Thứ Sáu, 21 tháng 12, 2012

Nhân đọc bên thắng cuộc

-
Kính gửi các NT, các bạn,

Sau khi gửi thư phản đối cho Huy Đức tác giả "Bên Thắng Cuộc" về những ngụy tạo có liên quan đến tôi. Do phần trích từ bài viết về Phan Xuân Huy, con rể của Dương Văn Minh, (cựu dân biểu PX Huy là thành phần đối lập VNCH thuộc Ấn Quang) được đăng tải trên báo Tin Sáng gần 40 năm trước về "ngụy quân".
Nay tôi đọc được phần xin lỗi của tác giả Huy Đức gửi cho tôi trên facebook.

Lê Quang Liễn
K20 Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt


"Ước chi tôi có thể gặp được ông Lê Quang Liễn trước khi viết cuốn sách này. Như tôi đã nói trong cuốn sách, phần lớn những bài báo viết về tù cải tạo hồi tháng 9-1975 đều là sản phẩm tuyên truyền. Việc Bên Thắng Cuộc trích đăng những bài viết mà báo chí lúc đó viết về quân đội Việt Nam Cộng hoà là để cho thấy họ không chỉ bị giam cầm mà còn bị tra tấn bởi cả công luận. Ông Lê Quang Liễn đúng là hiểu lầm, nhưng nhờ thế tôi mới có thể tìm thấy nhân vật của mình. Xin lỗi và xin cám ơn ông. Hy vọng việc xuất bản sách sẽ giúp tác giả gặp them những nhân chứng như ông Liễn để phỏng vấn thêm và để bổ sung tư liệu cho lần xuất bản tới".



     Thưa ông Huy Đừc,đúng tôi là Lê Quang Liễn đã post .Tôi có đọc phần trả lời của ông về thư phản đối của tôi.***Tôi xin cám ơn ông đã trả lời và xin lỗi cá nhân tôi và anh em TQLC bị bắt làm tù binh gần cửa Thuận an***sự sai sót lớn đã làm tổn thương danh dựcá nhân tôi và nhiều người do trích dẫn từ sự ngụy tạo của Phan Xuân Huy,con rể của Dương Văn Minh.***tôi ghi nhận thiện chí của ông, sẽ điều chỉnh sự sai sót này trong ấn bản kỳ tới*** xin ông edit và bỏ phần ngụy tạo trên trong sách độc gỉa đọc trên Internet.Sau cùng tôi cũng như nhiều anh em thắc mắc câu viết hơi tối nghĩa của phần trả lời cho tôi:ông Lê Quang Liễn đúng là hiểu lầm....Nhưng tôi đã đọc kỷ và giải thích cho chính tôi và anh em là :Nếu tôi tôi sai thì hà cớ kế tiếp đó ông Huy Đức đã viết :Xin lỗi và cám ơn ông.


    Sách Bên Thắng Cuộc Thưa ông Liễn, như tôi đã nói những bài báo lúc đó nói về những người cải tạo đều chỉ để tuyên truyền một chiều. Cái đó cũng là một bằng chứng lịch sử. Có lẽ người vợ cũ của ông không muốn chồng rắc rối đã nói vậy và cũng có thể nó được thêm thắt vào. Không ai tin một bài báo như thế. Bài này được đăng vào tháng 9-1975 và chắc chắn tôi sẽ còn nói tới nó. Cám ơn ông đã trả lời tôi.

    Nguồn:https://www.facebook.com/BenThangCuocBook.

    Thông tin về Phan Xuân Huy: http://ca.cand.com.vn/News/PrintView.aspx?ID=56042
    Phan Xuân Huy là một dân biểu đối lập trong chế độ Sài Gòn, nhưng cũng là một trí thức yêu nước, có mối quan hệ thân thích với Dương Văn Minh. Ông Phan Xuân Huy là con rể của Dương Văn Minh (chồng của con gái nuôi Dương Văn Minh).


    -Lãnh đạo VN nên đọc 'Bên Thắng Cuộc'?

    Cũng có người như Thiếu tá Lê Quang Liễn, người xuất hiện trong sách qua trích dẫn của nhà báo Phan Xuân Huy, nói ông Phan Xuân Huy đã nói không đúng rằng ông Liễn và nhiều lính thủy quân lục chiến của Việt Nam Cộng hòa đầu hàng.


    Cuộc chiến giữa hai miền nam - bắc gây ra nhiều mất mát kể cả trong giai đoạn hậu chiến

    Ông nói những binh lính này trên thực tế bị bắt và ông chỉ được ra tù vào đầu năm 1988 "sau gần 13 năm tù ngục với 4 năm 7 tháng 24 ngày bị "kiên giam" còng tay, chân, bị đánh gãy xương sườn..."


    Vị cựu quân nhân viết tiếp: "Tôi gửi đến tác giả Huy Đức những nhận xét của tôi về phần trích dẫn trong sách và mong được hoàn chỉnh sự chính xác cũng như trách nhiệm của người viết."

    Bản thân tác giả Huy Đức phản hồi rằng, bài phỏng vấn vợ ông Liễn mà ông Liễn đề cập ở đây là do ông Phan Xuân Huy thực hiện trên báo Tin Sáng tháng 9-1975 cũng như phần lớn những bài báo viết về tù cải tạo hồi tháng 9-1975, bài báo cũng là một sản phẩm tuyên truyền, tác giả trích dẫn lại như một bằng chứng lịch sử của sự tuyên truyền một chiều đó.


    ----Nhân đọc bên thắng cuộc…(2)Đôi giòng: Một trong những ‘hạt sạn’ trong cuốn Bên Thắng Cuộc của tác giả Huy Đức. Điều này cũng có thể xảy ra với ngay cả những nhà nghiên cứu thuần túy.

    Mời đọc thư của thiếu tá Lê Quang Liễn

    2012/12/15 
    Thưa tác giả Huy Đức,
    Được nghe,đọc nhiều quảng cáo trên internet về tác phẩm Bên Thắng Cuộc của ông . Cho nên tôi cũng tò mò tìm đọc cho biết.
    Trong ChươngII,tiểu mục Ngụy Quân trang 52,tình cờ tôi đọc những điều người vợ cũ của tôi (theo sách là gia đình “Cách mạng”) và được Phan Xuân Huy phỏng vấn(?), viết về chuyến đi thăm tôi ở trại tù tháng 9 năm 1975 và được đăng tải trên báo Tia Sáng năm 1975.Tôi rất ngạc nhiên và ghê tởm,sau gần 40 năm mới hay, về những điều mà nhà báo PXHuy đã viết ra và gán ghép cho kẻ vắng mặt vì những lý lẽ sau đây:
    ***trại tù như một trại Hè
    ***ca tụng về cuộc sống lành mạnh ở Trại tù
    ***..” đã bị tên tướng ngụy Bùi Thế Lân bỏ kẹt tại cửa Thuận An và đã cùng toàn bộ binh lính trong Tiểu đoàn 7 đầu hàng quân đội giải phóng…”
    Thật ra toàn bộ anh em TQLC đã bị bắt,nếu anh em chúng tôi ra hàng thì đã được hưởng qui chế đãi ngộ hàng binh như Phạm Văn Đính và một số đồng bọn thuộc Trung Đoàn 56 .Vả lại, đơn vị chúng tôi lúc đó thuộc quyền của Bộ Tư Lịnh Tiền Phương Quân Đoàn I.Ở đây ,vị Tư lịnhTQLC không có trách nhiệm nào hết.Người chịu trách nhiệm là Trung Tướng Lâm Quang Thi mới đúng nghĩa hơn.Khi viết toàn bộ ra hàng là điều cố tình hạ nhục anh em chúng tôi khi thất thế!!
    Nếu ông Huy Đức biết rõ thêm về tôi là người tù cuối cùng của Lữ Đoàn 147 TQLC ra khỏi trại tù ngày 12 tháng 2 năm 1988 sau gần 13 năm tù ngục  với 4 năm 7 tháng 24 ngày bị “kiên giam” còng tay,chân,bị đánh gảy xương sườn vì những chống đối tập thể trong Trại tù Bình Điền ,Thừa Thiên thì phần trích dẫn từ bài viết của tên nhà báo PXHuy là thiếu trách nhiệm.
     Tôi biết PXHuy là thành phần đối lập cơ hội với chế độ VNCH trước năm 1975 mà tôi tận trung phục vụ.Có lẽ trong những ngày tháng đầu sau ngày 30 tháng 4 năm 1975,Phan Xuân Huy-cũng như một số người nhẹ dạ – vì muốn tìm chỗ đứng an toàn trong lòng chế độ mới bằng những bài viết,những câu nói ,với những nhận thức “sâu sắc của mình” về cái hay ,cái đẹp của chế độ XHCN.
    Một nhà báo chân chính phải viết cho sự thật,vì lương tâm thì đừng bao giờ gán ,chụp cho những người vắng mặt những gì vì lợi ích cho bản thân,phe nhóm.
    Tôi gửi đến tác giả Huy Đức những nhận xét của tôi về phần trích dẫn trong sách và mong được hoàn chỉnh sự chính xác cũng như trách nhiệm của người viết.
    Trân trọng,
    Lê Quang Liễn
    Nguồn: nhận qua điện thư từ một số thân hữu của Sầu Đông---Nhân đọc bên thắng cuộc…

    HNPĐ
    -Kính thưa quý diễn đàn.
    Gần đây dư luận xôn xao về một quyển sách của tác giả Huy Đức, người từ chế độ cộng sản viết về tài liệu lịch sử của cuộc chiến vừa qua. Qua quyển sách có tên là " Bên thắng cuộc", nhìn toàn diện tác giả dường như muốn diễn đạt và dẫn chứng những điều thật sự xảy ra sau cuộc chiến, nhưng sự thật đó lại là những điều không thật. Kẻ bại trận bị đi tù nhưng với mỹ từ là học tập cải tạo. Những đoạn high light màu đỏ dưới đây để chúng ta có thể nhận định được giá trị của quyển sách nầy. Những dẫn chứng bịa đặt mặc dầu với những tên khác nhau, nhưng tác giả Huy Đức phải hoàn toàn trách nhiệm những điều không có thật trong quyển sách của mình. Phan Xuân Huy cựu dân biểu phản chiến QLVNCH, cùng các tên Ngô công Đức chủ báo Tin Sáng, đã tiếp tay cho cộng sản để làm suy yếu chế độ miền Nam.
    Trường hợp cá nhân Lê quang Liễn là một điển hình. Là bạn cùng khóa, cùng trường, cùng chiến đấu và cùng ở tù chung trại tù Ái Tử, Bình Điền. Bạn Liễn không bao giờ nói lên câu nói như trong bài viết dù là với vợ con mình. Chúng tôi, những đơn vị chiến đấu cuối cùng trong cuộc lui binh từ bỏ vùng địa đầu giới tuyến từ lệnh Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Cả Lữ đoàn 147TQLC của chúng tôi đặt dưới quyền chỉ huy của Trung Tướng Lâm Quang Thi Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn 1. Chúng tôi đã chiến đấu trong tình trạng bị cô thế, chúng tôi bị bắt làm tù binh vào ngày 27-3-1975. Chúng tôi không đầu hàng như trong đoạn dẫn chứng của tác giả Huy Đức. Sư đoàn TQLC chúng tôi, cũng như bất cứ ai ở cùng trại tù với Lê Quang Liễn đều cảm mến và kính phục tinh thần chiến đấu cao độ và bất khuất của anh trong bất cứ hoàn cảnh nào. Vào những ngày cuối tháng Ba gãy súng, Liễn đã đích thân đưa xác người em ruột mình lên chuyến tàu đầu tiên và cũng là cuối cùng, duy nhất cùng với BCH Lữ Đoàn vào Đà Nẳng. Sau đó đã quay lại cùng chiến đấu thề sống chết với đơn vị mình. Thiếu Tá Lê Quang Liễn TDP/ TD7 không bao giờ bỏ cuộc, thề sống chết với đơn vị mình. Chuyện bại trận của chúng tôi, không phải là trách nhiệm của Thiếu Tướng Bùi Thế Lân mà là của Trung Tướng Lâm Quang Thi vị Tư Lệnh Tiền Phương , người chỉ huy chúng tôi
    Liễn không bao giờ ca tụng chế độ cộng sản, như trong dẫn chứng những điều bịa đặt làm tổn thương đến danh dự của người lính QLVNCH. Liễn ra tù sau cùng trong số sĩ quan của Lữ Đoàn 147 bị bắt tại bãi biển Thuận An vào ngày 12-2-1988 . Trong giấy ra trại chỉ để là cải tạo trung bình, không giống bất cứ giấy ra trại nào của mọi người khác. Rất anh hùng trong chiến đấu, bất khuất trong trại tù,sống chết với thuộc cấp trong những giờ phút hiểm nguy nhất của cuộc chiến
    Một cuốn sách có giá trị lịch sử, phải là một cuốn sách được viết bởi những người không thuộc phe phía nào. Những dẫn chứng vu vơ hoặc của vài tên hèn hạ "ăn cơm quốc gia, thờ ma cộng sản" như Phan Xuân Huy hay vài người nào đó đã phát biểu trong hoàn cảnh chẳng ai dám nói những gì khác hơn, ngoài những giáo điều cộng sản đều hoàn toàn không giá trị.
    Xin tất cả chúng ta, những nhân chứng còn sống lại trong thế hệ hôm nay, không chấp nhận những điều sai sự thật dù bất cứ hình thức nào.
    Qua quyển sách "Bên thắng cuộc" của tác giả Huy Đức là những viên thuốc đắng có bọc đường. Người đọc sẽ cảm nhận những tuyên truyền cho một chế độ gian ác, bên cạnh những quả bóng mù mờ, hư hư thực thực dễ dẫn dắt những người non nớt cả tin đi vào những điều không thật để rồi quên đi một quá khứ gian ác, đày đọa Quân, Dân, Cán, Chính QLVNCH qua mỹ từ “Học tập cải tạo”.
    Ai thắng ai trong cuộc chiến vừa qua. Nay sự thật lịch sử đã được minh chứng rõ ràng!!
    Hãy cẩn thận khi đọc quyển sách " Bên Thắng Cuộc" của tác giả Huy Đức
    MX Phạm văn Tiền 
    ĐĐ F Khóa 20 Đà Lạt
    ( Nguyễn Đắc Song Phương )


    Xem : Bên thắng cuộc – Chương II: Cải tạo – Phần 2 – Ngụy quyền, Ngụy quân


    -- VŨ THỊ PHƯƠNG ANH: ĐỌC BÊN THẮNG CUỘC, NGHĨ VỀ BÊN THUA CUỘC
    BTC của HĐ từ lúc gần ra đời đến nay đã làm xôn xao dư luận - nói như một học giả người Mỹ trong Vietnam Studies Group (từ ĐH Washington) thì cuốn sách là một sensation. Người khen thì rất nhiều, kẻ chê cũng không ít, nhưng dù yêu dù ghét thì mọi người đều phải đồng ý một điều: đây là cuốn sách đầy đủ nhất về lịch sử VN sau năm 1975, cho dù tất nhiên vẫn rất phiến diện, như chính tác giả cũng thừa nhận và dự liệu.



    Như rất nhiều người Việt khác ở trong và ngoài nước, tôi cũng háo hức tìm và đọc cuốn sách này. Vì cuốn sách rất dày, nên tôi chỉ mới lướt qua toàn bộ cuốn sách (Phần 1: Giải phóng) và đọc kỹ những phần mình quan tâm nhất, đó là những chương về cuộc sống ở SG sau năm 75, trong đó có các chương mà nhiều người khen hay như các chương Cải tạo, Đánh tư sản, Nạn kiều. Nhưng có lẽ không giống với nhiều người khác, tôi không có ấn tượng gì mấy về những chương vừa nêu. Những chi tiết trong các chương ấy đa phần tôi đã biết quá rõ và gần như có thể tự viết ra được mà chỉ dựa vào trí nhớ. Vì đó chính là một phần không bao giờ quên được của cuộc đời tôi.


    Trước khi "giải phóng", tôi chỉ là một đứa trẻ con chưa đầy 15 tuổi, nhưng sau ngày 30/4/1975 tôi đã từ vai trò một đứa con thứ trong gia đình (tôi thứ ba, có cả anh trai và chị gái, nên hầu như chẳng bao giờ được giao việc gì quan trọng) bỗng trở thành một trụ cột, khi anh chị tôi đi "di tản" theo dòng người đông nghẹt leo lên những chiếc tàu để chở quân nhân Mỹ rời VN vào chiều 29/4.  Ba tôi thì làm việc với chế độ mới không được bao lâu rồi xin tự nghỉ việc vì "mất sức lao động". Ông  vốn có bệnh glaucoma (cao nhãn áp) từ trước, đến sau 30/4 thì trở nặng, phải vào Bệnh viện Bình Dân vài lần, tôi và mẹ tôi phải nuôi bệnh khá vất vả, đặc biệt là những ngày sau năm 75 thiếu thốn đủ thứ. Ra viện, ba tôi có đi làm thêm ít lâu nhưng đi làm về rất căng thẳng, hay kêu nhức đầu (từ trước 1975 ông đã bị "thiên đầu thống" tức là đau nửa bên đầu) rồi cuối cùng làm đơn xin nghỉ việc.


    Lúc ấy, việc tự động xin nghỉ việc của ba tôi đã làm cho mẹ tôi có chút ít oán trách, vì không phải ai cũng được chế độ mới lưu dụng - thậm chí có thể nói là "trọng dụng" như ba tôi: ông là một công chức hành chính rất giỏi của chế độ cũ, tốt nghiệp Học viện Quốc gia Hành chính của VNCH, trước năm 75 làm việc tại Sở Thuế Quận 5 với chức vụ gì đó khá cao, nhưng sau năm 75 sau mấy ngày đi học tập (3 ngày?), ông vẫn được làm việc với chế độ mới. Tôi còn nhớ ông làm tại Phòng Thu Quốc Doanh thuộc Sở Thuế TP HCM với trụ sở đặt trên đường Đồng Khởi, chuyên phụ trách mảng thu thuế của các công ty sản xuất của tư nhân mới được chế độ mới tiếp quản; lúc ấy tôi còn đến đó một vài lần để đưa giấy tờ gì đó trong thời gian ba tôi nằm bệnh viện. Tôi vẫn nhớ trước khi ông quyết định nghỉ thì ba mẹ tôi có tranh cãi với nhau khá nhiều về điều đó, và mẹ tôi cố khuyên ông cố gắng đi làm vì con cái (lúc ấy là tôi) cần có lý lịch "cha (mẹ) làm việc cho nhà nước" để thi đại học, nhưng cuối cùng ông vẫn nghỉ và tôi đã đi thi đại học với cái lý lịch "mẹ buôn bán nhỏ, cha trước 1975 làm việc cho chế độ cũ, sau 1975 đi làm tại ..., đến năm 1977 nghỉ việc vì mất sức lao động."


    Mãi đến sau này, khi tôi quyết định nghỉ việc khỏi cơ quan cũ (cũng chính là trường đại học mà tôi đã thi vào, đậu, là sinh viên rồi sau đó được giữ lại làm giảng viên đến mấy chục năm) như một hành động phản đối (dù chỉ lặng lẽ và không nói ra cho ai biết), tôi mới nhớ lại hành động nghỉ việc của ba tôi hồi ấy, và tự hỏi, phải chăng ông đã quyết định nghỉ vì không thể chịu nổi những chính sách vô lý, vô nhân của chính quyền mới mà lúc bấy giờ ông phải cam tâm làm người thực hiện, và thậm chí phải đóng vai người tham mưu? Câu hỏi này không ai có thể trả lời cho tôi được, vì cũng như nhiều người thuộc bên thua cuộc còn ở lại VN sau năm 75, ông đã ra đi mang theo tất cả những suy nghĩ của ông về chế độ mới và thời đại mới xuống tuyền đài mà không kịp chia sẻ cho ai.


    Cũng vì rút hồ sơ để nghỉ việc nên tôi mới có dịp nhìn thấy trên tờ khai lý lịch đi thi đại học của tôi đã được cán bộ tuyển sinh năm ấy ghi chú ở trên là "con ngụy quyền". Chẳng rõ dòng chữ ấy trên lý lịch có làm ảnh hưởng gì đến "sự nghiệp chính trị" của tôi không, chỉ biết sau khi ở lại trường thì tôi luôn bị lẹt đẹt, chậm chạp hơn những bạn bè cũng lứa trong việc xét biên chế chính thức, xét tăng lương, xét cử đi học, vv. Nhưng cũng chẳng hiểu tại sao tôi chưa bao giờ thắc mắc về những điều ấy cả, mà luôn chấp nhận đương nhiên bị đối xử tệ hơn, "vì mình là con ngụy, lý lịch lại xấu, anh chị đi di tản, định cư ở Mỹ" mà. Tôi luôn nghĩ như tôi mà được đi học, lại có việc làm trong nhà nước (thay vì phải đi buôn bán ở chợ như nhiều người khác cùng lý lịch), thì dù có bị kỳ thị đôi chút (!), lẹt đẹt đôi chút, cũng là đương nhiên, và thực ra là may mắn lắm rồi!


    Nói thẳng thừng ra, thì chúng tôi còn sống sót đã là may, vì chúng tôi là bên thua cuộc!


    Vâng, suốt mấy chục năm đó từ ngày 30/4/1975, ở phía bên thua cuộc là tôi và gia đình tôi, rồi các chú, các bác, cô dì cậu mợ và con cháu của họ hàng tôi và sau này là gia đình ông xã tôi - vốn là một TNXP, đi theo lời kêu gọi của ông VVK để tìm cách gột rửa lý lịch như HĐ đã viết trong chương về thanh niên xung phong - có biết bao nhiêu là bi kịch đã xảy ra. Bà con tôi, bạn bè tôi và hàng xóm tôi có rất nhiều người phải đi học tập cải tạo, có người trốn trại cải tạo bị bắn chết, có người đi vượt biên bị bắt, khi công an còng tay đã nhảy xuống biển chết, có người đi vượt biên bị mất tích cả gia đình, có người bị đánh tư sản, tịch thu nhà cửa, mất toàn bộ gia sản nên phát điên, suốt ngày đi lang thang, nói năng lảm nhảm.  Ông xã tôi sau khi đi TNXP được ít lâu bị đưa sang Campuchia khi đang chiến tranh thảm khốc, khi ba chồng tôi bị bệnh mất thì ông xin phép về chịu tang cha rồi bỏ đi vượt biên luôn nhưng không thành, bị cắt hộ khẩu, cũng đã có lúc phải lê la ở chợ trời buôn bán thuốc tây.


    Tôi và đứa em kế cũng đã từng được cha mẹ cho làm đơn đi "bán chính thức", đóng tiền mỗi người cả chục cây vàng (chả biết do ai mách bảo, dẫn mối), nhưng vừa mới đi đến Vũng Tàu (giả dạng làm khách du lịch) thì được báo là "động, không xuống ghe được" nên lại về chờ. Rồi ngay sau đó là vụ rồi chìm tàu ở SG (không rõ có phải là vụ Cát Lái trong sách của HĐ không?), vụ này tôi cũng biết rõ, vì lúc ấy ở khu Ông Tạ, Xứ An Lạc có nguyên cả một HTX đan len gồm mấy chục gia đình với cả trăm nhân mạng cùng đi và mắc nạn trong chuyến đi định mệnh ấy. Các xác chết được nhận về, đem về Nghĩa trang Chí Hòa (bây giờ là Công viên Lê Thị Riêng) "người nào người nấy đã trương lên, to như con bò", tôi nghe mấy đứa hàng xóm kể như vậy khi chúng rủ nhau lên nghĩa trang để xem, chúng rủ cả tôi nhưng tôi sợ ma, không dám đi.  Khăn tang trắng cả một xóm, rất thê lương. Chính vì vụ này mà ba tôi ngừng hẳn không còn bao giờ dám nghĩ đến chuyện cho con cái đi vượt biên nữa, nên tôi vẫn còn ở VN đến tận bây giờ.


    Sau này, mỗi khi có dịp nghĩ đến những sự kiện đã xảy ra, thỉnh thoảng tôi vẫn tự hỏi, những nạn nhân xấu số của bên thua cuộc ấy đã nghĩ gì, và cảm nhận những gì, trong những phút giây đau đớn cuối đời?


    Nhưng rồi thì người ta cũng phải quên đi để mà sống. Trong số bạn bè có lý lịch thuộc "phía bên kia" giống tôi (có lẽ phải khá hơn tôi một chút, vì ngoài việc thuộc về phe thua cuộc thì tôi còn là Bắc di cư, Công giáo,  cha ngụy quyền, anh chị di tản), cũng có những người sau này vào Đảng, nắm giữ những chức vụ quan trọng. Nhiều người cố gắng học hành để đi làm cho công ty nước ngoài khi VN bắt đầu mở cửa, lương bổng tử tế, cuộc sống khá ung dung. Một số không nhỏ đi định cư ở nước ngoài theo diện HO của cha sau khi đi cải tạo về, hoặc lấy chồng, lấy vợ là con của những người HO và sau đó được bảo lãnh để đoàn tụ gia đình. Mọi việc rồi cũng nguôi ngoai, cuộc sống cứ tiếp diễn, bạn bè, đồng nghiệp, sui gia có nhiều người thuộc phe chiến thắng, là Đảng viên ĐCS ... Tưởng như cuộc chiến đã hoàn toàn qua đi, sự chia rẽ giữa những người Việt thực sự đã không còn... Mà cũng chẳng ai muốn nhớ đến hoặc nhắc đến những ngày tháng đen tối ấy để làm gì. Chỉ giữ ở trong lòng, vì nó là một phần cuộc đời mình, thế thôi.


    Không ai trong chúng tôi lại có thể ngờ có ngày những ký ức và sự kiện lịch sử ấy lại được một người từ bên thắng cuộc viết ra. Những dòng chữ trong cuốn sách của HĐ được tác giả viết bằng giọng văn rất bình thản, khách quan, chẳng thấm vào đâu so với những ký ức đầy cảm xúc của chúng tôi, những người đã thực sự phải trải nghiệm những thí nghiệm của một chế độ mới đối với những người anh em thua cuộc của họ. Nhưng cũng chính vì giọng văn bình thản đó mà những sự vô lý đến không thể tưởng tượng và không thể tin được của những chính sách sau ngày "giải phóng" mới càng lộ rõ. Những thông tin trong cuốn sách không làm tôi xúc động - vì chăc chắn các chi tiết mà tôi có thể kể ra từ kinh nghiệm cá nhân còn lâm ly và kỳ bí hơn nhiều - mà chỉ làm cho tôi thắc mắc, không biết đến bao giờ thì những người anh em thắng cuộc mới thực sự hiểu  đầy đủ những người thua cuộc, và ý thức rõ những điều phi nghĩa, phi nhân mà họ đã làm đối với những người anh em kém may mắn của họ?


    Nếu bên thắng cuộc không chịu thực tình tìm hiểu và không chân thành nhận lỗi, thì sẽ không bao giờ có sự hòa giải thực sự.


    Để tồn tại, những người thua cuộc đã phải chấp nhận - dù muốn dù không - từ đó đến nay, đã cố nguôi ngoai để quên đi và chung sống, nên chắc chắn họ không cần sự hòa giải này. Giờ đây, những người thực sự cần hòa giải phải là bên thắng cuộc chứ không bao giờ là bên thua cuộc nữa. Bên thắng cuộc chỉ có một cơ hội duy nhất để có thể dễ dàng có được sự hòa giải thôi, đó là có sự độ lượng và công bằng đối với bên thua cuộc ngay khi họ vừa chiến thắng.


    Vì khi đối xử bất công, và thực hiện chính sách trả thù với bên thua cuộc, lại trong suốt một thời gian dài như vậy, thì bên thắng cuộc đã cho phép bên thua cuộc tự giải thoát khỏi nỗi đau thua cuộc của mình bằng sự khẳng định chắc chắn rằng phe thắng cuộc chẳng qua thắng được  là vì họ tàn ác hơn. Nỗi đau thua cuộc đã được gột rửa bằng niềm tự hào rằng chính mình mới là người có chính nghĩa.


    Và tôi tự hỏi, liệu ai sẽ là người đầu tiên viết lên những trang sử VN đương đại từ cái nhìn phía của những người thua cuộc đây?
    VTPA

    Nhân đọc Bên Thắng Cuộc của Osin Huy ĐứcPhần I. (Anh Gau Pham)



    Nếu chúng ta không thể


    Làm chiếc bút chì màu


    Để vẽ nên hạnh phúc


    Cho những người buồn đau.






    Thì chí ít, hãy cố


    Làm chiếc tẩy, hàng ngày


    Giúp xóa sạch khỏi họ


    Những nỗi buồn đau này.

    (Thơ Thái Bá Tân)



    (Tôi đã sửa lại bài viết cho đỡ luộm thuộm. Tại đêm qua phải giặt tay hơi mệt.)

    Ngày hôm qua tôi đã đọc xong bản điện tử của quyển một (Giải Phóng) của bộ sách mới của anh Huy Đức với tựa đề Bên Thắng Cuộc gần như liên tục trong vòng 9 tiếng. Chủ đề của cuốn sách, những vấn đề mà nó xem xét cũng là những điều làm tôi suy nghĩ vương vấn trong đầu nhiều năm nay.

    Là một nhà báo năng động và thành công ở Sài Gòn trong giai đoạn Việt Nam đổi mới, anh Huy Đức có lợi thế gần như không ai có được ở khả năng tiếp cận với các cá nhân đã từng hoặc vẫn đang là giới chức cao cấp hàng đầu của CHXHCN Việt Nam và các nhân sỹ, trí thức và cựu quan chức của Việt Nam Cộng Hòa. Khả năng ngoại ngữ và góc nhìn hướng ngoại của anh cũng giúp anh gặp gỡ với các nhân vật Mỹ có liên quan tới giai đoạn lịch sử thời chiến tranh Việt Nam. Nhờ những lợi thế này anh Huy Đức đã gom góp được một nguồn sử liệu khổng lồ từ các trao đổi cá nhân thu thập từ chính nhân vật lịch sử. Các thông tin nguồn chính này kết hợp với các nguồn tham khảo đồ sộ mà tác giả sử dụng tạo dựng cho cuốn sách này vị thế của một tác phẩm kinh điển tức thì về lịch sử Việt Nam. Tôi tin rằng hàng chục năm nữa người ta vẫn sẽ còn tiếp tục trích dẫn từ cuốn sách này.

    Anh Huy Đức không được đào tạo về những phương pháp hiện đại nghiên cứu và tái dựng lịch sử. Anh cũng không được đào tạo bài bản và chuyên nghiệp về báo chí mà đã tự học lên từ thực tế công việc. Biết vậy tôi càng cảm phục hơn tinh thần và nỗ lực làm việc nghiêm túc mà tác giả đã đổ vào tác phẩm đồ sộ này. Tôi dễ dàng cảm nhận thấy từ giọng văn bình thản, lối trình bày thông tin, dữ liệu tương đối cân bằng; cách tác giả không sa đà vào phân tích; cách đặt tên các tựa đề và đề mục là tác giả đã bỏ công nghiên cứu cấu trúc và phương pháp viết sử tương đối khoa học của các tác giả Mỹ viết sử Việt Nam như Stanley Karnow (Vietnam: A History), William Duiker (Ho Chi Minh: A Life), Sophie Quinn-Judge (Ho Chi Minh – The missing years). Tôi tin cuốn sách này đã xác lập chắc chắn vị trí của anh Huy Đức trong số những người viết sử Việt Nam hàng đầu

    Tôi muốn nhấn mạnh nhận xét về cách tác giả không sa đà vào phân tích. Điểm này đặc biệt ở chỗ nó khác hoàn toàn văn phong báo chí đã trở nên quen thuộc của chính tác giả. Giống phần lớn người viết Việt Nam học và làm nghề viết trong môi trường không đề cao kỹ năng viết, nhà báo Huy Đức có xu hướng mắc phải những lỗi lập luận đơn giản mà một nhà báo phương Tây chịu sự kiểm tra kỹ càng của công chúng ít mắc. Tôi sơ cử ra hai lỗi đã thấy ở anh Huy Đức: một là trích dẫn một nguồn uy tín và coi đó nghiễm nhiên là sự thật và hai là xuất phát từ định kiến có sẵn khai triển lập luận. Tôi cảm thấy vui mừng khi cảm nhận thấy anh Huy Đức đã áp dụng một cách thức trình bày và phân tích thông tin dữ liệu cân bằng, khách quan và bình thản. Cách tác giả đưa ra một lượng thông tin ngồn ngộn rồi để độc giả tự nghiền ngẫm và quyết định cách phân tích và cảm nhận theo tôi là cách tốt nhất khi viết về một vấn đề vẫn còn gây tranh cãi, chia rẽ, xung đột, và kể cả thù hằn là vấn đề chiến tranh Việt Nam.


    Tuy vậy, sẽ là nhầm lẫn nếu suy luận từ sự thiếu vắng phân tích của chính tác giả trong tác phẩm để cho rằng tác giả không có thái độ cụ thể về chủ đề của tác phẩm. Thái độ của tác giả là gì trong trường hợp này là một thứ ý tại ngôn ngoại. Trong hoàn cảnh hiện nay ở Việt Nam, gần như tất cả các vấn đề mà tác giả đề cập đến (cải cách ruộng đất, học tập cải tạo, cải tạo tư sản, vượt biên có bảo lãnh) vẫn còn là những vấn đề cấm kỵ bị tránh né (dù nhiều điều đã là các bí mật mở). Việc tác giả tấn công trực diện từng vấn đề, nêu đích danh tên từng nhân vật, nhiều người vẫn còn sống còn quyền sinh quyền sát thể hiện một thái độ dũng cảm đáng kính trọng của tác giả. Sự dũng cảm này còn được thể hiện trong việc tác giả lựa chọn tự xuất bản sách qua kênh cá nhân như cách tuyên bố về sự độc lập, sự tự chịu trách nhiệm. Đây cũng là một sự cẩn trọng cần thiết đối với một người viết độc lập để giữ được uy tín với công chúng nhằm chống lại những buộc tội vô cớ chắc chắn sẽ đến về việc tác giả bị mua chuộc bởi các thế lực. Thái độ của tác giả trong trường hợp này có thể được so sánh như ý đồ của một nhiếp ảnh gia trưng bày ra một hình ảnh tĩnh của thực tại. Mỗi góc nhìn, mỗi chi tiết được nhấn mạnh, dưới ánh sáng nào, mầu sắc ra sao vv đều được tính toán kỹ và có lý do. Mỗi người chắc sẽ có cảm nhận khác nhau về thái độ của tác giả. Ấn tượng của tôi là về một thái độ tôn trọng sự thật rất đáng cảm phục và học tập.

    Khi nhắc đến thái độ tôn trọng sự thật rất “đáng học tập” của tác giả, tôi đã để lòi ra một cái đuôi về một xuất thân giống với tác giả là cùng lớn lên dưới mái trường xã hội chủ nghĩa. “Đáng học tập” hay “đáng biểu dương” hay “nêu gương” là những lời lẽ định hình chỉ trong môi trường thi đua phấn đấu của trường học xã hội chủ nghĩa. Sự tương đồng này dẫn dắt tôi đến một điểm khác đáng chú ý là việc tác giả là một trong số rất ít những người từ “bên thắng cuộc” đưa ra một góc nhìn khác về chiến tranh. Thời nay là lúc lý tưởng cách mạng trong xã hội Việt Nam ta đã nhạt nhòa và người ta không phải quá o ép lời ăn tiếng nói vì thế từ người bình dân tới cán bộ cao cấp ai ai cũng có thể nói những lời xét lại về quá khứ mà không sợ bị trừng phạt. Tuy thế việc viết ra một cách có hệ thống các quan điểm xét lại này vẫn là điều không được chấp nhận. Một vài người viết như Bảo Ninh với Nỗi buồn chiến tranh, Dương Thu Hương với các suy tư về ngày 30/4/1975 đã gặp rắc rối vì các quan điểm xét lại. Để Huy Đức - một người lớn lên trong xã hội ưu việt miền Bắc, từ nhân dân cần lao mà ra, được giáo dục từ trong trứng nước về tư tưởng anh hùng xã hội chủ nghĩa và tính tất thắng của phe ta, lại từng là lính chiến đấu phụng sự sự nghiệp cách mạng cao đẹp - viết được một tác phẩm xét lại thế này cần một nỗ lực lớn hơn nhiều lần so với một học giả nước ngoài hay “phe họ”. Để một cá nhân đã được lập trình cho quen với vị thế tiện lợi của người chiến thắng, người đúng, phe chính nghĩa phải suy nghĩ lại, phải phân tích duy lý về vị thế đó và nếu thấy cần thì rời bỏ nó đòi hỏi những hoàn cảnh, hiểu biết, tính cách cá nhân nhất định. Một yếu tố quan trọng cần có nhưng khó có ở miền Bắc là óc tư duy phê bình. Những người như anh Huy Đức, như tôi, như thế hệ của chúng tôi lớn lên chỉ được tiếp xúc với thông tin một chiều và sự thật một chiều. Sự thật được đóng gói sẵn, cần là có, rất tiện lợi và ngon lành, việc gì mà phải đi tìm ở đâu nữa? Trong cái hang của Plato được giữ đóng và kín này thì lấy đâu ra hạt giống cho những suy tư khác, cho sự nghi ngờ về việc có tồn tại một thế giới khác bên ngoài hang? Cái nỗ lực của con kén phải rùng mình chui ra khỏi cái vỏ kín tối thực sự là đau đớn. Ngoài ra việc anh Huy Đức mới chỉ là cậu bé 13 tuổi khi kết thúc chiến tranh không có trải nghiệm trực tiếp trong cuộc chiến nhưng vẫn chuyển mình đủ để sau này trình bày gẫy gọn, súc tích, bình thản về những nỗi buồn chiến tranh là một tấm gương tôi thấy đáng học tập.

    Trở lại câu hỏi về hạt giống nào của sự thật, trong hoàn cảnh như thế nào đã khởi động quá trình một người thắng cuộc bắt đầu nghi ngờ về vị thế siêu việt của mình. Tôi cho rằng hạt giống của sự thật thường đến trong hình hài của những mâu thuẫn. Suy nghĩ này làm tôi nhớ đến câu cách ngôn đại ý nếu cứ nói thật thì khỏi cần phải nhớ đã nói gì. Trong thực tế cuộc sống thì những thứ không phải là sự thật hoặc chỉ là sự thật một chiều – tôi định nghĩa là thứ sự thật quy ước cục bộ – sẽ bị thách thức khi không gian quy ước cục bộ bị phá vỡ. Sẽ xuất hiện những bằng chứng về sự mâu thuẫn giữa những thứ không phải sự thật, sự thật cục bộ, quy ước với những sự thật toàn cục kiểm chứng được. Những bằng chứng mâu thuẫn sẽ khiến người ta xem xét lại hệ thống niềm tin sẵn có của người ta. Nhưng trên thực tế để đi từ chỗ bắt đầu xem xét tới chỗ có niềm tin mới là một quá trình rất dài lâu và khó khăn, càng khó hơn trong môi trường thiếu thông tin có sự kiểm soát, áp đặt tư tưởng.

    Đối với anh Huy Đức, Dương Thu Hương và cả tôi những bằng chứng mâu thuẫn đầu tiên đến từ chính bên thua cuộc. Những gì chúng tôi được dạy về họ không giống những thứ chúng tôi quan sát được ở họ. Anh Huy Đức, trong tác phẩm này, vừa trực tiếp vừa định hướng, đã đưa ra một số lượng khổng lồ các bằng chứng loại này. Mỗi người đọc có thể tự suy ngẫm và so sánh với niềm tin riêng của mình. Sự thay đổi về niềm tin nếu có phải là một hành trình cá nhân.

    Mười tám năm trước có lần tôi tranh luận mười mấy tiếng đồng hồ với một người bạn nước ngoài về vấn đề học tập cải tạo sau chiến tranh. Người bạn đó có một người bạn Việt Kiều ở Thụy sỹ tên là Loan; cha cô Loan đã đi học tập hơn 10 năm. Người bạn tôi nói rằng việc tập trung cải tạo giam giữ lâu dài như thế là không cần thiết và vô nhân đạo. Tôi, bên thắng cuộc, nói rằng người chiến thắng đã hy sinh quá nhiều để giành chiến thắng và có quyền bảo vệ chiến thắng đấy. Bảo vệ chiến thắng bằng cách cho đối phương học tập cải tạo là lựa chọn tử tế và nhân đạo hơn so với việc giết họ đi. Tôi cũng nói đám người vượt biên là đám ô nhục bỏ tổ quốc ra đi vì lý do kinh tế. Cuộc tranh luận bất phân thắng bại kết thúc bằng việc hai bên không ai chịu ai đều khóc. Sau khi lớn lên được tiếp xúc với nhiều nguồn thông tin và nhân vật lịch sử của cả hai bên, được đọc nhiều sách vở bằng ngoại ngữ, rồi được qua Mỹ học về hành chính và qua đó thu thập được những công cụ phân tích cơ sở, tôi đã dần dần tự luận ra được nhiều điều. Giờ đây nhiều năm sau tôi tự cảm thấy đã có những niềm tin khác cân bằng và ôn hòa hơn. Là người sinh ra sau chiến tranh, gia đình không mất ai trong chiến tranh, hiện không hoạt động chính trị hay tham gia đảng phái nào (tôi cũng chỉ có một đảng là đảng Việt Nam), dựa trên những hiểu biết tự thu thập và xử lý, với tuyên bố rằng không ai mua chuộc hay ép buộc tôi, tôi nói nhân danh cá nhân tôi rằng những gì đã xảy ra, đặc biệt trong thời hậu chiến, như anh Huy Đức đã kể ra rành mạch trong tác phẩm này của anh, quả thực là quá oan ức và đau khổ cho miền Nam. Vì điều đó nhân danh chỉ cá nhân tôi tôi muốn được xin lỗi.


    – Nhân đọc Bên Thắng Cuộc của Osin Huy Đức (II)

    Lâu lắm khi viết lách không xưng tôi nên hôm qua lúc viết phần I thấy gượng gạo quá. Hôm nay quay lại xưng mình cho nó giống anh Lành.

    Trong phần này mình ghi chép lại một số suy nghĩ cụ thể gợi mở bởi nội dung của Bên Thắng Cuộc.

    1.    Người hành quyết bao dung

    Cuốn sách khởi đầu với hình ảnh cụ Kiệt trong những giờ phút cuối cùng chuẩn bị vào Sài Gòn ngày 29-30/4-1975. Sau đó cụ xuất hiện thường xuyên trong suốt chiều dài cuốn sách với tần suất đủ cao để coi cuốn sách là một biên niên sử về cụ. Tuy nhiên, tác giả không bắt cụ phải phát biểu những lời quyền uy, hiệu lực như trong các bài báo ngắn mà đưa ra một hình tượng VVK rất con người, rất có lý mà cũng lại rất có tình. Việc này giúp khẳng định lại một lần nữa hình ảnh VVK tích cực trong lòng quần chúng nhân dân.

    Ấn tượng mình thu nhận được về VVK là về một vị lãnh đạo bao dung, sẵn sàng bắt tay, nâng đỡ những người mà xã hội lúc bấy giờ xua đuổi. Có khoảng vài chục ví dụ về VVK tham vấn, hỗ trợ, nâng đỡ các trí thức cũ bằng cách cho người ta công ăn, việc làm, thực phẩm, dìu dắt con người ta, mở rào cho con cái người ta đi ra nước ngoài; VVK giúp cho các đôi yêu đương có vấn đề về lý lịch được cưới nhau; VVK thành lập lực lượng thanh niên xung phong rồi tổ chức đám cưới cho một đôi, vv.

    Sau khi đọc một vài mẩu chuyện về VVK thì mình bắt đầu suy nghĩ là mặc dù ông có lẽ đúng là một người bao dung, nhân hậu nhưng ông đồng thời cũng là người có trách nhiệm chính tạo ra những khó khăn cho những người mà giờ ông đang phá rào để giúp đỡ. Đành rằng nhiều chủ trương rất lớn ví dụ như tập trung học tập cải tạo là do trung ương quyết định và ông dù muốn cũng không đảo ngược được xu thế nhưng đồng thời chính ông cũng là người chủ trương hoặc người quyết định mức độ thực hiện một số chính sách khác làm điên đảo cuộc đời người ta. Sau chừng dăm mười truyện kể để minh họa hình ảnh ông Thiện VVK mình bắt đầu nghĩ tới hình ảnh người hành quyết khoan dung lấy miếng vải lau sạch cái lưỡi đao để tránh nhiễm trùng cho người sắp bị chém đầu. Nói thế thì nghe có vẻ nặng nề nhưng đúng thực là ông VVK không thể nào ra một quyết định chính sách mà sau đó không quay lại tạo ra một ngoại lệ đối xử cho người này người khác. Có một mẫu hình lặp đi lặp lại từ cả những ví dụ trong sách này và những giai thoại ngoài đời (vụ đường dây 500KV, vụ Dung Quất) mà ở đó người ta thấy VVK hoặc là một người tiền hậu bất nhất không thể không xoay xở một chút với các chính sách ngay cả do chính ông đưa ra hoặc là một kịch sỹ, một chiến sỹ dân vận địch vận có tài. Chắc chắn ông không thể không biết về ấn tượng ông tạo ra cho quần chúng như một người ôn hòa và khoan dung với đối phương, với phía bên kia, viên cảnh sát hiền trong trò chơi good cop bad cop. Mình có nghi ngờ là VVK chỉ chờ chính sách bắt đầu có hiệu lực (tạo ra khó khăn cho ai đó) để cụ bắt đầu ra tay cứu giúp, hỗ trợ người ta và việc này mang lại cho cụ nhiều cảm giác sảng khoái.

    Rất nhiều chính sách tạo ra và thực hiện ở SG thời hậu chiến có tác dụng lập tức đẩy nhiều người vào chỗ chết. VVK trong vai trò là lãnh đạo cao nhất của thành phố không thể được coi là bị động hay không liên quan. Hình ảnh ông Thiện VVK mà tác giả trình ra chỉ thể hiện một mảng nhỏ về con người lãnh đạo VVK, có lẽ chỉ là một thứ thú vui kiểu mèo khóc chuột của ông.

    2.    Tập trung dân chủ / Dân chủ tập trung (38/83/83/38)


    Cuốn sách đưa ra thêm nhiều bằng chứng để khẳng định lại một nghi ngờ của mình rằng lãnh đạo Việt Nam lúc đó không biết phải làm gì với miền Nam sau chiến tranh. Nói cách khác, họ hoàn toàn không có một kế hoạch hậu chiến kỹ càng. Đi xa thêm một bước mình cho rằng kể cả nếu như họ đã có một kế hoạch hậu chiến thì kế hoạch đấy cũng sẽ bị sai do những nhược điểm căn bản của quy trình ra chính sách.

    Thực vậy, nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt Đảng đại loại cho phép người ta được thảo luận nhưng cuối cùng thì mọi quyết định vẫn là do một người là bí thư Đảng đưa ra. Điều này đúng từ chi bộ cơ sở lên tới tận trung ương. Ở trung ương thì quyền lực của cụ Tổng bí thư, ở đây là đồng chí Lê Duẩn, lại càng là tuyệt đối. Mọi chính sách quan trọng đều do đồng chí tùy ý quyết định cả. Đành rằng đồng chí cũng có bí thư nọ, trợ lý kia nhưng những người này chỉ đưa ý kiến để đồng chí tổng bí thư tham khảo chứ quyết định cuối cùng vẫn là của đồng chí. Đồng chí càng lớn tuổi thì quyền lực của đồng chí càng mạnh trong khi cùng lúc đó sự tỉnh táo, minh bạch trong suy nghĩ, khả năng nắm bắt thực tế thay đổi của đồng chí lại càng đi xuống.

    Tác giả cung cấp rất nhiều ví dụ về cung cách quản trị bằng mệnh lệnh, chỉ thị và cách mà những sự tùy thích của cá nhân lãnh đạo thông qua chính sách đã đày đọa người dân ra sao. Sự thiếu chuẩn bị cho thời kỳ hậu chiến gây ra việc các chính sách đưa ra thường chỉ tính đến những hiệu quả tức thời, ngắn hạn, mang tính đối phó với những vấn đề bức xúc trước mắt. Những quyết định được đưa ra bởi trung ương có tính toán đến một số báo cáo mà địa phương gửi lên, nhân sự cao cấp của trung ương có đi thực tế đôi chút (chuyến thăm của Tố Hữu) nhưng chủ yếu là để truyền đạt mệnh lệnh, chỉ thị, chứ không có thực tâm, thành ý tìm hiểu tình hình thực tế. Các chỉ thị chính sách thường gửi qua đường điện tín, ngắn ngủi và sử dụng thứ ngôn ngữ lờ mờ thiếu chính xác (ví dụ: cứ theo hướng đấy mà làm nhưng đồng thời phải đảm bảo làm sao cho người dân được an tâm ổn định cuộc sống). Như vậy là giữa chính sách và cái thực tế mà chính sách cần điều chỉnh có khoảng cách rộng và xa, cung cách ra quyết định chính sách tùy ý thích của lãnh đạo làm cho khoảng cách đó càng rộng và xa hơn nữa.

    Tác giả có đề cập đến một cuộc trò chuyện với ông Hoàng Tùng trong đó ông có nói rằng phải xem xét các quyết định trong hoàn cảnh lịch sử của thời kỳ đó chứ giờ là lúc Liên Xô đổ rồi mà nói thì thấy thời đó ấu trĩ lắm. Điều này như một nguyên tắc, tức là phải xem xét giải thích mọi sự trong hoàn cảnh riêng của chúng, thì đúng nhưng không thể dùng làm một thứ lập luận biện minh, bao phủ để xóa bỏ hết mọi trách nhiệm của cá nhân hay tập thể. Ngay cả vào những tình huống khó khăn, cấp bách nhất thì cũng vẫn có các lựa chọn chính sách, ngay cả khi đã ra chính sách rồi vẫn có sự linh hoạt nhất định trong thực hiện chính sách. Trong trường hợp chúng ta đang xem ở đây thì cả quy trình ra chính sách và thực hiện chính sách đều sai.

    Ở đây mình nhớ đến một thảo luận dai dẳng trong kinh tế phát triển về quan hệ giữa dân chủ và phát triển, liệu sự tự do chính trị có giúp phát triển kinh tế, nâng cao mức sống người dân hay không. Nghiên cứu cho thấy không kết luận được về tương quan giữa dân chủ và tăng trưởng, trong khi có những quốc gia dân chủ phát triển tốt thì cũng có những quốc gia dân chủ không phát triển; đồng thời với các quốc gia không dân chủ không tăng trưởng cũng có các quốc gia ít dân chủ tăng trưởng tốt. Ví dụ cho nhóm cuối cùng này mà người ta hay nhắc đến là Trung Quốc và Singapore. Mức độ dân chủ được đo bằng việc độc đảng hay đa đảng và có tồn tại bầu cử tự do hay không, vv.

    Cá nhân mình lâu nay suy nghĩ và không coi nặng hình thức dân chủ bằng bản chất dân chủ. Đối với mình vì thế có một đảng cầm quyền hay nhiều đảng thì cũng không quan trọng bằng việc quá trình ra chính sách phải được nâng lên đặt xuống bởi nhiều người, phải cho phép có nhiều ý kiến khác nhau, đặc biệt đề cao ý kiến chuyên gia. Với cách hiểu đấy thì Singapore và ở một mức độ thấp hơn là cả Trung Quốc về hình thức là các quốc gia kém dân chủ nhưng lại có quy trình xem xét và tạo lập chính sách mang tính dân chủ. Đặc biệt ở Singapore nơi đề cao kỹ trị thì quy trình ra chính sách lại càng đề cao ý kiến chuyên gia và dữ liệu tham khảo và quyết định chính sách cuối cùng phải được hỗ trợ hợp lý bởi nghiên cứu chứ không phải bởi sự tùy tiện, bốc đồng, sở thích cá nhân, hay một nghị trình chính trị.

    Như vậy nếu so sánh thì Singapore và Việt Nam ta thời sau chiến tranh về hình thức thì đều là các quốc gia độc đảng không có bầu cử tự do, tức là các quốc gia không dân chủ; nhưng nếu nhìn sâu hơn chút nữa thì ta sẽ thấy có sự khác biệt đặc biệt quan trọng là quy trình ra chính sách: bên Sing thì có một quy trình dân chủ còn bên ta thì không.

    Mình cảm nhận thấy nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt đảng có lẽ là nguyên nhân trực tiếp nhất gây ra tình trạng tóe loe ở miền Nam sau chiến tranh. Nói không ngoa là mỗi lần bác Duẩn hắt hơi xổ mũi, bác thay đổi chính sách một tí (cho chúng mày trả tiền mà mua đường ra, thích đi tao không giữ) là lại có một đám người Nam chết thảm ở đâu đó ngoài biển.

    Ở ta hôm nay quy trình lập chính sách vẫn chưa tiến bộ nhiều hơn thời trước. Điểm khác biệt lớn nhất giữa xưa và nay là xưa thì người ta đuổi theo một tương lai cách mạng xã hội dân chủ nhân dân, giờ thì người ta chạy theo lợi, còn thì cách ra quyết định vẫn là tùy ý. Người lãnh đạo cần nhận thức ra tầm quan trọng của việc sử dụng các nhóm phân tích chính sách sử dụng các công cụ chính sách mạnh để hỗ trợ cho việc ra chính sách. Điều này ở cấp trung ương người ta có thể đã làm tuy hời hợt nhưng ở cấp tỉnh xuống tới địa phương thì nói chung mình không có hy vọng gì.

    Phần này vì thế là ôn cố để mà tri tân.

    3.    Vượt biển và kế toán con người

    Trong khi đọc sách của anh Huy Đức thì những chi tiết làm lòng mình tan nát nhất chính là số liệu về người chết. Sau chiến tranh nhiều người miền Nam tiếp tục chết vì các nguyên nhân không tự nhiên trong đó số lớn nhất là vì vượt biển.

    Hôm qua mình đọc được trên status của Nguyễn Thanh Sơn trích đoạn thơ Don Juan của Byron do Thái Bá Tân dịch có câu: Hạnh phúc trong chiến tranh là tàn phá. Mình cho là cái ý này có thể áp dụng cho thời kỳ hậu chiến ở miền Nam. Thời đó nhiệm vụ được ưu tiên là phá chứ không phải là xây. Muốn xây chế độ mới thì trước hết phải cần phá chế độ cũ, nền tảng cũ, cơ chế cũ. Trong cái xu thế lớn đấy thì cái sinh mạng người cũ chẳng có nghĩa lý gì.

    Sau khi PA2 tức chủ trương bán giấy phép vượt biên hợp pháp thu vàng bị dừng lại, ban 69 là ban được tạo ra để xem xét lại quá trình thực hiện chủ trương này ghi chép lại là trong một khoảng thời gian ngắn ngủi có 1000 người chết trong các tai nạn thuyền bè vượt biên. Một thuyền được sửa chữa vội vàng từ tầu kéo, bỏ qua hết các phần an toàn, chìm ngay ở bến Cát Lái ngoại ô SG khiến 277 người chết cùng một lúc. Con số người chết kinh hoàng này xảy ra trong chỉ một vụ của hàng ngàn vụ tai nạn khi vượt biển khiến hàng trăm ngàn người chết cho tới tận đầu những năm 90.

    Khi lớn lên ở miền Bắc mình được dạy là đám người vượt biên là những kẻ chống chế độ, tham lam vật chất, đời sống bơ thừa sữa cặn ở nước ngoài nên bỏ nước ra đi. Mình căm ghét những kẻ đấy, không có thương tiếc gì cả. Năm 1985 có mẹ đứa bạn cùng lớp ở Hà Nội vượt biên không thoát bị giam một thời gian xong được thả về. Bạn bè thì thào là mẹ bạn đó đi bị hiếp ở trên thuyền, mình từ sau đấy không nói chuyện với bạn đó nữa.

    Suy nghĩ của mình thay đổi nhiều từ lúc vào SG lần đầu, mua và đọc sách vở từ thời SG cũ, tiếp xúc với bạn bè người Nam, và sau này qua Mỹ là đọc các ghi chép của người vượt biển. Về sau mình có một thời gian làm việc với người tị nạn Sudang ở văn phòng Tổ chức Di trú Quốc tế ở Cairo. Trong các cuộc phỏng vấn để quyết định xem một người/gia đình Sudan có thể được chấp nhận định cư ở nước thứ 3 không thì người phỏng vấn phải xác định xem liệu người đó muốn ra đi vì lý do chính trị (bị áp bức, ra đi tìm kiếm tự do) hay vì thuần túy vì lý do kinh tế. Trải nghiệm này cho mình cơ hội suy nghĩ kỹ về thân phận những người tị nạn đồng bào của mình để quyết định được rằng đa số họ lúc đó ra đi là để tìm kiếm tự do. Thiểu số còn lại ra đi vì lý do kinh tế mình cũng thấy không có điều gì phải khinh ghét họ như mình khi trước. Chẳng phải chính Bác Hồ kính yêu của mình đã trích dẫn Tuyên ngôn Độc lập Mỹ: người ta ai ai cũng có quyền mưu cầu hạnh phúc? Họ ra đi vì điều kiện kinh tế tốt hơn để mưu cầu hạnh phúc thì cũng đâu phải là điều gì sai trái.

    Sự ra đi nào cũng có ai yếu tố push và pull – đẩy và kéo. Đời sống tự do, vật chất cao hơn ở phương Tây là cái yếu tố kéo rất rõ ràng, dễ hiểu. Để đến được đó thì rủi ro mà người vượt biển phải chịu rất cao. Anh Huy Đức kể chuyện có người ra đi 15 lần không xong. Đi được rồi thì ra đến biển khả năng mất mạng cũng rất cao, xác suất tử nạn trên biển có lẽ phải tới 15-20%. Việc người ta sẵn sàng chấp nhận rủi ro cao như thế để ra đi phản ánh cảnh khổ của người miền Nam sau khi được giải phóng. Cảnh khổ này về thiếu ăn, thiếu uống, thiếu mặc, thiếu sách, thiếu tự do, bị hạn chế, bị kỳ thị, bị coi là công dân hạng thấp, là kẻ thù tiềm năng, là đối tượng cải tạo, là cản trở sự tiến bộ của xã hội được ghi chép rất kỹ trong sách. Cảnh khổ này tương phản rõ ràng với đời sống dư thừa và tự do thời trước 30/4 mà một số người sẽ nhắc là do phụ thuộc vào viện trợ nước ngoài, là cơm thừa canh cặn. Nói miền Nam phồn vinh chỉ vì có viện trợ Mỹ là lối nói tuyên truyền. Trong 300 năm hình thành, phát triển lúc nào những vùng đất này cũng giàu có nhờ sản vật thiên nhiên và thương mại tự do, và con người cũng được hưởng những quyền tự do kể cả trong thời Pháp. Nếu không có chiến tranh thì người ta đã không cần phải có viện trợ Mỹ và vẫn đủ sống thoải mái hơn cảnh tem phiếu cân đường, cân gạo, mẩu thịt mua tranh bán cướp du nhập từ Bắc vào. Đối với người miền Bắc, giải phóng quét sạch giặc thù có thể là một niềm tin thật nhưng đối với người Nam đấy là bắt đầu cảnh sống nô lệ, và vì thế nhiều người quyết định liều mạng ra đi. Nếu mình bị rơi vào cảnh đó mà đi được thì mình cũng đi.

    Cách cư xử của chính quyền mới đối với người dân phản ánh mối quan hệ giữa người chiếm và người bị chiếm. Danh dự, tài sản, tương lai, vv của những người có dính líu tới chế độ cũ (mà có mấy ai là không có dính dáng tới chính quyền cũ) là không còn gì cả và mạng người Nam lúc đấy có lẽ là rẻ mạt. Người ta bị sử dụng vào những kế hoạch viển vông và gian khổ như kinh tế mới, thanh niên xung phong – mạng sống hoàn toàn bị phụ thuộc vào ý thích của cấp lãnh đạo. Cách người Nam bị cư xử như thế sau chiến tranh đi ngược lại với câu nói của Hồ Chí Minh được dùng làm kim chỉ Nam suốt cả thời chiến tranh: Miền Nam trong trái tim tôi. Lối cư xử đấy đành rằng có lý do tình thế nhưng có một phần không nhỏ là do sự ác ý của chính những người lãnh đạo, người với người nói chung mà cư xử thế đã là không được chứ đừng nói là giữa đồng bào với nhau.

    Một đặc điểm của các nước văn minh có nền pháp trị mạnh là người ta không tùy tiện giết đồng bào của mình. Một người Mỹ dù có phạm tội phản quốc cũng vẫn phải được đưa ra xét xử đàng hoàng chứ không thể bị tiêu diệt tùy thích. Người Việt Nam mình có lẽ cũng nên tham khảo cung cách hành xử của xã hội văn minh để lập ra một lời quốc thệ là từ nay về sau không bao giờ thờ ơ với hay tùy tiện cướp đi mạng sống của đồng bào của mình để những thời gian khủng khiếp đã qua sẽ không bao giờ trở lại nữa.

    Tổng số lượt xem trang