 636 mang số hiệu 871 “Lý Tứ Quang” (trước đây là Hải Dương 18), trực thuộc hạm đội Nam Hải. Đây là tàu điều tra hải dương rất hiện đại với hệ thống quan trắc, đo đạc biển tầng nước sâu 3 chiều và hệ thống thông tin liên lạc tiên tiến, có lượng giãn nước 5872 tấn, dài 129,82m, rộng 17m.
Âm mưu thâm độc...
Hiện các hình ảnh trên các trang mạng Trung Quốc cho thấy, ngoài việc sơn sửa lại phiên hiệu tàu và phù hiệu lực lượng, các tàu hải giám trá hình này không có gì thay đổi về kết cấu để phù hợp với các nhiệm vụ được chuyển đổi. Chúng ta có thể nhận thấy rõ điều này qua các hình ảnh so sánh.
Tàu trinh sát điện tử Hải Vương Tinh 852 đã biến thành Hải giám 169
Những tàu hải quân chuyển loại đều có tốc độ cao, khả năng chống chịu sóng gió tốt hơn các tàu dân sự, hơn nữa, chúng có lượng giãn nước rất lớn (thấp nhất là tàu rải lôi 814 với tải trọng 1000 tấn) nên chiếm được ưu thế trong tranh chấp trên biển. Đơn cử ví dụ như tàu Hải Băng 723 (Hải giám 111) có lượng giãn nước thuộc dạng lớn nhất của tàu Hải giám Trung Quốc là 4420 tấn, vận tốc 20 hải lý/h, có thể phá vỡ các lớp băng dày tới 80cm, khả năng chịu va đập cực mạnh. Các tàu hải quân còn không va chạm nổi với nó nói gì đến các tàu chấp pháp, tàu cá? Ở khu vực Đông nam Á liệu có mấy tàu hải quân có tải trọng lớn bằng tàu Ngư chính 206 (5872 tấn), tàu Ngư chính 311 (4500 tấn), Hải giám 111 (4420 tấn) hoặc các tàu khu trục tên lửa chuyển loại?
Thế nhưng mục đích chính của Trung Quốc không phải là cần các tàu lớn để chiếm ưu thế trong tranh chấp trên biển, đây không đơn thuần là hành động tận dụng các tàu hải quân cũ để làm tàu chấp pháp mà chúng ta cần tỉnh táo nhận thức rõ vấn đề này, ẩn giấu đằng sau chiến lược “quân sự hóa các hoạt động chấp pháp” của Trung Quốc còn có một mưu đồ nguy hiểm hơn rất nhiều. Các tàu hải giám này được “phù phép” nhằm mục đích tiếp cận những khu vực tàu hải quân Trung Quốc không được phép bén mảng, thực hiện những nhiệm vụ mà tàu hải quân không thể thực hiện được trên lãnh hải của nước khác.
Nam Đà 154 dưới cái lốt Hải giám 167
Các tàu hải quân hoán chuyển thuộc rất nhiều loại khác nhau, gần như bao hàm đủ cả các loại tàu thuộc một hạm đội hải quân chính quy. Chúng bao gồm: tàu kéo, tàu đo đạc luồng lạch, tàu điều tra hải dương, tàu trinh sát điện tử, vận tải đổ bộ và có cả các loại tàu tác chiến thực thụ như tàu rải lôi, tàu vận tải đổ bộ, tàu khu trục tên lửa và có thể cả tàu hộ vệ tên lửa.
Núp dưới danh nghĩa các tàu chấp pháp dân sự, các tàu điều tra hải dương như Nam Điều 411 có thể tiến hành các hoạt động điều tra đáy biển, thăm dò tài nguyên tại các khu vực mà nếu là tàu thuộc biên chế hải quân nó không thể tiến vào được, phục vụ âm mưu vơ vét tài nguyên khoáng sản trên đại dương của Trung Quốc trong tương lai.
Liệu có khi nào người Nhật nghĩ đến việc các tàu hải giám Trung Quốc sẽ tiến hành đo đạc, tìm kiếm, vẽ bản đồ luồng lạch các đảo ở Senkaku, trinh sát tìm luồng đường thuận lợi để phục vụ hoạt động đổ bộ đánh chiếm đảo trong tương lai? Các tàu Hải giám sẽ tiến hành hoàn hảo công việc mà các tàu như Đông Trắc 226 khi còn trong biên chế hải quân không thể làm được.
Liệu có ai ngờ rằng Hải Giám 137 (tàu rải lôi 814)
có thể mang theo 300 quả thủy lôi trong khoang ngầm?
có thể mang theo 300 quả thủy lôi trong khoang ngầm?
Khi các tàu điều tra và đo đạc hoàn thành nhiệm vụ thì sẽ đến lượt các tàu tác chiến, lúc đó chúng sẽ bất ngờ tiến hành các nhiệm vụ theo chức trách hải quân dưới cái lốt tàu chấp pháp.
Khi xảy ra xung đột trên biển, các tàu đổ bộ như Nam Vận 830 sẽ bí mật vận chuyển quân tiếp cận khu vực tác chiến, tàu Hải giám 112 (rải lôi 814) với 300 quả thủy lôi trong khoang ngầm tiến hành phong tỏa các con đường tiếp ứng của đối phương, tàu trinh sát điện tử tiến hành trinh sát và tác chiến điện tử, còn các tàu khu trục và hộ vệ tên lửa đảm nhận nhiệm vụ ngăn chặn máy bay và tàu chiến đối phương.
Với ưu thế bí mật, bất ngờ, nhiệm vụ tác chiến của một biên đội tàu hải quân sẽ được thực hiện hoàn hảo bằng một cụm tàu hải giám (Trung Quốc thường triển khai một biên đội từ 4-5 tàu hải giám và ngư chính trên khu vực tranh chấp), điều mà nằm mơ cũng không ai có thể nghĩ đến.
Tàu khu trục tên lửa 131 Nam Kinh (lớp 051 - Lữ Đại I) hiện đang “lột xác”
Đây không phải là một viễn cảnh mà là điều hoàn toàn có thể xảy ra, với các hành động và thủ đoạn trắng trợn đã từng thực hiện trong quá khứ, chúng ta cần cảnh giác đề phòng âm mưu này.
Tổng hợp
-Giật phăng "mặt nạ" các tàu hải giám giả hiệu của Trung Quốc
– An ninh Thủ đô, Giật phăng “mặt nạ” các tàu hải giám giả hiệu của Trung Quốc.
-Nguyễn Hưng Quốc: Nghĩ về các cuộc biểu tình chống Trung Quốc tại Việt Nam(VOA’s blog). - Ngô Thị Hồng Lâm: Chúng ta cần sức mạnh (BoxitVN). – Sài Gòn Hà Nội- Berlin- Cairo (ĐCV). – Nhận diện công an đánh đập anh Trương Văn Dũng trong trại Lộc Hà (DLB).
- NHẬT BẢN VÙNG LÊN (Sơn Trung). – NẾU VIỆT NAM KHÔNG NÓI ĐƯỢC THÌ NÊN NHỜ ÔNG SHINZO ABE … (TSYG). - Bản Tin Đặc Biệt: Ban Tuyên Giáo Trung Ương Điều Tra Các Báo Việt Nam (SBTNDC). – HẺM “BUÔN” CHUYỆN (KỲ 47) – Rút củi ra, bớt lửa đi … (Nhật Tuấn).- Trung Quốc tiếp tục diễu võ tại Biển Đông (Sống Mới).
- Trung Quốc lại đưa đường lưỡi bò vào game. - VNG ngừng vĩnh viễn trò chơi Chinh Đồ có “đường lưỡi bò” (TT).
- Ấn Độ sắp giao chiến với Trung Quốc trên biển? (FP/ TVN). – Tổng thống Obama khẳng định tầm quan trọng của liên minh Mỹ-Nhật (RFI). – Lá phiếu chống Trung Quốc của cử tri Nhật Bản (RFI).
- 2013 sẽ là năm của sự đối đầu ở châu Á? (SGTT). - Các kế hoạch quân sự nổi bật Châu Á sôi động (TN). - Biển Đông, Hoa Đông sẽ là khu vực “nóng” nhất ở châu Á – TBD năm 2013? (GDVN). - Ấn Độ, ASEAN hợp tác an ninh biển (TN). - Mỹ – Nhật thắt chặt quan hệ đồng minh (TN). - Mỹ trước “vách đứng” tranh chấp biển đảo ở châu Á.
- TÀU GIÃ CÀO XIN CHÀO BIỂN ! (Bùi Văn Bồng).
- Đại tá Phạm Xuân Phương: CẦN NHẬN DIỆN CHO RÕ THỰC TÊ VÀ LỊCH SỬ (Bùi Văn Bồng). - 1481. Đại tá Trần Đăng Thanh giảng về Biển Đông cho lãnh đạo các trường Đại học (Ba Sàm). “Đối với Trung Quốc hai điều không được quên: họ đã từng xâm lược chúng ta nhưng ta cũng không được quên họ đã từng nhường cơm xẻ áo cho chúng ta. Ta không thể là người vong ơn bội nghĩa”. - Giáo viên, sinh viên Trường Đại học Tôn Đức Thắng hướng đến ngư dân Hoàng Sa, Trường Sa (LĐ). - Gần 200.000 lượt ký tên ủng hộ chương trình xuồng CQ (TT).- Ban hành quy định quản lý tài nguyên huyện Hoàng Sa (TTXVN).- Nhật – Mỹ tăng cường hợp tác an ninh (TT). – Trung Quốc kêu gọi Nhật Bản theo đuổi hòa bình (VTV). – Ấn Độ quyết “chiếu tướng” Trung Quốc ở Biển Đông (VnMedia). – Bảo vệ toàn vẹn chủ quyền biển, đảo là nghĩa vụ của mỗi người dân? (ĐĐK).- Đại tướng Phùng Quang Thanh: “Không để đất nước bị động, bất ngờ về chiến lược” (Công thương).
**************************
-Nguồn:Bí Mật Ngũ Giác Đài Phần II: Tham Gia Vào Chiến Tranh Pháp Việt 1950 - 1954” – Kỳ 1
“...Pháp thì không muốn trao Độc Lập thực sự cho phe Quốc Gia Việt Nam, ngay cho đến khi sắp thất thủ ở Điện Biên Phủ vẫn ngoan cố không là không . Phe Quốc Gia dưới Bảo Đại thì không có lòng dân, quân đội vẫn do Pháp nắm...”
Quý bạn đọc có thể tải toàn bộ tài liệu "Bi mật Ngũ Giác Đài" tại đường lên kết
- "Bí mật ngũ giác đài - phần I: 1940-1950"
- "Bí mật ngũ giác đài - phần II: 1950-1954"
Lời người dịch:
Ngày 19 tháng Ba năm 1945, Nhật lật đổ Pháp [Vichy] giành trọn Đông Dương, đưa Vua Bảo Đại lên làm người đứng đầu nước Việt Nam nằm trong khối Thinh Vượng Chung Đại Đông Á. Bảo Đại tuyên bố Việt Nam Độc Lập và hủy bỏ các Hiệp Ước với Pháp, thống nhất ba miền.
Ngày 15 tháng 8 năm 1945, Đế quốc Nhật Bản đầu hàng vô điều kiện. Thế Chiến II chấm dứt.
Ngày 28-8-1945, Bảo Đại thoái vị và trao ấn, kiếm cho Đại diện Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, tuyên bố xoá bỏ chế độ quân chủ ở Việt Nam để lại câu nói lịch sử “Tôi thà làm công dân một nước tự do còn hơn làm vua một nước nô lệ” và trở thành Cố Vấn Tối Cao cho chính phủ Hồ Chí Minh.
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, ở Hà Nội, Hồ Chí Minh tuyên bố Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa hoàn toàn độc lập.
Năm 1946, Bảo Đại chạy qua Hồng Kông.Ở đó, cựu hoàng bản thân đã được thu hút không chỉ bởi đại diện của Pháp, mà cả VNDCCH, phía nào cũng tìm cách mời ông nhân danh họ mà hành động [thương thuyết] với Pháp. Sau cùng Bảo Đại đã bỏ Việt Minh và chấp nhận đứng đầu một Liên Minh Quốc Gia mới được thành lập và từ đây một thực thể Quốc Gia đối kháng với Cộng Sản thành hình. Đó là bối cảnh Việt Nam từ khi Nhật hất cẳng Pháp, đầu hàng năm 1945 đến 1950 mà một liên minh tay ba: Pháp, Bảo Đại và Mỹ xuất hiện với hai mục đích rõ ràng:
Pháp muốn tái lập chủ quyền thực dân ở Việt Nam, Mỹ muốn ngăn chận bành trướng của Cộng Sản [Trung Quốc] theo chủ thuyết Domino, Bảo Đại thì chỉ muốn làm tay chơi, ai cung phụng cho ông đều tốt cả … Cái thế “tiêu tùng” là ở chỗ đó .
Pháp thì không muốn trao Độc Lập thực sự cho phe Quốc Gia Việt Nam, ngay cho đến khi sắp thất thủ ở Điện Biên Phủ vẫn ngoan cố không là không . Phe Quốc Gia dưới Bảo Đại thì không có lòng dân, quân đội vẫn do Pháp nắm, Bảo Đại thì ù lì gần như không làm gì hết ngoại trừ ăn chơi, hộp đêm, đánh bạc, săn bắn, đua xe. Mỹ thì bị Pháp xỏ mũi dẫn dắt dù rất muốn và đã ép Pháp trao Độc lập hoàn toàn cho Việt Nam để tạo thế mạnh cho phe Quốc Gia chống lại Việt Minh lúc này chỉ gồm toàn là Cộng Sản…
Điện Biên Phủ thất thủ, Pháp đầu hàng, Hội Nghị Geneva kết thúc, Việt Nam hoàn toàn “Độc Lập” và bị chia hai . Miền Bắc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa “Độc Lập” dưới tượng đài Mác-Lê-Mao, miền Nam Việt Nam Công Hòa dưới tượng đài Tự Do mà vai trò là “tiền đồn chống cộng”.
Từ đây hai chữ Quốc Gia và Cộng Sản mang đầy đủ nội hàm thù địch, sinh tử, súng đạn, bom mìn, chém giết và tàn phá …
“Bí mật Ngũ Giác Đài – Phần III” là diễn tiến Hội Nghị Geneva …
Tôi sẽ trở lại sau khi tìm hiểu vì sao ông Ngô Đình Diệm bị lật và bị giết cùng với bào đệ Ngô Đình Nhu trong “Bí mật Ngũ Giác Đài – Phần IV-B-5” ( [Part IV. B. 5.] Evolution of the War. Counterinsurgency: The Overthrow of Ngo Dinh Diem, May-Nov. 1963)
“Bí Mật Ngũ Giác Đài Phần II:
Tham Gia Vào Chiến Tranh Pháp Việt 1950 - 1954”
II Hoa Kỳ Tham Gia vào Chiến Tranh Pháp – Việt Minh 1950-1954 (tập 1)
A. Hoa Kỳ, Pháp và chủ nghĩa Dân Tộc PhápTham Gia Vào Chiến Tranh Pháp Việt 1950 - 1954”
II Hoa Kỳ Tham Gia vào Chiến Tranh Pháp – Việt Minh 1950-1954 (tập 1)
B. Hướng về một giải pháp thương lượng
Phần II
Hoa Kỳ Tham Gia vào Chiến Tranh Pháp – Việt Minh
1950-1954
Hoa Kỳ Tham Gia vào Chiến Tranh Pháp – Việt Minh
1950-1954
Lời nói đầu
Phầnnghiên cứu này về chính sách của Hoa Kỳ về cuộc chiến tranh ở Đông Dương kể từ lúc Hoa Kỳ quyết định công nhận chế độ Việt Nam Quốc Gia của Hoàng đế Bảo Đại vào tháng Hai, 1950, thông qua việc thảo luận về một sự can thiệp của quân đội Hoa Kỳ vào cuối năm 1953 và đầu năm 1954. Mục A xem xét các mối quan hệ tam giác giữa Pháp, Mỹ, và chế độ Bảo Đại. Mục B phân tích kết quả của sự can thiệp, và các tiền đề cho Hội nghị Geneva.
A. Hoa Kỳ, Pháp và chủ nghĩa quốc gia Việt Nam
B. Tiến tới một giải pháp thương lượng
II. A. HOA KỲ, PHÁP VÀ CHỦ NGHĨA QUỐC GIA VIỆT NAM
TÓM TẮT
Đã cólập luận rằng ngay cả khi Hoa Kỳ bắt đầu hỗ trợ cho người Pháp ở Đông Dương, Hoa Kỳ đãbỏ lỡ cơ hội để mang lại hòa bình, ổn định và độc lập cho Việt Nam. Các vấn đề đã được nêu lên từ niềm tin của một số nhà phê bình rằng (a) Hoa Kỳ đã không cố gắng tìm kiếm và hỗ trợ một giải pháp quốc gia khác ở Việt Nam và (b) Hoa Kỳ chỉ huy, nhưng đã không sử dụng, nhữngthế thượng phong của mình để thúc đẩy Pháp trao trả Độc Lập chân chính cho Việt Nam.
Tài liệu ghi chép lại đã cho thấy cho đến năm 1953,người Pháp theo đuổi một chính sách dựa trên chiến thắng quân sự và đã loại trừ các cuộc đàm phán có ý nghĩa với Hồ Chí Minh. Người Pháp, tuy nhiên, đã công nhận là có đòi hỏi hướng về khát vọng quốc gia Việt Nam, và từ năm 1947 về sau, đã đưa ra "giải pháp Bảo Đại". Những tài liệu này cũng cho thấy thái độ do dự của Hoa Kỳ cho tới 1949 mới thông qua "giải pháp Bảo Đại" [với điều kiện] cho đến khi nào Việt Nam đã được thống nhất trên thực tế và được giao quyền tự chủ và nhất quán hổ trợ việc tạo dựng một chính phủ Việt Nam thực sự độc lập và không cộng sản để thay thế Pháp. Tuy nhiên,sự sụp đổ của Trung Quốc và các tình hình quân sự của Pháp bị xấu đi ở Đông Dương đã đưa đến cả Pháp và Hoa Kỳ đều nhấn vào "giải pháp Bảo Đại."
Đầunăm 1950, sau khi Pháp phê chuẩn Hiệp định Elysée đã trao "Độc lập” choViệt Nam, Hoa Kỳ công nhận Bảo Đại và khởi sự viện trợ kinh tế và quân sự được khởi xướng, ngay trước cả khi việc chuyển giao quyền lực của Chính phủ xảy ra trên thực tế. Sau đó, người Phápchỉ chuyển giao việc kiểm soát trên hình thức, trong khi Hoàng Đế Bảo Đại thì chỉ muốn giữ một vai trò nghĩ hưu và thụ động, và giao chính phủ cho những chính trị gia không uy tín. Chính quyền Bảo Đại không được lòng dân và cũng không hiệu quả, và quân đội của họ, phụ thuộc vào chỉ huy người Pháp, tỏ ra bất lực. Sự bất lực của chế độ Bảo Đại, sự thiếu vắng bất kỳ lựa chọn thay thế nào có thể thấy được (trừ những người cộng sản), sự kiện Pháp tiếp tục nắm quyền và kiểm soát Chính phủ Việt Nam, sự kiện là dường như chỉ có một mình người Pháp là có khả năng ngăn chận cộng sản ở Đông Dương - tất cả những hạn chế đó đã thúc giục Hoa Kỳ [ủng hộ] cho một chính phủ dân chủ-quốc gia ở Việt Nam. (Bảng 1)
[Vì] Cácmối quan hệ Mỹ-Pháp ở châu Âu (NATO, Kế hoạch Marshall, Chương trình Hỗ trợ Lẫn Nhau về Quốc phòng) khiến Hoa Kỳ không mấy mạnh mẽ trong việc đòi hỏi Pháp nhượng bộ cho phía Việt Nam quốc gia. Bất kỳ với chuyện nào kể trên, thế nói chuyện với Pháp [về Đông Dương], Hoa kỳ đêu bị hạn chế bởi những cân nhắc rộng hơn nặng về chính sách ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản ở châu Âu và châu Á. NATO và Kế hoạch Marshall bản thân chúng được đánh giá là những thiết yếu cho lợi ích của chúng ta ở Châu Âu. Đe dọa trừng phạt kinh tế và quân sự với Pháp ở châu Âu để ép Pháp thay đổi chính sách của họ ởĐông Dương, vìvậy, trở nên không thích đáng. Tương tự như vậy, giảm mức viện trợ quân sự cho các nỗ lực của Pháp ở Đông Dương sẽ là phản tác dụng, vì làm như thế sẽ làm suy giảm hơn nữa vị thế quân sự Pháp ở đó. Nói một cách khác, có một sự đối nghịch cơ bản giữa hai con đường trong chính sách của Mỹ: (1) Washington muốn Pháp chiến đấu và chiến thắng cộng sản, tốt nhất là dưới sự hướng dẫn và tư vấn của Mỹ, và (2) Washington chờ đợi Pháp, sau khi chiến thắng [Thế Chiến] đã được đảm bảo thì nên cao thượng mà rút ra khỏi Đông Dương. Đối với Pháp, cólẽ họ đã chiến đấu trong chiến tranh thuộc địa nhiều hơn là trong chiến tranh chống cộng sản, chắc đã thấy hậu quả của việc rút ra sẽ ảnh hưởng đến các thuộc địa khác như Algeria, Tunisia và Ma Rốc, chuyện cao thượng rút quân chắc là không có khả năng.
Chính sách của Pháp không có những đối khángnhư thế, đã có thể theođuổi cuộc đua thương lượng với một thế mạnh hơn. Malthus, người Pháp đã chống lại áp lực từ Washington và cơ quan MAAG [Military Assistance Advisory Group] ở Sài Gòn là muốn tạo ra một đội quân thật sự Việt Nam, được nhiều tự chủ hơn ở Việt Nam và theo đuổi cuộc chiến tranh có hiệu quả hơn. MAAG bị chuyển xuống thành một cơ quan tiếp liệu và những lời nhắc nhở đôi khi của họ thường được người Pháp diễn giải như nhữngcan thiệp vào công việc nội của họ. Mặc dùcho đến năm 1954, Hoa Kỳ tài trợ 78% của chiến phí, người Pháp vẫn kiểm soát toàn bộ việc bố trí viện trợ quân sự và các công tác tin tức tình báo và việc lập kế hoạch các chiến dịch quân sự. Những kỳ vọng chiến thắng của Pháp trên Việt Minh đã khuyến khích Hoa Kỳ "đồng hành" với Paris cho đến khi chiến tranh kết thúc [1954]. Hơn nữa, Hoa Kỳ miễn cưỡng đối kháng với Pháp bởi vì các ưu tiên trong kế hoạch của Washington là cần sự tham gia của Pháp trong cộng đồng Quốc phòng Châu Âu. Pháp, vì vậy, đã có con chủ bài đáng kể và, trừ khi Hoa Kỳ phải hổ trợ trên các điều kiện của Paris, nếu không Pháp có thể, trên thực tế, Pháp đã thực sự đe dọa không tham gia EDC [Liên minh quốc phòng Âu Châu – European Defense Community] và [đe dọa] ngưng chiến đấu ở Đông Dương. (Tab 2)
Giới học giả và hoạch định chính sách của Hoa Kỳ có khuynh hướng đánh giá cộng sản như một cục nguyên khối. Việt Minh, vì vậy, đã được coi là một phần của Đông Nam Á trong toan tính mở rộng phong trào cộng sản trên toàn thế giới. Mặt khác, việc đối kháng của Pháp với Hồ Chí Minh, lại được cho rằng đó là một việc thiết yếu trong việc ngăn chận cộng sản. Nhận thức về các mối đe dọa chiến lược của cộng sản, hổ trợ bởi nguyên tắc Domino: chỉ cần một quốc gia đơn nhất ở Đông Nam Á bị rơi vào tay cộng sản, thì việc các quốc gia khác trong khu vực rơi sẽ vào vòng kiểm soát của cộng sản là không thể đảo ngược. Thuyết Domino, bắt nguồn có lẽ từ thời điểm mà phe Quốc Gia rút khỏi Đại Lục Trung Quốc, là gốc rễ của chính sách của Mỹ. Mặc dù các yếu tố của thuyết Domino, có thể được tìm thấy trong các giấy tờ NSC [Hội Đồng An Ninh Quốc Gia – National Sesurity Council] trước khi chiến tranh Triều Tiên bắt đầu, sự can thiệp của Trung Quốc vào [chiến tranh Triều Tiên] được cho là một xác nhận đáng ngại về gía trị của lý thuyết này. Khả năng một sự can thiệp quy mô lớn của Trung Quốc ở Đông Dương, tương tự như ở [bán đảo] Triều Tiên, là đáng lo ngại, đặc biệt là sau khi hiệp ước đình chiến ở Triều Tiên [được ký kết].
Chính quyền Eisenhower tiếp nối các chính sách cơ bản của vị tiền nhiệm của mình, cũng là vẫn là tiếp tục đẩy mạnh các cam kết của Hoa Kỳ ngăn chặn [cộng sản] ở châu Á. Bộ Trưởng [Ngoại Giao] Dulles theo đuổi một chính sách thẳng băng và chống cộng đã nói rõ rằng ông sẽ không cho phép "mất” Đông Dương, trong cách thức như phe Dân chủ đã đã làm "mất" Trung Quốc [vào tay cộng sản]. Dulles đã cảnh cáo Trung Hoa [công sản] không được can thiệp, và kêu gọi người Pháp phải hướng tới một chiến thắng quân sự. Dulles chống đối một cuộc ngưng bắn và cố gắng thuyết phục Pháp tránh đàm phán với Việt Minh cho đến chừng nào họ đạt được những cải thiện đáng kể vị thế thương lượng của mình thông qua hành động của họ trên chiến trường. Hội Đồng An Ninh Quốc Gia vào đầu năm 1954 đã được thuyết phục rằng một chế độ liên minh phi cộng sản cuối cùng rồi sẽ giao đất nước cho Việt Minh. Hậu quả là với một chính sách thiên quân sự này, chính phủ Hoa Kỳ có xu hướng tập trung vào khía cạnh quân sự nhiều hơn chính trị trong cuộc chiến giữa Pháp và Việt Minh.. (Tab 3 )
THẢO LUẬN
II. A. Tab 1 - Chính sách của Hoa Kỳ và chế độ Bảo Đại
Tab 2 – Thế thương lượng: Pháp có nhiều hơn có Hoa Kỳ
Tab 3 - Nhận thức về các mối đe dọa của cộng sản Đông Nam Á và về lợi ích cơ bản của Hoa Kỳ
II. 1. A.
Chính sách của Hoa Kỳ và chế độ Bảo Đại
Mục Lục
1. Giải Pháp Bảo Đại a. Nhữngkhó khăncủa Pháp b. Hiệp địnhVịnh Hạ Lòngnăm 1948 c. Hiệp địnhElyséenăm 1949 d. Chính phủ Bảo Đại e. Cuộc đàm phánPau, 1950 2. Chính Sách của Hoa Kỳ đối với Bảo Đại a. Đủ điều kiện phê duyệt, 1947-1949 b. Công nhận năm 1950 c. Mỹ Viện trợ cho Đông Dương d. Pháp không khoan nhượng (1) 1950-1951: De Lattre và "năng động" (2) 1951-1953: Letourneau và "độc tài" e. Bảo Đại chờ đợi f. Các khó khăn của Mỹ |
A.5 A.5 A.5 A.7 A.7 A.9 A.11 A.11 A.13 A.17 A.18 A.18 A.20 A.22 A.26 |
II. A. 1. Chính sách của Hoa Kỳ và chế độ Bảo Đại
1. Giải Pháp Bảo Đại
a. Nhữngkhó khăn của Pháp
Nhận thứcPháp vê cuộc xung đã đột nổ ra trong tháng Mười Hai, 1946, giữa lực lượng của họ ở Đông Dương và các lực lượng Việt Minh của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) đã dắt đầu thay niềm lạc quan vô bờ bằng nỗi u ám không kiềm chế được. Trong tháng Năm, năm 1947, Bộ trưởng Bộ Chiến tranh Coste-Floret tuyên bố ở Paris: "Đã không còn bất cứ vấn đề quân sự gì ở Đông Dương... sự thành công của quân lực Pháp là hoàn tất". 1/ Trong sáu tháng, mặc dù hàng loạt tấn công bằng tầu đổ bộ bọc thép, xe lội nước, đánh bom vào vùng núi phía Bắc và dọc bờ biển miền Trung, Việt Minh vẫn đưa ra các cuộc tấn công và phá hoại các trục lộ giao thông qua những [kế hoạch] dàn dựng vững chắc, và lúc ấy Paris đến lúc nhận ra họ đã mất chủ động trên chiến trường. Trong khi đó, Pháp đã tung ra những đột phá chính trị đầy tham vọng và cùng mức độ không hiệu quả. Leon Pignon cố vấn chính trị của chỉ huy Pháp ở Đông Dương, và sau đó thành Cao Ủy [Đông Dương], đã viết vào tháng Giêng, năm 1947, đó là:
"Mục tiêu của chúng ta là rõ ràng: hoán vị [chúng ta] vào lĩnh vực chính trị ở Việt Nam mà chúng ta đang tranh cãi với Việt Minh, và để bản thân chúng ta càng ít tham gia càng tốt vào những chiến dịch quân sự và trả đủa, nó phải là công việc của những đối thủ người bản xứ của đảng đó [Việt Minh]".
Trong vòng một tháng, một sứ giả được gửi vào rừng để giao cho chính phủ Hồ Chí Minh một đòi hỏi tương đương với việc đầu hàng vô điều kiện. Khoảng cùng thời gian đó, đại diện Pháp tiếp cận Bảo Đại, cựu Hoàng đế An Nam, với đề xuất hình thành một chính phủ Việt Nam như một giải pháp thay thế cho Hồ Chí Minh. Vừa không có khả nằng áp đặt một giải pháp quân sự, vừa đã khóa kín mọi đàm phán có ý nghĩa với Hồ, người Pháp đã chuyển sang Bảo Đại như khách hàng tiềm năng duy nhất có thể giúp họ thoát khỏi tình thế tấn thối lưỡng nan ở Việt Nam. 2/
b. Hiệp địnhVịnh Hạ Long năm 1948
Triều đình phong kiến của Bảo Đạiở Huế, Việt Nam, là một cái gì chút ít cao hơn một công cụ trong chính sách thuộc địa của Pháp, và - sau khi bị Nhật Bản chiếm đóng – lại [là công cụ] nằm trong chính sách của Nhật Bản. Bảo Đại trở thành Hoàng đế ở tuổi 12, năm 1925, nhưng đến năm 1932 mới thực sự lên ngôi sau khi được giáo dục tại Pháp. Tháng Támnăm 1945, khi Việt Minh đến Huế, Hoàng Đế thoái vị nhường quyền cho Hồ Chí Minh của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và nhận chức vụ "Cố vấn tối cao" cho nhà nước mới. Năm 1946, cựu hoàng rời Việt Nam, và đến Hồng Kông. Ở đó, cựu hoàng bản thân đã được thu hút không chỉ bởi đại diện của Pháp, mà cả VNDCCH, phía nào cũng tìm cách mời ông nhân danh họ mà hành động [thương thuyết] với Pháp.
Ban đầu Bảo Đại giữ vị trí trung lâp đứng giữa hai phe đối thủ nhưng đã sớm được phe quốc gia không cộng sản thuyết phục từ chối lời đề nghị của Việt Minh. Một nhóm các phe này [quốc gia], bao gồm các thành viên của Cao Đài, Hòa Hảo, Đồng Minh Hội, Đại thú, và các VNQPD thành lập một Liên Minh Quốc Gia, và tuyên bố hỗ trợ cho Bảo Đại. Một người uy tín đã đánh giá Liên Minh Quốc Gia là "một liên minh mong manh bao gồm những kẻ hợp tác [với Tầu, với Nhật] mất uy tín, những bậc thầy tham vọng đầy âm mưu, những giáo phái không năng lực, và một số lãnh đạo trung thực nhưng nông cạn không người theo" Trong số những người vừa kể có Ngô Đình Diệm, người đã "lần đầu tiên và lần duy nhất, gia nhập một nhóm mà ông không phải người sáng lập", và đã thề nguyền ủng hộ Hoàng đế miễn là ông ta theo đuổi độc lập cho Việt Nam. 3/
Bây giờ,khi đã loại bỏ được việc chọn ủng hộ Việt Minh, Bảo Đại đã trở nên dễ phục tùng hơn trong các cuộc thương thuyết với người Pháp, và tương ứng, người Pháp trở thành gay gắt hơn trong thái độ của họ đối với Việt Minh. Tuy nhiên, ít cam kết được đúc kết từ các cuộc đàm phán. Ngày07 tháng 12 năm 1947 trên một tàu chiến của Pháp ở Vịnh Hạ Long, Bảo Đại đã ký Hiệp định với Pháp, người Pháp đã cam kết quá ít độc lập chính trị cho Việt Nam đến nỗi ngay tức khắc Hiệp Ước đã bi lên án không chỉ bởi Diệm, mà cả nhiều đồng nghiệp cơ hội chủ nghĩa trong Liên minh Quốc gia. Bảo Đại, trong một hành đông mà được xem như là một rút lui chính trị, tự tách mình ra khỏi những mưu đồ đang khai diễn, và bỏ chạy sang tìm vui trong những điểm giải trí ở Châu Âu trong một chuyến đi chơi bốn tháng, việc làm đã cho ông cái mệnh danh là"Hoàng Đếcâu lạc bộ đêm".
c. Thỏa Thuận Elysée, 1949
Ngày 8 tháng 3 năm 1949, sau nhiều tháng đàm phán, Tổng thống Pháp Auriol, trong những trao đổi thư tín với Bảo Đại, đã tái khẳng định để Việt Nam độc lập cho như một nước nằm trong Liên Hiệp Pháp và [đưa ra] những]thủ tục chi tiết cho một Việt Nam thống nhất và đặt nó dưới chính quyền của Việt Nam. Tuy nhiên, trong Hiệp địnhElysée, Pháp lại không giao lại quyền kiểm soát cả quân đội lẫn ngoại giao cho phía Việt Nam, và một lần nữa lại hoãn việc sắp xếp cho gần như tất cả các khía cạnh khác của quyền tự chủ. Tuy nhiên, Bảo Đại dường như đã tự thuyết phục rằng Pháp là đủ tuyệt vọng ở Đông Dương để phải tôn trọng Hiệp định, tuyên bố rằng:
… Một thời kỳ tái thiết và đổi mới sẽ mở ra tại Việt Nam. Đất nước sẽ có những định chế dân chủ được đưa ra chủ yếu là để phê duyệt các thỏa thuận hiện tại.... Cải cách sâu sắc về kinh tế và xã hội sẽ được định chế hóa để nâng cao đời sống của nhân dân và thúc đẩy công bằng xã hội là những điều kiên và bảo đảm cho trật tự... [Tôi tìm cách] đoàn kết tất cả người Việt Nam, không phân biệt khuynh hướng chính trị và tôn giáo, và [nhận được] những hỗ trợ hào phóng của nước Pháp mà tôi có thể tin tưởng vào... "5/
Mặc dù lập trường [đã] công khai của mình, Bảo Đại trì hoãn trở về Việt Nam cho đến khi một quốc hội Nam Kỳ được bầu xong (mặc dù là một trò hề bầu cử), và đã không về Sài Gòn cho đến khi Quốc hội Pháp đã phê duyệt việc Nam Kỳ sát nhập vào phần còn lại của Việt Nam [Nam Kỳ không còn là nhượng địa cho Pháp, Bắc kỳ không còn dưới sự bảo hộ của Pháp]. Cuối tháng Sáu, năm 1949, Việt Nam đã được hợp pháp thống nhất dưới thời Bảo Đại, nhưng việc trao lại quyền lực liên quan đến các chức năng hành chính còn chậm, và thường chỉ có tính chất làm mẫu; không có quyền lực thực sự hoặc cơ quan có thẩm quyền đã được chuyển cho phía Việt Nam. Nhà nước Việt Nam [mới] đã trở thành một thứ ngụy trang cho Pháp tiếp tục cai trị ở Đông Dương. Như Bảo Đại, đã mô tả tình hình vào năm 1950, "Những gì họ gọi là một giải pháp Bảo Đại hóa ra chỉ là một giải pháp Pháp.... Tình hình ở Đông Dương mỗi ngày mộtcàng tồi tệ hơn...".
d. Chính Phủ Bảo Đại
Nhiều yếu tố không lành mạnh trong Liên Minh ủng hộ Bảo Đại đã chi phối chế độ của ông. Ngô Đình Diệm và một vài người quốc gia chính trực khác từ chối các chức vị cao trong chính phủ, và rút lại sự ủng hộ của họ cho Bảo Đại từ khi mà họ thất vọng cho những mong đợi của họ về quyền tự chủ [của VN]. Diệm tuyên bố công khai chỉ trích sự liêm khiết của những người đã chấp nhận những chức vụ[trong chính phủ]:
"Nguyện vọng quốc gia của người dân Việt Nam sẽ được thỏa mãn chỉ vào ngày mà quốc gia của chúng ta có được cùng một chế độ chính trị như Ấn Độ và Pakistan đang hưởng... Tôi tin rằng đó là điều duy nhất đúng đắn để bổ nhiệm các chức vụ cho [chính phủ] Việt Nam với những người xứng đáng nhất của đất nước; tôi nói về những người đang chống lại... 7/
Tuy nhiên, không chút một cố gắng đi tìm trong giới "kháng chiến", Bảo Đại đã chọn các nhà lãnh đạo cho [chính phủ của] mình trong số những người có những liên hệ mạnh mẽ với Pháp, thường là những người giàu có và đáng nghi ngờ, hoặc có quan hệ với thế giới tân-chủ nghĩa trọng thương của Pháp và những người Việt trụy lạc. Không có người nào có được quần chúng theo sau. Tướng Georges Revers, Tham mưu trưởng của quân đội Pháp, người đã được gửi đến Việt Nam để đánh giá tình hình trong tháng năm và tháng Sáu năm 1949, đã viết rằng:
"Nếu Hồ Chí Minh đã có thể để ngăn chặn sự can thiệp của Pháp quá lâu, bởi vì người lãnh đạo Việt Minh đã được bao quanh mình với một nhóm người mà giá trị là không thể chối cãi... [Bảo Đại, ngược lại] có một chính phủ bao gồm hai mươi đại diện của các đảng ma, đảng tổ chức tốt nhất trong số đó sẽ có khó khăn trong việc tập hợp chỉ 25 thành viên" 8/
Bản thân Bảo Đại, tiếp theo đó, đã không làm gì để làm cho chính phủ của ông có tính đại diện và hiệu quả hơn. Ông chia thời gian của mình trong những niềm vui ở thị trấn nghỉ mát Đà Lạt, Nha Trang, và Ban Mê Thuột, và trên mọi phương diện thực tế, vẫn nằm ngoài sự tiến hành của chính phủ.
Một nhà ngoại giao Hoa Kỳ phục vụ tại Việt Nam vào thời điểm đó, biết rõ Bảo Đại, đã đánh giá ông này trong các từ ngữ sau:
"Bảo Đại, trên tất cả, là một người thông minh trí tuệ, ông có thể thảo luận về các chi tiết phức tạp của các hiệp định khác nhau và toàn bộ mối quan hệ liên quan với Pháp cũng bằng hay tốt hơn so với bất cứ người nào mà tôi biết. Ông là một người đã bị làm tê liệt bởi giáo dục Pháp của ông. Tính cách của ông là quá trầm tĩnh [theo nghĩa cóc cần]. Ông tự cho phép mình bị bán bởi người Pháp dựa trên một sai lầm thay vì trên một khái niệm tiến hóa hợp lý, và khi chuyện đó phù hợp cho mình thì ông cũng đồng tình, và ông đã gần như mang bệnh bị xấu hổ, đó là một trong những lý do mà ông luôn luôn thích đeo kính đen. Có lẽ ông đã qua các chu kỳ trầm cảm, và khi ông chán nản, ông sẽ ăn mặc với bộ quần áo Việt Nam [khăn đóng áo dài]thay vì như người châu Âu, và không nói một tiếng nào về Pháp. Chính sách của ông, ông nói với tôi, trong một hoàn cảnh nghiêm trang, về một trong những chính sách đó, đó là một chính sách ‘gặm nhắm’ hay 'cắt tỉa’,và ông đã đau đớn nhận thức được điều đó. Pháp, tất nhiên, không bao giờ hạnh phúc khi người Hoa Kỳ chúng ta có quan hệ tốt với Bảo Đại, và họ đã nói với ông như vậy. Thật không may, họ [Pháp] cũng có một số [thủ đoạn] hăm dọa ông ta, về mối quan hệ của ông với các doanh nghiệp cờ bạc ở Sài Gòn và tình yêu của ông với sự [tiêu xài] hoang phí." 9/
Dù đức tính của ông ra sao, Bảo Đại không phải là một người có thể kiếm được sự trung thành của nông dân Việt Nam. Ông thậm chí không thể giữ được sự trung thành của những người quốc gia trung chính, một trong số đó, ví dụ, là Bác sĩ Phan Quang Đán - một người lỗi lạc, có khả năng, phi-cộng sản và ban đầu ủng hộ "giải pháp", và là một người bạn riêng của Bảo Đại- (Bác sĩ Đán về sau, là lãnh đạo đối lập thời Diệm). Bác sĩ Đán có một cuộc trò chuyện với mẹ của Bảo Đại, trong đó bà mô tả con trai của mình đã thất bại để tìm ra ai là người đáng tin tưởng, và chán nản với bầu không khí thù địch bao quanh ông. 10/
Thêm nữa, Bác sĩ Đán từ chức Bộ Trưởng Thông tin trong chính phủ Bảo Đại vì [bất mãn] Hiệp định Elysée, và, mặc dù ông vẫn gần gũi với vị hoàng đế, không muốn nhận bất cứ chức vụ gì với vua. Bản thân Bảo Đại đã đưa ra những giải thích mâu thuẩn về triết lý chính trị của ông, điều có thể giải thích lý do tại sao ông không nắm được trái tim của người nông dân đang bị hà hiếp, hay các nhà lãnh đạo chính trị nghiêm túc - không ai trong số những người này có thể tiêu hóa được [ý niệm] "tỉa cắt" khi đòi hỏi phải là một cuộc cách mạng. Bảo Đại nói:
"Làm chính trị giống như chơi một trò chơi, và tôi đã luôn luôn coi là cuộc sống là một trò chơi” 11/
e. Thương thuyết ở Pau, 1950
Tuy nhiên, Bảo Đại đã làm việc để áp lực Pháp. Các quan chức Pháp trong thực tế, than phiền với một nhà văn Hoa Kỳ rằng Bảo Đại đã dành quá nhiều thời gian vào các mục đích như thế:
"Ông ta đã tập trung quá nhiều vào những gì mà ông có thể đòi từ chúng tôi thay vì lo xây dựng việc nhân dân trong nước hỗ trợ mình.. Lịch sử sẽ phán xét nếu ông ta chỉ lo làm quá về điều đó... "12/
Từ cuối tháng Sáu, năm 1950, cho đến cuối tháng mười một, Bảo Đại sát cánh chặc chẽ với hàng loạt hội nghị ở Pau, ở Pháp, được triệu tập để sắp xếp việc chuyển giao cho người Việt Nam các ban ngành về di trú, truyền thông, ngoại thương, hải quan,và tài chính. Vấn đề tài chính là đặc biệt là gai góc vì nó,liên quan đến việc kiểm soát ngoại hối hấp dẫn. Trong khi người Pháp đã có thể có nhiều nhượng bộ đáng kể cho Việt Nam, thì Lào và Campuchia trong từng khu vực thảo luận, đòi được quyền "quan sát" và "can thiệp" trong các vấn đề "liên quan Liên hiệp Pháp như một khối chung." Thật vậy, Pháp đã bảo đảm cho họ được quyền truy cập vào toàn bộ thông tin của chính phủ, tự cho phép mình tham gia vào tất cả các quyết định của chính phủ, và chỉ chịu giảm [nhượng bộ] đi một ít lợi ích kinh tế. 13/
Một số nhà bình luận Pháp xem Pau như một thiên tai không thể làm nhẹ và bảo đảm sự sụp đổ sớm của Pháp ở Đông Dương. Như một trong những người viết đã nêu ra:
"Bằng cách chấp nhận những hạn chế [có thể xảy ra]lênthương mại trong Liên hiệp Pháp, mất tất cả các quyền lực thực sự về việc phát hành tiền, bằng cách từ bỏ quyền kiểm soát về ngành ngoại thương, bằng cách cho phép một hệ thống kiểm soát giá cả đối với hàng hoá xuất và nhập khẩu, chúng ta đã cho các nước thành viên [trong Liên Hiệp Pháp]tất cả quyền lực mà họ cần nếu họ muốn đảm bảo việc hủy hoại các doanh nghiệp của chúng ta và buộc họ [doanh nghiệp]rút lui mà không bất kỳ cách nào tránh không xâm hại đến đồng bào của chúng ta.” 14/
Nhưng một nhà bình luận người Việt thời cận đại đã có một cái nhìn khác:
"Tất cả các hiệp định [Pau] là để bảo tồn cho Pháp một vị trí đặc quyền ở Đông Dương, hỗ trợ bởi sự hiện diện của một hạm đội và một quân đội mạnh mẽ. Ngay cả nếu không còn một ai còn nói về một Liên bang Đông Dương, nó vẫn là một liên bang hành chính và kinh tế (Liên minh tiền tệ, Liên minh Hải quan, Liên minh Truyền thông, v.v…) phối hợp các hoạt động khác nhau của ba nước thành viên [Việt, Miên, Lào]. Pháp luôn luôn thực hiện việc kiểm soát thông qua các đại diện của họ có mặt trong tất cả các cơ quan quy hoạch, giám sát liên bang, và thông qua một thứ như quyền phủ quyết, bởi vì chủ tịch hoặc Tổng thư ký của các ban luôn luôn là được lựa chọn bởi quyết định chung của bốn chính phủ [Việt, Miên, Lào và Pháp], và hơn nữa, bởi vì hầu hết các quyết định của ủy ban được thực hiện theo nguyên tắc nhất trí".(Trích dẫn trong cùng một tài liệu tham khảo ở trên)
Đại biểu của Bảo Đại, tuy nhiên, nói chung hài lòng với kết quả của Pau. Thủ tướng Chính phủ của ông, Trần Văn Hữu đã tuyên bố khi ông đã ký các hiệp định rằng "độc lập của chúng tôi bây giờ là hoàn hảo." Tuy nhiên, với những người Việt Nam bình thường, những người Pháp trung thực, và với người Mỹ, Trần Văn Hữu được chứng minh là đã sai một cách thê thảm.
(xem tiếp kỳ 2)
-
“...Mặc dù Hoa Kỳ công nhận những thiếu sót nghiêm trọng của Pháp tại Việt Nam, Hoa Kỳ bị buộc phảiđối phó với tình hình ở Đông Dương thông qua Pháp bởi hai lẽ...”-
2. Chính sách của Hoa Kỳ đối với Bảo Đại
a. phê duyệt đủ điều kiện
"Giải pháp Bảo Đại" là phụ thuộc vào hỗ trợ của Mỹ. Trong những năm 1950, các cuộc đàm phán tại Pau, Pháp, Thủ tướng Chính phủ Trần Văn Hữu của Bảo Đại đã được gọi trở về Đông Dương bởi một loạt các đảo ngược [tình thế] của quân đội Pháp ở Bắc Kỳ. Trần Văn Hữu nắm lấy cơ hội này để kêu gọi Hoa Kỳ "là một quốc gia dân chủ hàng đầu", và hy vọng rằng Hoa Kỳ sẽ:
"… áp lực lên Pháp để [VN] đạt được tự do dân chủ. Chúng tôi muốn được quyền quyết định các vấn đề riêng của chúng tôi cho chính chúng tôi." 15/
Trần đòi hỏi Hiệp Định Elysée phải được thay thế bằng một quyền tự quyết thực sự cho Việt Nam:
"Không cần thiết phải để cho những người trẻ phải chết để một kỹ sư người Pháp có thể được làm giám đốc cảng Sài Gòn. Nhiều người chết mỗi ngày vì Việt Nam không được độc lập. Nếu chúng tôi đã có độc lập thì dân chúng sẽ không có lý do để chiến đấu".
Chuyện Trần nói với Hoa Kỳ là điều thực tế, nếu không phải là đúng đắn, vì Hoa Kỳ đã tham gia ở Đông Dương như là một phần của một tam giác rắc rối với Pháp và chế độ Bảo Đại. Thật vậy, Hoa Kỳ đã có một vai trò quan trong "giải pháp Bảo Đại" từ khi nó thành lập. Ngay trước khi Hiệp định Vịnh Hạ Long, sáng kiến Pháp đãnhận được một số hỗ trợ từ tháng mười hai năm 1947, như bài viết trong tạp chíLifecủa William C. Bullitt, cựu Đại sứ Hoa Kỳ tại Pháp. Bullitt lập luận [ủng hộ] cho một chính sách nhằm chấm dứt "cuộc chiến đáng buồn nhất" bằng cách lấy lại được phần lớn phe Việt Nam quốc gia trong tay Hồ Chí Minh và trong tay những người Cộng sản thông qua một phong trào xây dựng xung quanh Bảo Đại. 16/
Quan điểm của Bullitt được chấp nhận rộng rãi tại Pháp như là một tuyên bố về chính sách của Mỹ, và một chứng thực trực tiếp và lời hứa viện trợ của Hoa Kỳ, cho Bảo Đại. Bảo Đại, cho dù ông chấp nhận tin vịt Bullitt hay không, dường như đã cảm nhận rằng Hoa Kỳ chắc chắn sẽ bị hút vào khu vực Đông Nam Á, và dường như đã chờ đợi rằng sự tham gia của Hoa Kỳ sẽ được đi kèm với việc Hoa Kỳ sẽ làm áp lực trên Pháp nhân danh dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, Hoa kỳ, mặc dù nhận thức cao về tình thế tiến thoái lưỡng nan của Pháp, ban đầu miễn cưỡng đồng ý giải pháp Bảo Đại cho đến khi nó trở thành hiện thực. Các thông điệp của Bộ Ngoại Giao [Hoa Kỳ] sau đây đưa ra quan điểm của Mỹ:
Ngày 14 tháng 8, 1948 (Bộ số 2637 gửi Paris):
"Một Hiệp định [vịnh Hạ Long] kèm theo những thay đổi về tình trạng củaNam Kỳ đã được phê duyệt. Bộ sẵn sàng xem xét đưa ra những ủng hộ của mình để thúc đẩy thêm sự thừa nhận công khai về hành động của Chính phủ Pháp là để hướng tới một giải pháp tương lai cho tình hình khó khăn ở Đông Dương và hướng tới việc thực hiện nguyện vọng của nhân dân Việt Nam. Điều như Bộ đã nêu ở trên đây cho thấy sự chấp thuận của Hoa Kỳ là sẽ hổ trợ về vật chất để tăng sức mạnh của phe quốc gia để chống lại cộng sản ở Đông Dương...".
Ngày 30 tháng 8, 1948 (Bộ số 3368 gửi Paris):
"Bộ thông hiểu rõ những khó khăn mà bất kỳ Chính phủ Pháp nào lấy hành động quyết định đối với Đông Dương, chỉ có thể nhìn thấy tình hình xấu đi một cách nhanh chóng trừ khi Hiệp định [Vịnh Hạ Long] với nhiều thỏa thuận tích cực hơn, những luật lệ ban hành và những hành động sẽ cho phép thay đổi tình trạng của Nam Kỳ, và ngay lập tức khởi đầu việc đàm phán chính thức nhằm tới Hiệp định đó. Bộ tin rằng không được bỏ qua bất cứ chuyện gì có thể tạo sức mạnh cho phe Quốc Gia và xúi những người hiện tại đang ủng hộ Việt Minh quay về phe của nhóm đó [quốc gia]. Chuyện xúi bảo đó không thể thực hiện được trừ khi nhóm này đưa ra được những bằng chứng cụ thể là Pháp đang chuẩn bị để nhanh chóng hình thành một chính phủ Việt Nam Tự Do nằm trong Liên Hiệp Pháp, và có tất cả các thuộc tính của một chính thể tự do".
Ngày 17 tháng 1, 1949 (Bộ số 145 gửi Paris):
"Trong khi Bộ mong muốn Pháp tiếp cận Bảo Đại hay bất kỳ nhóm thực sự quốc gia nào có cơ hội hợp lý để đạt ưu thế [chính trị] đối với người Việt Nam, vào thời điểm này chúng ta không thể [sic] cam kết hỗ trợ cho một chính phủ bản địa mà họ không được lòng người Việt Nam, có thể trở thành gần như là một chính phủ bù nhìn, tách nó ra khỏi người dân, và hiện diện chỉ bởi vì có sự hiện diện của quân đội Pháp…”.
Hiệp định Elysee đã diễn ra vào tháng ba năm 1949. Tại thời điểm này, sự thất bại của Trung Quốc [Quốc Dân Đảng] thúc ép; và Hoa Kỳ đã bắt đầu xem xét "giải pháp Bảo Đại" với một cảm giác cấp bách:
Ngày 10 tháng 5, 1949 (Bộ số 77 gửi Paris):
"Giả định rằng... mong muốn của Bộ về cuộc thử nghiệm với Bảo Đại thành công là hoàn toàn chính xác. Vì từ khi dường như không có giải pháp thay thế nào cho mô hình cộng sản đang hiện hửu ở Việt Nam, Bộ cho rằng không một nỗ lực nào được bỏ qua bởi Pháp, hay các cường quốc phương Tây, và cả những nước Á Châu không cộng sản để đảm bảo cơ hội thành công tốt nhất cho cuộc thí nghiệm.
"Vào thời điểm và hoàn cảnh thích hợp, Bộ sẽ chuẩn bị sẵn sàng để thực hiện về phần của mình bằng cách đưa ra việc công nhận Chính phủ Bảo Đại và bằng cách khai thác mọi khả năng có thể phù hợp với mọi yêu cầu của Chính phủ này về viện trợ vũ khí và kinh tế. Phải được hiểu rằng, tuy nhiên, đương nhiên chương trình viện trợ này sẽ phải được Quốc hội phê duyệt. Khi mà Hoa Kỳ khó có thể đủ khả năng ủng hộ một chính phủ mà màu sắc của nó, và có khả năng chịu chung số phận của một chế độ bù nhìn, thì trước tiên [chúng ta] phải rõ ràng với Pháp là họ sẽ đưa ra tất cả những nhượng bộ cần thiết để làm cho giải pháp Bảo Đại trở nên hấp dẫn cho phe quốc gia.
"Đây là một bước mà Pháp phải tự thấy tính cấp bách và cần thiết trong viễn ảnh chỉ còn một thời gian ngắn trước khi việc Cộng Sản thành công ở Trung Quốc được cảm nhận ở Đông Dương. Hơn nữa, chính phủ Bảo Đại phải tự nỗ lực để chứng minh khả năng tổ chức và điều hành công việc một cách khôn ngoan để đảm bảo cơ hội tối đa được nhân dân hỗ trợ, bởi vì bất kỳ chính phủ nào được tạo ra ở Đông Dương tương tự như [Trung Hoa] Quốc Dân Đảng cũng sẽ có mộtthất bại được đoán trước.
"Giả định rằng..... những nhượng bộ thiết yếu sắp tới được Pháp đưa ra, cơ hội thành công tốt nhất cho Bảo Đại sẽ xuất hiện để thuyết phục phe quốc gia Việt Nam:
(1) mục đích yêu nước của họ có thể được thực hiện kịp thời thông qua thỏa thuận Pháp-Bảo Đại
(2) Chín hquyền Bảo Đại sẽ được thực sự đại diện trong phạm vi bao gồm cả các nhà lãnh đạo xuất sắc không Cộng sản hiện nay đang ủng hộ Hồ, và
(3) giải pháp Bảo Đại này là cách thức duy nhất để bảo toàn Việt Nam chống lại những sắp đặt của Cộng sản Trung Quốc".
Cho tới năm 1949, các quân đoàn của Mao tiếp tục tiến về phía nam của Trung Quốc, và Việt Minh đã hiển nhiên chuẩn bị thiết lập quan hệ với họ.
b. Thừa nhận, 1950
Hiệp định Elysée đã được mười một tháng trước khi Hoa Kỳ nhận định rằng Pháp đã thực hiện các bước cụ thể đối với quyền tự chủ của Việt Nam mà Hoa Kỳ đã thiết lập như là điều kiện để [Mỹ] công nhận Bảo Đại. Vào cuối tháng Giêng, 1950, sự kiện biến chuyển nhanh chóng. Hồ Chí Minh tuyên báo rằng của chính phủ của ông là "chính phủ hợp pháp duy nhất của người dân Việt Nam" và cho biết VNDCCH sẵn sàng hợp tác với bất kỳ quốc gia nào sẵn sàng công nhận nó trên cơ sở “bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau về chủ quyền quốc gia và vùng lãnh thổ". Mao phản ứng tức thời công nhận, theo sau là Stalin. Ở Pháp cuộc tranh luận gay gắt trong Quốc hội giữa những người cánh tả ủng hộ thỏa thuận ngừng bắn ngay lập tức với Việt Minh và những người ủng hộ Hiệp định Elysee của chính phủ tiến hành giải pháp Bảo Đại. René Pleven, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng [Pháp], tuyên bố rằng: 17/
"Điều cần thiết là người dân Pháp phải biết rằng tại thời điểm hiện tại kẻ thù duy nhất của hòa bình ở Việt Nam là Đảng Cộng sản. Bởi vì các thành viên của Đảng Cộng sản biết rằng hòa bình ở Đông Dương sẽ được thành hình với chính sách độc lập mà chúng ta đang theo đuổi".
(“Hòa bình cho Việt Nam !!! Hòa bình cho Việt Nam !!!” những người cộng sản [Pháp] hô to).
Jean Letourneau đứng dậy và xác định rằng:
"Đây không phải là một vấn đề chấp thuận hay không chấp thuận một chính phủ, chúng ta đã vượt rất xa ra ngoài sự sống của một chính phủ tạm thời trong một vấn đề hết sức nghiêm trong. Điều cần thiết là, ở cấp độ quốc tế, cuộc bỏ phiếu diễn ra tối nay thực sự cho thấy tầm quan trọng lớn lao của sự kiện này dướicon mắt của toàn thế giới".
Frédéric Dupont nói:
"Cuộc chiến tranh Đông Dương đã luôn luôn là một bài trắc nghiệm cho Liên hiệp Pháp trước cộng sản quốc tế. Nhưng kể từ khi sự xuất hiện của những người Cộng sản Trung Quốc ở biên giới Bắc Kỳ, Đông Dương đã trở thành biên giới của nền văn minh phương Tây và chiến tranh ở Đông Dương được nhập chung vào chiến tranh lạnh".
Thủ Tướng Georges Bidault là người lên diễn đàn sau cùng:
"Sự lựa chọn là đơn giản. Hơn nữa, không có sự lựa chọn".
Quốc hộibầu vào ngày 29 tháng 1 năm 1950, tỷ số 396 thuận 193 chống. Từ nhóm phe tả cực đoan có tiếng hô "Đả đảo chiến tranh!" và Paul Coste Floret [dân biểu tỉnh Héraut từ 1946-1958] trả lời: "Hòa bình muôn năm." Ngày 02 tháng 2, 1950, Pháp tuyên bố chính thức phê chuẩn nền độc lập của Việt Nam.
Việc đánh giá tình hình và hành động của Hoa Kỳ như sau:
(điện tín sao chép trang A-15 và A-16)
Bộ NGOẠI GIAO Phổ biến GIỚI HẠN Washington Ngày 2 tháng 2, 1950 |
Chủ đề: Hoa Kỳ công nhận Việt Nam, Lào và Campuchea
1.Quốc Hội Pháp (Hạ Viện) đã phê chuẩn ngày 29 tháng Giêng với một đa số áp đảo(396-193), văn bản Luật, có hiệu lực công nhận ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia là những quốc gia tự trị trong Liên hiệp Pháp. Phe đối lập bao gồm tổng số 181 phiếu Cộng sản cộng với chỉ có 12 tham gia từ các bên khác. Hội đồngCộng hòa(Thượng viện) dự kiến sẽ thông quaqua dự thảo luậtvào ngày 2 tháng Hai với đa số khoảng cùng tỷ lê. Chữ ký củaTổng thống Auriol dự kiến sẽ theo ngay sau đó.
2. Các bước lập pháp và chính trị Pháp, do đó khi thực hiện sẽ biến đổi khu vực trước đây được cai trị dưới chế độ bảo hộ hay như thuộc địa thành các quốc gia trong Liên hiệp Pháp, với được tự do đáng kể hơn là họ được hưởng trước đó. Chính phủ Pháp đã chỉ ra rằng Pháp hy vọng sẽ trao mức độ độc lập cao hơn cho ba quốc gia khi tình hình an nin hở Đông Dương cho phép, và khi các chính phủ mới thành lập ngày càng trở nên có khả năng quản lý các lĩnh vực sau khi người Pháp rút [khỏi Đông Dương].
3. Trong khi Lào và Cam-pu-chia không có phong trào nào mạnh mẽ chống lại Chính phủ là tương đối ổn định. Tuy nhiên, kể từ khi kết thúc chiến tranh thế giới II, Việt Nam đã là chiến trường xung đột giữa các phe phái chính trị và các lực lượng quân sự. Hồ Chí Minh, dưới nhiều bí danh khác nhau, là thành viên của nhiều bộ phận khác nhau của cộng sản thế giới từ năm 1925 và đã đứng ra lãnh đạo các phong trào dân tộc chủ nghĩa chống Pháp vào năm 1945. Sau khi không đạt được thỏa thuận với Pháp về việc thành lập một nhà nước tự trị Việt Nam, ông rút lực lượng của mình về các khu vực rừng rậm, đồi núi của Việt Nam và quấy rối Pháp kể từ khi đó. Những người theo ông ước tính khoảng 75.000 người có vũ trang, và một số lượng có lẽ tương đương không vũ khí. Cơ quan đầu não của ông ở đâu không ai biết.
Nổ lực để chống lại [Việt Minh], Pháp, về quân sự triển khai khoảng 130.000 binh sĩ, trong đó khoảng 50.000 người bản xứ phục vụ tự nguyện, những người từ các thuộc địa châu Phi, và thành phần chỉ huy là thuộc quân đội Pháp và các đơn vị Legion nước ngoài [Légion Étrangère là một đội quân thiện chiến đặc biệt gồm người nước ngoài – đa số là da trắng - nhưng chỉ huy là Pháp]. Chiến thuật du kích của Hồ Chí Minh đã được dùng nhằm mục đích đánh đuổi Pháp ra khỏi Việt Nam. Ngày 8 tháng 3, 1949 Tổng thống Pháp ký thỏa thuận với Bảo Đại là người đứng đầu của nhà nước [VN], công nhận Chính phủ Việt Nam độc lập trong Liên hiệp Pháp. Thoả thuận tương tự đã được ký kết với Vua Lào và Quốc vương Cam-pu-chia.
Những biến chuyển gần đây bao gồm Cộng sản Trung Quốc chiến thắng và đã đưa quân đến gần biên giớ iĐông Dương, việc công nhận Hồ Chí Minh là người đứng đầu của Chính phủ hợp pháp Việt Nam bởi Cộng sảnTrung Quốc (ngày 18 tháng 1) và Liên Xô (30 tháng 1) [1950].
4. Việc Hoa Kỳ công nhận ba chính phủ được thành lập hợp pháp Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia như đã mong muốn và phù hợp với chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ vì nhiều lý do. Trong số đó có sự khuyến khích khát vọng quốc gia dưới sự lãnh đạ okhông Cộng sản cho các dân tộc thuộc địa vùng Đông Nam Châu Á; việc thành lập các chính phủ ổn định không Cộng sảntrong khu vực tiếp giáp với Cộng sản Trung Quốc; hỗ trợ cho một quốc gia thân hửu [Pháp] và cũng là một thành viên ký kết trong Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương; và như là một minh chứng về sự không hài lòng đối với chiến thuậ tCộng sản rõ ràng nhằm mục đích cuối cùng là thống trị châu Á, làm việc ấy dưới chiêu bài chủ nghĩa dân tộc bản địa.
Tùy thuộc vào sự phê duyệt của Ngài, Bộ Ngoại giao khuyến cáorằng Hoa Kỳ mở rộng việc công nhận cho Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia, sau khi Chính phủ Pháp phê chuẩn.
(ký tên) DEAN ARCHESON
Phê duyệt đồng ý
(ký tên)
Harry S. Truman
Ngày 3 tháng 2, 1950
c. Hỗ trợ của Hoa Kỳ cho Đông Dương
Ngày 16 tháng 2 năm 1950, Pháp yêu cầu Hoa Kỳ hỗ trợ quân sự và kinh tế để tiếp tục chiến tranh Đông Dương. 18/
Bộ Trưởng Quốc phòng trong một bản ghi nhớ gửi Tổng thống vào ngày 06 tháng 3 nói rằng:
"Lựa chọn mà Hoa Kỳ phải đối diện là hoặc hỗ trợ các chính phủ hợp pháp ở Đông Dương hoặc phải đối mặt với việc chủ nghĩa cộng sản mở rộng chiếm phần còn lại của khu vực Đông Nam Á và có thể cả về phía Tây của lục địa …” 19/
Cùng tháng đó, Bộ Ngoại giao cử một phái đoàn do R. Allen Griffin dẫn đầu có nhiệm vụ khảo sát viện trợ cho Đông Dương (và Miến Điện, Indonesia, Thái Lan và Malaysia). Sứ mệnh của Griffin là đề xuất (gồm cả những chuyện khác) viện trợ cho chính phủ Bảo Đại, kể từ khi Nhà nước Việt Nam được coi là:
“…không an toàn chống lại một cuộc lật đổ nội bộ, xâm nhập chính trị, hoặc xâm lược quân sự.
"Mục tiêu của từng chương trình là hỗ trợ càng nhiều càng tốt để tăng sức mạnh, và khi làm như vậy.. để đảm bảo cho nhân dân các nước rằng những hỗ trợ cho các chính phủ của họ và [hổ trợ] trong chống lại sự lật đổ của cộng sản sẽ mang lại cho họ nhiều lợi ích trực tiếp và hữu hình và một niềm hy vọng vững chắc cho một mức sống cao hơn. Theo đó, các chương trình có hai loại chính: (1) viện trợ vật chất kỹ thuật và dịch vụ thiết yếu và (2) phục hồi kinh tế và phát triển, tập trung chủ yếu vào việc cung cấp các hỗ trợ kỹ thuật và hỗ trợ vật chất trong việc phát triển nông nghiệp và sản lượng công nghiệp.... các hoạt động này phải được thực hiện với những tính toán tốt nhất để chứng minh rằng các chính quyền quốc gia địa phương có thể mang lại lợi ích cho người dân và nhờ đó xây dựng được một ủng hộ chính trị, đặc biệt là dân cư nông thôn…
"Mục đích của trợ giúp kinh tế cho khu vực Đông Nam Á là củng cố các chính phủ quốc gia không cộng sản trong khu vực đó bằng cách nhanh chóng củng cố và mở rộng đời sống kinh tế của khu vực, cải thiện các điều kiện sinh sống của người dân, và thể hiện cụ thể sự quan tâm chân chính của Hoa Kỳ về hạnh phúc của người dân ở các nước Đông Nam Á " 20/
Trong một đánh giá chiến lược về khu vực Đông Nam Á vào tháng Tư, 1950, JCS đề nghị cung cấp viện trợ quân sự cho Đông Dương :
“…rằng viện trợ quân sự Hoa Kỳ không được cấp vô điều kiện, đúng hơn là nó sẽ được kiểm soát cẩn thận và chương trình viện trợ sẽ được kết hợp với chương trình chính trị và kinh tế …” 21/
Ngày 01 Tháng 5 năm 1950, Tổng thống Truman đã phê duyệt 10 triệu $US cho các hạng mục hỗ trợ khẩn cấp quân sự cho Đông Dương. 22/
Quyết định của Tổng thống đã được thực hiện trong bối cảnh của cuộc đổ bộ chiếm đóng thành công đảo Hải Nam, do Trung Hoa Quốc Gia bảo vệ, của quân đội Cộng sản Trung Quốc dưới quyền Tướng Lâm Bưu – với tác động hiển nhiên lên Đông Dương, và Đài Loan. Một tuần sau, vào ngày 8 tháng 5, Bộ trưởng Ngoại giao thông báo viện trợ của Hoa Kỳ cho các nước Đông Dương và Pháp để hỗ trợ họ trong việc khôi phục sự ổn định và cho phép các nước này theo đuổi phát triển hòa bình và dân chủ." 23/
Mười sáu ngày sau đó, chính phủ Bảo Đại và Pháp đã được thông báo vào ngày 24 tháng 5 ý định của Hoa Kỳ về việc thiết lập một cơ quan lo trợ giúp kinh tế cho các nước liên kết [Đông Dương]. Khi quân đội Bắc Triều Tiên di chuyển xuống phía Nam vào ngày 27 tháng 6 năm 1950, Tổng thống Truman tuyên bố rằng ông đã chỉ đạo "tăng tốc trong việc cung cấp viện trợ quân sự cho các lực lượng của Pháp và nước liên kết Đông Dương …” 24/
Vấn đề quan trọng trong quyết định của Hoa Kỳ cung cấp viện trợ cho Đông Dương là những người cần được nhận - Bảo Đại hay Pháp - và, từ đó, Hoa Kỳ sẽ viện trợ hỗ trợ cho chính sách của ai?
d. Sự ngoan cố của Pháp
Trong khi Hoa Kỳ đang cân nhắc về viện trợ kinh tế và quân sự Đông Dương vào đầu năm 1950, các cuộc đàm phán mở tại Pau, ở Pháp, giữa Pháp và các quốc gia liên kết [ĐD] để thương thuyết về thời gian và mức độ của quyền tự chủ. Phải chi các cuộc cuộc đàm phán đã dẫn đến độc lập thật sự cho chế độ Bảo Đại, mối quan hệ Mỹ-Pháp tiếp theo có lẽ sẽ ít phức tạp và ít khắc nghiệt hơn một cách đáng kể. Tuy đã được ký kết, nhưng hiệp định Pau chỉ đưa đến một độc lập một chút xíu nhiều hơn so với Hiệp Định Vịnh Hạ Long hay Hiệp định Elysée. Hơn nữa, sự miễn cưỡng của Pháp trong việc trao lại quyền chính trị hay kinh tế cho Bảo Đại lại được tăng cường bởi khuynh hướng muốn đưa những chỉ huy có ý chí mạnh mẽ ra mặt trận, cộng thêm sự nghi ngờ về Mỹ, quyết tâm dành một chiến thắng quân sự, và sư khinh bỉ về giải pháp Bảo Đại. Tướng Marcel Carpentier, Tổng Tư Lệnh khi Pháp xin viện trợ, được trích dẫn trong tờ New York Times vào ngày 9 tháng 3 năm 1950, đã nói như sau:
"Tôi sẽ không bao giờ đồng ý để cho các thiết bị được trực tiếp giao cho người Việt Nam. Nếu điều này xảy ra, tôi sẽ từ chức trong vòng 24 giờ. Việt Nam đã không có tướng, không có đại tá, không có tổ chức quân sự có hiệu quả có thể sử dụng các thiết bị. Nó sẽ là điều lãng phí, và ở Trung Quốc Hoa Kỳ đã có quá đủ những chuyện đó. " 25/
(1) 1950-1951: Tướng Delattre và “Chủ nghĩa năng động”
Người kế nhiệm của Carpentier, Cao ủy-chỉ huy trưởng Tướng Jean de Lattre de Tassigny, đã đến [VN] vào tháng Mười Hai, 1950, sau thất bại nghiêm trọng vào mùa thu. De Lattre đã kích động khuyến khích các lực lượng Pháp như General Ridgway đã làm nức lòng lực lượng Hoa Kỳ tại Hàn Quốc. De Lattre thấy mình là người dẫn đầu một cuộc thập tự chinh chống cộng. Ông tính toán rằng ông có thể giành được một chiến thắng quyết định trong thời hạn mười lăm tháng ở Việt Nam, và "cứu họ khỏi Bắc Kinh và Moscow." Ông đã phản đối ý tưởng rằng Pháp vẫn được thúc đẩy bởi chủ nghĩa thực dân, và thậm chí nói với một ký giả người Hoa Kỳ rằng nước Pháp đã chiến đấu cho Phương Tây một mình:
"Chúng tôi đã không còn quan tâm gì ở đây... Chúng tôi đã từ bỏ hoàn toàn tất cả các vị trí thuộc địa của chúng tôi. Chỉ có một ít cao su hay than đá, hay mà chúng tôi từ lâu đã không còn có được. Và những số tiền đó so thế nào được với máu của con em chúng tôi đổ ra và ba trăm năm chục ngàn quan Pháp chúng tôi chi tiêu một ngày ở Đông Dương! Công việc mà chúng tôi đang làm là cho sự cứu rỗi của người dân Việt Nam. Và những tuyên truyền mà người Hoa Kỳ các ông cho rằng rằng chúng tôi vẫn là thực dân là làm hại chúng tôi rất lớn, tất cả chúng tôi. - Việt Nam, các ông, và chúng tôi. " 26/
Hơn thế, De Lattre đã nghĩ rằng người Việt Nam phải tham gia trận chiến. Trong một bài diễn văn – “Lời kêu gọi thanh niên Việt Nam” – ông tuyên bố:
“Cuộc chiến này, dù các bạn có thích hay không thích, nó là cuộc chiến của người Việt Nam cho Việt Nam. Và Pháp sẽ đảm đương nó chỉ khi nào các bạn cùng đảm đương với Pháp. Một số người cho rằng Việt Nam không thể độc lập được vì nó nằm trong Liên Bang Đông Dương. Không đúng ! Trong thế giới của chúng ta, đặc biệt là thế giới ngày này, không thể có nước nào tuyệt đối độc lập. Chỉ có sự liên kết có lợi và sự lệ thuộc có hại … Hỡi các bạn trẻ Việt Nam mà tôi cảm thấy gần gủi như với các bạn trẻ ở quê hương sinh thành của tôi, đây là lúc mà các bạn đứng lên chiến đấu bảo vệ đất nước của các bạn…” 27/
Thêm nữa, Tướng De Lattre đã nhìn chính sách Hoa Kỳ về [giải pháp] Bảo Đại với một lo âu trầm trọng. Người Mỹ, ông cầm chắc, đã đau buồn với “nhiệt tâm truyền đạo” đang “thổi bùng ngọn lửa quốc gia cực đoan”. Chủ nghĩa Pháp truyền thống là quan trọng ở đây. Các người không thể, không được hủy diệt nó. Không ai có thể đơn giản lập ra một quốc gia mới chỉ qua một đêm bằng cách chỉ cung cấp những viện trợ kinh tế và quân sự. 28/ Cũng cực lực như Carpentier, De Lattre đã chống Hoa Kỳ viện trợ trực tiếp cho quân Việt Nam và chỉ cho phép quân đội Việt Nam một chút độc lập thật sự.
Edmund A. Gullion, cố vấn Hoa Kỳ (Minister Counselor) ở Saigon từ 1950 trở đi, đã kết tội De Lattre đã bất lực trong việc tạo dựng được cho quân đội Quốc Gia Việt Nam một sức bật chính yếu hay một sự năng động nào khi ông nói chuyện về quân Viễn Chinh Pháp:
“… Thật khó mà giáo dục lòng nhiệt tâm quốc gia cho quân đội bản xứ khi mà các sĩ quan và những người không cộng sản lại là người Pháp da trắng … Những đơn vị người Việt hiếm khi ra trận mà không có trợ sức từ người Pháp. Người Hoa Kỳ liên lạc với họ [Việt] chủ yếu là qua người Pháp [và người Pháp] giữ riêng cho mình trách nhiệm huấn luyện. Chúng tôi cảm thấy cần phải có nhiều tài liệu hơn những gì mà chúng tôi đang có để có thể đáng giá tiềm năng thật sự của quân đội [VN]. Chúng tôi cần những báo cáo về từng tiểu đoàn về tình hình huấn luyện cũng như một tiếp cận sát sao với tình báo và các nấc thang chỉ huy và chúng tôi chưa bao giờ nhận được những điều đó. Có thể biểu hiện có ý nghĩa và đáng buồn nhất về việc Pháp đã thất bại trong việc tạo dựng một quân đội Quốc Gia hoàn toàn độc lập mà họ có thể chiến đấu theo cách mà De Lattre muốn nói là sự thiếu vắng của bất cứ đơn vị quân Việt Nam nào ở Điện Biên Phủ. Đó là một việc Pháp đã cho thấy …” 29/
Gullion trong tổng thể xem ra là không chính xác khi nói về Điện Biên Phủ, mắc dù vậy, thống kê về thành phần các dân tộc [trong đội quân] đang bảo vệ căn cứ Điện Biên Phủ cho thấy tính chất của vấn đề. Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù Việt Nam được thả xuống tang cường cho căn cứ để vào ngày 6 tháng 5, 1954 quân số ở Điện Biên Phủ gồm:30/
Căn cứ Điện Biên Phủ ngày 6 tháng 5, 1954 | ||||
Sĩ quan tác chiến | Sĩ quan không chỉ huy | Lính đăng ký | Tổng cộng |
|
Người Việt Nam | 11 | 270 | 5,119 | 5,480 |
Tổng cộng | 393 | 1,666 | 13,206 | 15,105 |
Tỷ lệ % người Việt | 2,8 | 16,2 | 39,2 | 36,2 |
Như thế, người Việt gồm một phần ba lính tác chiến (và gần 40% lính đăng ký); nhưng trong thành phần chỉ huy, họ cung cấp một phần sáu sĩ quan không tác chiến và ít hơn 3% tổng số các sĩ quan.
Tình trạng khan hiếmsĩ quan Việt Nam ở Điện Biên Phủ phản ảnh tình trạng Chung của quân đội Quốc Gia: vào năm 1953, trong 2,600 sĩ quan người bản xứ chỉ có một nhóm nhỏ là ở cấp bực trên Thiếu Tá so với 7000 sĩ quan người Pháp trong một quân đội với 150 ngàn người Việt.
(2) 1251-1253: Letourneau and "Độc Tài"
Thay thế cho De Lattre là Toàn Quyền [Đông Dương] Jean Letourneau, cũng là Bộ Trưởng trong chính phủ Pháp đặc trách các nước trong Liên Hiệp được gửi đến Đông Dương với đầy đủ quyền hạn và đặc quyền trên nhà nước Việt Nam độc lập như bất cứ Toàn Quyền nào trước đây từ dinh Norodom ở Saigon [sau này là dinh Độc Lập]. Tháng Năm, 1953 một phái đoàn Điều Tra của Quốc Hội Pháp đã kết án ông Bộ Trưởng – Toàn Quyền là “kẻ độc tài thật sự, hành xử không hạn chế và không kiểm soát”:
“Cuộc sống giả tạo ở Saigon, những cám dỗ không kiểm soát về quyền lực, sự đảm bảo cho những phán đoánkhinh bỉ thực tế, đã cô lập ông Bộ Trưởng và những phụ tá chung quanh ông và đã làm cho họ trở nên vô cảm đối với thảm kịch của chiến tranh …
“Chúng ta từ lâu đã không còn là những người cai trị, nhưng là những người cố vấn. Việc lớn nhất là không phải để vẽ ra những kế hoạch lớn lao mà là thực hiện tinh tế những công tác ngoại giao hàng ngàỵ. Ở Saigon, những người đại diện cho chúng ta đã tự cho phép mình bị dụ dỗ vào những trò chơi quyền lực đầy cám dỗ và mưu đồ.
"Thay vì phải xem xét những điều quan trọng nhất và hành động xử lý chúng, thay vì điều tra tại chỗ, tìm kiếm nguồn cảm hứng từ các xóm làng và từ các đồng lúa, thay vì tự mình đi tìm hiểu và đạt được lòng tin của những người dân khiêm tốn nhất, để tước những vũ khí tốt nhất của quân nổi dậy, bọn cung điện Norodom đã tự mình cho phép hưởng những sang trọng xa hoa về quản lý kiểu Pháp và về kiểu trị vì một quốc gia mà ở đó một cuộc cách mạng đang âm ỉ …
"Báo chí không có quyền chỉ trích. Để nói sự thật, nó phải đã trở thành chính thức, và tờ báo chính ở Sài Gòn được đặt dưới quyền xử lý của Cao ủy. Thư tín bị kiểm duyệt. Tuyên truyền tung ra có vẻ như chỉ để bảo vệ phủ Cao ủy. Một chế độ như vậy không thể kéo dài, trừ khi chúng ta muốn được thấy như những ai quyết tâm không giữ lời hứa của mình. " 32/
Phái đoàn điều tra của Quốc hộimô tả Sài Gòn là "nơi cờ bạc, đồi bại, tình yêu của tiền và quyền lực cuốc cùng bằng đạo đức suy đồi và sự tàn phá sức mạnh của ý chíi..."; và chính phủ Việt Nam thì:" các Bộ trưởng [của chế độ Bảo Đại] xuất hiện trong mắt của đồng bào của họ là những quan chức của Pháp". Bản báo cáo đã không ngần ngại đổ lỗi cho người Pháp cho vấn đề tham nhũng ở Việt Nam:
"Quả là một sự trầm trọng sau tám năm trong tình trạng buông lỏng va hỗn loạn, sự hiện diện của ông Bộ trưởng ở Đông Dương đã không thể chấm dứt những bê bối trong đời sống hàng ngày liên quan đến các việc cấp giấy phép, chuyển nhượng tiền đồng, thiệt hại chiến tranh, hay các giao dịch thương mại. Ngay cả khi chính phủ của chúng ta không hoàn toàn chịu trách nhiệm về những lạm dụng đó, điều đáng trách là ai cũng có thể khẳng định những lạm dụng đó đã không được biết đến hay đã được bỏ qua …" 33/
Bình luận vềbáo cáo này, một tờ báo có ảnh hưởng Pháp đổ lỗi cho "Xu hướng tự nhiên của một tổng đốc một tỉnhquân sự để kéo dài sự tồn tại của chính mình [tham quyền cố vị]" và "một số nhóm chính trị Pháp đã tìm thấy nguồn lợi chính của họ là từ chiến tranh... thông qua các hoạt động trao đổi ngoại hối, cung ứng cho các quân đoàn viễn chinh và thiệt hại chiến tranh.. " 34/
Họ kết luận:
"Lý thuyết thường được chấp nhận nhất lý luận rằng việc chiến tranh bị kéo dài ở Đông Dương là một sự tàn nhẫn do các sự kiện áp đặt, là một trong những thảm kịch trong lịch sử mà không giải pháp nào có thể [giải quyết]. Lý thuyết hoài nghi cho rằng sự bất lực hoặc các lỗi lầm của những người chịu trách nhiệm về chính sách của chúng ta ở Đông Dương đã tìm cách ngăn cản chúng ta tìm ra cách để thoát khỏi khó khăn đầy thảm họa này. Sự thực là có những sự kiện mà chúng ta biết ngày hôm nay dường như là để cộng thêm cho một kế hoạch làm việc rõ ràng từng bước loại bỏ bất kỳ khả năng đàm phán nào ở Đông Dương để bảo đảm việc kéo dài vô tận chiến sự và việc chiếm đóng quân sự " 35/
e. Bảo Đại,kẻ chờ đợi
Mặc dùHoa Kỳ công nhận những thiếu sót nghiêm trọng của Pháp tại Việt Nam, Hoa Kỳ bị buộc phảiđối phó với tình hình ở Đông Dương thông qua Pháp bởi hai lẽ: một là tầm quan trọng bao trùm chính sách Hoa Kỳ ở Âu Châu và hai là sự bất lực và không khả năng của chế độ Bảo Đại. Hoa Kỳ đã cố thuyết phục Bảo Đại thực hiện lãnh đạo mạnh mẽ hơn, nhưng Hoàng đế chọn cách khác. Ví dụ, ngay sau các cuộc đàm phán ở Pau, Bộ Ngoại giao gửi những hướng dẫn đến Edmund Gullion:
(lập lại từ điện tín trang A-23 đến A-25)
Điện Tín Gửi Đi BỘ NGOẠI GIAO MẬT 18 tháng 10 năm 1950 Ưu Tiên AMLEGATION, Saigon 384 |
Bắt đầu tin nhắn:
Bảo Đại sẽ tới Sài Gòn vào thời điểm mà Việt Nam đang đối diện với một cuộc khủng hoảng trầm trọng mà kết cuộc của nó sẽ quyết định là Việt Nam được phép thành một quốc gia độc lập hay sớm thành một trong các nước chư hầu bị khối Trung-Xô kiểm soát, một hình thức thuộc địa mới vô cùng tồi tệ so với chế độ thuộc địa cũ mà Việt Nam vừa mới tách ra khỏi bản thân mình.
Chính phủ Hoa Kỳ hiện nay đang lấy các bước đi để gia tăng số lượng viện trợ cho Pháp và các quốc gia Liên Hiệp trong những nổ lực bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ chống lại cộng sản quốc tế và ngăn ngừa ba nước Đông Dương không bi sát nhập cùng các nước nô lệ đang bị khối Cộng sản chế ngự. Nhưng các nguồn lực của Hoa Kỳ đang bị căng thẳng vì sự dấn thân bên cạnh Liên Hiệp Quốc ở Hàn Quốc, vì các nhu cầu trong việc bảo vệ Tây Âu và vì chương trình tái vũ trang riêng của chúng ta. Đôi khi chúng ta không thể cung cấp được số lượng viện trợ nào đó như mong muốn, vào một thời điểm nào đó và tại địa điểm nào đó.
Tài lãnh đạo của chính phủ Việt Nam trong giai đoạn quyết định này, là một yếu tố có tầm ưu thế quan trọng định đặt cho những kết quả sau cùng. Chính phủ phải cho [dân] thấy[họ có] một sức lãnh đạo tích cực đến phi thường và dũng cảm trước những người đang nản chí, quẫn trí và lúng túng trước viễn ảnh của những năm dài nội chiến. Những cân nhắc ít quan trọng liên quan đến các phương thức quan hệ giữa các nước trong Liên Hiệp Pháp và nước Pháp, phải, chẳng hạn, ít nhất là tạm thời để qua một bên để đối mặt với những đe dọa rất nghiêm trọng cho sự tồn tại của nhà nước tự trị Việt Nam, trong Liên Hiệp Pháp hoặc gì khác.
Chúng ta ý thức (cũng như Bảo Đại) rằng chính phủ Việt Nam hiện tại là có liên hệ với người đứng đầu của Quốc Gia sâu đậm đến tài lãnh đạo và sự làm gương của người này sẽ là yếu tố đặc biệt quan trọng để xác định mức độ hiệu quả về điều hành của chính phủ. Trong hoàn cảnh mà Bảo Đại và các lãnh đạo khác của Việt Nam vắng mặt ở Pháp trong những thời gian dài, thì cơ hội tiến bộ được Pháp chuyển giao những trách nhiệm và thẩm quyền và tầm ảnh hưởng và quyền lực triển khai đến người dânđều bị bỏ bê. Nhiều người, bao gồm một số lớn người Mỹ, không thể hiểu nguyên nhân vì đâu mà vị Hoàng đế này kéo dài nghỉ hè ở Riviera và đã hiểu sai chuyện đó như là một dấu hiệu cho thấy người lãnh đạo quốc gia không gắn bó yêu nước. Theo Bộ, sự vắng mặt của ông ít nhất là không thể làm cải thiện quyền lực và uy tín của chính phủ của ông ở bên nhà.
Do đó, Bộ cho rằng điều bắt buộc Bảo Đại phải cho nhân dân Việt Nam [thấy] những bằng chứng về quyết tâm của mình để nắm quyền cai trị và dẫn dắt đất nước ngay tức khắc và một cách mạnh mẽ chống lại mối đe dọa của cộng sản. Đặt biệt là ông phải nên dấn thân vào những chương trình trực tiếp viếng thăm các nơi ở Việt Nam, đưa ra nhiều các bài phát biểu và nhiều lần xuất hiện công khai trong chuyến đi. Người đứng đầu nhà nước phải biểu lộ quyết tâm làm tốt vai trò của mình để tập hợp quần chúng ủng hộ chính phủ và chống lại Việt Minh tức khắc ngay sau khi ông vừa đến Sàigòn. Ông phải công bố việc Hoa Kỳ và Pháp sẽ hỗ trợ đào tạo quân đội quốc gia và ý định riêng của mình đứng ra giữ vai trò Tổng Tư Lệnh của Quân Đội (xác nhận hôm qua bởi Bộ Trưởng Các Nước Trong Liên Bang Letourneau) và ngay tức khắc đưa ra một kế hoạch huấn luyên rõ ràng.
Cuối cùng, nên khéo léo đề ngh ịrằng bất kỳ biểu hiện nào để trì hoãn tránh đối mặt với thực tế trong giai đoạn này dưới hình thức lui về ẩn dật dài ngày ở Đà Lạt hay gì khác sẽ xác nhận suy nghĩ của những ai cho rằng hoàng đế không nghiêm chỉnh so với các mục đích của Bộ và LEG đưa ra và đặt ra câu hỏi liệu có khôn ngoan để tiếp tục hỗ trợ chính phủ Việt Nam khi họ đã chứng minh là không thể tự mình lo liệu cho nền độc lập mà họ đã phải trả giá cao mới có được.Hết phần tin nhắn.
Hãy nhẹ nhàng có đượcc uộc phỏng vấn sớm nhất có thể cho Bộ về thời gian biểu [của Bảo Đại] ngay khi vừa đến [Saigon] là quan trọng hàng đầu. Cùng lúc hay tức khắc sau khi đó, thông báo hành động ngay cho Letourneau và Pignon. Sài Gòn tư vấn cho Paris trước để kết hợp hành đông. HẾT.
Ký tên ARCHESON
(xem tiếp kỳ 3)-
“…Các nước láng giềng Thái Lan và Miến Điện được dự kiến có thể sẽ bị Cộng sản thống trị nếu Đông Dương đã bị kiểm soát bởi một chính quyền cộng sản. Sự cân bằng của khu vực Đông Nam Á, sau đó, sẽ bị nguy hiểm nghiêm trọng…”-
Dù phản ứng của Bảo Đại thế nào - có lẽ là lịch sự và tối nghĩa - ông đã không hành động theo lời khuyên của Mỹ. Sau đó, ông nói với Bác sĩ Phan Quang Đán, trên chiếc du thuyền hoàng gia, đó là những Chính phủ kế tiếp của ông chả có ích lợi gì, và nói thêm rằng việc mở rộng quân đội Việt Nam là việc làm nguy hiểm vì họ có thể đào ngũ hàng loạt và chạy về phía Việt Minh.
"Tôi không thể truyền cảm hứng nhiệt tình và tinh thần chiến đấu cần thiết cho quân lính, cả Thủ tướng Hữu cũng không làm được … Ngay cả khi chúng ta đã có một người có khả năng, trong các điều kiện chính trị hiện tại họ cũng không thể thuyết phục được nhân dân và quân đội là họ có một cái gì [chính nghĩa] để chiến đấu cho nó …" 36/Bác sĩ Đán đồng ý hiệu quả của quân đội quốc gia là một vấn đề trung tâm; ông chỉ ra rằng là chỉ có ba tướng lãnh là người Việt Nam, và cả ba chưa ai đã từng nắm chức vụ chỉ huy chiến đấu, chẳng ai trong họ cũng như 20 đại tá hay trung tá khác có thể thực hiện bất kỳ sáng kiến nào. Bác sĩ Đán nhấn mạnh: "Quân đội Việt Nam mà không có người Việt Nam trách nhiệm lãnh đạo, không tư tưởng, không mục đích, không nhiệt tâm, không tinh thần chiến đấu, và không được lòng dân." 37/ Nhưng rất rõ ràng là Bảo Đại đã không đề xuất thay đổi gì trên các điều kiện của quân đội, ngoại trừ một quá trình lâu dài và chậm chạp "rút tỉa" đặc quyền quân sự của Pháp. Trên những vấn đề quan trọng khác Bảo Đại cũng chẳng tích cực gì hơn. Đối với tất cả mục đích thực tế, Hoàng đế, theo kiểu cách riêng của ông, cũng như Bác Sĩ Đán và Ngô Đình Diệm, vẩn trong tư thế chờ đợi – như một khán giả đang quan sát người Pháp và người Hoa Kỳ đang thử nghiệm sức mạnh của nhau, và chống lại Việt Minh.
f. Tình trạng khó khăn của Mỹ:
Trong số các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ hiểu cái trống không của giải pháp Bảo Đại, và nhận ra những cạm bẫy trong thái độ không khoan nhượng của Pháp trên một nền Độc lập chân chính [cho Việt Nam] là John F. Kennedy lúc đó còn là Thượng nghị sĩ. Kennedy đến thăm Việt Nam vào năm 1951 và cân nhắc rõ ràng quan điểm của Gullion. Vào tháng 11, năm 1951, Kennedy tuyên bố:
"Ở Đông Dương chỉ có bản thân chúng ta là đồng minh với những nỗ lực tuyệt vọng của chế độ Pháp để bám các tàn tích của đế quốc [thực dân]. Chính phủ Việt Nam không được sự hổ trợ rộng rãi của nhân dân ở khu vực đó.." 38/
Trong một bài nói chuyện trước Thượng Viện vào tháng 6. 1953 ông đã chỉ ra rằng:
"Độc lập thật sự như chúng ta hiểu, vấn đề đó là không có ở Đông Dương... chính quyền địa phương thì những chức năng bị giới hạn ... chính phủ Việt Nam, nhà nước là điểm quan trọng lớn nhất trong lĩnh vực này, lại thiếu hỗ trợ của nhân dân, về mức độ quân sự, việc kiểm soát dân sự, chính trị, kinh tế thì được duy trì bởi người Pháp vượt xa ngoài nhưng gì là cần thiết để chiến đấu một cuộc chiến tranh... Vì lẽ chúng ta muốn mang lại một kết cục thành công cho cuộc chiến mà chúng ta có phải nhấn mạnh đến một nền độc lâp thật sự [cho Việt Nam]... Bất kể nỗ lực kết hợp nào của chúng ta, một sự thật hiển nhiên là chiến tranh đó không bao giờ có thể thành công trừ khi một số lượng đông đảo người dân được giành lại từ thái độ trung lập ủ rũ và độ thù địch công khai và được họ hoàn toàn hỗ trợ cho một chung cuộc thành công... Tôi mạnh mẽ tin rằng Pháp không thể thành công ở Đông Dương nếu họ không có những nhượng bộ cần thiết để làm cho quân đội bản địa trở nên đáng tin cậy và có hiệu lực chiến đấu". 39/
Lúc sau, Kennedy chỉ trích Pháp:
"Mỗi năm chúng tôi được cho ba thứ bảo đảm: thứ nhất, đó là nền Độc lập của các nước trong Liên Hiệp đã hoàn thành, thứ hai, đó là nền Độc lập các nước trong Liên Hiệp sẽ sớm hoàn tất theo những bước 'hiện nay' được thực hiện, và thứ ba, đó là chiến thắng quân sự của các lực lượng Liên hiệp Pháp là đảm bảo, hay là còn chút xíu nữa [thì xong]" 40/
Một người Hoa Kỳ hiểu biết về những khó khăn Hoa Kỳ - Pháp và giải pháp Bảo Đại là Robert Blum, người đứng đầu chương trình viện trợ kinh tế cho chế độ Bảo Đại vào năm 1950. Tướng De Lattre đã xem viện trợ kinh tế Hoa Kỳ là đặc biệt nguy hại, và đã nói với Blum rằng "Ông Blum, ông là người nguy hiểm nhất ở Đông Dương." 41/
De Lattre bực bội về sự can thiệp của Mỹ. "Là một sinh viên của lịch sử, tôi có thể hiểu nó, nhưng là một người Pháp tôi không thích nó." Năm 1952, Blum phân tích quan hệ tam giác Bảo Đại-Pháp-Mỹ như sau:
Thật khó mà xác định được thái độ của người Pháp. Một mặt là các báo cáo chính thức lặp đi lặp lại là Pháp đã không có những lợi ích ích kỷ ở Đông Dương và mong muốn duy nhất của họ là thúc đẩy sự độc lập của các nước trong Liên Hiệp và trút khỏi gánh nặng khủng khiếp cho các nguồn tài lực của Pháp. Mặt khác, vô số thí dụ cho thấy Pháp cố ý tiếp tục kiểm soát, can thiệp vào các vấn đề chính sách chính, các lợi ích và cãi nhau liên tục và thái độ xấu về việc chuyển giao quyền lực và việc Độc lập sắp tới … Có những mâu thuẩn không nghi ngờ trong hành động Pháp giữa một mong muốn tự nhiên là thoát khỏi cuộc chiến này mà không kết quả rõ ràng, không được lòng dân, và tốn kém và quyết tâm để chấm dứt nó trong danh dự và niềm tự hào và [đồng thời] muốn bảo vệ những lợi ích của mình. Sự phân biệt này được xác minh bởi sự khác biệt rõ nét giữa thái độ đối với Tướng de Lattre ở Đông Dương, ở đây ông được cho là một thiên tài chính trị và cứu tinh quân sự … và ở Pháp, người ta nghi ông là một người vì vinh quang cá nhân đã hút hết các nguồn lực của Pháp cho một phiêu lưu nguy hiểm …
"Thật khó mà đo lường được những kết quả của hai năm Hoa Kỳ tham gia hoạt động trong công việc của Đông Dương. Mặc dù chúng ta đã nhập cuộc vào một tiến trình hợp tác, một mặt, không mấy thoải mái với Pháp là một đối tác đã bị nhiễm chất “thực dân” nhưng cần thiết, và mặt khác, về phía bản địa, với những người Việt Nam chia rẽ và yếu, chúng ta không đủ sức hòa hợp hoàn toàn hai đồng minh này vào một suy nghĩ chung đơn nhất để chiến đấu chống cộng sản. Để đạt những mục đich đó, chúng ta hy vọng vào những hành động của chúng ta ở Đông Dương, hành động thành công nhất là tăng sức mạnh cho vị thế quân sự của Pháp. Mặt khác, người Việt Nam, nhiều người mơ tưởng rằng giải pháp kỳ diệu có lợi cho họ sẽ đến từ sự có mặt của chúng ta trong bối cảnh đó, [mơ tưởng] không cơ sở rồi sẽ thất vọng với những bằng chứng cho thấy Hoa Kỳ không phải là toàn năng và không sẵn sàng thực hiện một nỗ lực hỗ trợ hết mình cho quan điểm của họ… Ảnh hưởng trực tiếp của chúng ta về các vấn đề chính trị và kinh tế không không được tốt lắm. Chúng ta đã phải bất đắc dĩ bị trực tiếp lôi kéo vào và, mặc dù mức độ đóng góp của chúng ta đã gia tăng nhanh chóng, chúng ta sẽ rất bằng lòng, nếu không muốn nói là mong muốn, người Pháp vẫn tiếp tục vai trò chính, và được cho một chút ít, nếu được, các lời khuyên. " 42/
Blum kết luận:
"Tình hình ở Đông Dương là không đạt yêu cầu và cho thấy sẽ không có triển vọng cải thiện nào đáng kể, không chiến thắng quân sự quyết định nào có thể đạt được, rất ít hứa hẹn cho thấy chính phủ phát triển được năng lực và thắng được sự trung thành của nhân dân... Từ đó, mục tiêu của Hoa Kỳ là còn xa vời". 43/
Không lâu trước cái chết của ông vào năm 1965, Blum cho rằng một cuộc đụng độ về quyền lợi giữa Pháp và Hoa Kỳ là không thể tránh khỏi:
Chúng ta muốn tăng cường khả năng của người Pháp để bảo vệ khu vực chống Cộng sản xâm nhập và xâm lược, và chúng ta muốn giật lại các phong trào quốc gia từ tay Cộng sản bằng cách khuyến khích những khát vọng quốc gia của người dân địa phương và làm tăng hỗ trợ của người dân cho các chính phủ của họ. Chúng ta đã biết rằng Pháp không được lòng dân, rằng chiến tranh đã kéo dài từ năm 1946, rằng cuộc nỗi dậy của những người quốc gia là không chỉ có mục tiêu chống Pháp mà là một ví dụ về ý thức tự giác ngộ của các dân tộc Châu Á đang cố gắng phá vỡ, rời bỏ sự thống trị của thế giới phương Tây. Chúng ta công nhận ngay tức khắc là đã có một chính sách đi hai hướng bao trùm bởi những khó khăn đặc biệt. Bởi tình cảm chống Pháp hiện hành, chúng tôi biết bất kỳ hổ trợ nào của chúng ta nhằm củng cố vị trí của Pháp sẽ gây ra phẫn nộ của người dân địa phương. Và bởi vị trí truyền thống của Pháp và người Pháp trở nên nhạy cảm trước bất kỳ ảnh hưởng nào của Mỹ, chúng ta đã biết người Pháp sẽ nhìn với con mắt nghi ngờ khi người Hoa Kỳ phát triển những quan hệ trực tiếp với chính quyền và nhân dân địa phương. Tuy nhiên, chúng ta quyết tâm sẽ không sử dụng chương trình viện trợ của chúng ta như một phương tiện để phối hợp các chính phủ mà họ không muốn, và chúng ta cũng quyết tâm không kém là sẽ nhấn mạnh lên các loại hình viện trợ dựa theo khối lượng dân số và nói không cho [loại hình] viện trợ, trong khi tinh vi hơn về mặt kinh tế, nhưng lại ít dễ hiểu hơn. Những chương trình của chúng ta là những chương trình chính trị để làm việc với người dân và chúng sẽ mất nhiều hiệu quả nếu chúng bị giảm thành vai trò người bảo vệ dấu tên cho người Pháp... [Chương trình] sẽ trở nên khập khiểng và những kết quả mang lại lợi ích tâm lý của chúng phần lớn sẽ coi như không có bởi vì Hoa Kỳ cùng thời gian đã theo đuổi một chương trình [quân sự] để hỗ trợ người Pháp … cân bằng mọi thứ, chúng ta đã bị nhìn như một người ủng hộ chủ nghĩa thực dân nhiều hơn là một người bạn của các quốc gia mới". 44/
Năm 1965, Edmund Gullion, cũng rất am tường vê vấn đề Bảo Đại, đã hồi tưởng lại:
"[Lẽ ra] Chúng ta đã phải thực sự thúc đẩy Pháp sau khi hiệp định Elysee được ký vào tháng năm 1949. Chúng ta đã không xem xét việc trao đổi thư tín một cách cẩn thận vào thời điểm đó. Đó là điều dễ hiểu. Rõ ràng, chúng ta cảm thấy nó là một quá trình liên tục, và chúng ta hy vọng có thể có một số ảnh hưởng trên nó. Nhưng sau đó chúng ta đã tham chiến ở Hàn Quốc, và khi Pháp đã gặp rắc rối ở Đông Dương, chúng ta thối lui. Pháp đã có thể nói rõ ràng, như chúng ta đã làm đối với Philippines, rằng trong một số năm nào đó, Việt Nam sẽ được hoàn toàn tự do, và [Việt Nam] sau đó có thể gia nhập Liên hiệp Pháp hoặc đứng ngoài như họ mong muốn... Một giải pháp có tiến bộ là giải pháp khách quan, và nó cần phải được đối mặt một cách công khai và trung thực mà không cần tất cả những đàm phán sơ bộ đầy bế tắc và kéo dài liên quan đến các nỗ lực nhằm sát nhập ba nước liên hiệp [Việt, Miên, Lào] lại với nhau, làm cho họ đồng ý với nhau và với Pháp, riêng và chung. Pháp, lập luận chống lại bất kỳ loại hiệp định song phương nào, tuyên bố rằng nỗ lực của họ tại liên bang ở Đông Dương là giống như nỗ lực của chúng ta nhằm xây dựng một hệ thống liên minh như ở Âu Châu. Tuy nhiên, sự tham gia và sự quan tâm của họ ở Đông Dương rõ ràng là khác nhau, và họ đã sử dụng công thức mà họ đã xếp đặt để tránh bất kỳ thỏa thuận thực sự nào về Việt Nam. Vấn đề trở nên phức tạp hơn như quân đội và các khía cạnh của tình hình chính trị đã trở nên không thể không ràng buộc với nhau, và chiến tranh Triều Tiên, tất nhiên, lại còn phức tạp hơn nữa. Ngay từ đầu, người Pháp tìm cách đưa ra quan điểm là chiến tranh ở Hàn Quốc và cuộc chiến ở Đông Dương là có liên quan với nhau trong một trận đấu lớn, chống lại cộng sản, nhưng điều không phải đơn giản như thế. Trên thực tế, chiến tranh Triều Tiên đã làm cho chúng ta khó khăn hơn trong việc đôn đốc một giải pháp có tiến triển về Việt Nam. Tới 1951, có thể đã quá muộn cho chúng ta làm bất cứ điều gì về vấn đề này, nhưng chúng ta vẫn có thể cố gắng mạnh mẽ nhiều hơn những gì chúng ta đã làm. Vấn đề là thế giới sau đó đã bắt đầu bao vây và cô lập chúng ta.
Công thức Cộng Đồng Quốc Phòng Âu Châu [EDC: European Defence Community] đã bị người Pháp từ chối, cũng giống như năm 1965 họ đã từ chối khái niệm Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương. Mức độ sức bẩy của chúng ta đã bị giảm đáng kể. " 45/
Nếu Bảo Đại đã sẵn sàng hoặc có khả năng lãnh đạo hiệu quả hơn, thì vai trò của Hoa Kỳ trong chiến tranh có thể không rơi vào những gì mà Edmund Gullion gọi là "mô hình của dự đoán và thất vọng":
"Có thể tính thời gian rằng cứ như gần đến tháng trùng với mùa mưa và mùa chiến dịch. Vì vậy, vào tháng năm hoặc tháng sáu, chúng tôi thường nhận được các ước tính của Pháp về những thành công trong mùa chiến dịch sắp tới, một phần dựa trên việc đánh giá thiệt hại của Việt Minh được cho rằng là vào mùa thu trước đó, điều mà họ thường tuyên bố như là điểm sáng nếu không thì thành một mùa chiến dịch [quân sự] ảm đạm. Những điều dự đoán mới cũng sớm được chứng minh là đáng thất vọng; vào tháng 10, quân đội Liên minh Pháp thường được dồn cục trên các dãy núi cách xa các căn cứ của họ … Có những ồn ào [than phiền] vì viện trợ Hoa Kỳ không có hoặc đến trễ và thiếu sự thông cảm của người Mỹ. Vào khoảng thời gian đầu năm mới, một cuộc họp gồm các giới chức cao cấp Hoa Kỳ và Pháp được tổ chức. Chúng ta đã đặt một số câu hỏi về tình hình quân sự nhưng chỉ có một sối ít câu hỏi về tình hình chính trị. Có một tin đồn đang lan rộng suy đoán rằng Pháp có thể rút quân ra khỏi Đông Dương nếu chúng ta ép Pháp cho lời giải thích về các chương trình chính trị và kinh tế của họ. Chúng ta hứa hẹn viện trợ thêm cho Pháp. Người Pháp đưa ra một lập trường: họ báo rằng họ đã gây thương vong rất lớn cho kẻ thù. Họ cung cấp cho chúng ta những ước tính mới cho mùa chiến dịch sau - và cứ như thế vòng quay lại bắt đầu một lần nữa.” 46/
Trong mô hình ảm đạm đó, Bảo Đại chỉ chơi một vai trò thụ động, giải pháp "Bảo Đại" cuối cùng không giải quyết được gì. Kết quả dựa nhiều hơn vào cuộc đấu tranh quân sự của Pháp với Việt Minh, và cuộc thi [của Pháp] đối phó với sức đẩy của Hoa Kỳ.
II. A. 2.
Mục lục
** ở đây chữ leverage, tôi dịch là sức bẩy hay thế thượng phongtrong nghĩa là khi hai đối tác thương thảo một chuyện gì thì anh nào trên cơ anh nào
1. Sức bẩy của Hoa Kỳ đối với Pháp A-35
a. NATO và Marshall Plan A-35
b. Chương trình hỗ trợ quân sự A-35
c. Hoa Kỳ hỗ trợ độc lập cho ba nước Đông Dương A-37
2. Sức bẩy của Pháp đối với Hoa Kỳ. A-38
a. Chủ yếu đó là chiến tranh của Pháp: A-38
b. Nguyện vọng thành công của Pháp A-39
c. Chính sách Hoa Kỳ ở châu Âu: EDC A-40
d. Pháp mong muốn đàm phán A-40
e. Kết luận: các mục tiêu Hoa Kỳ và Pháp là không tương thích A-41
II. A. 2. Sức bẩy [Thế thượng phong]: Pháp đã hơn Hoa Kỳ
Đôi khi có thể khẳng định rằng Pháp không thể tiếp tục cuộc chiến ở Đông Dương mà không cần viện trợ Mỹ, nhưng Hoa Kỳ không sử dụng sức bẩy [thế] đáng kể này buộc người Pháp phải thực hiện các bước tích cực hơn đối với quyền độc lập hoàn toàn của các nước liên bang. Kiểm tra lại mối quan hệ Pháp-Mỹ từ 1950-1954 cho thấy, mặc dù vậy, sức bẩy của người Hoa Kỳ đã bị hạn chế một cách nghiêm trọng và, do ưu tiên trong chính sách của Hoa Kỳ là ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản ở Đông Nam Á, sức bẩy của Pháp so với Hoa Kỳ là mạnh hơn.
1. Sức bẩy của Hoa Kỳ đối với Pháp
a. NATO và Marshall Plan
Trong thập kỷ đầu sau chiến tranh, Pháp tương đối yếu và phụ thuộc vào Hoa Kỳ thông qua NATO và Kế hoạch Marshall cho an ninh quân sự và sự phục hồi kinh tế. Tuy nhiên, không phải NATO cũng như Kế hoạch Marshall có thể [giúp Mỹ] sử dụng như điểm tựa để ảnh hưởng lên chính sách của Pháp về Đông Dương. Cả hai đều được Chính phủ và công chúng Hoa Kỳ đánh giá mạnh mẽ là lợi ích quốc gia của Hoa Kỳ vào thời điểm mà sự đe dọa từ Liên Xô lên các nước Tây Âu, qua xâm lược công khai hay lật đổ nội bộ, đã được rõ ràng nhận ra. Một nước Pháp bị cộng sản nắm là một khả năng thực sự. (Đảng Cộng sản Pháp là đảng chính trị lớn nhất trong cả nước, và vào thời điểm đó, mang tính chiến đấu cao). Như vậy, chuyện Hoa Kỳ đe dọa rút hỗ trợ quân sự và kinh tế nếu Pháp không thay đổi chính sách của họ ở Đông Dương là không thích đáng. Việc đe dọa Pháp với biện pháp trừng phạt trong NATO hoặc thông qua Kế hoạch Marshall sẽ làm hư hại lợi ích của Hoa Kỳ ở Châu Âu là điều quan trọng hơn bất kỳ chuyện gì khác ở Đông Dương.
b. Chương trình hỗ trợ quân sự
Nguồn ảnh hưởng chính còn lại là các chương trình viện trợ quân sự cho Pháp ở Đông Dương. Ngày 08 tháng 5 năm 1950, đáp ứng một yêu cầu khẩn cấp của Pháp ngày 16 tháng hai năm 1950, Tổng thống Truman công bố viện trợ quân sự và kinh tế mà mục đích là để giúp đỡ người Pháp trong việc tiến hành cuộc chiến chống lại Việt Minh. Sau đó, đại sứ Hoa Kỳ ở Paris được gọi đến Quay d'Orsay [trụ sở của Bộ Ngoại Giao Pháp], để nghe chính phủ Pháp xác định rằng "phải nói rõ với Chính phủ Hoa Kỳ một cách đầy đủ và thẳng thắn rằng tình hình Đông Dương là cực kỳ trầm trọng theo quan điểm của Pháp căn cứ trên kết quả của những diễn biến gần đây và ước đoán rằng ít nhất Cộng sản Trung Quốc sẽ tăng cường viện trợ quân sự cho Hồ Chí Minh”. Ông [Truman] nói:
"... Rằng nỗ lực ở Đông Dương là một tiêu hao cho Pháp, rằng một chương trình hỗ trợ dài hạn là cần thiết và những hỗ trợ ấy chỉ đến từ Hoa Kỳ, nếu không... rất có thể Pháp có thể sẽ phải xét lại toàn bộ chính sách của mình để rút khỏi Đông Dương hầu tránh bị tiêu hao... nhìn vào tương lai, điều ấy là rõ ràng... rằng Pháp không thể tiếp tục chịu gánh nặng này một mình vô thời hạn nếu dự đoán về vấn đề tăng hỗ trợ cho Hồ Chí Minh [từ Trung Cộng] đã thành sự thật... " 1/
Mặc dù quyết định mở rộng viện trợ cho các nỗ lực quân sự Pháp ở Đông Dương đã được thực hiện trước khi chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, rõ ràng là [tình hình] bị ảnh hưởng nặng nề bởi sự sụp đổ của Trung Hoa Quốc Dân Đảng, và sự xuất hiện của quân đội Cộng sản Trung Quốc cạnh biên giới Đông Dương vào tháng Mười Hai năm 1949. Chế độ Hồ Chí Minh được công nhận là chính phủ hợp pháp của Việt Nam bởi Cộng sản Trung Quốc vào ngày 18 Tháng 1 năm 1950 và mười hai ngày sau, Chính phủ Liên Xô, tương tự, công bố công nhận. Hội Đồng An Ninh Quốc Gia [NSC: National Security Council] liền sau đó được yêu cầu "lấy quyết tâm dùng tất cả các biện pháp thực tế của Hoa Kỳ để bảo vệ an ninh ở Đông Dương và để ngăn chặn việc mở rộng xâm lược của cộng sản trong khu vực đó". Văn bản số NSC 64 (27 Tháng Hai 1950) kết luận rằng:
"Điều quan trọng cho lợi ích an ninh của Hoa Kỳ là tất cả các biện pháp thực tế đều được dùng để ngăn chặn cộng sản tiếp tục mở rộng thêm ở Đông Nam Á. Đông Dương là một khu vực quan trọng của khu vực Đông Nam Á và hiện nay đang bị đe dọa.
"Các nước láng giềng Thái Lan và Miến Điện được dự kiến có thể sẽ bị Cộng sản thống trị nếu Đông Dương đã bị kiểm soát bởi một chính quyền cộng sản. Sự cân bằng của khu vực Đông Nam Á, sau đó, sẽ bị nguy hiểm nghiêm trọng." 2/
Bộ Tổng Tham Mưu, tham chiếu ước tính tình báo ngày 5 tháng tư năm 1950 cho thấy rằng tình hình ở Đông Nam Á đã xấu đi, lưu ý rằng "không trợ giúp của Hoa Kỳ, sự suy giảm này sẽ bị đẩy mạnh." 3/
Vì vậy, lý do cho quyết định hỗ trợ Pháp là để ngăn chặn Đông Dương khỏi trượt vào khối cộng sản, chứ không phải viện trợ cho Pháp như một quyền lực thực dân hoặc một đồng minh NATO thân thích.
Mỹ hỗ trợ, bắt đầu khiêm tốn với 10 triệu USD vào năm 1950, đạt $ 1.063 triệu trong năm tài chính 1954, ở "thời gian đó nó chiếm 78% chi phí gánh nặng chiến tranh của Pháp. Phần chính của sự gia tăng trong năm cuối cùng của cuộc chiến, sau khi Kế hoạch Navarre được trình bày năm 1953 là kêu gọi mở rộng lực lượng Pháp-Việt và một chiến lược năng động để lấy lại thế chủ động và mở đường cho chiến thắng vào 1955. Kế hoạch Navarre được Trung Tướng John W. O'Daniel, người đứng đầu của MAAG ở Đông Dương lạc quan ủng hộ như là một kế hoạch có khả năng xuay ngược tình thế và dẫn đến một chiến thắng quyết định trên Việt Minh đã góp phần khiến Washington thỏa thuận nâng cao đáng kể mức độ hỗ trợ. Nhưng quan trọng không kém, kế hoạch Navarre, là một đề nghị cụ thể có đưa ra lời hứa kết thúc một cuộc chiến dài, đã đặt Pháp ở vị trí áp lực Hoa Kỳ cung cấp nhiều tiền hơn để chi trả cho việc đào tạo và trang bị thêm chín tiểu đoàn Pháp và một số đơn vị mới Việt Nam.
c. Hoa Kỳ hỗ trợ độc lập cho ba nước Đông Dương
Trong suốt thời gian hỗ trợ cho các nỗ lực quân sự Pháp, các nhà hoạch định chính sách của Hoa Kỳ luôn giữ trong tâm trí sự cần thiết phải khuyến khích người Pháp trao độc lập hoàn toàn cho các quốc gia liên hiệp và có các biện pháp thiết thực theo hướng này, chẳng hạn như đào tạo cán bộ, công chức dân sự Việt Nam. Như vậy những động tác thuyết phục trở nên tinh tế và khó khăn do tính nhạy cảm cao của người Pháp đối với bất kỳ "can thiệp" nào đối với các vấn đề "nội bộ".
Đọc lại các bản ghi nhớ của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia [NSC] và các đối thoại ngoại giao Pháp-Mỹ vào thời gian đó cho thấy rằng Washington luôn để mắt theo sát mục tiêu cuối cùng là việc giải thể chế độ thực dân ở Đông Dương. Thật vậy, thật không thoải mái thấy mình – bị bó buộc vì sự cần thiết phải chống lại Việt Minh cộng sản – phải nằm chung giường với người Pháp. Áp lực của Hoa Kỳ cũng có thể giải thích được qua tuyên bố công khai của Thủ tướng Joseph Laniel [Pháp] ngày 03 Tháng bảy 1953, là sự độc lập và chủ quyền của các nước liên minh sẽ được "hoàn thiện" bằng cách chuyển giao cho họ các chức năng khác nhau mà vẫn còn dưới quyền kiểm soát của Pháp, mặc dù không có hạn cuối cùng đặt ra cho độc lập hoàn toàn. 4/
Tại một cuộc họp NSC vào ngày 6 tháng 8, năm 1953 Tổng thống Eisenhower tuyên bố rằng sự hỗ trợ của Pháp sẽ được xác định bởi ba điều kiện:
(1) Một cam kết công khai của Pháp về "một chương trình mà sự hỗ trợ và hợp tác của bản địa Đông Dương là đảm bảo ";
(2) Một lời mời của Pháp cho "tư vấn quân sự [US] chặc chẽ ";
(3) Gia hạn bảo đảm về việc thông qua Cộng Đồng Quốc Phòng Âu Châu [EDC]. 2/
Phù hợp với các quyết định của mình, ngày 09 tháng chín 1953 Washington cấp $385 triệu cho việc thực hiện Kế hoạch Navarre, phụ thuộc vào một số điều kiện. Đại sứ Hoa Kỳ đã được chỉ thị thông báo cho Thủ tướng Laniel và Ngoại trưởng Bidault rằng Chính phủ Hoa Kỳ mong chờ Pháp:
"... Tiếp tục theo đuổi chính sách hoàn thiện nền độc lập cho ba nước Đông Dương phù hợp với tuyên bố ngày 03 tháng 7;
"tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi tin tức với các cơ quan quân sự Hoa Kỳ và quan tâm đến ý kiến của họ [Mỹ] trong việc tiến hành và thực hiện kế hoạch quân sự Pháp ở Đông Dương.
"đảm bảo rằng sẽ không có những thay đổi cơ bản hoặc lâu dài về những kế hoạch và chương trình của các lực lượng NATO lấy cớ là do hậu quả các nỗ lực bổ sung [của Pháp] ở Đông Dương; 6/
(xem tiếp kỳ 4)---