Thứ Tư, 20 tháng 2, 2013

Nhân đọc bên thắng cuộc (14)- Ðọc toàn bộ "Bên Thắng Cuộc:" ‘Sự Thật sẽ giải phóng con người’

-- Đinh Xuân Quân – Sách ‘Quyền Bính’ của Huy Đức: những cận cảnh tình hình kinh tế Việt Nam hiện tại (DĐTK).Tiến sĩ Đinh Xuân Quân
LTS: TS Đinh Xuân Quân là một kinh tế gia về phát triển và tổ chức cơ chế (governance). Ông đã sống tại Việt Nam sau 1975, đã bị tù cải tạo, vượt biển tìm tự do. Và đặc biệt đã có dịp về làm việc tại Việt Nam trong chương trình phát triển của Liên Hiệp Quốc (UNDP) nhằm giúp cải tổ hành chánh và kinh tế từ năm 1994 đến 1997. Đó là một dịp rất tốt để TS Quân hiểu bối cảnh và tư duy của lãnh đạo CSVN vào lúc đó.


Photo: Uyên Nguyên

Trước 1975 ông làm cho Quỹ Phát Triển Kinh Tế Quốc Gia và tham gia vào Nhóm kinh tế hậu chiến thuộc Bộ Kế Hoạch của VNCH. Ông là GS Kinh tế tại Đại Học Luật Saigon và ĐH Minh Đức. Cho đến nay ông đã làm chuyên gia cố vấn cho trên 20 nước trên thế giới, kể cả gần đây làm cố vấn kinh tế - hành chính cho Phủ TT Iraq và Phó TT tại Afghanistan dưới sự bảo trợ của World Bank, UNDP và USAID. Ông cũng tiếp tục làm GS tại nhiều ĐH mà ông có nhiệm sở.

“Bên Thắng Cuộc – Quyền Bính” của Huy Đức Smashword Edition gồm 760 trang và 11 chương. Quyển này gồm những phân tích khía cạnh kinh tế và quản lý kinh tế của Việt Nam thời hậu 1975.

Những chương 20, 21 và 22 của quyển “Quyền Bính” nói nhiều về các thế hệ lãnh đạo mới trong thời kỳ gần đây. Chúng tôi thấy các chương này có nhiều liên hệ với các chuyện đang xẩy ra hiện nay tại VN. Với chuyên môn của mình là về kinh tế, người viết bài này sẽ chú trọng về khía cạnh kinh tế được trình bày trong cuốn Quyền Bính như "các tranh chấp nội bộ, về kinh tế thị trường – các tập đoàn kinh tế - kinh tế thị trường theo định hướng XHCN" và những lý do đưa đến khủng hoảng, các tai hại kinh tế còn kéo đến ngày nay, năm 2013.

Ngoài các chương trước nói về kinh tế, chương 22 nói về các thế hệ mới trong đó TT Nguyễn Tấn Dũng và cách làm kinh tế của ông qua kinh tế tập đoàn được đưa ra. “Theo ông Phan Văn Khải thì chính tôi quyết định đầu tư cho Vinashin khoản tiền bán trái phiếu chính phủ hơn 700 triệu USD. Sau đó không chỉ Vinashin mà nhiều tập đoàn khác cũng phát triển ồ ạt nhiều loại ngành nghề, ở đâu cũng thấy đất đai của Vinashin và của các tập đoàn nhà nước”. ..."Từ 2007, ông Dũng cho đầu tư ồ ạt, tiền đổ ra từ ngân sách, từ ngân hang, thậm chí, dự trữ quốc gia, dự trữ ngoại tệ cũng được đưa ra. Bội chi ngân sách lớn, bất ổn vĩ mô bắt đầu”. Từ cuối năm 2008, khuynh hướng quay trở lại nền kinh tế chỉ huy càng tăng. Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng vẫn liên tục ban hành các mệnh lệnh hành chánh hòng kiểm soát trần lãi xuất, kiểm soát thị trường ngoại tệ, thị trường vàng.  TT Nguyễn Tấn Dũng đã đưa GDP tăng trưởng tới mức kỷ lục: 8,5% vào tháng 12-2007; đồng thời cũng đã đưa lạm phát vào tháng 8-2008 lên tới 28,2%. Trong sáu năm ông Nguyễn Tấn Dũng giữ chức Thủ tướng, mức tăng trưởng kinh tế luôn thấp hơn rất nhiều so với mức lạm phát. Năm 2010 GDP tăng đạt mức 6,78% nhưng lạm phát tăng lên 11,75%. Năm 2011 tăng trưởng GDP giảm còn 5,89% trong khi lạm phát lên tới 18,13%. Năm 2012, nền kinh tế gần như ngưng trệ, lạm phát ở mức 6,81% nhưng GDP cũng xuống tới 5,03% thấp kỷ lục kể từ năm 1999."

Hậu quả của chính sách được mô tả trong Quyền Bính như thế là nền kinh tế rơi vào tình trạng gần như không lối thoát. Bài "Khối quốc doanh Việt Nam là khối ung thư của nền kinh tế (1) " nhận xét các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay là lý do của sự chỉ trích từ công chúng về khủng hoảng hệ thống mà đảng cầm quyền không thể sửa chữa. Theo số liệu của từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư trích dẫn bởi AFP thì các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) chiếm 45% vốn đầu tư, 60% vốn vay từ ngân hàng thương mại, 70% tiền tài trợ phát triển và chiếm 70% nền kinh tế nhưng chỉ đóng góp 30% trong tăng trưởng GDP.  Khối DNNN còn chịu trách nhiệm cho khối nợ khổng lồ là 61 tỷ đôla (bằng một nửa số nợ công của Việt Nam hiện tại và nửa tổng sản lượng VN).  Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 30 trong số 85 các doanh nghiệp Nhà nước cỡ lớn có nợ gấp ba tới 10 lần số vốn. Theo báo chí thì EVN và Vinacomin là hai doanh nghiệp Nhà nước có nguy cơ sụp đổ, sau Vinalines và Vinashin, và đang tồn tại nhờ ưu đãi của nhà nước.  Các tập đoàn nhà nước, do chính phủ bảo kê về nguồn vốn, nên đã lao vào đầu tư không tính toán và bất chấp chuyên môn. Chẳng hạn như một tập đoàn Vinashin lại đầu tư trong ngành xây dựng/nhà đất hay ngân hàng khi thấy lĩnh vực bất động sản đang ăn nên làm ra, hay trong lĩnh vực ngân hàng, vv.  Cách đầu tư này không hiệu quả, gây thất thoát cho ngân sách nhà nước, và làm phương hại đến lĩnh vực tư nhân bởi sự độc quyền và cạnh tranh không lành mạnh của khu vực nhà nước.

Theo Thời Báo Kinh Tế Saigon Online và các con số của Tổng cục Thống kê công bố hôm 4/1/2013 và các số liệu Bộ Kế hoạch Đầu tư báo cáo Quốc hội thì tính đến cuối 2011 tổng số doanh nghiệp có đăng ký là 624,000. Trong năm 2012 có 55,000 doanh nghiệp đóng cửa và nếu tính từ 2011 thì đã có hơn 360,000 doanh nghiệp (DN) giải thể - ngừng hoạt động trong 24 tháng. Phần đông các DN ngưng hoạt động vì lãi suất ngân hàng trong giai đoạn đó quá cao trên dưới 20%, chi phí sản xuất cao làm ăn thua lỗ. Khi lãi suất hạ giảm bớt thì nợ xấu khiến ngân hàng thắt chặt cho vay, những doanh nghiệp đang khó khăn càng thêm khó khăn do thiếu vốn và đi đến chỗ chết.

Vì các DN phá sản cho nên số liệu của Tổng cục thống kê cho thấy trong 9 tháng đầu năm, Việt Nam có khoảng 1 triệu người - 984 nghìn người thất nghiệp và gần 1,37 triệu người thiếu việc làm (2). Đứng đầu về tỷ lệ thất nghiệp là TP HCM ở mức 3,9%, sau đó là khu vực đồng bằng Sông Cửu Long và Hà Nội ở vị trí thứ hai và ba. Trong thành phần người thất nghiệp, độ tuổi từ 15-24 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất, chiếm 46,8%. Trong đó 38,1% là ở khu vực thành thị và 56,2% ở khu vực nông thôn.

Nói tóm là hiện nay tình trạng là “Các ngân hàng không cho vay, các doanh nghiệp không đầu tư, các gia đình không còn mua nhà nữa và các DNNN tiếp tục lãng phí.” Nguyên nhân của tình trạng này là chính sách ưu tiên cho DNNN của TT NTDũng. 

Chương này cũng nêu lên liên hệ chặt chẽ giữa TT NTDũng và phe Công an. “Lần đầu tiên trong nền chính trị Hà Nội, mối quan hệ giữa Thủ tướng và công an thực sự có ảnh hưởng qua lại. Ngoài BT Lê Hồng Anh xuất thân từ Kiên Giang, bên cạnh TT luôn là Tướng An ninh Nguyễn Văn Hưởng.  Trong suốt thời gian này hơn hai mươi lăm phóng viên của gần như đủ các tờ báo quan trọng nhất bị điều tra. Phóng viên Nguyễn Văn Hải của báo Tuổi Trẻ và Nguyễn Việt Chiến của báo Thanh Niên bị bắt. Tướng Nguyễn Xuân Quắc, cục trưởng Cục Cảnh sát Hình sự bị TT Nguyễn Tấn Dũng  cho nghỉ hưu và Ông Quắc còn bị khởi tố… Báo chí trong nhiệm kỳ đầu tiên của ông Nguyễn Tấn Dũng gần như không còn nhuệ khí để phản biện các chính sách và đề cập đến các thông tin liên quan đến tham nhũng.

Hậu quả của liên hệ chặt chẽ Công An-TT NTDũng trong thời gian gần đây, Việt Nam thường xuyên gia tăng đàn áp bất đồng chính kiến với việc tội danh 'âm mưu lật đổ' được mang ra sử dụng trong nhiều trường hợp thay cho tội danh Tuyên truyền chống nhà nước.  Hơn nữa internet bị kiểm soát qua các “tường lửa.” Các blogger bị bắt bỏ tù, vào các trại tâm thần như anh Lê Anh Hùng đã bị đưa vào một trại tâm thần ở Hà Nội (3). Do áp lực của quốc tế và dư luận trong nước Việt Nam đã trả tự do cho blogger này nhưng việc đưa vào trại tâm thần là một hình thức đàn áp mới.  Gần đây blogger Điếu Cày bị chuyển trại và giam cách ly (4) mà gia đình hoàn toàn không được thông báo và hiện ông Điếu Cày đang bị giam riêng không được tiếp xúc với những tù nhân khác.

Ví dụ khác là vụ án Bia Sơn (4/2/2013) khi tòa án Phú Yên xử tù chung thân đối với người bị coi là cầm đầu và những người còn lại lĩnh từ 10 đến 17 năm tù, và tất cả phải chịu quản thúc tại địa phương 5 năm sau khi mãn tù. Ta không lạ gì dưới triều TT NTDũng, vụ “Chương trình Táo Quân” (5) trên TV tại Việt Nam bị đặt dưới sự kiểm duyệt vì bị đánh giá là “phản cảm,” hay các vụ công an đánh chết người dân, mang lại sợ hãi của các chế độ toàn trị và việc bỏ tù các người bất đồng chính kiến gia tăng.

Hơn nữa khi đọc “Quyền Bính” người Việt phải bực mình nếu không nói là phẫn nộ trước những lỗi lầm, những tranh chấp nội bộ, những hành động đê tiện, những  cơ hội đã mất, và nhờ vậy cũng biết những người nào đã mang tròng cái “16 chữ vàng” của Trung Quốc lên VN?

Quyển “Quyền Bính” nói khá nhiều về các lãnh đạo đã và đang quản lý đất nước.  Các cuộc “đấu đá – tranh giành ảnh hưởng hay các cố gắng giảm bớt “Ý thức hệ” trong việc quản lý Việt Nam” giữa các người này. Quyển “Quyền Bính” cho thấy các lãnh đạo trong ĐCSVN được quản lý bởi một số người rất nhỏ, quyết đoán, dư về “ý thức hệ” nhưng ít về “chuyên môn và ít tham nhũng” như Lê Duẩn, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười.  Phe “cởi mở” gồm những những người như Trường Chinh, Võ Văn Kiệt, Phan Văn Khải, vv. và VVKiệt được coi như đầu tàu về phe “cởi mở” và được nhiều người thương tiếc. Trường Chinh được mô tả như là kiến trúc sư của “Đổi mới,” dùng những trợ lý giỏi nhưng sau đó cũng phải “tự” rút.  Cuộc chiến NVLinh – Trần Xuân Bách là do thù cá nhân và cả ý thức hệ. Nhiều đòn hiểm được tung ra diệt Trần Xuân Bách và NVLinh cũng còn muốn hạ Võ Văn Kiệt.  Việc ông NVLinh thù dai ông VVKiệt đã dẫn tới việc ông Đỗ Mười được bầu làm thủ tướng thay ông Phạm Hùng, v.v. NVLinh mà nhiều người tưởng là “cởi mở” nhưng thật là một người thủ đoạn, thành kiến, nặng về ý thức hệ và bảo thủ.

Nó cho thấy một ông VVK hay PVKhải tìm các lời khuyên từ Singapore qua các chuyến viếng thăm – như việc vào 1991 Lý Quang Diệu đã chỉ trích VN: “Việc chọn đi theo mô hình Liên Xô đã làm cho nền kinh tế Việt Nam lạc hậu mất hai mươi năm”.  Nó cũng nói về nhiều những cố gắng của các chuyên viên, và họ đã gặp những khó khăn nào từ phe bảo thủ. Phe cởi mở còn chịu sức ép từ các nước CS, như ngoài TQ còn có Bắc Hàn cố ngăn cản Việt Nam có quan hệ với Nam Hàn. 

Quyển “Quyền Bính” nói về các lãnh đạo trong ĐCSVN, một tổ chức được quản lý bởi một số người rất nhỏ, quyết đoán, dư về “ý thức hệ” nhưng ít về “chuyên môn” và càng kém cỏi về kiến thức. Hậu quả là đảng đã phạm các lỗi lầm (quản lý kinh tế kém, tự mang cái tròng 16 chữ vàng của TQ, lấy đất của dân, vv.) do sự kém hiểu biết về chuyên môn, thù cá nhân, ít biết về thế giới bên ngoài, đã mang lại biết bao nhiêu tai họa cho Việt Nam.

Quyển sách còn cho thấy các thế hệ lãnh đạo mới ít “ý thức hệ hơn” nhưng tham nhũng nhiều hơn vì cách làm kinh tế qua các tập đoàn gây quá nhiều nợ, và nhiều nợ chẳng qua vì vốn chạy vào những cái túi tham nhũng không đáy. Nó cho thấy là “phe bảo thủ - ý thức hệ” đã cản đà tiến của Việt Nam và số người "ít bảo thủ" về sau thì lại tham nhũng quá táo tợn. Hậu quả của việc quản lý đất nước từ 1975 đến nay cho thấy là một thất bại so với những khả năng của VN. Đảng cộng sản đã liên tiếp lỡ mấy chuyến tàu đưa Việt Nam tiến đến chỗ phú cường sau khi đất nước đã hòa bình và thống nhất. Đảng CS đã phạm các lỗi lầm do sự kém hiểu biết của họ về thế giới bên ngoài, đã mang lại biết bao nhiêu tai họa cho Việt Nam.

Quyển sách này sẽ giúp người VN tái xác định về cái gọi là Xã Hội Chủ Nghĩa, về cách quản lý đất nước và đánh thức người đọc tìm cách tiếp tục “Đổi Mới” theo kinh tế thị trường, nhà nước đối sử bình đẳng với mọi thành phần kinh tế, chấm dứt việc ưu đãi quốc doanh thối nát kém hiệu quả, và những nhóm tư bản bè phái (crony capitalism). Phải có quyền bình đẳng kinh tế trong việc sở hữu các phương tiện sản xuất, nhất là đất đai (nói là do dân làm chủ, nhưng trong thực tế các quan trong bộ máy nhà nước được giữ quyền quản lý, có thể đòi lại đất từ người nông dân bất cứ lúc nào để bán cho những tập đoàn giàu có khác). 

Quyển “Quyền Bính” đang giúp mọi người trong và ngoài nước thấy sự thật về các lãnh đạo cộng sản, mà bộ máy tuyên truyền của đảng đã dựng lên nhiều huyền thoại để che giấu.  Sự Thật đã có sức mạnh "đánh thức" mọi tầng lớp dân chúng. Nhờ đụng chạm với thực tế đất nước mà nhiều trí thức tham gia vào các kiến nghị, chẳng hạn hiện nay đã lên đến trên 4,300 người đòi hỏi sửa đổi Hiến pháp 1992, là một bản Hiến pháp chỉ nhằm bảo vệ quyền lợi của ĐCSVN, đi ngược lại quyền lợi của toàn dân; hy sinh quyền người cày có ruộng; chà đạp quyền lợi của dân lao động. Bản HP đó chỉ có mục đích áp đặt một chế độ chuyên chính độc đảng; độc tài và cảnh sát trị như ở Liên xô và Đông Âu trước đây. Sau nhiều thập niên bị nhấn chìm trong sợ hãi trước một chế độ toàn trị độc ác, giới trí thức trong nước ngày nay đang "hóa giải" được cái sợ và dấn thân vào những hành động cụ thể nhằm xây dựng đất nước. Hiện nay cả nước đang tiến tới chỗ Nam Bắc một lòng, Trong Ngoài một lòng, nhiều thành phần trong đảng đang vươn ra kết hợp với dòng ngoài đảng để tiến tới thay đổi cho đất nước. Tài liệu nghiên cứu của GS Archie Brown về tác động của giới trí thức đến cải cách ở Liên Xô và Đông Âu trước đây cho thấy là "Ở Liên Xô và Trung Quốc, cải tổ từ trong đảng có tính quyết định hơn hẳn sức ép từ bên ngoài hàng ngũ đảng" (6).

Theo chúng tôi, quyển “Quyền Bính” cần được đọc nhiều lần vì nó giúp người đọc có một cái nhìn về chính trường – XHCN từ tháng 4 năm 1975. Dù đối với các chuyên gia thì còn rất nhiều sự kiện lịch sử VN quan trọng chưa được tác giả đề cập, quyển Quyền Bính vẫn giúp chúng ta có cái nhìn bao quát và hiểu rõ hơn rất nhiều chuyện mà nhà nước CS chỉ muốn giấu đi để trong bao nhiêu năm chỉ trình bày một tầng lớp lãnh đạo được thần thánh hóa. Huy Đức đã mang lại sự "giải hoặc" rất lớn cho độc giả, chỉ với Sự Thật mà trong 20 năm tác giả đã một mình cặm cụi thu thập đã có khả năng đánh bạt đi biết bao nhiêu dối trá mà qua nhiều thập niên đảng CS đã cố dựng nên. Một khi đã đứng về phía Sự Thật, người Việt Nam sẽ có khả năng tự mình đánh giá công hay tội của đảng cộng sản, trước tình hình trì trệ của đất nước hiện nay.

Tuy nói về chuyện đã qua, quyển sách này rõ rệt là nhằm vào tương lai. Nó như một làn gió mùa xuân mang lại thức tỉnh cho nhiều người và nhắc nhở rằng công cuộc “Đổi Mới” chỉ đang ở chỗ nửa vời, cần tiếp tục một cách căn bản hơn nữa, quyết liệt hơn nữa.  Quyển sách cho thấy nhu cầu thay đổi tại VN đã chín mùi. Nó mang theo nhiều câu hỏi –theo chiều hướng nghiên cứu của GS Archie Brown - tác động của giới trí thức cho thấy là “Ở Liên Xô và TQ, cải tổ từ trong đảng có tính quyết định hơn hẳn sức ép từ bên ngoài”? (7) Liệu TQ có can thiệp nhiều hơn không trong công việc cải tổ đất nước? Liệu VN có theo mô hình Miến Điện hay không?  Dù sao vào đầu năm chúng ta hy vọng có thể nhìn một hình ảnh VN đang chuyển mình. 

Ts. Đinh Xuân Quân

Chú thích

(1) "Khối quốc doanh Việt Nam là khối ung thư của nền kinh tế" AFP ngày 30/1/2013
(2) BBC ngày 21 tháng 12, 2012.
(3) RFI ngày 8/2/2013 
(4)  RFI ngày 08/02/2013
(5) RFI ngày 9/02/2013
(6) BBC,5/2/2013 “Nhóm nhân sỹ trí thức gồm 15 vị, đại diện cho những người ký Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp 1992,”  
(7) BBC “Thay đổi từ bên trong đảng cộng sản”  thứ hai, 13 tháng 2, 2012


-“Bên Thắng Cuộc” dưới cái nhìn của một nhà kinh tế
Mặc Lâm, biên tập viên RFA 2013-01-19
Quyển sách Bên Thắng Cuộc của tác giả Huy Đức có lẽ là tác phẩm được đón đọc nhiều nhất của mọi giới trong cũng như ngoài nước từ trước tới nay. Tuy nhiên Bên Thắng Cuộc cũng là cuốn sách gây tranh cãi sôi động nhất trong cộng đồng người đọc sách.

Nguồn: Sách Bên Thắng Cuộc's facebook
Hình trên facebook của Sách Bên Thắng Cuộc.
Những bài viết khen tặng, phê bình cũng như phê phán gay gắt xuất hiện chỉ vài ngày khi cuốn sách ra đời đã làm cho độc giả thêm hứng khởi khi tìm mua nó. Một trong những bài viết có tính cách khách quan của một tác giả hiện sống tại hải ngoại được chúng tôi chọn ra trong chương trình Văn Hóa Nghệ Thuật hôm nay là của Tiến Sĩ Đinh Xuân Quân để bàn thêm về cuốn sách này.
TS Đinh Xuân Quân là một kinh tế gia về phát triển và tổ chức cơ chế. Ông từng bị tù cải tạo, vượt biển tìm tự do tại Hoa Kỳ để rồi sau đó có dịp về làm việc tại Việt Nam trong chương trình phát triển của Liên Hiệp Quốc (UNDP) nhằm giúp cải tổ hành chánh và kinh tế từ năm 1994 đến 1997.
Trước năm 1975 ông làm cho Quỹ Phát Triển Kinh Tế Quốc Gia và tham gia vào Nhóm kinh tế hậu chiến thuộc Bộ Kế Hoạch của VNCH. Ông là GS Kinh tế tại Đại Học Luật và ĐH Minh Đức. Cho đến nay ông đã làm chuyên gia cố vấn cho trên 20 nước trên thế giới, kể cả gần đây làm cố vấn kinh tế - hành chính cho Phủ TT Iraq và Phó TT tại Afghanistan dưới sự bảo trợ của World Bank, UNDP và USAID.
Hôm nay TS Đinh Xuân Quân dành cho chúng tôi cuộc phỏng vấn chung quanh cuốn sách Bên Thắng Cuộc, quyển một có tựa là Giải Phóng. Do thời lượng không cho phép, chúng tôi chỉ xin hỏi trong lĩnh vực chuyên môn của ông nhằm tìm hiểu thêm nhận xét của một chuyên gia đã sống trong chính giai đoạn mà cuốn sách nhắc tới.

Phơi bày sự thực


Ông Lê Duẩn chụp vào ngày 15/5/1975. AFP photoMặc Lâm: Thưa TS ông từng viết rằng “Bên Thắng Cuộc đã mang một ánh sáng mới cho những trang sử cận đại Việt Nam khi tác giả đã cố gắng có cái nhìn cân bằng – trung thực mặc dù thiếu phân tích”. Đây có phải là nét nổi bật nhất của Bên Thắng Cuộc hay không?
TS Đinh Xuân Quân: Tôi thấy nó có rất nhiều điểm rất quan trọng. Tác giả bày cho mình một bữa cơm có rất nhiều món vì vậy khi độc giả hay người ăn thì người ta mới biết ngon hay dở. Đây cũng vậy, tác giả cho mình những dữ kiện, nói dữ kiện lên nhưng không phân tích, tác giả để người đọc tự phân tích lấy, tự đánh giá lấy.
Hai nữa tôi nghĩ đây là một tài liệu còn hơn WikiLeaks nữa, có thể nói là BookiLeaks hay cái gì tương tự như vậy.TS Đinh Xuân Quân

Tất cả dữ kiện, những gì đã xảy ra sau 1975 được nó moi ra hết, tôi lấy cho quý vị vài ví dụ. Khi ông Nguyễn Văn Linh nói chuyện với ông Đỗ Mười thì ông ta nói “sắp mất chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa rồi mà còn báo cáo gì nữa?”, còn ông Lê Duẩn thì nói “mình làm gì thì làm không thể để mất quyền hạn được”. Do đó nó cho thấy điều gì? Trong những năm sau 1975 những người lãnh đạo có thể nói là chỉ có Lê Duẩn thôi, và những người trong Bộ Chính Trị họ đã quản lý nước Việt Nam ra sao, họ làm những cái gì, và những gì quan trọng trong đầu họ? Đó chỉ là giữ quyền, giữ quyền hạn. Tôi chỉ lấy ra một vài chuyện như vậy để thấy rằng cuốn sách này rất quan trọng, nó cho mình thấy ánh sáng mới.
Ví dụ nữa là ai cũng biết là có đổi tiền nhưng ai quyết định đổi tiền và tỷ lệ là bao nhiêu? Những người nào được hưởng. Ví dụ như lấy tiến lấy vàng của người Việt gốc Hoa thì ai quyết định cái đó? Đó là cả một chương trình, một chính sách làm nghèo dân miền Nam. Cuốn sách này đem ra những chứng cớ cho mình biết. Cũng như mình ăn phở mình biết mùi vị của món phở đó nhưng mình không biết người ta đứng đàng sau nấu phở. Không biết người ta cho cái gì vô trong đó.
Cuốn sách này nó đưa ra được những sự thực vì vậy tôi nói nó là một ánh sáng mới, một cái gì đó rất mới đối với những gì mình đã thấy trong quá khứ.

Phá nát kinh tế miền Nam


Một góc Sài Gòn trước năm 75. Photo courtesy of Dân Làm Báo.Mặc Lâm: Trong Bên Thắng Cuộc nó nêu lên rất nhiều vấn đề trong đó có những sai lầm trong phần kinh tế. Ông nhận thấy thế nào dưới đôi mắt một kinh tế gia từng làm việc tại Việt Nam trong chương trình phát triển của Liên Hiệp Quốc (UNDP)?
TS Đinh Xuân Quân: Người ta vẫn nói kinh tế miền Nam là phồn vinh giả tạo, nhờ viện trợ của Mỹ, nhưng cuốn sách nó cho mình thấy điều gì? Nó cho mình thấy cả một quy trình đi từ chỗ đánh tư sản mại bản, tới đổi tiền, tới đánh gian thương, rồi tập trung tất cả phương tiện sản xuất, bắt người ta vô tập thể hóa… tất cả những chuyện đó là cả một quy trình do Bộ chính trị muốn khoác cái cùm kinh tế tập thể lên miền Nam, do đó phá kinh tế miền Nam. Không những phá kinh tế miền Nam mà phá luôn cả kinh tế miền Bắc vì vậy mà họ gần như chết đói, chỉ một chút nữa thì cả Việt Nam đói hết rồi.


Những người này không hiểu gì về kinh tế do đó mang bao nhiêu tai họa cho miền Nam. Không những cho miền Nam mà sau này cả cho miền Bắc luôn.
TS Đinh Xuân Quân

Điều này là do quản lý sai lầm. Vì ngu xuẩn và duy ý chí, quá duy ý chí, chỉ nghĩ rằng Xã Hội Chủ Nghĩa mới thành công được còn nếu không thì kinh tế không thành công được.
Do đó cuốn sách này cho mình thấy những chuyện ấy chứ hồi xưa tới giờ mình có biết là ai đâu. Đâu biết người nào đứng ra làm những chuyện này! Mình chỉ biết có đánh tư sản mại bản là ông Đỗ Mười nhưng mà ai lôi ông Đỗ Mười vô? Ai quyết định điều ấy? Từ cuốn sách này mình thấy rõ ràng quy trình quyết định vận mạng kinh tế của đất nước do vài người làm mà thôi. Những người này không hiểu gì về kinh tế do đó mang bao nhiêu tai họa cho miền Nam. Không những cho miền Nam mà sau này cả cho miền Bắc luôn.

TT Võ Văn Kiệt xé rào



Cựu Thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt về sống ở Sài Gòn sau khi nghỉ hưu. RFA file photo.Mặc Lâm: Theo ông thì vai trò của ông Kiệt thông qua các chương sách có phản ảnh rõ nét quyết tâm mà ông thủ tướng này đã chứng tỏ hay không?
TS Đinh Xuân Quân: Phải nói rằng ông Võ Văn Kiệt là một thủ tướng rất thực tiễn. Ông ta cố gắng giải quyết những khó khăn của đất nước, những khó khăn về kinh tế. Trong cuốn sách cho biết chính ông này xé rào. Xé cái cuộn giây Xã Hội Chủ Nghĩa nhờ vậy mà cứu đói được Sài Gòn, cứu đói được miền Nam. Vì những chuyện xé rào này dần dần nó đưa tới chuyện đổi mới cởi mở về kinh tế, và không bắt buộc cả nước Việt Nam dưới nền kinh tế tập trung bao cấp nữa.
Mô hình bao cấp này thất bại hoàn toàn do đó mình thấy con người ông Võ Văn Kiệt, mà theo tôi hiểu tôi cũng đã gặp những cố vấn của ông ta, thì ông ta sẵn sàng để thay đổi. Lúc đó do một số chuyện nên không thể thay đổi hết được.
Nếu mình theo dõi chuyện này thì biết rằng lúc đó Việt Nam không những muốn đổi mới về kinh tế mà cả về chính trị nữa. Vì có hai phe cãi nhau do đó tới bây giờ “kinh tế thị trường theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa” lúc đó tính bỏ luôn cái đuôi “Xã Hội Chủ Nghĩa” nhưng hai bên vẫn còn tranh chấp nhiều nên Việt Nam tới giờ này vẫn phải mang cái đuôi đó. Những hậu quả của vấn đề định hướng xã hội đó vẫn còn tới nay và vì vậy Việt Nam vẫn còn thua kém rất nhiểu nước trong vùng Đông Nam Á.

Không nên có thành kiến


Bìa sách "Bên thắng cuộc" phần I. Photo courtesy of Osinbook.

Mặc Lâm: Cái tên sách đã gây tranh cãi rất nhiều tại hải ngoại, ông là người đang sống giữa cộng đồng người Việt hải ngoại, nhận xét của ông về cái tựa ra sao?
TS Đinh Xuân Quân: Cái tựa Bên Thắng Cuộc có thể tự hỏi tại sao không phải là Bên Thắng Trận? Theo tôi hiểu thì tác giả không đánh giá cao một chiến thắng mà bên kia cho là lớn lắm, đó là một. Cái thứ hai mình ở nước Mỹ thì bao giờ mình cũng có dân chủ và lúc nào cũng có tự do ngôn luận. Tôi nghĩ tự do ngôn luận là một điều rất hay. Những người Việt Nam tỵ nạn có được nó rất tốt nhưng bao giờ cũng vậy, khi có dân chủ tự do thì nó phải có trách nhiệm.
Một người nào đó nói là ông tác giả này từ miền Bắc tới như vậy là “cộng con”! Nói như vậy là không có suy nghĩ, có thành kiến trước khi mình muốn đánh giá hay trao đổi. Khi mình ở trong một xứ dân chủ thì phải đánh giá cuốn sách qua nội dung của nó chứ chưa đọc cuốn sách mà nói là cuốn sách này thân cộng, làm lợi cho cộng sản… trong khi báo Công An Thành phố đang chửi và đánh ông tác giả này thì tôi nghĩ đây là một chuyện không hay.
Bao giờ cũng vậy, dân chủ phải đi song song với trách nhiệm. Thành ra muốn chỉ trích hay muốn khen thì phải dựa trên những chứng cớ rõ ràng. Vì vậy chúng ta phải thoát khỏi cái cùm, khi nghe tới cộng sản thì thấy sợ rồi.
Nhiều người hiện nay cũng đã về Việt Nam lấy vợ rồi cộng sản hết hay sao? Đối với tôi bao giờ cũng vậy tự do phải đi song song với trách nhiệm và khi mình muốn khen hay chê, chỉ trích gì thì phải dựa trên nội dung mà mình làm.
Mặc Lâm: TS vừa nhắc tới bài báo trên tờ Công An Thành Phố HCM làm tôi chú ý đến cách mà các tác giả trong bài báo này đổ lên đầu Huy Đức khi cho là ngang với những người chống cộng như Dương Thu Hương, như Trần Khải Thanh Thủy hay Bùi Tín, Vũ Thư Hiên. Ông có thấy đây là dấu hiệu cho biết rằng nếu Huy Đức trở về Việt Nam sẽ nhận những hậu quả nghiêm trọng hay không thưa ông?
TS Đinh Xuân Quân: Tôi tin hoàn toàn chuyện đó. Tôi muốn chia sẻ với quý vị là khi làm cho Liên Hiệp Quốc, khi ai đó viết một điều gì mà bị cộng sản đánh, thì thông thường những người làm cho LHQ không những bị đánh mà còn bị đuổi ra khỏi nước thì thường thường họ được lên chức!
Trong trường hợp của tác giả (Huy Đức) ở đây tôi rất lo cho tính mạng của ông ta. Tại vì không phải chỉ có bị bắt bớ mà quý vị đọc cuốn sách quý vị thấy biết bao nhiêu ông tướng còn bị accident phải thiệt mạng? Có rất nhiều cách để ám hại như ám sát, giết hay bắt tù… trong cuốn sách này nó nói rất nhiều về chuyện đó, thành ra tôi thấy chả lẽ những người chưa đọc cuốn sách lại tiếp tay cho báo Công An hay sao?
Khi mình làm điều gì thì phải vượt qua được định kiến. Sự thật sẽ giải thoát cho quý vị. Khi muốn biết sự thật thì quý vị hãy đọc. Đọc xong rồi mới đánh giá được. Cuốn sách này đa số dành cho những người sống ở Việt Nam, bị kềm kẹp không biết được những tin tức, và đây là lần đầu tiên họ thấy những chuyện gì đã thật sự xảy ra đối với đất nước hình chữ S này. Qua cuốn sách này mình mới thấy được tác giả khá can đảm.
Mặc Lâm: Xin cám ơn TS Đinh Xuân Quân.
Phần trên là cuộc nói chuyện giữa Mặc Lâm và TS Qinh Xuân Quân vê phần I của bên Thắng Cuộc. Cho tới nay theo chúng tôi biết Bên Thắng Cuộc quyển 2 mang tên Quyền Bính đã ra mắt bản điện tử trong khi cuốn một đã có bán sách in. Khi Quyền Bính tới tay chúng tôi, nó sẽ được xem xét và gửi tới quý vị những thông tin chung quanh nó qua các bài viết của những người đọc có uy tín, mong quý vị đón theo dõi.
***************

TLQ:


Chương XXI: Định hướng xã hội chủ nghĩa

Cho dù vẫn là quốc gia một đảng, kể từ khi chấp nhận kinh tế nhiều thành phần, về bản chất, Việt Nam không còn là quốc gia cộng sản. Thế nhưng, định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn như một “nơi trú ẩn” của đảng cầm quyền và ý thức hệ vẫn ảnh hưởng sâu sắc đến tiến trình ban hành chính sách. Thật khó để khẳng định, chủ nghĩa xã hội có thực sự là niềm tin của một số nhà lãnh đạo Đảng lúc bấy giờ nhưng nó đã trở thành quyền lực chính trị, ngăn chặn thành công những chính sách phát triển đất nước theo hướng kinh tế thị trường. Quan điểm lấy quốc doanh làm chủ đạo được thiết lập trong thập niên 1990 đã để lại di chứng lâu dài cho đất nước.

Quốc doanh chủ đạo

Không phải ngẫu nhiêu mà ở giai đoạn 1991-1995, GDP tăng bình quân 8,2%, mức tăng trưởng cao nhất so với cả thập niên sau đó535. Từ chỗ bị cấm đoán, trên nhiều lĩnh vực, Nhà nước đã để cho người dân được tự do làm ăn536. Kinh tế thị trường đã đánh thức khát vọng cơm no, áo ấm của người dân và trong giai đoạn sơ khai, các nguồn lực trong dân như những chiếc lò xo đã bung ra mạnh mẽ537. Nhưng, khi sức đàn hồi tự nhiên yếu dần, những bất cập về chính sách, luật pháp và thủ tục hành chính mới bắt đầu bộc lộ.

Đổi mới bắt đầu chững lại vào giữa thập niên 1990, và tốc độ chuyển sang kinh tế thị trường có nguy cơ dẫm chân tại chỗ. Sự sốt ruột được ông Võ Văn Kiệt thể hiện một phần trong "Thư gửi Bộ Chính trị".538. Nhưng Đại hội Đảng lần thứ VIII, giữa năm 1996, từ nhân sự cho đến đường lối, đã không cung cấp được nhân tố mới nào. Theo ông Phan Văn Khải, nói là Đảng bắt đầu đổi mới từ năm 1986, nhưng trên thực tế trong suốt nhiệm kỳ VI (1986-1991), trong Đảng vẫn tranh cãi liên miên về đường đi. Chấp nhận kinh tế tư nhân vì thấy “vẫn còn cần” nhưng mối quan tâm chính của Đảng vẫn là kinh tế quốc doanh.

Trước khi cho phép tư nhân lập công ty, tháng 3-1989, tại Hội nghị Trung ương 6, khóa VI, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh nói: “Ban Chấp hành Trung ương đòi hỏi phải có những biện pháp mạnh mẽ, đồng bộ và thiết thực để cởi trói, tháo gỡ các khó khăn vướng mắc cho kinh tế quốc doanh nâng cao hiệu quả kinh tế của nó, khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần”. Cuối năm 1989, sau mấy tháng áp dụng các biện pháp chống lạm phát, trong đó áp dụng khá triệt để nguyên tắc tự hạch toán kinh doanh đối với các doanh nghiệp, thị trường tốt hẳn lên. Nhìn kết quả chung của toàn nền kinh tế thì đó là một thành công. Khu vực kinh tế phi nhà nước được lợi, người dân được lợi lớn. Nhưng các doanh nghiệp nhà nước thì bế tắc.

Quen được bao cấp từ cung cấp vật tư cho tới khâu tiêu thụ, nay phải tự vay vốn, tự tính đúng, tính đủ giá thành sản phẩm, nhiều doanh nghiệp nhà nước đứng bên bờ vực vì thiếu vốn, hàng làm ra không bán được. Than Quảng Ninh bốn năm tháng không có lương trả công nhân. Nhà máy Diesel Sông Công, Thái Nguyên, niềm tự hào của nền công nghiệp Việt Nam, trong năm 1989 sản xuất được 5.000 đầu máy 50 mã lực nhưng chỉ bán ra được một cái.
Theo ông Nguyễn Văn Nam, thư ký của ông Đỗ Mười: “Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh bốn lần gặp Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười phê phán. Giữa năm 1989, khi họp Trung ương, nghe ông Đỗ Mười báo cáo những mặt tích cực của nền kinh tế, ông Linh nói: ‘Mất chủ nghĩa xã hội tới nơi rồi còn nói thành tích’. Ông Linh đòi ông Mười phải bỏ áp dụng các biện pháp chống lạm phát áp dụng từ quý II năm 1989. Ông Mười triệu tập các chuyên gia bàn cách thi hành lệnh của Tổng Bí thư”.

Thôi áp dụng các nguyên tắc trong đề án chống lạm phát đồng nghĩa với việc từ bỏ những nguyên tắc của kinh tế thị trường, yếu tố giúp nền kinh tế vượt qua khủng hoảng. Các chuyên gia gặp nhau, hết sức lo lắng, Giáo sư Đào Xuân Sâm đề nghị: “Tôi đến tuổi rồi, có gì thì về hưu, các cậu cứ để đấy tôi nói”. Vào họp, Giáo sư Đào Xuân Sâm hỏi ông Đỗ Mười: “Anh làm thủ tướng của sáu mươi triệu dân hay chỉ là sáu triệu cán bộ quốc doanh?”. Ông Đỗ Mười nói: “Làm gì tới sáu triệu, chỉ khoảng ba, bốn triệu thôi”. Giáo sư Sâm tiếp: “Quốc hội bầu anh đứng đầu Chính phủ là để lo cho toàn dân chứ đâu phải chỉ lo cho mấy triệu công nhân quốc doanh. Một phương án đang đem lại lợi ích cho đất nước, cho nhân dân mà anh tính bỏ sao được”. Bị đặt giữa hai dòng áp lực, ông Đỗ Mười đành phải duy trì những chính sách đang phát huy hiệu quả đồng thời yêu cầu: “Các anh tìm cho tôi phương án cứu quốc doanh”.

Nhóm chuyên gia của ông Đỗ Mười bàn và đưa ra lý lẽ: Kinh tế thị trường là thả các doanh nghiệp, trong đó có quốc doanh, ra bơi chung trong một biển hồ. Vì quốc doanh chưa biết bơi nên thả ra là chết. Ngày xưa bao cấp như những chiếc lồng ấp, nên nếu quốc doanh ngắc ngoải có thể vớt lên đưa vào lồng may ra sống lại. Nhưng nay, những chiếc lồng ấp không còn, có vớt lên bờ nó cũng chết. Nguyên tắc của doanh nghiệp là phải bơi trong thị trường. Nếu chưa biết bơi thì thả thêm phao cho nó.

Ông Nguyễn Văn Nam giải thích: “Cái phao được thả ra vào thời điểm này là vốn, toàn bộ khấu hao, Chính phủ cho các doanh nghiệp quốc doanh giữ lại. Các doanh nghiệp còn được cấp trực tiếp một khoản tiền: Than Quảng Ninh và Diesel Sông Công được cấp bốn tỷ trả lương; quốc doanh được áp dụng tín dụng ưu đãi, được vay vốn với lãi suất khoảng 6-7% thay vì 13% như thị trường”. Các ngân hàng quốc doanh lại trở về với nguyên tắc bao cấp khi phải cung cấp một lượng tín dụng rất lớn cho ngân sách có tiền chi tiêu và cho các xí nghiệp quốc doanh539.

Theo ông Nguyễn Văn Nam: “Sự trì trệ của quốc doanh bắt đầu từ chính sách này. Họ đã không dựa vào phao để học bơi mà suốt đời cứ bám vào cái phao Nhà nước. Sức bám càng ngày càng nặng dần đó là lý do mà khu vực kinh tế quốc doanh chậm đổi mới và hiệu quả của nền kinh tế thì càng ngày càng thấp”. Sự tồn tại của quốc doanh, từ đó, theo ông Trần Đức Nguyên540, “chủ yếu dựa vào những ưu ái của Nhà nước: được khai thác tài nguyên, đặc biệt là đất đai; được độc quyền trong những ngành mà Nhà nước giữ quyền chi phối; nhận được tín dụng ưu đãi theo kênh hành chánh, người vay không phải chịu trách nhiệm gì”.

Những người soạn thảo “Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000”541, một trong ba văn kiện chính của Đại hội Đảng lần thứ VII, tháng 6-1991, đã cố gắng đặt các khung chính trị để phát triển kinh tế nhiều thành phần, chỉ giữ quốc doanh trên những lĩnh vực mà các thành phần khác không có điều kiện hoặc không muốn đầu tư kinh doanh. Tổ phó Biên tập Chiến lược, ông Trần Đức Nguyên, thừa nhận những quan điểm này được hình thành sau chuyến đi “khảo sát kinh nghiệm phát triển kinh tế ở bốn nước châu Á”542.

Tuy ghi nhận kinh nghiệm sử dụng vai trò nhà nước trong giai đoạn đầu đối với các nước từ nông nghiệp lạc hậu đi lên543, nhưng đoàn của ông Phan Văn Khải chủ yếu tiếp thu các khuyến cáo về kinh tế quốc doanh. Ở cả bốn nước mà đoàn đi qua đều có tình trạng chung: trong cùng một ngành hoạt động, quốc doanh thường kém hiệu quả hơn tư nhân, do ít tự chủ, được ưu đãi nhưng lại bị nhà nước can thiệp sâu, nên bị động và ỷ lại.

Báo cáo chuyến khảo sát của ông Phan Văn Khải viết: “Cuối cùng chính các quốc gia này rút ra: cái gì tư nhân làm được thì để tư nhân làm; Khác với quan điểm cái gì quốc doanh không làm được mới để tư nhân làm. Cả bốn nước đều tư nhân hóa khu vực quốc doanh, nhưng vẫn giữ lại những cơ sở cần thiết như cơ sở phục vụ công cộng, cơ sở khai thác tài nguyên quan trọng như dầu mỏ, cơ sở ở những lĩnh vực tư nhân không muốn làm hoặc không đủ sức làm”544.

Thị trường và lập trường

Đầu thập niên 1990, người Nga sang Việt Nam đàm phán không nói chuyện buôn bán mà chỉ đòi nợ cũ của Liên Xô. Nền công nghiệp gia công mũi giày, may áo sơ mi, xuất sang Liên Xô, Đông Âu bắt đầu điêu đứng vì thị trường truyền thống không còn nữa. Hàng vạn công nhân thất nghiệp. Việt Nam bắt đầu phải tìm kiếm bạn hàng từ những thị trường khác.
Các doanh nghiệp phải trầy vi, tróc vảy, đi dần từng bước, từ các bạn hàng Hồng Kông, Đài Loan rồi mới nhích tới EU. Đã có biết bao công ăn, việc làm được phục hồi nhờ những bạn hàng mới đó. Nhưng do chưa quen gia công hàng cao cấp, hàng hóa cứ bị trả vì không đạt chất lượng. Khách hàng khắc phục bằng cách cử chuyên gia sang kiểm tra. Hàng hóa không còn bị trả lại nữa nhưng việc các chuyên gia tư bản ngồi trong các nhà máy quốc doanh làm cho nhiều người chạnh lòng.

Bộ trưởng Lê Văn Triết kể: “Tôi báo với ông Kiệt, ông Kiệt nói: làm với ai, làm gì mà có lợi cho đất nước thì mình cứ làm. Nhưng rồi bên Ban Bí thư nói vô nói ra, có người sợ cho tư bản kiểm tra hàng hóa của mình là mất chủ quyền, mình lệ thuộc vào nó. Có người thậm thà, thậm thụt với ông Đỗ Mười. Ở nhiều hội nghị, kể cả trong hội nghị trung ương, ông Đỗ Mười cảnh báo: Coi chừng mất định hướng, mất chủ nghĩa xã hội”. Theo ông Phan Văn Khải, tết năm 1989, tuy chúc “người dân làm giàu”, nhưng ông Đỗ Mười vẫn dùng ảnh hưởng của mình để bảo vệ quan điểm kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác là nền tảng.

Ông Phan Văn Khải nói: “Tôi và Thủ tướng Võ Văn Kiệt cho rằng, phải phá bằng được thế kế hoạch hóa tập trung, phải chuyển nền kinh tế từ chỗ nhà nước quyết định đến chỗ do thị trường quyết định. Nhà nước chỉ tạo ra hành lang pháp lý còn chuyện làm giàu thì phải để cho người dân, nhân dân phải là người quyết định sự nghiệp của đất nước. Trong suốt một thời gian dài chúng tôi phải tranh cãi để bảo vệ quan điểm này với những nhà lý luận mà ông Đỗ Mười tập hợp, từ Đào Duy Tùng đến Nguyễn Đức Bình và kể cả Lê Xuân Tùng. Mãi về sau này, chúng tôi mới có thêm những người ủng hộ như Phan Diễn, Nguyễn Văn An. Còn những người còn lại trong Bộ Chính trị thì không quan tâm đến lý luận”.

Trong hai ngày 30 và 31-7-1993, ông Võ Văn Kiệt tổ chức một phiên họp thường kỳ của Chính phủ tại Dinh Thống Nhất. Sau khi đánh giá: “Tình hình kinh tế xã hội đang có những chuyển biến tích cực, đúng hướng, đã vượt qua được những thử thách to lớn, đi dần vào thế ổn định”. Trước sự có mặt của báo giới, ông Kiệt gửi đi thông điệp: Phải làm bật dậy mọi tiềm năng trong cả nước, khai thác khả năng tiềm tàng của các thành phần kinh tế, đồng thời tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài nhằm đẩy nhanh công cuộc xây dựng đất nước.
Ngay sau phiên họp, khi trả lời phỏng vấn Tuổi Trẻ, Phó Thủ tướng Phan Văn Khải, tuy cho rằng “trong giai đoạn trước mắt, dân doanh còn nghèo, quốc doanh còn phải trụ cột”, nhưng vẫn nhấn mạnh: “Quốc doanh vẫn chủ yếu đầu tư cơ sở hạ tầng để tạo điều kiện cho các thành phần, các ngành kinh tế phát triển”. Mặc dù vẫn “hướng tới thành lập những công ty lớn và những tập đoàn [quốc doanh] có sức cạnh tranh với bên ngoài”, Chính phủ sẽ cho cổ phần hóa để huy động vốn đầu tư vào những công trình quan trọng hơn”. Nhưng theo ông Phan Văn Khải: “Chính phủ củng cố quốc doanh không có nghĩa là tiếp tục ôm lấy gánh nặng cho nền kinh tế”545.

Cũng từ giai đoạn này, chính phủ chủ trương bỏ dần khái niệm bộ chủ quản và khái niệm xí nghiệp trung ương, xí nghiệp địa phương, tách bạch vai trò quản lý nhà nước của các bộ với quản lý sản xuất kinh doanh. Chính phủ, kể từ năm 1991, thể hiện khá nhất quán chính sách nhắm tới nền kinh tế nhiều thành phần546.

Hơn bốn tháng sau khi đứng đầu chính phủ, ông Võ Văn Kiệt đã ký quyết định thành lập Hội đồng Trung ương Lâm thời các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, bổ nhiệm cựu Bộ trưởng Thương mại Hoàng Minh Thắng làm chủ tịch. Ông Thắng nói: “Chủ trương của ông Kiệt khi cho ra đời tổ chức này là để khuếch trương kinh tế tư nhân, coi tư nhân là lực lượng chủ lực của nền kinh tế”. Từ tháng 12-1991 cho đến tháng 10-1993, Hội đồng Trung ương Lâm thời đã tổ chức được ba mươi tám hội đồng lâm thời ở ba mươi tám tỉnh, thành phố, trực thuộc trung ương, đặc biệt, cũng trong giai đoạn này, các hợp tác xã đã được tổ chức lại theo tinh thần hợp tác tự nguyện.

Nhưng, cuối tháng 10-1993, khi đại biểu của ba mươi tám tỉnh, thành bắt đầu về Hà Nội để dự đại hội thành lập hội thì Trung ương Lâm thời được Ban Bí thư triệu tập. Theo ông Hoàng Minh Thắng: “Tôi trình bày trước Ban Bí thư về công tác chuẩn bị, về lực lượng hơn hai trăm nghìn doanh nghiệp tư nhân và ba trăm nghìn hợp tác xã và tổ kinh tế hợp tác. Ông Đỗ Mười nghe, nói: rộng quá, to quá! Không cần giải thích, ông quyết định thành phần hội viên chỉ còn là tổ hợp tác và hợp tác xã, không cho bao gồm cả doanh nghiệp tư nhân. Đại hội, do đó, vẫn diễn ra vào ngày 30-10-1993 nhưng thay vì thành lập Hội Doanh nghiệp ngoài quốc doanh, trở thành đại hội thành lập Liên minh các hợp tác xã”.

Ba tháng sau, từ ngày 20 đến 25-1-1994, tại hội nghị giữa nhiệm kỳ của Đảng, ông Đỗ Mười đã đọc một văn kiện chỉ ra bốn nguy cơ: nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa nếu không khắc phục được những lệch lạc trong chủ trương, chính sách và chỉ đạo thực hiện, nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ quan liêu, nguy cơ “diễn biến hoà bình” của “các thế lực thù địch”. Nói là “bốn nguy cơ”, nhưng chỉ có “chệch hướng” và “diễn biến hòa bình” là thực sự được nhấn mạnh. Nền “kinh tế thị trường” mà Đại hội Đảng lần thứ VII đưa vào văn kiện “Chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000” đã được thêm “đuôi” để trở thành: “Xây dựng đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”547.

Không đơn giản chỉ là chuyện câu chữ, cái đuôi “định hướng xã hội chủ nghĩa” được gắn vào “kinh tế thị trường” phản ánh mối tương quan quyền lực, cho thấy những nỗ lực để Việt Nam thoát ra khỏi mô hình kinh tế kế hoạch hóa là không hề dễ dàng. Sự nửa vời này gây bức bối cho cả khu vực kinh tế nhà nước lẫn khu vực kinh tế tư nhân.

Ngày 8-2-1995, ông Võ Văn Kiệt vào Sài Gòn, gặp 300 nhà doanh nghiệp tại Dinh Thống Nhất548. Ông Kiệt phân bua: “Chính phủ đang làm dâu hai họ, quốc doanh và tư doanh ai cũng kêu mình không được đối xử bình đẳng”. Các xí nghiệp quốc doanh cho rằng họ đang phải chịu nhiều thuế và phí hơn tư doanh, trên đầu họ, ngoài pháp luật còn có một cơ quan chủ quản. Trong khi, các giám đốc tư nhân lại cảm thấy bị thua thiệt với không chỉ quốc doanh mà còn với các doanh nhân nước ngoài549. Sau cuộc họp đó, ông Kiệt cử người vào Nam và mặc dù bị các tổng công ty nhà nước kinh doanh lúa gạo phản ứng khá dữ dội, ông Kiệt quyết định, thay vì tập trung quyền xuất khẩu gạo cho hai tổng công ty, chính phủ còn trao quyền này cho các tỉnh550.

Ông Khải cho rằng chưa có một chính phủ nào trong một thời gian ngắn có thể ban hành nhiều văn bản luật như Việt Nam của thập niên 1990. Điều mà nền kinh tế cần, theo thuật ngữ lúc đó, là một “hành lang pháp lý” để các thành phần kinh tế đều có thể vận hành theo kinh tế thị trường. Nhưng thị trường chính là điểm xung đột đối với những người coi lập trường quan trọng hơn quốc gia phát triển.

Khi Luật Thương mại được Chính phủ Võ Văn Kiệt biên soạn theo nguyên tắc “công dân có quyền tự do mua bán, tự do sản xuất kinh doanh”, theo Bộ trưởng Thương mại Lê Văn Triết, trước khi Quốc hội họp, ông Đỗ Mười kêu ông lên, mắng: “Tự do gì cũng phải ở trong khuôn khổ, quốc doanh phải nắm, nước nào nhà nước cũng phải quản lý”. Rồi ông Đỗ Mười yêu cầu Bộ Thương mại biên soạn lại theo hướng “quốc doanh thống lĩnh thị trường, kiên quyết không để cho tư thương đẩy lùi trận địa”. Ông Triết nói với ông Mười: “Thưa anh, đây là Hiến pháp”. Ông Mười nói: “Hiến pháp thì cũng phải vận dụng. Anh phải hiểu chứ”. Ông Triết buộc phải cắt bớt mấy chữ “tự do mua bán”, các đại biểu không đồng tình, Quốc hội biểu quyết giữ nguyên như dự thảo ban đầu. Ông Đỗ Mười lại kêu ông Triết lên, mắng: “Anh làm lỡ hết, Quốc hội biết rồi. Bây giờ phải tìm cách sửa khi làm nghị định hướng dẫn”.

Sở dĩ hàng chục năm sau đổi mới, Việt Nam vẫn không có một thị trường phát triển đúng tầm, không có những nhà tư sản thương nghiệp có khả năng tìm kiếm thị trường bên ngoài, theo Bộ trưởng Thương mại Lê Văn Triết, là do “những nỗ lực theo đúng kinh tế thị trường rất dễ bị coi là chệch hướng. Đề án xây dựng thị trường nội địa của tôi bị bác bỏ gần hết. Bản dự thảo sau khi đưa lên mấy tầng, cuối cùng trở về không còn là bản của mình nữa. Thủ tướng Võ Văn Kiệt cũng không bảo vệ được”.

Ngay cả khi không còn giữ chức tổng bí thư, ông Đỗ Mười còn có ảnh hưởng quyết định trong việc duy trì vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế nhà nước. Khi chuẩn bị Nghị quyết 05551, Chính phủ Phan Văn Khải lưu ý: “Có nơi còn coi trọng số lượng hơn chất lượng, hiệu quả, còn cho rằng doanh nghiệp nhà nước phải chiếm tỉ trọng lớn, phải có mặt và phải chi phối ở hầu hết các lĩnh vực, các ngành kinh tế thì mới làm được vai trò chủ đạo”552. Nhận xét này đã bị ông Đỗ Mười phê phán.

Trong thư gửi Bộ Chính trị đề ngày 2-11-2000, Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng Đỗ Mười cho rằng quan điểm “thu hẹp doanh nghiệp nhà nước, phát triển mạnh các thành phần kinh tế khác là một khuynh hướng sai lầm cần uốn nắn”. Theo ông Đỗ Mười: “Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa dựa trên ‘chế độ công hữu về tư liệu sản xuất là chủ yếu’ là một trong những đặc trưng của xã hội chủ nghĩa... Mọi sự coi nhẹ, làm suy yếu kinh tế nhà nước chính là biểu hiện của nguy cơ chệch hướng”. Ông Đỗ Mười cho rằng: “Luận điệu tuyên truyền và sức ép của các thế lực tư bản đế quốc bên ngoài về ‘tư nhân hóa’ đã tác động không ít đến nhận thức một số cán bộ, đảng viên ta”. Cuối năm 2000 mà ông Đỗ Mười còn đề nghị quốc doanh nắm lại các ngành vận tải ô-tô, ngành bán buôn và bán lẻ vật tư và hàng hóa tiêu dùng,… vì ông cho rằng đó là những ngành “then chốt của nền kinh tế”553.
Cố vấn Đỗ Mười đưa ra nguyên tắc: “Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước phải nhằm tăng cường kinh tế nhà nước, chứ không phải làm suy yếu nó”554. Trong một bức thư khác, gửi đi ngày 14-11-2000, Cố vấn Đỗ Mười còn dẫn những số liệu cho thấy cổ phần hóa trên thực tế đã không theo đúng những nguyên tắc này555.

Hội nghị Trung ương 3, cho dù họp vào tháng 9-2001, khi ông Đỗ Mười đã thôi cố vấn hơn nửa năm, vẫn phải thông qua Nghị quyết 05, theo hướng tuy “đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, thực hiện giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê, sáp nhập, giải thể, phá sản doanh nghiệp nhà nước”, nhưng lại coi “quy mô còn nhỏ là một trong những mặt hạn chế, yếu kém rất nghiêm trọng”. Nghị quyết 05 “trao” cho kinh tế nhà nước “vai trò quyết định trong việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, ổn định và phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước”.

Tháng Giêng năm 2004, khi vai trò thái thượng hoàng của “tam nhân” không còn nhiều, Chính phủ của ông Phan Văn Khải mới có thể mạnh tay sắp xếp lại khu vực kinh tế quốc doanh sau khi đạt được thỏa thuận trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9, khóa IX: “Cổ phần hóa không chỉ được đẩy nhanh tiến độ mà còn được mở rộng diện, kể cả một số tổng công ty và doanh nghiệp lớn”.

Phan Văn Khải

Cuối thập niên 1990, sau khi ông Phan Văn Khải đã trở thành thủ tướng, gia tộc họ Phan ở Nghệ An có mời ông về nhân một lần nhóm họ, ông Khải cho vợ, bà Nguyễn Thị Sáu, mang quà về. Sự xuất hiện của phu nhân thủ tướng tại gia tộc họ Phan đã khiến cho nhiều người tin vào những lời đồn đoán: Ông Phan Văn Khải là con của ông Phan Đăng Lưu556, một người từng lãnh đạo Xứ ủy Nam Kỳ.

Trên thực tế, mãi tới năm 1939, Phan Đăng Lưu mới vào Nam Bộ trong khi ông Phan Văn Khải sinh ngày 25-12-1933 tại xã Tân Thông Hội, huyện Củ Chi. Mẹ ông, bà Phan Thị Mung557 là con của ông Phan Văn Ngoan558, một người có bảy mẫu ruộng, theo Thiên Địa Hội và có uy tín ở trong làng. Ông Ngoan và vợ, bà Trần Thị Lược559, chỉ có được một người con gái sau bốn lần sinh con trai mà không nuôi được.

Năm mười chín tuổi, bà Mung mang thai với ông Nguyễn Văn Phèn, thường gọi là ông Cả Phèn, sinh ra Phan Văn Khải. Ông nội ông Cả Phèn từng làm cai tổng vùng Củ Chi. Theo ông Phan Văn Khải: “Ông ngoại tôi ghét ông Cả vì mẹ tôi vừa lớn lên, có bầu với ông rồi bị ông bỏ rơi. Nhưng, trong làng ai cũng biết, ông Cả hay đón tôi ở ngoài đường rồi chở tôi đi chơi bằng xe đạp. Các ông anh cùng cha cũng hiền và một người chị gái thì rất thương tôi. Vợ ông Cả thậm chí thỉnh thoảng còn cho mẹ tôi tiền. Khi tôi đi kháng chiến ông Cả có nhắn về để ông lo cho ăn học”560.

Ông Phan Văn Khải kể: “Khi tôi ra đời thì gia đình phá sản, phải bán đất. Ông ngoại chỉ còn lại một hecta ruộng và một hecta vườn. Ông không có con trai nên không có lao động. Năm 1940 khó khăn, ông ngoại phải bán luôn cả cái nhà bằng gỗ. Tôi lớn lên trong hoàn cảnh nghèo nhưng ông ngoại vẫn cho đi học. Học hết tiểu học, thi lên lớp xong thì Việt Minh cướp chính quyền, thế là từ đó chỉ ở nhà giữ em, chăn trâu, làm thuê; ai kêu gì làm nấy, nhổ đậu, cắt lúa, nhặt đậu”. Chính những công việc này lại là cơ duyên để ông Khải “thoát ly”.
Ông Phan Văn Khải kể: “Một lần, đi chăn trâu ở Tân Phú Trung, tôi gặp mấy ông cán bộ xã trốn ở đây, huyện đưa giấy tờ về họ đọc không được, họ nhờ tôi đọc, riết thành ‘giác ngộ cách mạng’. Năm 1947, tôi về làng tham gia đội thiếu nhi cứu quốc, lập ban chấp hành thiếu nhi cứu quốc, làm thư ký ban chấp hành chi đội. Tháng 2-1948, ông Tám Hòa, chủ nhiệm Việt Minh Hóc Môn, thấy tụi tôi khai hội, ông kéo lên huyện họp, lập Ban Chấp hành Thiếu nhi Hóc Môn, tôi là ủy viên. Họp xong, từ An Nhơn Tây về nhà, tới Mũi Lớn, nghe tin ông bố dượng là chủ nhiệm Việt Minh thôn bị bắn chết, tôi lội bưng về thì má vừa chôn cất dượng xong”.

Bố dượng mất khi mẹ đang mang thai, ông Khải định ở nhà làm ăn đỡ đần mẹ nuôi ông bà. Nhưng, ông Khải nói: “Cấp trên thấy tôi lâu không lên, cử một người xuống xã Mỹ Hạnh gọi tôi qua. Ăn cơm xong, tôi nói hoàn cảnh. Vị đại diện này nói một câu: ‘Xã đang căng, mày ở nhà trước sau cũng chết. Nợ nước thù nhà, mày phải đi mới trả được’. Tôi nghĩ, chết mà không làm tròn nghĩa vụ thì không đáng làm trai nên quyết dứt áo ra đi. Về gặp ông ngoại, ông nói ‘nên đi’, bà ngoại dặn, ‘đừng ra nơi làn tên, mũi đạn’. Không dám gặp má từ giã, tôi viết thư, dặn ông ngoại đợi tôi đi rồi mới đưa cho má”.

Từ đó, ông Phan Văn Khải học cách khai hội, phát biểu trước thanh niên. Huyện Hóc Môn chia thành năm khu, ông phụ trách công tác đoàn đội ở một khu. Năm 1950, ông được điều lên Văn phòng tỉnh đoàn Gia Định. Ông Khải nói: “Tất cả sách vở của Xứ ủy và Trung ương gởi vô, tôi đọc hết. Vừa làm vừa thi vào tiểu học tỉnh Gia Định, đậu thứ chín nhưng ông tỉnh đoàn trưởng không cho đi vì có một thằng nó đi ai làm. Tôi hứa sẽ vừa làm vừa học, 6, 7 tháng thì xong lớp 4”.

Đầu năm 1954, ông và bà Nguyễn Thị Sáu561 cùng ba người bạn khác được đưa xuống miền Tây học, mới tới Hồng Ngự thì nghe tin Pháp đầu hàng ở Điện Biên Phủ. Ông cùng bà Sáu vào tỉnh ủy, ông bí thư là Nguyễn Trọng Tuyển, giữ lại ăn cơm. Đang ăn thì ông Tô Ký đi họp về, ngồi vào bàn, nói: “Cho mấy đứa này ra Bắc học”. Tháng 10-1954, hai người cùng lên một chuyến tàu của người Pháp chạy ra Sầm Sơn, Thanh Hóa.

Ông Phan Văn Khải kể: “Lúc đầu mấy ông định cho đi học, nhưng sau lại đưa đi làm giảm tô đợt 7. Trước khi đi, ông Tố Hữu tới giáo huấn một buổi rồi đưa xuống Bình Nghĩa, được bố trí ở trong một nhà nghèo. Mùa đông, đi cày, đi cấy, rét gần chết. Năm ấy, dân tình rất đói. Tôi thấy một bãi đất rộng khoảng hai mươi hecta, liền kêu gọi thanh niên trồng khoai lang. Đoàn về kiểm tra, thấy có thằng miền Nam năng nổ, quyết định tặng Huân chương Lao động hạng III, nhưng khi huân chương về thì tôi đã được đưa lên Sơn Tây, học trường cải cách ruộng đất. Học xong được phân công về xã Võng Xuyên, Phúc Thọ, Hà Tây. Mấy ông Đội khác rất hống hách. Ở Võng Xuyên, Đội tôi cũng có bắn một cai tổng vì được tố là đã giết chết nhiều người ở gốc đa đầu làng. Lúc đó tôi là đội phó”.

Trong thời gian đó, bà Nguyễn Thị Sáu được đưa đi học Đại học Nhân dân, trường do ông Phạm Văn Đồng kiêm hiệu trưởng. Bà Sáu và ông Khải bắt đầu phải lòng nhau từ khi bị kẹt lại ở Hồng Ngự, mối quan hệ này trở thành tình yêu trong những ngày họ cùng ở trên đất Bắc. Ngày 16-8-1956, tại Yên Mỹ, nơi ông đang làm cải cách ruộng đất, họ chính thức làm lễ cưới với sự chứng kiến của ông chú ruột của ông Khải, nguyên chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Chợ Lớn, cùng tập kết.

Tháng 9-1956, ông Khải nhận được thư của Ban Tổ chức Trung ương kêu về học trường Bổ túc Công nông Trung ương, nơi mà những người nổi tiếng lúc đó như anh hùng Ngô Gia Khảm, anh hùng La Văn Cầu đang học.

Ông Phan Văn Khải kể: “Trường bắt đầu với hai lớp, 4 và 5, tôi thi đậu vào lớp 5. Tôi học hết 6 lớp trong ba năm thay vì theo quy định là bốn năm, vừa học vừa làm công tác Đoàn toàn trường. Năm 1957, vợ tôi sinh con trai đầu lòng, hàng ngày tôi đi bộ từ trường về nhà ở số 4 Thụy Khê. Năm 1959, ông anh vợ mới dành tiền, thương, mua cho cái xe đạp. Sáng vô trường mua nắm xôi, vừa lật bài, vừa ăn, vừa học. Học hết cấp III tôi thi đậu vào bách khoa, định sẽ làm kỹ sư điện nhưng vừa nhận chức lớp trưởng thì có quyết định qua trường ngoại ngữ, ở đó, 1/3 sinh viên học tiếng Trung Quốc, 2/3 học tiếng Nga. Tôi học tiếng Nga rồi đi Liên Xô học ngành kinh tế kế hoạch”.

Năm 1965, tốt nghiệp về nước, ông Khải muốn đi dạy nhưng bà Sáu, lúc ấy làm ở Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, muốn ông về cùng. Ba năm sau ông được cử giữ chức trưởng phòng. Đến năm 1972, chuẩn bị ký Hiệp định Paris, ông Lê Duẩn có kế hoạch lập chính phủ ba thành phần, ông Khải cùng một số cán bộ được đưa vào Trung ương Cục. Khi kế hoạch này bất thành, hè năm 1973, ông ra Bắc trở lại nhận một chức vụ phó ở Ủy ban Thống nhất. Tháng Giêng năm 1976, ông Phan Văn Khải được đưa về Sài Gòn. Lúc này, Ủy ban Nhân dân Cách mạng vừa được thành lập, ông Khải được bổ nhiệm làm phó chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch, ông Võ Văn Kiệt khi ấy là chủ tịch Thành phố kiêm chủ nhiệm.

Ông Phan Văn Khải là một cán bộ mẫn cán. Thật khó để đánh giá ông là một người không muốn tranh đua danh vọng hay là một người không muốn đặt mình trong các tâm điểm của đấu trường. Khi về Sài Gòn, ông Trưởng Ban Tổ chức Trương Văn Tư hỏi: “Mày về đây muốn làm chức gì?”. Ông Khải trả lời: “Ở ngoài kia, cháu vụ phó, chú có thể giao cháu làm phó chủ nhiệm Ủy ban, nếu một thời gian thấy cháu không làm được thì cho cháu thôi”. Một năm sau ông Tư nói: “Mấy ổng kêu mày khá”.

Làm phó cho ông Võ Văn Kiệt muốn được khen thì phải vô cùng nỗ lực. Ông Phan Văn Khải kể: “Khi ở Liên Xô về, tôi cân nặng 52 kg, vào Thành phố một thời gian còn 43 kg, Thành phố cho ra Thanh Đa an dưỡng lên được 3 kg”. Năm 1976, ông Phan Văn Khải được giới thiệu vô Thành ủy nhưng đã rút lui để không chia phiếu của ông Vũ Đại, một người đồng cấp lớn tuổi. Nhưng từ khi đó, ông đã là người được ông Lê Đức Thọ xếp vào diện cán bộ nguồn. Năm 1978, ông được Ban Bí thư chỉ định làm Thành ủy viên, năm sau, 1979, được đưa bổ sung làm phó chủ tịch trực Ủy ban Nhân dân Thành phố kiêm chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch.

Những năm đầu thập niên 1980, ông Phan Văn Khải đã sử dụng các thương nhân người Hoa, lập các trạm thu mua nông sản để xuất khẩu. Ông cũng được ông Võ Văn Kiệt, khi đó đã là phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, ủng hộ lập công ty vận tải biển Saigonship. Ông cũng là người chủ trương mở đường cho tư nhân ở Thành phố được làm xăm lốp ô tô, xe đạp,…

Giai đoạn này, ông Nguyễn Văn Linh được điều trở lại thay ông Kiệt làm bí thư Thành ủy. Theo ông Khải: “Khi mới về gặp công nhân, ông Nguyễn Văn Linh nói: Bây giờ chúng ta làm chủ nhà máy, xí nghiệp. Công nhân nói: Hồi xưa làm thuê chúng tôi có việc làm bây giờ làm chủ thì chúng tôi không có việc làm nữa. Ông Linh tỉnh ra. Ông Linh cũng đổi mới nhưng không phải bắt đầu bằng sự lăn lộn, nghiên cứu, tổng kết như ông Kiệt”.

Thời gian đó, Thành phố bươn chải trong một khung cảnh, nhận thức của nhiều địa phương còn ấu trĩ. Ông Phan Văn Khải nhớ lại: “Thấy chúng tôi thu mua lương thực, thực phẩm, bí thư Đồng Nai than: Chiều chiều thấy bắp, trái chở về Sài Gòn là tôi lại xót xa. Trong một hội nghị ở Vĩnh Long, có người nói: Gạo thịt của chúng tôi bị chở về Thành phố hết. Chủ trì hội nghị, ông Kiệt nói: Sau này, nếu Thành phố không tiêu thụ thì dân họ sẽ níu áo ông vì bán không được đấy”.

Cuối thập niên 1970, ông Phan Văn Khải luôn có mặt bên cạnh ông Kiệt trong những chuyến đi cơ sở gỡ rối cho doanh nghiệp. Sau Đại hội Đảng lần thứ VI, ông, một người được đào tạo về kinh tế kế hoạch hóa ở Liên Xô, bắt đầu nhận thấy nhu cầu tìm hiểu nền kinh tế của các nước phương Tây. Từ Sài Gòn, ông Phan Văn Khải đề nghị Bộ Chính trị cho ông tổ chức một đoàn nghiên cứu đi các nước trong khu vực. Mục đích của chuyến đi được đề nghị công khai là “thăm dò cơ hội đầu tư và thái độ của các nước ASEAN đối với chính sách đổi mới của Việt Nam”. Tháng 9-1988, đề nghị của ông Khải được Bộ Chính trị đồng ý sau nhiều lần thảo luận.

Ông Phan Văn Khải lúc đó là chủ tịch Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh nhưng xin visa với danh nghĩa là trưởng đoàn doanh nhân Thành phố. Theo ông Nguyễn Văn Kích, thư ký ông Khải: “Lúc đầu Đoàn dự định đi năm nước, bao gồm cả Hồng Kông, nhưng sau khi đi Singapore, Thái Lan, Malaysia, Indonesia, do có vài trục trặc nên chuyến đi đến Hồng Kông không thực hiện”.

Chuyến đi được sắp đặt bởi Charles Đức. Ở Singapore, theo ông Võ Tá Hân: “Tôi bỏ việc để đưa đoàn tham quan. Vì chưa có quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Singapore nên Đoàn không thể thăm trực tiếp nhiều chỗ, chẳng hạn như khi muốn xem cảng Singapore thì tôi phải đưa lên tầng cao tòa nhà IBM đang xây của tập đoàn CDL - Hong Leong để ngắm”.
Sau mấy ngày thăm Singapore, ông Khải muốn có một buổi nói chuyện và câu hỏi mà ông đặt ra là, “Việt Nam phải làm gì để đi theo con đường của Singapore?”. Chiều 28-9-1988, Đoàn họp tại Vietnam Trade House562. Ông Lương Văn Tự khi ấy đang là trưởng đại diện thương mại của Việt Nam tại Singapore chủ trì.

Ông Võ Tá Hân, diễn giả được ông Tự mời đến cuộc họp này, kể: “Buổi họp kéo dài khoảng bốn tiếng đồng hồ. Tôi chuẩn bị mười bốn trang ghi chú viết tay, điểm qua mọi vấn đề như đâu là năm thế mạnh của Việt Nam, chiến thuật giúp tăng trưởng kinh tế, chống lạm phát phi mã, và nói về việc chống tham nhũng... Tôi bắt đầu buổi họp bằng một câu phát biểu rất ngắn gọn: Việc đầu tiên là các anh phải để dân chúng tự do làm ăn!”.

Trong cuộc họp này, ông Hân mang theo một chồng sách tặng ông Phan Văn Khải, trong đó có cuốn Singapore, The Socialist Model That Works. Theo ông Hân: “Tôi nói với ông, Singapore thực sự cũng là một mô hình xã hội chủ nghĩa. Họ chỉ có một đảng cầm quyền là Đảng Hành Động Nhân Dân563 và đảng này, mỗi lần viết các văn bản nội bộ, thường bắt đầu bằng câu ‘Dear Comrades’ mà Việt Nam vẫn dịch là ‘Thưa các đồng chí’”. Trưa thứ Sáu, 30-9-1988, thông qua sự thu xếp của ông Hân, Canadian Business Association tổ chức cho Đoàn một cuộc gặp tại Tanglin Club, hội quán lâu đời và uy tín nhất ở Singapore.
Ông Hân kể: “Trước khi bước lên thang lầu để vào phòng họp, tôi đứng chụp một bức hình kỷ niệm với ông Khải nơi chân cầu thang. Thấy ông Khải rút điếu thuốc định bật lửa để hút, tay hơi run, tôi bèn nói: anh Khải ơi, mình đang ở trong phòng lạnh, họ không cho mình hút thuốc; rồi trấn an để ông ấy lên tinh thần: anh phải hăng hái lên vì thế giới họ vẫn coi mình là cọp đó! Ông Khải trả lời với giọng Nam rặc: cọp gì! cọp... đói!”.

Theo lời mời của CBA, sứ quán Mỹ và Canada tại Singapore đã cử hai vị phó đại sứ đến tham dự. Ông Khải tự giới thiệu là đại biểu quốc hội, chủ tịch Thành phố564. Tuy không cấm vận thương mại Việt Nam nhưng để bày tỏ thái độ trước việc Việt Nam đưa quân tới Campuchia, Singapore không cho các công ty nhà nước và công ty nhận bảo trợ của nhà nước có quan hệ thương mại với Việt Nam. Chính quyền cũng phản đối các doanh nghiệp Singapore cung cấp cho Việt Nam những vật tư chiến lược và giúp Việt Nam phát triển hạ tầng. Chính vì vậy, bài diễn văn của ông Phan Văn Khải được mở đầu bằng thông tin “việc rút quân khỏi Campuchia có thể hoàn thành trước năm 1990”. Ông Khải nói: “Chúng tôi hy vọng với việc rút quân này, Mỹ không còn lý do gì để tiếp tục áp dụng cấm vận thương mại lên Việt Nam”.

Ông Khải nói một cách chân thành: “Chuyến đi của chúng tôi là nhằm tìm kiếm một cái nhìn bên trong những thành tựu của các quốc gia Đông Nam Á. Những điều đã tạo nên sự phát triển kỳ diệu và giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội một cách thành công. Chúng tôi tin rằng những điều đó có thể trở thành bài học tốt cho Việt Nam”.

Ông Khải giới thiệu đôi nét về các chính sách mới ban hành kêu gọi đầu tư nước ngoài như Luật Đầu tư 1987, Nghị định 139, rồi ông nói: “Cánh cửa giờ đây đã mở ra. Chúng tôi muốn làm ăn với các quốc gia trên thế giới đặc biệt là các quốc gia Đông Nam Á”. Sau cuộc họp, CBA tổ chức một cuộc họp báo, mời bốn cơ quan truyền thông: Reuters, Straits Times Singapore, Sunday Times và một tờ báo Nhật Bản.

Chính quyền Singapore đã phản ứng sau khi tờ Sunday Times, số ra ngày Chủ nhật 2-10-1988 đưa tin về “tiệc trưa” tại CBA. Ông Khải đến Singapore cùng mười người khác theo visa cá nhân, “khách hàng” được hai công ty Singapore, Thai Hing Long và Imkov Shipping, mời và bảo lãnh. Nhưng hoạt động của ông bị nhà báo Mike Yeong mô tả: “Khi đến Singapore, họ hợp thành nhóm, cùng với hai quan chức từ cơ quan đại diện thương mại của Việt Nam tại Singapore, tự giới thiệu là phái đoàn thương mại Việt Nam và hoạt động ngoài khuôn khổ những gì được chỉ ra trong visa”.

Chính quyền, như được cảnh báo sau bài tường thuật của Sunday Times, đã nhắc nhở ông Lương Văn Tự, nếu vi phạm hơn thế hoặc tiếp tục vi phạm như thế thì sẽ “không được tha thứ” và “việc xin visa của các doanh nhân Việt Nam sẽ bị khó khăn hơn”. Bộ Ngoại giao Singapore cũng “dọa” trục xuất ông Võ Tá Hân. Theo ông Lương Văn Tự: “Khi thấy tôi bị Bộ Ngoại giao Singapore triệu tập phê bình vì tự tiện tổ chức họp báo, ở nhà cũng xôn xao, nhưng tôi bình tĩnh vì biết họ sẽ chỉ làm điều này như một thủ tục, chính quyền Singapore lúc đó bắt đầu muốn nối lại làm ăn với Việt Nam”565.

Sau chuyến đi, ông Phan Văn Khải có làm một bản báo cáo gửi Bộ Chính trị và Hội đồng Bộ trưởng. Theo ông Nguyễn Văn Kích, người chấp bút bản báo cáo này, sau khi điểm qua những hoạt động và ghi nhận chính của Đoàn trong chuyến đi, ông Khải đưa ra ba kiến nghị: cần sớm xác lập quan hệ với ASEAN, phải coi ASEAN là đối tác thay vì đối đầu; chỉ có trong kinh tế thị trường các nguồn lực và tài nguyên của đất nước mới được phát huy đúng mức; các nước sẵn sàng đầu tư tại Việt Nam miễn là mình có chính sách bảo vệ được đồng vốn cho họ. Ông Kích kể rằng, trong suốt chuyến đi, câu nói của Lý Quang Diệu mà Đoàn tâm đắc nhất là: Kinh tế thị trường + tổ chức xã hội theo kiểu xã hội chủ nghĩa = Singapore.

Uy tín của ông Phan Văn Khải bắt đầu lên cao, nhưng khi ấy ông vẫn ở Sài Gòn lại thuộc thành phần tập kết. Ông Phan Minh Tánh kể, phó bí thư Thành ủy, ông Bảy Dự Nguyễn Võ Danh, từng nói: “Bắc Kỳ đã rất khó ưa nhưng còn đỡ hơn dân tập kết”. Ông Khải vẫn được coi là một người của ông Võ Văn Kiệt, trong khi thế hệ lãnh đạo mới ở Sài Gòn hiện đã ở trong tầm ảnh hưởng của ông Nguyễn Văn Linh. Tháng 4-1989, ông Phan Văn Khải được điều ra Hà Nội566.

Tuy nhiên, việc ông Khải ra Hà Nội giữ chức chủ nghiệm Ủy ban Nhà nước thay thế ông Đậu Ngọc Xuân đã giúp ông chứng tỏ khả năng nắm bắt các vấn đề vĩ mô và hình thành các chính sách ở tầm quốc gia. Vừa nhận chức, ông Khải đã được ông Đỗ Mười giao đứng đầu nhóm soạn thảo “Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000”, công việc mà những người chủ trì trước đó đã không làm ông Mười vừa ý. Ông Phan Văn Khải ngay sau đó được cử làm trưởng đoàn thực hiện một chuyến “khảo sát kinh nghiệm phát triển kinh tế ở bốn nước châu Á”567.

Chuyến đi, theo ông Phan Văn Khải, có ảnh hưởng trực tiếp vào quá trình biên soạn “Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000”. Không chỉ làm việc trong những phiên chính thức, khi đã trở về khách sạn, ông Phan Văn Khải, ông Trần Đức Nguyên lại ngồi với Giáo sư Davis Dapice, ông Thomas Valleley568. Ông Khải thừa nhận đây là những ngày ông ở trong tâm thế của một người đi học và những gì ông thu nhận được có ảnh hưởng rất lớn đến tiến trình hình thành các chính sách xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam trong thập niên 1990.

Thật khó để nói ông Phan Văn Khải là “người của ai” như cách mà những người quan tâm đến chính trường vẫn thường lý giải khi có ai đó được cất nhắc lên hàng lãnh đạo. Ông được đào tạo từ Liên Xô, đủ độ tin cậy cho những người muốn duy trì định hướng xã hội chủ nghĩa. Ông cũng từng là chủ tịch một thành phố năng động như Sài Gòn, ủng hộ Bí thư Võ Văn Kiệt thời kỳ xé rào, tiếp tục phát triển những thành quả đổi mới dưới thời Bí thư Thành ủy Nguyễn Văn Linh, và vào Trung ương năm 1982 với hậu thuẫn của ông Lê Đức Thọ.

Năm 1991, Thành phố có một nỗ lực nữa để ngăn cản ông Phan Văn Khải vào Bộ Chính trị. Ông Khải kể: “Trước Đại hội, ông Hai Chí, Bảy Dự và giám đốc Công an Thành phố ra Hà Nội xin gặp Ban Tổ chức Trung ương để tố cáo tôi khai lý lịch không đúng nhưng Ban Tổ chức không tiếp, nói vấn đề đó đã được xác minh. Họ gặp ông Nguyễn Văn Linh. Khi vấn đề được đưa ra Bộ Chính trị, ông Võ Văn Kiệt nói: Chuyện buồn thời xưa, sao Bộ Chính trị cứ hạch sách người ta hoài. Nếu xét lý lịch thì xét anh Khải có làm gì phản động không, anh ấy có đủ tiêu chuẩn vào Bộ Chính trị không, còn chuyện anh ấy con ai thì tôi đề nghị Bộ Chính trị thôi”. Theo ông Phan Văn Khải: “Ngay từ khi bắt đầu tham gia cách mạng tôi luôn khai rõ tôi là con ngoài giá thú”.

Sau Đại hội, ông Phan Văn Khải được cử làm phó thủ tướng thường trực. Trong suốt hơn sáu năm làm thủ tướng, ông Võ Văn Kiệt đã hành động như một đầu tàu, như một cỗ xe tăng đi trước, che chắn cho các ý tưởng cải cách và đưa ra những quyết định lớn. Việc điều hành sự vụ và tiến trình soạn thảo các chính sách được giao cho Phó Thủ tướng Phan Văn Khải.

Ông Kiệt đánh giá ông Phan Văn Khải là “một nhà kinh tế hàng đầu của đất nước”569 nhưng trong thâm tâm ông vẫn cho rằng ông Khải là một người thiếu quyết đoán để đóng vai trò đứng đầu. Đến phút chót, ông Võ Văn Kiệt mới chính thức giới thiệu ông Phan Văn Khải như một người kế nhiệm mình. Theo ông Phan Văn Khải: “Lúc đầu, ông Lê Đức Anh cản. Cùng lúc có nhiều tin đồn về con trai tôi được tung ra570. Vì những tin ấy, ở đại hội tôi mất hơn một trăm phiếu”571.

Ông Võ Văn Kiệt không hài lòng lắm về khả năng quyết đoán của ông Phan Văn Khải nhưng ông biết ông Khải là người tiếp tục tốt nhất các chính sách đưa nền kinh tế phát triển theo hướng thị trường. Những người như ông Đỗ Mười biết rõ người kế vị mình, Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu, vừa quá cứng rắn lại vừa hiểu biết không nhiều về kinh tế. Vai trò “nhà kinh tế hàng đầu” của ông Khải buộc các khuynh hướng quyền lực lựa chọn ông.

“Sân chơi” không bình đẳng

Tư duy của các nhà lãnh đạo đóng một vai trò vô cùng quyết định đối với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Xét dưới góc độ chính sách, trong thập niên 1990, hai nhân vật có ảnh hưởng lớn nhất là Tổng Bí thư Đỗ Mười và Thủ tướng Võ Văn Kiệt. Theo ông Phan Văn Khải, điểm khác nhau căn bản giữa ông Võ Văn Kiệt và ông Đỗ Mười là một bên, ông Kiệt, muốn đặt hiệu quả của nền kinh tế lên hàng đầu; một bên, ông Mười, muốn xác định quốc doanh là chủ đạo.

Giữa năm 1997, Chính phủ của Thủ tướng Võ Văn Kiệt bắt đầu soạn thảo một nghị quyết trình Ban Chấp hành Trung ương Đảng để làm cơ sở cho việc ban hành những chính sách tiếp tục đổi mới và thúc đẩy kinh tế nhiều thành phần. Công việc đang dở dang thì tháng 9-1997, ông Võ Văn Kiệt bàn giao chức thủ tướng.

Để trình ra Hội nghị Trung ương, dự thảo nghị quyết này được Thủ tướng kế nhiệm Phan Văn Khải đặt tên là “Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế, cần kiệm để công nghiệp hóa, phấn đấu hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội đến nǎm 2000”. Dự thảo nghị quyết đề cập đến nhiều lĩnh vực như tín dụng, ngân hàng, đất đai. với ý định tạo ra một môi trường pháp lý bình đẳng cho các thành phần kinh tế.

Sau tháng 9-1997, ông Đỗ Mười tiếp tục làm tổng bí thư. Thư ký của ông Đỗ Mười, Tiến sỹ Nguyễn Văn Nam, nói: “Đụng đến doanh nghiệp nhà nước là đụng đến vấn đề định hướng. Họp lên họp xuống mấy tháng trời mà cứ dẫm chân tại chỗ. Ông Phan Văn Khải và ông Trần Xuân Giá rất than. Tôi nói với ông Đỗ Mười: Hai bên đang có những nghi vấn lẫn nhau, anh nghi Chính phủ đổi mới quá, thị trường quá; Chính phủ nghi anh bảo thủ quá, tôn sùng cơ chế cũ quá. Anh không nên để tình trạng này kéo dài. Ông Mười trong thâm sâu rất sợ bị coi là bảo thủ”.

Dự thảo “đẩy mạnh đổi mới kinh tế” được đưa ra thông qua tại Hội nghị Trung ương 4, họp vào tháng 12-1997. Đây là hội nghị trung ương cuối cùng ông Đỗ Mười chủ trì với tư cách tổng bí thư. Những người soạn thảo trấn an các nhà lý luận của Đảng bằng những khẩu hiệu khẳng định quan điểm lập trường: “Tǎng cường sự lãnh đạo của Đảng”, “Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý”, đồng thời “cài cắm” không ít quan điểm mới: “Xoá bao cấp tín dụng”, “Đặt các doanh nghiệp nhà nước trong môi trường cạnh tranh theo pháp luật”. Nghị quyết Trung ương 4 là cơ sở chính trị để Chính phủ Phan Văn Khải tiến hành sửa đổi Luật Đất đai, bãi bỏ những tội danh trong Bộ Luật Hình sự vốn được hình thành trên cơ sở nền kinh tế tập trung quan liêu, xây dựng Luật Doanh nghiệp 1999 trên nền tảng “người dân được làm những gì pháp luật không cấm”.

Nghị quyết Trung ương 4, khóa VIII cũng là cơ sở chính trị để Chính phủ của Thủ tướng Phan Văn Khải thay thế Luật Công ty, Luật Doanh nghiệp Tư nhân bằng một luật mới chung cho mọi loại hình doanh nghiệp. Ông Phan Văn Khải nói: “Một khi mà các sản phẩm chính vẫn nằm trong tay quốc doanh, một khi quốc doanh vẫn còn độc quyền thì không thể có cạnh tranh, không thể có bình đẳng trong kinh doanh, không thể có kinh tế thị trường thực thụ”.

Nền kinh tế Việt Nam bắt đầu mang một sắc thái mới khi khu vực kinh tế tư nhân chiếm tỉ trọng lớn dần572. Tuy nhiên, luật lệ vẫn được ban hành bởi bộ máy hành chính quan liêu, chính sách vẫn được hình thành dựa trên nền tảng tư duy “xin-cho” khiến cho việc thành lập doanh nghiệp và xin giấy phép kinh doanh gặp rất nhiều khó khăn573. Người kinh doanh phải mất hàng tháng để xin một giấy phép chuyên ngành trong khi thời hạn mỗi giấy phép như vậy thường chỉ có giá trị trong vòng một năm. Giấy phép kinh doanh cấp ở địa phương này lại thường không có giá trị khi mở thêm một cơ sở kinh doanh ở địa phương khác.
Ngay trong năm 1998, Chính phủ của Thủ tướng Phan Văn Khải bắt tay soạn thảo Luật Doanh nghiệp, với tham vọng chỉ cần một luật này đã đủ để áp dụng cho không chỉ các loại hình kinh doanh tư nhân mà còn áp dụng cho cả các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần. Mục tiêu nhắm tới là tự do kinh doanh, Nhà nước chỉ duy trì những giấy phép thật sự cần thiết đối với một số ngành hạn chế, thay thế cơ chế xin cho bằng cơ chế đăng kí kinh doanh với những thủ tục được tối đa đơn giản hóa.

Tuy nhiên, thiết lập một “sân chơi bình đẳng” như ngôn ngữ của những năm cuối thập niên 1990 và đưa địa vị kinh tế tư nhân lên ngang hàng với kinh tế quốc doanh không phải là một con đường dễ dàng. Ngay trong Hội nghị Trung ương 4, tháng 12-1997, một trưởng ban của Đảng nói: “Sở hữu tư nhân mạnh lên là nền tảng để xây dựng lực lượng chính trị; để cho kinh tế tư nhân phát triển cũng coi như để cho chúng nó đào mồ chôn chúng ta”. Quan điểm ấy được nhiều ủy viên Trung ương và ủy viên Bộ Chính trị tán đồng.

Ông Trần Xuân Giá, người chủ trì soạn thảo Nghị quyết Trung ương 4 và sau đó soạn thảo Luật Doanh nghiệp574, nói: “Các nhà lý luận của Đảng, người thì tuyên bố công khai trên báo chí, người thì nói trong hội nghị Trung ương đều thể hiện bản chất đổi mới nửa vời, ép thì đổi chứ không mới. Cuộc đấu tranh dai dẳng về sở hữu, về mức độ phát triển tới đâu của kinh tế thị trường, đâu là phạm vi, đâu là giới hạn, vẫn không phân thắng bại. Đó là cuộc đấu tranh của tương quan lực lượng. Sau khi ông Kiệt nghỉ, nếu không có ông Khải là thua”.
Quan điểm người dân được làm những gì pháp luật không cấm, lập doanh nghiệp không cần khai vốn điều lệ, đăng ký thay thế cho xin phép, theo ông Trần Xuân Giá, bị phê phán ở các cuộc họp Bộ Chính trị bàn về Luật Doanh nghiệp. Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình ngồi nghe và khi giải lao đã nói với ông Trần Xuân Giá: “Tôi không muốn chống anh nhưng tôi hỏi thật, làm luật như thế này thì chúng ta có còn đi theo chủ nghĩa xã hội?”.

Chiều ngày 29-5-1999, Quốc hội biểu quyết thông qua toàn văn Luật Doanh nghiệp, Luật bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày 1-1-2000. Ngay trong năm 2000, số lượng doanh nghiệp mới được lập đã tăng gấp ba lần năm 1999575. Tuy nhiên cuộc đấu tranh cho một môi trường tự do kinh doanh chỉ mới bắt đầu.

Luật Doanh nghiệp ra đời làm mất hiệu lực của hàng ngàn thủ tục xin cho. Trong khi hàng ngàn giấy phép khác vẫn đang được các địa phương, các bộ ngành che chở. Tổ Công tác thi hành Luật Doanh nghiệp do Bộ trưởng Trần Xuân Giá làm tổ trưởng đã được Thủ tướng Phan Văn Khải thành lập. Các tổ viên gồm Lê Đăng Doanh, Phạm Chi Lan, Vũ Quốc Tuấn và thư ký Nguyễn Đình Cung. Ngoài chức năng tư vấn trực tiếp cho thủ tướng, thời Chính phủ Phan Văn Khải, Ban Nghiên cứu của thủ tướng còn hoạt động như một chỗ dựa, đồng thanh tương ứng với Tổ Công tác thi hành Luật Doanh nghiệp.

Hơn một tháng sau khi Luật Doanh nghiệp bắt đầu có hiệu lực, ngày 3-2-2000, Thủ tướng Phan Văn Khải đã ký quyết định bãi bỏ tám mươi bốn giấy phép con, quyết định này được coi là một món quà Tết của Thủ tướng đối với các nhà doanh nghiệp. Trước đó, Tổ Công tác thi hành Luật Doanh nghiệp được báo chí ủng hộ, đã phải “chiến đấu” khá cam go với các bộ trưởng chỉ vì phía sau mỗi tờ giấy phép là bổng lộc và quyền hành.

Ngày 1-8-2000, quyết định bãi bỏ giấy phép lần thứ hai được đưa ra, lần này dưới dạng chính phủ ban hành một nghị định theo đó, bãi bỏ hai mươi bảy giấy phép và chuyển ba mươi bốn giấy phép thành điều kiện kinh doanh. Những năm sau đó, gần 500 giấy phép con đã bị Thủ tướng Phan Văn Khải bãi bỏ, trong đó có những loại giấy phép như giấy phép xuất bản catalog kèm theo máy ảnh, giấy phép hành nghề in roneo, giấy phép hành nghề photocopy, giấy phép đánh máy chữ, giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh phế liệu, phế thải kim loại, giấy vụn, thủy tinh vụn…

Sau ba năm thi hành Luật Doanh nghiệp, năm 2003, Việt Nam đã tăng được hai bậc trong bảng xếp hạng của Diễn đàn Kinh tế Thế giới về năng lực cạnh tranh toàn cầu. Theo bảng xếp hạng này, năng lực cạnh tranh tăng trưởng của Việt Nam năm 2003 tăng sáu bậc nếu xếp hạng trên tám mươi nền kinh tế của năm 2002, hoặc tăng hai bậc nếu xếp hạng trên 102 nền kinh tế của năm 2003 576.

Cùng với việc bãi bỏ các loại thủ tục, các loại giấy phép, theo tinh thần của Luật Doanh nghiệp, thái độ cửa quyền của các cơ quan thuế, hải quan đã giảm đáng kể, giúp các doanh nghiệp tiết kiệm được những chi phí về thời gian và tiền bạc. Cho đến lúc ấy, kết cấu hạ tầng và bộ máy hành chính nhà nước của Việt Nam vẫn còn yếu kém577.

Nhưng, “sự trỗi dậy của hàng loạt giấy phép kinh doanh” vẫn tựa như “đầu Phạm Nhan”, cắt chỗ này lại mọc lên chỗ khác. Các bộ, ngành, khi dự thảo luật đã cài cắm các quy định để khi thi hành những quy định này lại đẻ ra giấy phép. Theo bà Phạm Chi Lan, đại biểu quốc hội cũng có thể bị “cài bẫy” bởi những điều khoản chung thì cơ quan soạn thảo viết hay đến nỗi có đại biểu Quốc hội phải kêu lên là mở quá, thoáng quá, để rồi khi thiết kế những điều cụ thể họ mới bắt đầu trói lại578.

Từ 2001-2005, Thủ tướng Phan Văn Khải đã ba lần ra chỉ thị yêu cầu các địa phương, các ngành bãi bỏ các quy định trái thẩm quyền nhưng, cứ bỏ giấy phép này thì lại nảy sinh thêm nhiều giấy phép khác. Cuối năm 2005, danh sách giấy phép cần bãi bỏ vẫn còn lên tới con số 300: bốn mươi mốt giấy phép thuộc ngành văn hóa thông tin; ba mươi bảy giấy phép thuộc ngành nông nghiệp; ba mươi tư giấy phép thuộc ngành ngân hàng; hai mươi tư giấy phép thuộc ngành tài chính.

Sự phục hồi các loại giấy phép con tiếp tục làm cho môi trường đầu tư kinh doanh ở Việt Nam chậm được cải thiện. Năm 2005, theo Ngân hàng Thế giới, Việt Nam vẫn phải mất tới sáu mươi ba ngày để hoàn tất các thủ tục pháp lý kinh doanh trong khi việc này ở Úc chỉ mất khoảng hai ngày. Ở Đan Mạch, người khởi nghiệp kinh doanh không phải tốn một chi phí nào để có thể hoạt động thì ở Việt Nam phải mất khoản phí tổn bằng gần 30% mức thu nhập bình quân GDP579.

Từ giữa năm 2006, Tổ Công tác thi hành luật Doanh nghiệp trình danh sách 122 loại giấy phép cần bãi bỏ, sau khi nghiên cứu hơn 300 loại giấy phép được quy định trong 400 loại văn bản, đồng thời kiến nghị bổ sung, sửa đổi 247 loại giấy phép khác. Thế nhưng khi mới thảo luận ở tầm chuyên viên, số giấy phép đề nghị bãi bỏ đã bị cắt giảm từ 122 xuống còn bốn mươi hai và khi đưa ra lấy ý kiến các bộ ngành thì ý kiến của Tổ Công tác đã bị các bộ, ngành đồng thanh phản đối.

Ông Phan Văn Khải chưa kịp ký quyết định bãi bỏ nốt số giấy phép này khi kết thúc nhiệm kỳ. Người kế nhiệm, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, không chỉ để cho các giấy phép cũ tiếp tục “hành dân” mà còn bỏ mặc các địa phương, các ban ngành nữa, sinh thêm nhiều “giấy phép”.


***********

535 GDP tăng đạt mức cao nhất vào năm 1995: 9,5%. Từ năm 1996, tốc độ tăng trưởng bắt đầu có khuynh hướng giảm nhưng năm 1997, khi ông Võ Văn Kiệt rời nhiệm sở, GDP vẫn còn tăng 9%. Do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế 1997 ở châu Á, đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong năm 1999 chỉ còn 1,568 tỷ USD vốn đăng ký so với 8,979 tỷ USD của năm 1996; GDP nhanh chóng rơi xuống đáy 4,8% vào năm 1999, nhưng sau đó đã tăng trở lại.
536 Trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, vàng là mặt hàng nhà nước độc quyền, những người sở hữu từ hai chỉ vàng trở lên bị coi là bất hợp pháp. Ngày 24-5-1989, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười ký Quyết định 139, cho phép tư nhân mở tiệm vàng với điều kiện phải ký quỹ năm lượng vàng. Người soạn thảo điều kiện này, ông Trần Xuân Giá, cũng bất ngờ: “Chỉ sau hai tháng có tới 400 tiệm vàng ra đời”.
537 Năm 1992, Hiến pháp mới 1992 công nhận quyền tự do kinh doanh của người dân. Tính đến ngày 31-12-1996, Việt Nam có 1.439.683 đơn vị kinh doanh tư nhân, trong đó gồm 1.412.166 cá nhân và nhóm kinh doanh, 17.535 doanh nghiệp tư nhân, 6.883 công ty trách nhiệm hữu hạn, 153 công ty cổ phần và 2.946 hợp tác xã.
538 Tháng 9-1995.
539 “Năm 1989, khoản tín dụng mới dành cho ngân sách lên tới gần hai nghìn tỷ đồng và số tín dụng cấp cho các xí nghiệp quốc doanh tăng 1,9 nghìn tỷ đồng. Năm 1990 có 1,4 nghìn tỷ đồng tín dụng dành cho ngân sách và 1,7 nghìn tỷ đồng cấp cho các xí nghiệp quốc doanh. Tổng số dư nợ tín dụng trong nước vào đầu cuối năm 1990 là 6,7 nghìn tỷ đồng. Tín dụng cấp cho ngân sách hoàn toàn không có lãi. Hơn thế nữa, tất cả các loại lãi suất cho vay đối với các xí nghiệp quốc doanh đều thấp hơn lãi suất trả cho tiền gửi dân cư có thời hạn ba tháng” (Văn phòng Chính phủ, UNDP và WB, Kinh tế Việt Nam - Hội thảo Quốc tế 20-4 đến 1-5-1992, Nhà Xuất bản Hà Nội, trang 231).
540 Trưởng Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải.
541 Tổ trưởng Tổ Biên soạn: Phan Văn Khải, tổ phó: Trần Đức Nguyên, các thành viên: Lê Đức Thúy, Lưu Quang Hồ, Lương Xuân Kỳ, Đào Công Tiến,…
542 Chuyến đi do Quỹ Christopher Reynolds bảo trợ về tài chính và Viện Nghiên cứu Quốc tế về Phát triển thuộc Trường Đại học Harvard (Harvard International Institute of Development-HIID) giúp đỡ về chương trình, nội dung nghiên cứu.
543 Trong giai đoạn đầu, chính phủ ở bốn nước mà đoàn khảo sát tới đều có xu hướng can thiệp nhiều vào kinh tế: có những tài sản được quốc hữu hóa, khu vực tư nhân nhỏ, vốn trong nước ít, yêu cầu xây dựng kết cấu hạ tầng và một số cơ sở then chốt phải dựa vào đầu tư của nhà nước. Do đó, quốc doanh phải nắm những ngành then chốt hỗ trợ cho toàn bộ nền kinh tế và khu vực tư nhân như điện, nước, giao thông, bưu điện, ngân hàng, một số cơ sở công nghiệp nặng, nắm độc quyền một số sản phẩm bảo đảm nguồn thu ngân sách như rượu, thuốc lá, muối.
544 Báo cáo của chuyến khảo sát, do ông Phan Văn Khải ký ngày 20-2-1991, viết: “Cả bốn nước đều nhấn mạnh, ngày nay, không có nền kinh tế thị trường nào không có sự điều tiết của nhà nước.”
545 Trả lời phỏng vấn Huy Đức, Tuổi Trẻ 3-8-1993.
546 Năm 1992, Chính phủ bắt đầu “sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước” bao gồm cả việc cho cổ phần hóa một phần theo Nghị định 388. Đặc biệt, hàng loạt nông trường, lâm trường quốc doanh đã được giải tán, các xí nghiệp quốc doanh quận, huyện cũng bị dẹp bỏ dần. Từ 12.300 xí nghiệp Quốc doanh trước năm 1990, tới tháng 7-1993, chỉ còn hơn 7.000 xí nghiệp.
547 Hơn một năm trước đó, ở Trung Quốc, ngày 9-6-1992, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Giang Trạch Dân đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa” thay thế khái niệm “kinh tế thị trường có kế hoạch xã hội chủ nghĩa” của Trần Vân. Hành động này của Giang Trạch Dân là để hưởng ứng lời kêu gọi cải cách do Đặng Tiểu Bình đưa ra trong chuyến “hành phương Nam”. Chủ trương của Giang Trạch Dân trên thực tế là để thoát ra khỏi nền kinh tế xã hội chủ nghĩa trong khi “định hướng xã hội chủ nghĩa” mà Việt Nam “mô phỏng” lại có khuynh hướng quay lại nhiều hơn với mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa bảo thủ.
548 Tuổi Trẻ 9-2-1995.
549 Năm 1994, các doanh nghiệp tư nhân nhập về 1/3 lượng phân bón cung ứng cho nông dân, nhưng quyền nhập khẩu trực tiếp phân bón lại chỉ được Nhà nước giao cho các doanh nghiệp nhà nước. Tư nhân cũng không được sản xuất hàng trả nợ cho nước ngoài; cùng làm ăn với Liên Xô, sau khi nước này tan rã, Chính phủ chỉ giúp các đơn vị quốc doanh thu hồi nợ, không giúp các đơn vị tư nhân. Và thật phi lý khi theo bà Trần Ngọc Sương, phó giám đốc Nông trường Sông Hậu, nông trường của bà làm ra hàng trăm ngàn tấn gạo xuất khẩu, nhưng không được quyền bán trực tiếp cho khách hàng nước ngoài. Cứ mỗi chuyến tàu ủy thác qua các “đầu mối” nông trường phải chi phí ủy thác mất hàng trăm triệu đồng. Cũng không loại trừ những tiêu cực khác. Bà Sương cho biết: Những đơn vị quốc doanh được chỉ định xuất khẩu gạo thường không mua gạo trực tiếp. Bà muốn xuất gạo thì phải bán cho một trung gian tư nhân chịu chi phí thêm 70.000 đến 80.000 đồng/tấn.
550 Trên cơ sở đề nghị của ông Nguyễn Thái Nguyên, thư ký Phó Thủ tướng Phan Văn Khải: “Thay vì tập trung 70% quota xuất gạo cho hai tổng công ty, chỉ nên cho họ khoảng từ 30-40%, hạn ngạch còn lại chia cho các tỉnh”.
551 Nghị quyết 05 chính thức đưa ra khái niệm doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh và doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích. Chuyển các doanh nghiệp mà Nhà nước giữ 100% vốn sang hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một chủ sở hữu hoặc công ty cổ phần gồm các cổ đông là các doanh nghiệp nhà nước. Sắp xếp các doanh nghiệp thuộc các tổ chức của Đảng như đối với doanh nghiệp nhà nước; Các doanh nghiệp thuộc các tổ chức chính trị - xã hội đăng ký hoạt động theo Luật Doanh nghiệp.
552 “Đề án tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển doanh nghiệp nhà nước”
553 Thư gửi Bộ chính trị ngày 2-11-2000. Tư liệu do ông Đỗ Mười cung cấp.
554 Tư liệu do ông Đỗ Mười cung cấp.
555 Thư ngày 14-11-2000 của Cố vấn Đỗ Mười viết: “Chưa có công ty cổ phần nào có vốn điều lệ là 100% vốn sở hữu nhà nước. Số công ty cổ phần có vốn sở hữu của nhà nước chiếm 50% vốn điều lệ trở lên rất ít, chỉ có 13 công ty trong 173 công ty. Nhiều công ty có vị trí quan trọng nhưng tỉ trọng vốn nhà nước rất thấp: Công ty Cơ điện lạnh REE, 10%; Công ty kho vận giao nhận Ngoại thương Transimex, 10%; Công ty Giấy Hải Phòng (HAPACO), thực chất là 0% vì trên sổ sách ghi vốn nhà nước còn 3,8% nhưng là giá trị những cổ phần bán chịu cho công nhân viên nghèo chưa đến thời hạn trả, Công ty giữ hộ”. Trong thư, ông Cố vấn cũng phản bác ý kiến cho rằng, tuy tỉ trọng phần vốn nhà nước trong vốn điều lệ của các công ty cổ phần giảm, nhưng giá trị tuyết đối của phàn vốn này sau cổ phần hóa vẫn tăng cao, ví dụ: Công ty Cơ điện lạnh từ 4,8 tỉ tăng lên 17,36 tỉ, ở công ty Gemadept từ 1,15 tỉ tăng lên 23,2 tỉ. Cố vấn Đỗ Mười chỉ ra rằng: “Số tăng thêm rất nhỏ so với số giảm khi cổ phần hóa. Mức tăng phần vốn của các cổ đông khác, là tư nhân, cao gấp nhiều lần mức tăng phần vốn của Nhà nước”. Không thừa nhận sự tham gia vốn của tư nhân vào các công ty cổ phần có nguồn gốc nhà nước là một tín hiệu đáng mừng cho nền kinh tế, ông Đỗ Mười chỉ quan tâm đến tỉ trọng vốn của Nhà nước ở trong các công ty này. Ông nêu ví dụ: Công ty Cơ điện lạnh, mức tăng vốn nhà nước chỉ là từ 4,8 lên 17,36 tỉ trong khi mức tăng vốn các cổ đông tư nhân từ 11,2 lên 132,64 tỉ; Công ty Gemadept, mức tăng vốn nhà nước chỉ từ 1,15 lên 23,2 tỉ trong khi mức tăng vốn các cổ đông khác từ 5 tỉ lên 101,8 tỉ.
556 1902-1941, Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương 1939-1941.
557 1914-2008.
558 1880-1965.
559 1887-1952.
560 Năm 1935, bà Phan Thị Mung sinh thêm một người con tên là Phan Văn Hòa, rồi đến năm 1939, bà lập gia đình với ông Nguyễn Văn Góp sinh được thêm bốn người con: Nguyễn Văn Sanh 1940-1959, Nguyễn Thị Dương chết khi còn nhỏ, Nguyễn Văn Cảm, sinh năm 1946, theo Cách mạng, hy sinh năm 1971 và Nguyễn Thị Dự, sinh 1948. Sau tháng 8-1945, ông Góp cũng tham gia Việt Minh và bị giết chết 1948. Năm 1950, bà Mung lấy ông Huỳnh Văn Khắp, sinh hai con: Huỳnh Văn Phui, sinh năm 1952, cũng theo Cách mạng và hy sinh, còn lại người con gái là Huỳnh Thị Thu Hà, sinh 1956.
561 Người về sau trở thành vợ của ông Phan Văn Khải.
562 Nay là trụ sở Đại sứ quán Việt Nam tại Singapore.
563 People's Action Party.
564 Lúc này, ông Phan Văn Khải đã là ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (dự bị từ khóa V, chính thức từ khóa VI).
565 Singapore thiết lập quan hệ ngoại giao với Hà Nội năm 1976 nhưng cắt quan hệ năm 1979, khi Việt Nam đưa quân vào Campuchia.
566 Trước Đại hội Đảng lần thứ VI, khi làm nhân sự cho Thành phố, ông Linh đã đưa Võ Trần Chí, trưởng Ban Nông thôn Thành ủy lên làm bí thư thay thế ông Mai Chí Thọ vừa được điều ra Hà Nội giữ chức bộ trưởng Bộ Nội vụ, thay vì đưa ông Khải, một cán bộ nguồn, được bầu giữ chức ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương từ năm 1982 khi đang là phó chủ tịch Thành phố. Ông Võ Trần Chí, sinh năm 1927, là một nông dân, nhiệt tình, chất phác. Khả năng ông Chí bị thay thế bởi ông Phan Văn Khải là rất cao vì cuối nhiệm kỳ ông Chí đã 64 tuổi. Trước tình thế đó, tháng 4-1989, ông Nguyễn Văn Linh đưa ông Đậu Ngọc Xuân từ Ủy ban Kế hoạch Nhà nước về làm chủ nhiệm Ủy Ban Hợp tác và Đầu tư, tạo một chỗ trống hợp lý để đưa ông Phan Văn Khải ra khỏi Thành phố. Ông Khải cho rằng, so với những người không làm ông Linh vừa lòng thì ông chỉ mới bị “phạt thẻ vàng”.
567 Hội đồng Bộ trưởng đã cử hai đoàn, thành phần mỗi đoàn gồm năm cán bộ, hầu hết là thành viên Tiểu ban và Tổ biên tập chiến lược kinh tế - xã hội và ba phiên dịch. Đoàn thứ nhất do ông Phan Văn Tiệm làm trưởng đoàn đi Đài Loan và Thái Lan trong tháng 12-1990; đoàn thứ hai do ông Phan Văn Khải làm trưởng đoàn, đi Indonesia và Nam Triều Tiên trong tháng 1-1991.
568 Giáo sư David Dapice thuộc HIID, người đã nhiều năm nghiên cứu về các nước đang phát triển, từng làm việc dài ngày ở một số nước châu Á; ông Thomas Vallely, điều phối viên của HIID. Cùng đi còn có bà Andrea Panaritis, phó giám đốc điều hành Quỹ Christopher Reynolds.
569 Trả lời phỏng vấn Huy Đức, Thanh Niên ra ngày 25-9-1997.
570 Trước Đại hội VIII có rất nhiều đơn thư tố cáo con trai ông Phan Văn Khải đánh bạc, đã từng bắn chết người rồi trốn đi nước ngoài. Tuy nhiên điều này nếu có rất khó được che giấu vì chính quyền Sài Gòn lúc ấy không ủng hộ ông Phan Văn Khải.
571 Ông Phan Văn Khải nói: “Tôi yêu cầu Hoàng, con trai tôi thôi không làm kinh tế nữa. Hoàng có đầu óc nhưng không muốn làm chính trị. Tôi gọi Nguyễn Văn Hưởng, thứ trưởng Bộ Công an đến nói: Tôi giao nó cho anh, không cần quyền chức gì chỉ cần anh giao cho nó những công việc đàng hoàng. Tôi làm thủ tướng được một thời gian thì ông Lê Đức Anh, một hôm đến tận phòng làm việc của tôi, nói: Lúc trước tôi không hiểu anh”.
572 Đến ngày 31-12-1996, Việt Nam có 1.439.683 đơn vị kinh doanh tư nhân, gồm: 1.412.166 cá nhân và nhóm kinh doanh; 17.535 doanh nghiệp tư nhân; 6.883 công ty trách nhiệm hữu hạn; 153 công ty cổ phần và 2.946 hợp tác xã. Đến tháng 4-1999, con số này tăng lên tới: 2 triệu cá nhân và nhóm kinh doanh; 27.000 doanh nghiệp tư nhân; 11.000 công ty trách nhiệm hữu hạn và 260 công ty cổ phần. Khoảng gần 2 triệu cá nhân và nhóm kinh doanh. Cũng vào thời gian này, doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 43-45% GDP, sản xuất nông nghiệp chiếm khoảng 27-30% GDP, phần còn lại, khu vực kinh tế tư nhân, chiếm khoảng 25-28% GDP (Đánh giá tổng kết Luật Công ty, Luật Doanh nghiệp Tư nhân…, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, tháng 4-1999).
573 Theo Luật Công ty và Doanh nghiệp Tư nhân, để thành lập doanh nghiệp hoặc công ty, nhà đầu tư phải thực hiện thủ tục qua 2 giai đoạn: xin phép thành lập và đăng kí kinh doanh. Trong mỗi giai đoạn, nhà đầu tư phải làm đủ từ 8-10 giấy chứng nhận khác nhau. Như vậy, để thành lập được một doanh nghiệp, nhà đầu tư phải xin được khoảng gần 20 loại giấy tờ và con dấu khác nhau. Đối với mỗi loại giấy chứng nhận, họ có thể phải đến cơ quan nhà nước 2 lần, một lần đến “xin” và một lần đến để được “cho”. Một số tỉnh thành phố còn đặt ra những điều kiện và một số trình tự, thủ tục và giấy tờ trái khác với quy định của Luật. Do thủ tục hành chính phiền hà, nên thời gian cần thiết bình quân để thành lập một công ty khoảng vài tháng. Ngoài ra, nhà đầu tư còn phải trả một “khoản phí” phi chính thức không ít hơn 10 triệu đồng, chưa kể chi phí đi lại… Thủ tục quá phiền hà và tốn kém đã làm nản lòng không ít các nhà đầu tư muốn thành lập doanh nghiệp. Trong thập niên 1990s, có thêm hơn 200 loại giấy tờ ra đời sau khi Nghị định 02 của Chính phủ quy định, doanh nghiệp kinh doanh các ngành nghề có điều kiện phải có giấy chứng nhận đủ điều kiện rồi mới được đăng kí kinh doanh, ví dụ: Muốn mở cửa hàng ăn uống giải khát người đăng ký phải được sở thương mại cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh ngành ăn uống giải khát…
574 Công việc soạn thảo Luật Doanh nghiệp được giao cho Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, một cơ quan thuộc Bộ Kế hoạch Đầu tư thực hiện. Viện trưởng Viện này là tiến sỹ Lê Đăng Doanh, một người được đào tạo từ Cộng hòa Dân chủ Đức, từng giúp việc cho Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh. Cùng với ông Lê Đăng Doanh, là Viện phó Đặng Đức Đạm, ông Nguyễn Đình Cung, luật sư Trần Hữu Huỳnh, Trưởng ban Pháp chế VCCI, các luật gia Cao Bá Khoát, Dương Đăng Huệ, Bộ Tư pháp, Nguyễn Thái Sơn, Văn phòng Chính phủ và bà Phạm Chi Lan. Trực tiếp thiết kế Luật Doanh nghiệp là ông Nguyễn Đình Cung, vừa tốt nghiệp cao học ở Anh. Ông Cung nằm trong số 37 cán bộ đầu tiên của Việt Namđược gửi đi các nước phương Tây theo học bổng của UNDP hồi năm 1992. Nhóm biên soạn chính đã được gửi đi New York và Washington, D.C., nghiên cứu hai tuần dưới sự tài trợ của USAID. Một nhóm các nhà nghiên cứu người Mỹ và New Zealand, như Giáo sư Bernard Black, Giáo sư Krassman, Giáo sư Geordan, Luật sư David Goddard, được tài trợ bởi UNDP đã đến Việt Nam, trực tiếp tư vấn cho các bản dự thảo đầu tiên của Luật.
575 Trong 3 năm, 2000-2002, có 55.793 doanh nghiệp mới được lập, trong khi chín năm trước đó, 1991-1999, chỉ có 45.000 doanh nghiệp.
576 So với thứ hạng trong khu vực, Việt Nam bị Thái Lan bỏ rơi xa thêm một bậc, rút ngắn được tám bậc so với Trung Quốc và một bậc so với Malaysia. Về môi trường kinh doanh, năm 2003, Việt Nam được xếp cao hơn năm 2002 mười bậc; chỉ còn đứng sau Trung Quốc bốn bậc so với 22 bậc của năm 2002; vượt rõ rệt so với Philippines và Nga là hai nước theo sát Việt Nam năm 2002.
577 Năm 2002, Diễn đàn Kinh tế Thế giới đánh giá kết cấu hạ tầng vật chất và khung pháp luật của Việt Nam rất thấp. Các câu hỏi như: Có phải hối lộ để được mắc điện, nước, điện thoại, xếp 66; hối lộ để vay tín dụng, xếp thứ 66; hối lộ liên quan đến thuế, xếp 67; hối lộ liên quan đến giấy phép nhập khẩu, xếp thứ 69; hối lộ liên quan đến hợp đồng công trình của nhà nước xếp thứ 59; tình trạng cửa quyền trong các lĩnh vực độc quyền như viễn thông, điện, nước, vận tải, bến cảng... được xếp ở nhóm thấp nhất trong số 80 nền kinh tế. Về mức độ tham nhũng, năm 2003, Việt Nam cũng được Tổ chức Minh bạch Quốc tế (TI) xếp hạng 90/133 nước.
578 Luật Thương mại 2005, sửa đổi theo yêu cầu của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) nhưng chỉ cho doanh nghiệp hoạt động khuyến mãi sau khi được chấp thuận; thương nhân nước ngoài muốn mua bán hàng hóa ở Việt Nam phải được Bộ Thương mại cấp phép. Tổng cục Du lịch, khi soạn thảo Pháp lệnh Du lịch, đã buộc các hướng dẫn viên du lịch khi hoạt động phải có thẻ do cơ quan du lịch cấp; chính quyền Hưng Yên đòi các doanh nghiệp tỉnh khác đến phải thành lập công ty mới thay vì cho mở chi nhánh; chính quyền Daklak yêu cầu sơn tên doanh nghiệp, số điện thoại, số xe lên taxi chứ không cho dán đề can…
579 Theo Nguyên Tấn, Thời báo Kinh tế Sài Gòn số 43, trang 16, ngày 20-10-2005.


**************************************





-Ðọc toàn bộ "Bên Thắng Cuộc:" ‘Sự Thật sẽ giải phóng con người’




Tiến Sĩ Ðinh Xuân Quân

LTS: TS Ðinh Xuân Quân là một kinh tế gia về phát triển và tổ chức cơ chế (governance). Ông đã sống tại Việt Nam sau 1975, đã bị tù cải tạo, vượt biển tìm tự do. Và đặc biệt đã có dịp về làm việc tại Việt Nam trong chương trình phát triển của Liên Hiệp Quốc (UNDP) nhằm giúp cải tổ hành chánh và kinh tế từ năm 1994 đến 1997. Ðó là một dịp rất tốt để TS Quân hiểu bối cảnh và tư duy của lãnh đạo CSVN vào lúc đó.
Trước 1975 ông làm cho Quỹ Phát Triển Kinh Tế Quốc Gia và tham gia vào Nhóm kinh tế hậu chiến thuộc Bộ Kế Hoạch của VNCH. Ông là GS kinh tế tại Ðại Học Luật và ÐH Minh Ðức. Cho đến nay ông đã làm chuyên gia cố vấn cho trên 20 nước trên thế giới, kể cả gần đây làm cố vấn kinh tế-hành chính cho Phủ TT Iraq và Phó TT tại Afghanistan dưới sự bảo trợ của World Bank, UNDP và USAID. Ông cũng tiếp tục làm GS tại nhiều ÐH mà ông có nhiệm sở.


***
Quyển “Bên Thắng Cuộc” số 1 của Huy Ðức / [Published by OsinBook 2012 - Copyright 2012 by Huy Ðức & OsinBook 2012 trên Amazon] gồm hai phần và 11 chương, “Bên Thắng Cuộc” cuốn 2 cũng gồm hai phần và 11 chương, cả hai cuốn 1&2 gộp lại dày 680 trang.
Hôm nay chúng xin có một số nhận xét về “Bên Thắng Cuộc” cuốn 2, nội dung cuốn sách (tiếp theo cuốn 1) như sau:
Phần III gồm:
Chương 12: Tướng Giáp - Tại sao có vụ án Năm Châu - Sáu Sủ nhằm hạ bệ Tướng Giáp - Vai trò thực sự của Tướng Giáp trong cuộc chiến tranh 1955-1975 như thế nào? Vì sao có vụ Maddox và vụ án “Chống đảng” năm 1967?
Chương 13: Cởi trói thời kỳ trăng mật của TBT Nguyễn Văn Linh, vai trò của ông trong việc mở ra một không gian tự do hơn cho báo chí, văn nghệ; xét lại vụ “Nhân Văn Giai Phẩm.”
Chương 14: Lựa Chọn - Việt Nam có một cơ hội để cải cách chính trị và chuyển quyết liệt nền kinh tế sang thị trường. Nhưng sự sụp đổ của Liên Xô đã làm cho Hà Nội hoảng sợ. Ðiều này khiến cho việc cải cách cả về chính trị và kinh tế bắt đầu từ thập niên 1990 trở nên nửa vời.
Chương 15: Linh-Kiệt - Thực chất mối quan hệ của ông Nguyễn Văn Linh và Võ Văn Kiệt là gì? Vì sao ông Linh đưa ông Ðỗ Mười lên làm thủ tướng năm 1988, thay Trần Xuân Bách, bài ông Kiệt?
Chương 16: Ða Nguyên - Trước những diễn biến trong nước và Ðông Âu, ông Nguyễn Văn Linh nhanh chóng bộc lộ con người bảo thủ của ông: siết lại báo chí; cách chức Trần Xuân Bách; bắt Dương Thu Hương và những người bất đồng chính kiến khác.
Chương 17: Kinh tế thị trường - Ðông Dương đã từ một chiến trường trở thành thị trường như thế nào? Những chuyển động trong xã hội sau khi chấp nhận kinh tế thị trường. Cách mà chính phủ VN và người dân tiếp thu các kiến thức về kinh tế thị trường.

Phần IV: Tam Nhân
Chương 18: Tam quyền không phân lập - Tranh cãi và tranh chấp chính trị trong quá trình hình thành Hiến Pháp 1992.
Chương 19: Tam nhân không phân quyền - Cho dù không chấp nhận tam quyền phân lập nhưng quyền lực nhà nước trong thập niên 1990 cũng có “check and balance” bởi sự phân quyền của tam nhân: Ðỗ Mười, Lê Ðức Anh và Võ văn Kiệt.
Chương 20: Ðại Hội 8 - Công cuộc chuyển giao thế hệ nửa thập niên 1990 diễn ra đầy kịch tính do những lãnh đạo lão thành chưa thực lòng muốn từ bỏ quyền lực.
Chương 21: Lê khả Phiêu và ba ông cố vấn. Ông Lê khả Phiêu là người thế nào? Ai đưa ông lên và vì sao ông bị hạ bệ trong Ðại Hội 9?
Chương 22: Ðịnh Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa - Ý thức hệ được sử dụng như là một quyền lực chính trị đã cản trở những cải cách kinh tế theo định hướng kinh tế tế thị trường. Tiến trình tư nhân hóa khu vực kinh tế quốc doanh gặp khó khăn và định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục ảnh hưởng đến “tương lai” dân tộc.
***
Thời gian qua đã có nhiều nhận xét khen và chê về quyển 1 “Bên Thắng Cuộc.” Có một số bài hay, ví dụ bài của Vũ Ánh, một nhà báo lão thành từ thời VNCH; hay bài của Ðồng Phụng Việt phổ biến trên mạng gần đây. Ðây là những tác giả có cái nhìn hiểu biết và đứng đắn, không có tính cách a dua của một số người bị khích động bởi tình cảm cực đoan hay vì những động lực riêng tư.
Chúng tôi nghĩ rằng ta cần biết lịch sử cận đại VN, nhất là quá trình “Ðổi Mới” kinh tế từ bên trong và “những cơ hội bỏ lỡ” trong quá trình này. Ngày nay bao nhiêu tài liệu được giải mật về phía Mỹ đã cho thấy những bước đi chiến thuật và chiến lược của Mỹ và của VNCH, nhưng ít ai biết về các sự kiện hay các suy nghĩ về nhiều khía cạnh khác nhau của miền Bắc trong thời gian đó. “Bên Thắng Cuộc” đã cho thấy bao nhiêu dữ kiện lịch sử cận đại Việt Nam khi tác giả cố gắng có cái nhìn cân bằng, trung thực, mặc dù không phân tích. Ðây là một sự cố ý của tác giả Huy Ðức, khéo léo bày ra một bữa cỗ đầy sự kiện, đầy thông tin về quy trình lấy các quyết định (government and party decisions) ảnh hưởng đến tương lai Việt Nam, và dành sự đánh giá cho độc giả về những gì đã xẩy ra trên mảnh đất chữ S sau 1975. Quyển sách này sẽ là một “mỏ tài liệu” vừa quý giá vừa rất thích thú cho các học giả, các nhà khảo cứu, các chuyên gia hành chính công (về quy trình quản lý việc thay đổi - management of change), và nhất là các chuyên gia ngoại giao thế giới tìm hiểu và nghiên cứu về Việt Nam.
Quyển 1 có 3 chương (chương 3, 9 và 10) và quyển 2 cũng có 3 chương (14, 17 và 22) có chủ đề về kinh tế. Quyển 1 trình bày “quy trình phá hoại kinh tế miền Nam” qua việc áp đặt một cách máy móc guồng máy “tập trung bao cấp” vào kinh tế (xin xem bài trên Diễn Ðàn Thế Kỷ: www.diendantheky.net.) [Các “Chiến dịch “Ðánh tư sản” - “Chiến dịch X-2,” việc đổi tiền (X-3), việc đánh“Gian thương” hay việc “Cải tạo công thương nghiệp tư doanh.”] Hậu quả các chính sách kinh tế “tập trung bao cấp” là cuộc sống của những người dân trở nên trăm bề khó khăn.
Tác giả kể lại một cách bình thản một số sự kiện đã đưa đến sự phá hoại kinh tế miền Nam qua việc các chính sách “XHCN” được áp dụng một cách máy móc - nếu không nói là mù quáng trong chủ trương cải tạo công thương nghiệp tại miền Nam. Sau đó là phải tìm các giải pháp giải quyết khó khăn kinh tế qua các vụ xé rào.
Quyển 2 nói về “quy trình sửa đổi - tranh cãi về kinh tế thị trường” mà rốt cuộc là theo “kinh tế thị trường theo định hướng XHCN.” Một cuộc Ðổi Mới nửa vời mà tai hại còn kéo đến bây giờ, năm 2013.
Chương 14 kể lại quá trình lựa chọn trong tập thể Bộ Chính Trị về việc cải tạo kinh tế đi từ chỗ “cởi trói” các trạm kiểm soát trên cả nước. Theo nhận thức của những người cộng sản, đánh đổ giai cấp tư sản là bước đi tất yếu, là nhiệm vụ của “cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.” Khi đối đầu với thực tế ÐCSVN phải tìm cách giải quyết, nhưng tư duy lãnh đạo vẫn coi trọng ý thức hệ - cố “bám vào XHCN.” Nhờ vậy khi giới lãnh đạo đi tìm giải pháp, lần đầu tiên người ta thấy các chuyên gia được tham khảo ý kiến. Nó cũng cho thấy tại sao các chính sách về nông nghiệp đã thất bại và phải “cởi trói” cho nông dân qua nghị quyết 10.
Chương 16 nói về Ða Nguyên kể lại quá trình tranh đấu trong nội bộ về “đa nguyên đa đảng” trong bối cảnh các thay đổi tại Ðông Âu, Nga và Trung Quốc, các sự kiện đã khiến ông Nguyễn Văn Linh (NVL) tháo lui trong tiến trình cải cách. Chuyến thăm Gorbachev và thời gian nằm nhà thương tại Ðông Ðức đã làm cho NVL sợ, khi trở về nước đã siết lại báo chí; cách chức Trần Xuân Bách một nhà chính trị nói công khai về đa nguyên trong đảng; bắt Dương Thu Hương và những người bất đồng chính kiến khác. Các tranh chấp tư tưởng - trong đó có nhiều vận động “cởi mở” của Trần Xuân Bách làm cho NVL lo lắng. Ý của ông Trần Xuân Bách là 1) Cần mạnh dạn thực hành chính sách kinh tế theo kiểu chính sách kinh tế mới của Lenin (gọi là kinh tế thị trường với sự tham gia của mọi thành phần kinh tế; 2) Theo “kinh tế định luận” của Marx thì một khi đã đa nguyên kinh tế thì tất yếu sẽ dẫn đến đa nguyên chính trị, và 3) Thị trường và đa nguyên là những thành tựu của nhân loại. Ông Trần Xuân Bách vì muốn thay đổi quá sớm cho nên bị kỷ luật [điều chú ý trong XHCN khi chồng bị “hạ bệ” thì vợ cũng phải chịu trăm điều nhục - bị hạ tầng công tác, cho ra vỉa hè giữ xe ngoài cửa cơ quan, đi làm giúp việc...].
Chương 17 nói về những bước đường đi đến thị trường, trong đó có cả việc thương thuyết giữa Mỹ và VN về chương trình HO giúp cho hơn 380,000 cựu quân nhân cán chính VNCH sang Mỹ, mà chuyến đi đầu tiên vào ngày 13 tháng 1, 1990 sau bao nhiêu vận động. Chương này đề cập con đường dài đi từ tình trạng khép kín đến chỗ cởi mở hơn, từ việc in lịch hoa hậu VN cho đến “xì-căn-đan” Thanh Hương mà chúng ta gọi là “pyramid scheme” làm chấn động Việt Nam, cho đến phong trào học tiếng Anh. Sau đó là những thành tựu đầu tiên của việc đoạn tuyệt với nền “kinh tế bao cấp.” Kinh doanh tư nhân dần dần được cho phép, và trong thời gian này người ta chứng kiến vai trò ngày càng nổi bật của UNDP, của các cơ quan quốc tế giúp Việt Nam mở cửa qua việc gởi nhiều sinh viên đi du học, các phái đoàn tham quan nước ngoài, những dự án “tăng trưởng quản lý kinh tế,” v.v...
Quyển sách cũng cho thấy đời tư của một số lãnh đạo CSVN. Sách đưa ra những dữ kiện về con người của Lê Duẩn, Ðỗ Mười, Võ Văn Kiệt, Nguyễn Văn Linh, Lê Khả Phiêu, Phan Văn Khải, Nguyễn Tấn Dũng, v.v... những người có ảnh hưởng đến các quyết định về tương lai Việt Nam. Nó cho thấy Ðảng Cộng Sản là một tổ chức được quản lý bởi một số người rất nhỏ, rất quyết đoán và hầu như không cần đếm xỉa gì đến khía cạnh chuyên môn. Hậu quả là đảng đã phạm các lỗi lầm do sự kém hiểu biết của họ về thế giới bên ngoài, đã mang lại biết bao nhiêu tai họa cho Việt Nam. Sách thuật lại trong cuộc gặp TBT NVL và Ðỗ Mười (1989) thì ông Linh nói “Mất chủ nghĩa xã hội tới nơi rồi còn nói về thành tích.” Việc này cho thấy các lãnh đạo còn rất quyết đoán theo quán tính, chưa thoát khỏi não trạng ý thức hệ. Trong một dịp khác, sách này thuật lại các cuộc gặp gỡ giữa Lê Khả Phiêu và Giang Trạch Dân (1999) và trách nhiệm trong việc thảo thuận về thác Bản Giốc, Hữu Nghị Quan, Bãi Túc Lãm và điểm cao 1509. Ngoài ra hai bên còn nói về Biển Ðông. Trong cuộc gặp này Ngoại trưởng Nguyễn Mạnh Cầm bị bỏ rơi. Theo ông Nguyễn Văn An thì “Ðảng ta sai lầm về cán bộ rất nhiều.” Ngay từ Ðại Hội VI chọn ông Nguyễn Văn Linh là không đúng - ông không phải là người đổi mới. Ông Linh chọn ông Ðỗ Mười cũng không đúng. Ông Mười chọn ông Lê Khả Phiêu cũng không đúng và đến khi chọn ông Nông Ðức Mạnh thì quá sai. Về sau ông Nguyễn Văn An nhận ra vấn đề của ÐCSVN là “lỗi hệ thống.”
Nói về các “lãnh đạo tù nhân ý thức hệ” thì ngay phần mở đầu sách, tác giả đã cho thấy nhiều người trí thức trong guồng máy lãnh đạo thấy vấn đề, có thiện chí, cố gắng tìm các giải pháp khi đất nước bế tắc. Nói về chuyên môn hành chính thì “cách quản lý đóng” của ÐCSVN dựa trên người “đỏ hơn chuyên” đã mang tai hại cho đất nước và sẽ khó chữa vì dân chúng không được tham gia đóng góp ý kiến vào các quyết định.
Chương 21 quyển sách nói về quy trình thương thuyết - bở lỡ mất cơ hội sớm ký BTA và vào WTO trước Trung Quốc. Bill Clinton đã gặp lãnh đạo VN và sẵn sàng ký từ 1999 trong khi vì “bị lệ thuộc vào 16 chữ vàng” cho nên mãi đến 2006 Việt Nam mới gia nhập WTO. Cuộc trao đổi giữa Bill Clinton và ông Lê Khả Phiêu cũng đầy thú vị - như là một cuộc nói chuyện giữa người trên cung trăng. Quá trình trao đổi giữa các lãnh đạo - Bộ Ngoại Giao, BCT cho thấy nhiều việc hỏng hay bị bỏ lỡ chỉ vì lãnh đạo Việt Nam “mù quáng-nô lệ về tư duy,” vẫn tưởng anh em XHCN Trung Quốc tốt với mình. Dựa vào thông tin của Tổng Cục II nói Trung Quốc “sẽ phản ứng rất xấu” nếu VN ký Hiệp định Thương mại. Trong khi Việt Nam không hiểu tầm quan trọng của giao dịch quốc tế thì Trung Quốc đã tận dụng tình trạng thụ động vụng về của kẻ đàn em để vào WTO sớm hơn. Nhiều người hiểu biết (thường thường thuộc Bộ Ngoại Giao vì có dịp tiếp xúc nhiều với bên ngoài) đã tỏ ra “tiếc đứt ruột.” [Ðọc đến đoạn này người viết cảm thấy rất thấm thía, vì nhớ đến kinh nghiệm của bản thân khi được UNDP đưa vào làm việc giúp Việt Nam cải cách hành chính và tân tiến hóa guồng máy chính quyền: lúc đó VN hoàn toàn có thể qua mặt TQ để vào WTO sớm, nhưng lãnh đạo VN cứ chần chờ không dám quyết định. Lúc đó người viết không biết là Việt Nam đã bị “16 chữ vàng” chi phối, đã bị chiếc “cùm tư tưởng” của TQ tròng vào đầu rồi!]
Trong một bài viết cho viện ISEAS - Ðại Học Singapore xuất bản, chúng tôi đã chứng minh là đến 1972, không ai của “nhóm đỉnh cao trí tuệ” của Bộ Chính Trị tại Việt Nam có một mảnh bằng đại học. Hậu quả là việc quản lý yếu kém - các lãnh đạo có “Mác xít nhưng trình độ quá thấp” [đỏ hơn chuyên]. Tình trạng này đã mang nhiều tai hại trong việc quản lý đất nước, nhất là về kinh tế, đặc biệt từ khi có “16 chữ vàng” với Trung Quốc” thì mọi việc hầu như bị TQ kiểm soát. Tác giả Huy Ðức cho thấy là Việt Nam đã bỏ lỡ quá nhiều cơ hội tốt để Ðổi mới tư duy kinh tế - mang đất nước tiến đến giàu mạnh vì lãnh đạo không có tầm nhìn (vision), ít học, mà bị “tư duy lỗi thời kềm kẹp” (Xem chương 21).
Chương 22 nói Ðịnh Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa sau những bước đi đến thị trường. GS Ðoàn Xuân Sâm hỏi ông Ðỗ Mười: “Anh làm thủ tướng có 60 triệu dân hay chỉ cho 6 triệu cán bộ quốc doanh... Quốc Hội bầu anh lên đứng đầu chính phủ để lo cho toàn dân đâu phải cho lo cho mấy triệu công nhân quốc doanh.” Ðỗ Mười nói “Các anh tìm cho tôi phương án cứu quốc doanh” đó cũng là một lệnh của NVL. Tại đại hội giữa nhiệm kỳ của đảng 1994, ông Ðỗ Mười đọc diễn văn về 4 nguy cơ: tụt hậu, chệch hướng, tham nhũng và diễn tiến hòa bình. Cái đuôi “định hướng XHCN” được gắn vào kinh tế thị trường phản ánh “tương quan lực lượng” giữa hai sự việc trước đây xem ra không thể sống chung với nhau, là thị trường tự do và chủ nghĩa xã hội. Nói tóm ông Ðỗ Mười còn có ảnh hưởng quyết định trong việc duy trì vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước. Nhiều đoàn Việt Nam đã đi tham quan nhiều nơi, trong đó có Singapore. Sau hơn hai thập niên đổi mới, so với các quốc gia mà giữa thập niên 1950 từng có mức độ phát triển tương đương, Việt Nam vẫn tụt hậu hàng chục năm, thậm chí hàng trăm năm so với họ. Nhớ thời kỳ câu khẩu hiệu “cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên XHCN” được hô hào mạnh nhất thì đó cũng đúng là thời điểm Việt Nam nhanh chóng trở thành một quốc gia kiệt quệ, dân chúng lầm than, hàng triệu người phải bỏ nước ra đi.
Hai quyển Bên Thắng Cuộc 1 & 2 nói lên được cái thâm ý của tác giả. Huy Ðức bộc bạch: “Tôi không nghĩ là mình nằm trong phạm vi điều chỉnh các qui định đó. Tôi ý thức được những việc gì mình đang làm. Sự thật không chỉ giúp chúng ta tìm ra những phương thuốc đúng để chữa lành các vết thương cũ mà còn giúp những người đang nắm vận mệnh quốc gia không vi phạm những sai lầm mới. Không ai muốn hứng chịu những điều không hay nhưng nếu cứ trú ngụ trong sự sợ hãi thì sự thật sẽ không bao giờ được nói ra, bạn ạ!” Việt Nam XHCN lúc nào cũng tìm cách “lấp liếm” khi nói chuyện với dân và lúc nào cũng bưng bít thông tin. Huy Ðức đã cố nói lên sự thật mà đa số người dân trong nước không biết, như chính vì các chính sách “duy ý chí” mà ÐCSVN đã phá nền kinh tế miền Nam, làm nghèo và bóc lột dân chúng qua những vụ đổi tiền, tranh cãi trong nội bộ về quy trình cải cách kinh tế và chính trị để cứu vãn tình thế, vụ Tết Mậu Thân, cần tiếp tục cải cách, đổi mới kinh tế và chính trị.
Theo chúng tôi, quyển sách này nói lên mục tiêu sâu xa của tác giả, là: “The Truth will set you free - Sự thật sẽ giải phóng cho con người.” Sống mãi trong sự dối trá, tinh thần con người được cấu tạo bởi toàn cái giả. Khi biết được Sự Thật, người ta được giải phóng ra khỏi khối sương mù giả dối. Quyển sách Bên Thắng Cuộc nhằm mang lại sự thật cho dân Việt Nam, nhất là khối dân đang ở trong nước, hằng ngày vẫn đọc vẫn nghe 800 tờ báo và các loại đài, nhưng tất cả đều đồng ca một điệu, vì được điều khiển chỉ bởi một tổng biên tập, là đảng CSVN. Trong lời mở đầu Huy Ðức có nói, “..chính những người cộng sản cũng không có điều kiện để hiểu những gì Ðảng đã mang đến cho đất nước này. Những người cộng sản có lương tri chắc chắn sẽ đón nhận sự thật một cách có trách nhiệm. Không ai có thể đi đến tương lai một cách thành công nếu không hiểu trung thực về quá khứ.” Ngụ ý quyển sách cho thấy các giá trị như nhân quyền, tự do về tư tưởng và văn hóa, tự do tín ngưỡng, ngôn luận, cư trú và về kinh tế v.v... (những đặc điểm của nền tảng cho chế độ miền Nam) ngày càng là các đòi hỏi bức thiết của mọi tầng lớp dân chúng Việt Nam.
Quyển sách cần được đọc nhiều lần vì nó giúp người đọc có một cái nhìn về chính trường-XHCN nhất là sau tháng 4 năm 1975. Người Việt Nam có thể nhìn một cách bao quát và hiểu rõ hơn về những chuyện đã xẩy ra mà “nhà nước” không muốn họ nghe hay hiểu.
Người đọc quyển sách này tin rằng “The truth will set you free - Sự thật sẽ giải phóng bạn” là mục đích của tác giả Huy Ðức và điều này sẽ mang nhiều thay đổi tích cực cho VN vì họ có thể đánh giá lịch sử cận đại với một các nhìn tổng quát mà ÐCSVN không muốn họ thấy. Quyển sách này sẽ giúp hai phe (thắng và thua, nói tóm là dân VN) tái khẳng định sự thật qua những việc đã xẩy ra từ 1975 đến nay. Vì mù quáng hay ngây thơ theo một chủ nghĩa mà VN đã phải trải qua bao vấn nạn, bao khó khăn, một kinh tế thịnh vượng miền Nam bị phá hủy hoàn toàn chỉ vì... “quá ngu xuẩn vì duy ý chí.”
Sống trong lòng chế độ ở Việt Nam mà đề cập tới các sự kiện viết trong quyển sách này là một điều khó khăn và là mối đe dọa cho cá nhân Huy Ðức. Tác giả, dù được đào tạo trong một thể chế độc tài, đã tự vượt ra khỏi đủ loại trói buộc để dũng cảm nói lên các ưu tư chân thật về những vấn đề của đất nước. Ðiều đó cho thấy sự đè nén và dối trá không thể nào đày ải con người lâu dài mãi mãi, phải có lúc ý thức và lương tri bùng lên để cất tiếng nói trung thực của mình.
Mong là qua quyển sách này sẽ có sự tái xác định về XHCN và mạnh mẽ tiếp tục “Ðổi Mới” theo kinh tế thị trường, nhà nước đối xử bình đẳng với mọi thành phần kinh tế, chấm dứt việc ưu đãi quốc doanh thối nát kém hiệu quả, và những nhóm tư bản bè phái (crony capitalism). Phải có quyền bình đẳng kinh tế trong việc sở hữu các phương tiện sản xuất, nhất là đất đai (nói là do dân làm chủ tập thể đất nhưng các quan trong bộ máy nhà nước được giữ quyền quản lý, đòi lại đất từ người nông dân bất cứ lúc nào. Việc này tạo ra nạn tham ô, oán hận và phản đối kéo dài).
Văn hào Nga Alexander Solzhenitsyn đã nói trong diễn văn nhận giải Nobel Văn Chương của ông: “Một lời nói của sự thật có trọng lượng hơn cả trái đất. One word of truth shall outweigh the whole world.”
Với Sự Thật, dân ta sẽ được giải phóng. Quyển sách này, như một bước mở đầu, đang làm công việc đó.



-Đọc "Bên Thắng Cuộc"
QUÁ TRÌNH PHÁ HOẠI KINH TẾ...
" Quyển sách cho thấy
- đảng Cộng Sản là một tổ chức vô cùng tàn bạo mà lại rất yếu kém về chuyên môn. Người Cộng Sản Việt Nam mang bộ mặt đạo đức giả, mị dân, nhưng cũng có nhiều người cố gắng tìm giải pháp khi bế tắc...
-giúp hai phe (thắng và thua, nói tóm là dân Việt Nam) tái khẳng định sự thật qua những việc gì đã xảy ra từ 1975 đến nay. Vì mù quáng hay ngây thơ theo một chủ nghĩa mà Việt Nam đã phải trải qua bao vấn nạn - bao khó khăn, hoàn toàn phá kinh tế miền Nam chỉ vì... “quá ngu xuẩn vì duy ý chí”...
*
Vào thời điểm này ai thắng ai thua không còn là điều quan trọng, mà việc tái khẳng định sự thật lịch sử, để từ đó sửa chữa các sai lầm và đưa đất nước đến độc lập, thịnh vượng và dân chủ mới là điều đáng quan tâm nhất cho tất cả người dân Việt Nam. Quyển sách này chính là bước đầu giúp việc đánh giá lại “giấc mơ XHCN” mà tác giả cho thấy đã mang bao tai họa cho dân Việt Nam"...


-TS Đinh Xuân Quân-

-Quá trình phá hoại kinh tế miền Nam


Tiến Sĩ Ðinh Xuân Quân

Quyển sách “Bên Thắng Cuộc” của Huy Ðức đã, đang và sẽ tạo nhiều tranh luận cho người đọc trong và ngoài nước. Hiện nay quyển sách này mới chỉ có thể mua trên Amazon (phiên bản tin học). Cuốn 1, có tên là Giải Phóng, gồm 2 phần và 11 chương:

Phần I:
Chương 1: Ba Mươi Tháng Tư - Miền Nam - Ði từ bưng biền - Xuân Lộc - Tướng Big Minh - Trại Davis - Nguyễn Hữu Hạnh - Sài Gòn trong vòng vây - Xe tăng 390 - Ðầu hàng - Tuẫn tiết; Chương 2: Cải tạo Những ngày đầu “Ngụy Quyền” - “Ngụy Quân” - “Ðoàn tụ” - “Phản động” - Tù và cải tạo - “Thăm Nuôi” - “Học Tập”; Chương 3: Ðánh tư sản “Chiến dịch X-2” - Ðổi tiền - “Gian thương” - “Cải tạo công thương nghiệp tư doanh” Hai gia đình tư sản - Kinh tế mới; Chương 4: Nạn Kiều Ðội quân thứ năm Hiệp định Geneva “Chổi ngắn không quét xa” - Hoàng Sa - Sợ “con ngựa thành Troy” - “Nạn Kiều” “Phương án II” - “Ban 69” - Vụ Cát Lái; Chương 5: Chiến tranh - Biên giới Tây Nam - Pol Pot - Ði dây - Khmer Ðỏ và Campuchia dân chủ - “Kẻ Thù Lịch Sử” - Thất bại trong tấn công ngăn chặn (Pre-emptive War) “Nhất Biên Ðảo” - “Áo lính lại khoác vào ngay”; Chương 6: Vượt biên - “Vượt biên” - Từ “trí thức yêu nước” - Ðến “thường dân” - Trước khi tới biển - Ðường tới các trại tị nạn - Chương 7: “Giải Phóng” - Sài Gòn thay đổi - Kinh tế mới Ðốt sách - Cạo râu - “Cách mạng là đảo lộn” - Lòng người - Những người được sinh ra không đúng cửa - “Cánh cửa” Thanh niên Xung phong - “Nổi loạn” - “Sài Gòn lại bắt đầu ghẻ lở”.

Phần II: Thời Lê Duẩn
Chương 8: Thống nhất Nước Việt Nam là một - “Bắc hóa” - Chủ nghĩa xã hội - “Con đường của Bác” - “Mỗi người làm việc bằng hai” - Lê Duẩn và mối tình miền Nam - Chấp chính và chuyên chính - Chương 9: Xé Rào - Bế tắc - Mậu dịch quốc doanh - Máy bỏ không, công nhân cuốc ruộng - Tháo gỡ - Nghị quyết Trung ương 6 - Bù giá vào lương - Cắm cờ xé rào - Khoán chui - Ông Kiệt xé rào, ông Linh lãnh đạn - “Ai thắng ai” - Chương 10: Ðổi mới - Hội nghị Ðà Lạt - Nhóm giúp việc mới - Người của những khúc quanh lịch sử - Từ chính sách Kinh Tế Mới - Ðến chọc thủng thành trì bao cấp Giá-Lương-Tiền - Nã pháo vào bộ tổng - Khép lại trang sử Lê Duẩn - Vai trò của Mikhail Gorbachev Tuyên ngôn đổi mới - Bàn tay Lê Ðức Thọ - Phút 89 - Chương 11: Campuchia - “Pot ở đầu phum ta cuối phum” “Xuất khẩu cách mạng” - Tư tưởng nước lớn - Bị cô lập - Phương Bắc - Hội nghị Thành Ðô - Campuchia thời hậu Việt Nam.

*

Ðã có nhiều nhận xét về cuốn “Bên Thắng Cuộc” về phần chính trị, về những sai lầm trong nội dung, và chúng ta đã nghe một số chỉ trích, chê bai. Riêng đối với người viết này thì ta cần biết lịch sử cận đại Việt Nam qua nhiều phía kể cả về phần kinh tế. Muốn tranh đấu ta phải hiểu đối thủ và do đó phải tìm hiểu và phân tích những thành công và thất bại của họ ở chỗ nào?
Người ta nói lịch sử thường được viết theo những người thắng cuộc nhưng từ 1975 đến nay đã bao nhiêu tài liệu được giải mật và nay cuộc chiến tại Việt Nam được đánh giá qua nhiều khía cạnh mới. Người ta nói có sách, mách có chứng nhưng với điều kiện là sách viết đúng, không tuyên truyền. “Bên Thắng Cuộc” đã mang một ánh sáng mới cho những trang sử cận đại Việt Nam khi tác giả đã cố gắng có cái nhìn cân bằng - trung thực mặc dù thiếu phân tích.
Dưới khía cạnh kinh tế ta có thể xem cuốn sách như một nguồn tài liệu và có ghi lại nhiều điều hữu ích cho sự nghiên cứu lịch sử hay tài liệu tra cứu. Nó cho thấy là chính các chính sách kinh tế ngây thơ “của một nền kinh tế tập trung bao cấp” đã phá kinh tế miền Nam. Và sự yếu kém về kinh tế vẫn tiếp tục đến ngày nay vì “tư duy” trên nền tảng kinh tế chỉ huy với não trạng rất hẹp hòi của giới lãnh đạo.
Cuốn sách được viết bằng giọng rất bình thản, khách quan, khác hẳn ký ức của nhiều người đã trải qua những tình huống cay đắng của bên thua trận, trong đó có người đang viết những dòng này. Những chính sách sau ngày 30 tháng 4, 1975 của những “đỉnh cao trí tuệ của Bộ Chính Trị” đã thực thi tại miền Nam, đã lộ rõ trong quyển sách này. Nó cho thấy những suy nghĩ thô sơ, hiểu biết quá lạc hậu về các vấn đề quản trị một đất nước, nhất là về quản lý kinh tế.
Thật vậy quyển sách có trên 3 chương (chương 3, 9 và 10) nói về kinh tế mà ta có thể gọi là “quy trình phá hoại kinh tế miền Nam” qua việc áp đặt một cách máy móc guồng máy “tập trung bao cấp” vào kinh tế. Chương 3 kể lại quy trình phá hoại kinh tế VN bởi tập thể Bộ Chính Trị qua việc cải tạo kinh tế. “Theo nhận thức của những người cộng sản, đánh đổ giai cấp tư sản là bước đi tất yếu, là nhiệm vụ của “cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân”. Chưa đầy ba năm sau khi chủ nghĩa xã hội được áp dụng ở miền Nam, các nhà doanh nghiệp, với tên gọi mới là “tư sản”, đã phải trải qua hai lần bị “đánh”.
Các “Chiến dịch X-2” ngày 10-9-1975, việc “Ðổi tiền” ngày 22 và 23-9-75, khi đồng tiền cũ của chế độ Sài Gòn đã được thay thế bởi đồng tiền mới được coi là “chiến dịch” còn gọi là “X-3” trong đó mỗi hộ gia đình được đổi tối đa 100,000 đồng tiền với 500 đồng tiền VNCH ăn một đồng tiền mới Ngân hàng [nói theo kinh tế thì đây là một cuộc đổi tiền bóc lột]. Ngày 3-9-1975, Ngân hàng tuyên bố “Công khố phiếu (miền Nam) không còn giá trị”, [Chính quyền giải thích: “Các loại công khố phiếu dù của các ngân hàng hay của tư nhân là những giấy nợ của Nguyễn Văn Thiệu vay để thêm ngân sách cho guồng máy chiến tranh, nay Nguyễn Văn Thiệu và bè lũ đã mang tiền của tháo chạy, Chánh quyền Cách mạng hiện đang quản lý tài sản của toàn dân.]
Các chiến dịch “Ðánh tư sản” - “Chiến dịch X-2”, việc đổi tiền (X-3), việc đánh “Gian thương” hay việc “Cải tạo công thương nghiệp tư doanh.” Tác giả kể lại một cách bình thản một số sự kiện đã đưa đến sự phá hoại kinh tế miền Nam qua việc áp đặt các chính sách “XHCN” được áp dụng một cách ngây thơ - nếu không nói là mù quáng trong vấn đề cải tạo công thương nghiệp tại miền Nam.
Chương 9 kể lại quy trình tìm mò các giải pháp kinh tế do những bế tắc của kinh tế tập trung bao cấp của Việt Nam qua việc “Xé Rào”. Chỉ mấy năm sau 1975, những người như ông Võ Văn Kiệt nhận ra là các chính sách cơ chế “tập trung quan liêu bao cấp” cho kinh tế thất bại và họ đã phải tìm cách “xé rào” để giải quyết các bế tắc của kinh tế VN. “Bên ngoài thì giặc giã, bên trong thì bức bối, đói kém, không khí càng trở nên ngột ngạt, nhất là từ giữa năm 1978. Lượng người bỏ nước ra đi càng lúc càng tăng, cỗ xe như đang lao xuống dốc mà không ai nhìn thấy chân phanh ở đâu...” Các bế tắc kinh tế do mậu dịch quốc doanh - Máy bỏ không, công nhân cuốc ruộng và cách nào Việt Nam đã cố tháo gỡ các khó khăn kinh tế do việc áp dụng hệ thống “bao cấp” tại VN. [Ông Kiệt không phải chờ quá lâu để chứng kiến những gì mà chủ nghĩa xã hội mang lại cho Sài Gòn. Ðại hội Ðảng lần thứ IV đề ra mục tiêu: “Năm 1980 đạt ít nhất hai mươi mốt triệu tấn lương thực quy thóc, một triệu tấn thịt hơi các loại”.] Trên thực tế là, tại vựa lúa Ðồng Bằng Sông Cửu Long, sau khi “cưỡng bức tập thể hóa”, sau khi máy cày, máy kéo của tư nhân bị đưa vào hợp tác xã, tập đoàn đã trở nên tàn phế, mặc kệ các chỉ tiêu đại hội, sản lượng lương thực, thực phẩm giảm mạnh. [Nhưng gạo lại để ẩm mốc ở Long An trong khi dân Sài Gòn vẫn đói.] Quyển sách nói đến “Nghị quyết Trung ương 6” hay việc nhận ra nguyên nhân đất nước khó khăn là vì “những khuyết điểm chủ quan” và chủ trương xóa bỏ ngay những chính sách chế độ bất hợp lý, gây trở ngại cho sản xuất, khuyến khích việc phát triển sản xuất... Chương này cũng nói về vấn đề xé rào và khoán chui và hai lần đổi tiền năm 1985. Quyển sách cũng nhắc lời của KS Dương Kính Nhưỡng (cựu bộ trưởng của VNCH) một cách rất chí lý: Cần phải có luật lệ mới quản lý được một đất nước.
Hậu quả các chính sách kinh tế “tập trung bao cấp” là “Cuộc sống của những người dân ở hậu phương cũng trăm bề khó khăn: Cây đinh phải đăng ký / Trái bí cũng sắp hàng / Khoai lang cần tem phiếu / Thuốc điếu phải mua bông / Lấy chồng phải cai đẻ / Bán lẻ chạy công an / Lang thang đi cải tạo / Hết gạo ăn bo bo / Học trò không có tập...” Nhờ tình trạng này cho nên chương 10 nói về Ðổi mới - Hội nghị Ðà Lạt - Nhóm giúp việc mới - Người của những khúc quanh lịch sử Từ chính sách Kinh Tế Mới - Ðến chọc thủng thành trì bao cấp Giá-Lương-Tiền - Nã pháo vào bộ tổng - Khép lại trang sử Lê Duẩn - Vai trò của Mikhail Gorbachev - Tuyên ngôn đổi mới - Bàn tay Lê Ðức Thọ - Phút 89. Ðây là quy trình tìm cách giải quyết các khó khăn của kinh tế Việt Nam.
Tác giả này trong bài (1) được viện ISEAS của Ðại Học Singapore xuất bản đã chứng minh là đến 1972, không ai của “nhóm đỉnh cao trí tuệ” của BCT tại Việt Nam có một mảnh bằng bằng đại học. Hậu quả của việc quản lý yếu kém của lãnh đạo có “Mác xít nhưng trình độ quá thấp” [đỏ hơn chuyên] là những tai hại mang đến cho đất nước Việt Nam.
Một điểm đáng lưu ý là tác giả Huy Ðức đã dùng chữ Tuẫn Tiết để chỉ cái chết của các tướng lãnh miền Nam như Lê Văn Hưng, Nguyễn Khoa Nam, Phạm Văn Phú, Lê Nguyên Vỹ hay Ðại Tá Ðặng Sĩ Vinh, những người đã tự kết liễu đời mình vào thời điểm miền Nam sụp đổ. Theo tác giả thì nhiều quân nhân VNCH vô danh đã tìm đến cái chết trong danh dự những ngày sau đó.
Tác giả cũng đã trích dẫn huyền thoại về Hồ Chí Minh và bà Nguyễn Thị Năm do Hoàng Tùng dàn dựng. Chương Nạn kiều trong sách làm sáng tỏ việc tổ chức cho người Hoa vượt biên để gom vàng của nhà nước. Phương án II cũng giúp chúng ta thấy bao nhiêu thảm cảnh đã xảy ra, trong sách ghi lại: “Người di tản được đóng vàng để công an mua thuyền hoặc đóng thuyền cho đi mà không sợ bị bắt hay gây khó khăn. Việc thực hiện Phương án II chỉ do ba người là bí thư, chủ tịch và giám đốc công an tỉnh quyết định. Công an được giao làm nhiệm vụ đứng ra thu vàng và tổ chức cho người di tản”.
Quyển sách cho thấy đảng Cộng Sản là một tổ chức vô cùng tàn bạo mà lại rất yếu kém về chuyên môn. Người Cộng Sản Việt Nam mang bộ mặt đạo đức giả, mị dân, nhưng cũng có nhiều người cố gắng tìm giải pháp khi bế tắc.
Quyển sách này giúp hai phe (thắng và thua, nói tóm là dân Việt Nam) tái khẳng định sự thật qua những việc gì đã xảy ra từ 1975 đến nay. Vì mù quáng hay ngây thơ theo một chủ nghĩa mà Việt Nam đã phải trải qua bao vấn nạn - bao khó khăn, hoàn toàn phá kinh tế miền Nam chỉ vì... “quá ngu xuẩn vì duy ý chí”.
Cái tên sách “Bên Thắng Cuộc” có lẽ cũng nói lên cái thâm ý của tác giả Huy Ðức, là không coi sự thắng trận của miền Bắc là một cái gì quá vĩ đại và tuyệt đối. Hai chữ “thắng cuộc” cho người đọc cái cảm giác đó chỉ là một cái gì ở tầm cỡ nhỏ, tạm thời, trong khi dòng chảy phong phú và đa dạng của lịch sử ngày càng cho thấy cái chính nghĩa lại thuộc bên thua cuộc là miền Nam. Nhân quyền, tự do về tư tưởng, tín ngưỡng, ngôn luận, cư trú và về kinh tế, v.v... là những đặc điểm vốn đã là nền tảng cho chế độ miền Nam, ngày càng là các đòi hỏi bức thiết của mọi tầng lớp dân chúng Việt Nam hiện tại, sau gần 40 năm chế độ cộng sản được áp đặt cho cả nước, nhất là hiện tượng phụ thuộc vào Trung Cộng ngày càng rõ rệt, và việc “đảng đàn anh” đương nhiên coi Hoàng Sa và Trường Sa là của họ.
Vào thời điểm này ai thắng ai thua không còn là điều quan trọng, mà việc tái khẳng định sự thật lịch sử, để từ đó sửa chữa các sai lầm và đưa đất nước đến độc lập, thịnh vượng và dân chủ mới là điều đáng quan tâm nhất cho tất cả người dân Việt Nam. Quyển sách này chính là bước đầu giúp việc đánh giá lại “giấc mơ XHCN” mà tác giả cho thấy đã mang bao tai họa cho dân Việt Nam. Người viết bài này cũng đã sống tại Việt Nam giai đoạn sau 1975, từ tù cải tạo đến việc bị phân biệt đối xử bị coi là loại công dân hạng hai, cho đến khi vượt biển tìm được tự do; và sau đó còn có dịp về làm việc tại Việt Nam trong chương trình phát triển của Liên Hiệp Quốc (UNDP) nhằm giúp cải tổ hành chánh và kinh tế. Với các kinh nghiệm đã trải qua, người viết đánh giá là ngoài vài sai lầm nhỏ, quyển sách này đã cố nói lên được nhiều sự thật. Nó cần phải được đọc nhiều lần một cách cẩn thận, để hiểu được những gửi gắm của tác giả, trong khi chờ đọc nốt cuốn thứ hai của Huy Ðức.
T.S. Ðinh Xuân Quân

1. The Political Economy of the Vietnamese Transformation Process, Contemporary South East Asia, Volume 22, Number 2, Institute of South East Asia Studies, August 2000.

Tổng số lượt xem trang