Thứ Hai, 10 tháng 12, 2012

Thương lái mua lá điều khô tại Bình Phước rồi… đốt

(VOV) -Khi cơ quan chức năng vào cuộc tìm hiểu, thì nhóm người đi thu mua đốt bỏ số lượng lá điều khô và rời khỏi địa phương.

Tại một điểm thu mua lá điều khô (Ảnh: TPO) Quảng Ninh kiểm tra động cơ thu mua lá chu ka
Thu mua rễ sim, gây nguy cơ khôn lường với môi trường
Thời gian gần đây, ở xã Thống Nhất, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước diễn ra tình trạng thương lái thu mua lá điều khô không rõ nguyên nhân.
Không ai biết thương lái mua lá điều khô phục vụ mục đích gì, nhưng khi cơ quan chức năng vào cuộc tìm hiểu tình hình thì nhóm người trên đốt bỏ số lượng lá điều khô mua được và rời khỏi địa phương.
Khu vực nhà thờ giáo họ thuộc thôn 12, xã Thống Nhất vẫn còn bãi cỏ bị cháy xém, hiện trường để lại của vụ đốt lá điều khô sau khi thu mua. Thôn 12 cách trung tâm xã Thống Nhất gần 10km, chủ yếu là đồng bào dân tộc Stiêng sinh sống.
Theo chính quyền địa phương, đã có nhiều người, phần lớn là trẻ em đi nhặt, quét lá điều khô đem bán với giá 700 đồng/kg. Việc thu mua lá điều khô là điều lạ chưa từng có từ trước đến nay, nhưng không ai trong thôn biết được ý do.Bà Thị Ai, thôn 12, xã Thống Nhất, Bù Đăng nói: “Tôi bán lá điều khô 2 lần, một lần được 7.000 đồng, một lần được 13.000 đồng. Tôi có hỏi các anh mua làm gì thì họ nói công ty giao chúng tôi mua thì chúng tôi mua, chứ không biết làm gì. Bà con bán bao nhiêu, chúng tôi mua hết”.
Ông Trần Văn Hiển, công an viên xã Thống Nhất cho biết thêm: “Từ trước đến nay chưa có người nào mua lá điều, nên khi có người mua chúng tôi thấy lạ. Chúng tôi cũng đến hỏi người thu mua, họ cũng trình giấy tờ, nhưng chỉ hôm sau là đi luôn”.
Cùng với việc rời khỏi xã Thống Nhất, khoảng 5 tạ lá điều khô được thu mua đã được nhóm người trên đốt đi chứ không vận chuyển theo. Cũng theo cán bộ công an xã, sau khi những người này bỏ đi thì không thể liên lạc được với các số điện thoại mà họ cung cấp trên các tờ rơi. Như vậy có thể nói, việc thu mua lá điều khô của nhóm người trên có nhiều khuất tất.
Ông Nông Văn Cành, Phó trưởng Công an xã Thống Nhất cho biết, phía công an xã đã tuyên truyền đến tất cả các thôn là bà con phải tìm hiểu kỹ mục đích những người lạ mua lá điều khô.

Việc thu mua lá điều khô tuy chưa có gây tác động cụ thể, nhưng nếu tình trạng này xảy ra lâu dài thì có thể kéo theo các hệ lụy như người dân hám lợi trước mắt mà chặt cành điều lấy lá đem bán. Điều này sẽ ảnh hưởng đến năng suất, sản lượng của cây điều. Bên cạnh đó, nguồn dinh dưỡng cho cây điều cũng có nguy cơ bị cạn kiệt và có thể xảy ra tình trạng xói mòn đất.
Do vậy, vai trò của chính quyền địa phương và các ngành chức năng là rất quan trọng trong việc tuyên truyền, vận động người dân không nên vì lợi nhuận trước mắt mà bỏ qua những lợi ích lâu dài./.  -Thương lái mua lá điều khô tại Bình Phước rồi… đốt

- Đai diện IMF cảnh báo Việt Nam không có dự phòng cho chi phí tái cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước (Gafin).  - Đại diện IMF tại Việt Nam: “Hy sinh ngắn hạn sẽ có lợi ích lâu dài” (TTVN/CafeF).
- Các nhà tài trợ quan ngại về nợ xấu (TT).  - Giảm nợ xấu còn 3 – 4% vào năm 2015 (VnMedia).  - Các đối tác cam kết dành gần 6,5 tỷ USD cho VN (TTXVN).  - Nhiều thách thức cần Việt Nam giải quyết nhanh hơn (TQ).
6485 triệu USD vốn ODA cam kết cho năm 2013
Đài Tiếng Nói Việt Nam
(VOV) -Cũng từ 2013, Hội nghị CG được chuyển thành Diễn đàn quan hệ đối tác phát triển Việt Nam (gọi tắt là VDPF). Thủ tướng phát biểu tại Hội nghị CG · Khai mạc Hội nghị nhóm các nhà tài trợ cho Việt Nam 2012. “Diễn đàn này sẽ phản ánh tốt hơn ...
CG cam kết 6,5 tỉ USD vốn ODA cho Việt Nam năm 2013Lao động
Cam kết 6,5 tỷ USD vốn ODA cho năm tớiVNExpress
Nhật Bản tăng tài trợ ODA cho Việt NamBáo điện tử Chính phủ

Đai diện IMF cảnh báo Việt Nam không có dự phòng cho chi phí tái cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước
Đại diện của IMF khuyến nghị, các cuộc cải cách doanh nghiệp Nhà nước thường đi kèm với nhiều khoản nợ dự phòng Chính phủ phải đứng ra gánh.

Các nhà tài trợ quan ngại về nợ xấu
Tuổi Trẻ
TTO - Các nhà tài trợ cam kết sẽ cho Việt Nam vay xấp xỉ 6,5 tỷ USD cho năm 2013, đó là thông tin từ Hội nghị nhóm các nhà tài trợ cho Việt Nam diễn ra ngày 10-12 tại Hà Nội. Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh nhận định con số này rất tích ...
6485 triệu USD vốn ODA cam kết cho năm 2013Đài Tiếng Nói Việt Nam
Làm sao giải ngân nguồn vốn ODA cho hiệu quả?Vietnam Plus
Cam kết ODA gần 6,5 tỷ USD cho Việt NamBáo điện tử Chính phủ

- Hệ thống ngân hàng, thiếu hai nền tảng (ĐTCK).
- Rủi ro từ trái phiếu chính quyền địa phương (SGTT).
- Tái cấu trúc các công ty chứng khoán: Vào hồi quyết liệt (KTĐT).  - Vào chợ mỗi ngày TTCK 10-12-2012: Thêm sinh khí (VF).
- Toàn cảnh kinh tế 10-12-2012: Quyết chí ắt tan băng?  - Tổng quan Tài chính – Ngân hàng 10-12-2012: Cẩn tắc vô áy náy (VF).
- Bộ Xây dựng muốn “giải cứu” bất động sản qua thuế (VnEco).
- Ngành điều: Vận động của nhóm đặc quyền đặc lợi (SGTT).
- Starbucks vào Việt Nam: Thì sao! (DNSG).  - Cuộc chiến cà phê hòa tan (ĐTCK).
-
- “Hóa kiếp” hàng điện tử cũ thành “hàng mới khuyến mãi hấp dẫn“ (PLVN).
- Dự đoán kinh tế thế giới năm 2013 (VNE). - Thủ tướng cam kết tăng cường giám sát tập đoàn (CP).
- Thu nhập đầu người Việt Nam tăng hơn 10 lần sau 20 năm (DT).  - Nhiều doanh nghiệp thờ ơ với điều chỉnh lương tối thiểu (VnEco). Lương tăng gấp ba lần năng suất lao động
Tốc độ tăng trưởng tiền lương danh nghĩa và thực tế ở Việt Nam lại cao hơn tốc độ tăng năng suất lao động ít nhất ba lần.

Hàng dỏm xuống phố
Dân Trí
Dịp cuối năm hàng giả, hàng nhái, hàng nhập lậu lại tiếp tục tung hoành. Sức “tấn công” của nhóm hàng này không chỉ dừng lại vùng ven, nông thôn... mà đã tràn vào các quận nội thành, cả trung tâm thương mại lớn. >> Vụ “hàng hiệu Ý”: Vừa giả, vừa trốn ...
Chưa mạnh tay với hàng lậucand.com
- Vì sao Đông Dương Telecom bị rút giấy phép? (VnEco).
- “Thu phí đọc báo online sẽ là bắt buộc” (VnEco).
- “Thần đèn” cũng khốn khổ vì bất cập trong quản lý đất đai (PLVN). - Quang Trung – Thượng tôn pháp luật và thực thi nhân quyền (Dân Luận).
- Thủ tướng cùng các nhà tài trợ bàn chuyện điều hành, chống tham nhũng (DT). – Thủ tướng ra chỉ thị về nâng cao hiệu quả đầu tư (VnEco). – Chuyên gia Úc bàn chuyện chống tham nhũng ở VN (VNN). – Trần Đăng Khoa: Đồng khởi chống tham nhũng (VOV). – “Chạy” công chức 100 triệu: “Thật nguy hiểm cho Nhà nước” (GDVN). – Vào biên chế – 100 triệu đồng (LĐ).

Khi ông Nguyễn Bá Thanh khuyên doanh nghiệp mạnh dạn đi kiện
Đài Tiếng Nói Việt Nam
Ông Nguyễn Bá Thanh, Bí thư Thành ủy Đà Nẵng vừa tuyên bố “ủng hộ doanh nghiệp kiện cơ quan Nhà nước ra tòa nếu những cơ quan này không làm tròn trách nhiệm, gây tắc trách, thiệt hại cho doanh nghiệp”. Đây được xem là thái độ dứt khoát của ...
Người nói lời của dân!Dân Trí
Ông Nguyễn Bá Thanh: 'Tôi cũng bắt đầu thấy mệt rồi'Zing News
Chuyện chưa kể về Bí thư Đà Nẵng Nguyễn Bá ThanhVTC
- Nhà Bè: nổ hàng trăm bình gas gây cháy lớn (TT).- Rút ruột gạo xuất khẩu, thuyền trưởng lãnh án 20 năm tù (TN).
- Mưu sinh thời khốn khó.   - Cửu vạn đêm (TT).

- Ngày đầu đặt chỗ mua vé tàu Tết: Mạng nghẽn, chợ đen rầm rộ (NLĐ).  - Nghẽn mạng, người mua vé tàu Tết “chết đứng” (TN).  - Hàng ngàn người nổi giận vì website vé tàu tê liệt  (VNN).  - Khổ sở mua vé tàu Tết qua mạng (Petrotimes).   - Bán vé tàu qua mạng: năm nào cũng nghẽn (TT).
--



Tổng quan kinh tế Việt Nam năm 2010 và triển vọng năm 2011 (Số 4/2011) (25/03/2011)

TS. Nguyễn Hồng Nga[**]
và Nhật Trung[††]

Trong năm 2010, kinh tế Việt Nam, cho dù vẫn còn bị ảnh hưởng bởi sự hồi phục chậm chạp của kinh tế thế giới, vẫn có được những chỉ số kinh tế vĩ mô khả quan. Vậy bức tranh kinh tế Việt Nam sẽ có những gam màu sáng và màu ít sáng ra sao và trên nền của bức tranh 2010, liệu bức tranh năm 2011 có những triển vọng nào có thể đạt được để làm nền tảng cho bức tranh tổng thể của kế hoạch 5 năm 2011 - 2015?

1. Bối cảnh kinh tế toàn cầu và khu vực
Nền kinh tế toàn cầu tiếp tục hồi phục mạnh trong nửa đầu năm 2010, nhưng sự ổn định tài chính sụt giảm mạnh do cuộc khủng hoảng nợ công vào quý II năm 2010. Quy mô hồi phục kinh tế có sự khác biệt giữa các quốc gia, khu vực với sự dẫn đầu thuộc khu vực châu Á. Mỹ và Nhật Bản suy giảm đáng kể vào quý II, trong khi tăng trưởng được đẩy mạnh ở châu Âu và duy trì vững chắc ở các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển. Các điều kiện tài chính toàn cầu đã bắt đầu đi vào ổn định, nhưng các định chế và thị trường vẫn còn yếu ớt. Theo Báo cáo triển vọng kinh tế thế giới (World Economic Outlook) của IMF, công bố tháng 10/2010,  tính cả năm, tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới ước đạt 4,8%, trong đó, các nước phát triển tăng 2,7%, các nước đang phát triển tăng 7,1%. Thương mại thế giới tăng 11,4%, lượng vốn tư nhân ròng (trong đó, FDI chiếm trên 40%) đổ vào các nền kinh tế mới nổi ước trên 800 tỉ USD, cao hơn 30% so với năm 2009, mặc dù vẫn thấp hơn mức đỉnh trước khủng hoảng đạt được vào năm 2007 khoảng 400 tỉ USD. Theo các chuyên gia, sự phục hồi chậm chạp của nền kinh tế thế giới xuất phát từ 5 nguyên nhân chủ yếu: (1) Tính chất hai mặt của chính sách kích cầu, sự khó khăn về liều lượng và thời gian cắt giảm gói kích thích kinh tế; (2) Gánh nặng tài chính của các nền kinh tế chủ chốt không ngừng tăng lên tạo áp lực cho nền tài chính các quốc gia; (3) Khôi phục toàn diện cần phải có thời gian, không thể nôn nóng chủ quan; (4) Lạm phát gia tăng, xói mòn lòng tin vào chính sách vĩ mô của các chính phủ; (5) Chủ nghĩa bảo hộ có nguy cơ quay trở lại, do một số nước và khu vực muốn mở rộng xuất khẩu, thông qua phá giá đồng bản tệ... để nâng cao sức cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trường thế giới.
Biểu đồ 1: Tăng trưởng kinh tế thế giới, Mỹ, khu vực đồng Euro, Nhật Bản, các nước châu Á đang phát triển và Việt Nam
Nguồn: World Economic Outlook, IMF, 10/2010
Giá vàng hoàn thành năm tăng thứ 10 liên tiếp và kì vọng sẽ còn tiếp tục tăng cao hơn trong các năm tới. Phiên giao dịch cuối cùng của năm 2010, giá vàng duy trì trên mức 1400 USD/ounce và như vậy, tăng khoảng 29,7% trong năm 2010, mức tăng mạnh nhất trong 3 năm gần đây (biểu đồ 2).

Biểu đồ 2: Diễn biến giá vàng thế giới trong năm 2010


Giá cả hàng hóa nguyên vật liệu cũng tăng, trong đó, giá dầu liên tục lập kỉ lục những tháng gần đây và đã vượt mức 90 USD/thùng trong tháng 12 nhờ những điều kiện căn bản của nền kinh tế được cải thiện, trong đó có yếu tố lượng dự trữ dầu thô giảm và nhu cầu ở Trung Quốc tăng mạnh. Trên thị trường New York, trong phiên giao dịch cuối cùng của năm, giá dầu thô ngọt, nhẹ giao tháng 2/2011 tăng 1,54 USD/thùng, lên mức 91,38 USD/thùng, sát mức cao nhất trong 2 năm, tăng khoảng 15% trong năm 2010. Đồng USD liên tục bị mất giá cũng làm cho giá cả các loại hàng hóa nhập khẩu bằng USD trở nên cao hơn.
Lạm phát dự báo vẫn ở mức thấp trong bối cảnh dư thừa năng lực sản xuất và tỉ lệ thất nghiệp cao. Sự phục hồi giá cả hàng hóa đã làm tăng chỉ số giá tiêu dùng trên phạm vi toàn cầu. Ước tính lạm phát của các nước phát triển sẽ tăng lên mức 1,4% trong năm 2010 so với mức 0,1% trong năm 2009; lạm phát tại các nước mới nổi và đang phát triển ở mức 6,2% so với mức 5,2% của năm 2009; tại các nước đang phát triển châu Á, lạm phát dự kiến tăng lên mức 6,1% so với mức 3,1% của năm 2009 (biểu đồ 3).
     Biểu đồ 3: Lạm phát tại các nước phát triển, các nước mới nổi và đang phát triển, các nước châu Á đang phát triển và Việt Nam (bình quân năm)

Nguồn: World Economic Outlook, IMF, 10/2010


2. Tổng quan kinh tế Việt Nam năm 2010
2.1 Những kết quả đạt được
2.1.1 Tăng trưởng GDP
Trong điều kiện kinh tế toàn cầu hậu khủng hoảng phục hồi chậm, nhưng kinh tế Việt Nam đã sớm ra khỏi tình trạng suy giảm, từng bước phục hồi và tăng trưởng khá nhanh. GDP quý I tăng 5,84%; quý II tăng 6,44%; quý III tăng 7,18% và quý IV tăng 7,34% (biểu đồ 4). Tính chung cả năm, GDP tăng 6,78%, cao hơn chỉ tiêu Quốc hội đề ra (6,5%), vẫn thuộc nhóm có mức tăng trưởng khá cao trong khu vực và trên thế giới, trong đó, tất cả các ngành, lĩnh vực đều đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn so với năm trước. Trong 6,78% tăng chung của nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,78%, đóng góp 0,47 điểm phần trăm; công nghiệp xây dựng tăng 7,7%, đóng góp 3,20 điểm phần trăm; dịch vụ tăng 7,52%, đóng góp 3,11 điểm phần trăm (biểu đồ 5).  Với kết quả này, GDP bình quân đầu người năm 2010 đạt khoảng 1160 USD (biểu đồ 6).

Biểu đồ 4: Tăng trưởng GDP theo quý
Nguồn: Tổng cục Thống kê

Biểu đồ 5: Tăng trưởng GDP và các khu vực kinh tế giai đoạn 2000- 2010

Nguồn: Tổng cục Thống kê








Biểu đồ 6: GDP bình quân đầu người giai đoạn 2000 - 2010
Nguồn: IMF Country Report No 06/52, February 2006
             IMF Country Report No 10/281, September 2010
              Báo cáo Thủ tướng Chính phủ về tình hình kinh tế - xã hội năm 2010 và nhiệm vụ năm 2011

Sản xuất công nghiệp tiếp tục khẳng định vai trò trụ cột khi tiếp tục duy trì mức tăng trưởng cao trong nhiều tháng liên tiếp. Riêng tháng 12, đạt tốc độ ngang với mức trước khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới (16,2%. Cả năm 2010, giá trị sản xuất công nghiệp đạt 794.200 tỉ đồng, tăng 14% và vượt kế hoạch năm  (12%). Đặc biệt, cơ cấu sản xuất công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm tỉ trọng lớn nhất (gần 90%) và giảm dần công nghiệp khai thác tài nguyên.

Biểu đồ 7: Sản xuất công nghiệp giai đoạn 2000 - 2010

Nguồn: Tổng cục Thống kê

2.1.2 Hoạt động ngân hàng
Chính sách tiền tệ đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng và kiểm soát lạm phát, bảo đảm được các mục tiêu đề ra từ đầu năm: đến 31/12/2010, tổng phương tiện thanh toán tăng 25,3% so với cuối năm 2009; huy động vốn tăng 27,2%; tín dụng tăng 29,81%, trong đó tín dụng VND tăng 25,3%; tín dụng ngoại tệ tăng 49,3%.
Biểu đồ 8: Tăng trưởng GDP, M2 và tín dụng


Nguồn: NHNN; Key Indicators for Asia and the Pacific 2010, ADB

Thị trường ngoại tệ, thị trường vàng đã dần ổn định, nguồn cung ngoại tệ được cải thiện đáng kể (đến ngày 31/12/2010, tỉ giá USD/VND bình quân liên ngân hàng tăng 5,52% và tỉ giá mua bán của các ngân hàng thương mại tăng 5,53%). Giá vàng trong nước diễn biến tương đối sát với giá vàng thế giới, chênh lệch giá vàng trong nước và thế giới đã được thu hẹp.
2.1.3 Tăng trưởng xuất nhập khẩu
Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2010 đạt 71,6 tỉ USD, tăng 25,5% so với năm 2009, vượt xa kế hoạch Quốc hội đề ra là 60 tỉ USD (tăng trên 6%) cũng như mức đỉnh 62,7 tỉ USD năm 2008. Cơ cấu kim ngạch hàng hóa xuất khẩu năm nay có sự thay đổi ở một số nhóm hàng hóa so với năm trước, trong đó, nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp tăng từ 42,8% lên 46%; nhóm hàng công nghiệp năng và khoáng sản giảm từ 29,4% xuống 27,2%; nhóm hàng thủy sản giảm từ 7,4% xuống 6,9%; vàng và các sản phẩm vàng từ 4,6% xuống 4%. Đặc biệt, Việt Nam đã có 18 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỉ USD, tăng 6 mặt hàng so với năm 2009. Lần đầu tiên, dệt may đạt trên 11 tỉ USD, đứng đầu về kim ngạch xuất khẩu trong 26 mặt hàng chính. Thủy sản, da giày đã vượt dầu thô “soán ngôi” top 3 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu cao nhất.
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu đạt 84 tỷ USD, tùng 20,1% so với năm trước. Một số mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu tăng cao, bao gồm xăng dầu, tăng 225,2%; lúa mì tăng 70,4%; kim loại thường khác tăng 57,7%; nguyên phụ liệu dệt may, giầy dép tăng 36%; chất dẻo tăng 33,9%; điện tử máy tính và linh kiện tăng 30,7%; vải tùng 27,2%...
Nhờ kiểm soát chặt nhập khẩu và thành tích của xuất khẩu nên nhập siêu hàng hóa cả năm khoảng 12,4 tỉ USD, bằng 17,3% kim ngạch xuất khẩu, thấp hơn mức 20% của kế hoạch và thấp hơn khá nhiều so với mức 22,5% của năm trước.
Biểu đồ 9: Kim ngạch xuất nhập khẩu giai đoạn 2000 - 2010
Nguồn: Tổng cục Thống kê

 2.1.4 Thu hút vốn FDI
Do vẫn còn ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới, thu hút FDI đạt 18,6 tỉ USD, giảm 19,5% so với mức 23,1 tỉ USD của năm 2009, không đạt mục tiêu thu hút 22 - 25 tỉ USD trong năm 2010. Điểm sáng nhất trong thu hút FDI năm nay là chỉ tiêu giải ngân, đạt 11 tỉ USD, tăng 10% so với năm trước và chỉ cách kỉ lục của năm 2008 là 500 triệu USD; nhóm ngành sản phẩm chế biến vươn lên dẫn đầu khi có tới 4,37 tỉ USD đăng kí và giúp số dự án nhóm này tăng gần gấp rưỡi. Đây được đánh giá là tín hiệu tốt đối với nền kinh tế trong việc thu hẹp thâm hụt thương mại trong tương lai.
Biểu đồ 10: Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Nguồn: Tổng cục Thống kê

2.2 Những hạn chế, yếu kém
Bên cạnh những thành tựu đạt được, nền kinh tế Việt Nam trong nùm 2010 vẫn còn những hạn chế, yếu kém:
Thứ nhất, chất lượng tăng trưởng không cao, thể hiện ở tính hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp; tăng trưởng kinh tế chủ  yếu dựa vào phát triển theo chiều rộng, tăng khối lượng các nguồn lực, nhất là tăng vốn đầu tư, chưa thực sự dựa trên cơ sở năng suất lao động và nâng cao hiệu quả. Năm 2010, tổng vốn đầu tư  toàn xã hội theo giá thực tế đạt 830,3 ngàn tỉ đồng, tăng 17,1% so với năm 2009. Với kết quả này, tỉ lệ đầu tư so với GDP đã giảm từ mức 42,8% năm 2009 xuống còn 41,9% vào năm 2000, nhưng vẫn cao hơn mức 41,3% của năm 2008. Đây là tỉ lệ thuộc loại cao nhất thế giới, chỉ sau tỉ lệ trên dưới 45% của Trung Quốc. Ở châu Á, ngoại trừ Trung Quốc và Ấn Độ, là hai nước có tỉ lệ đầu tư so với GDP cao (Trung Quốc khoảng 45% và Ấn Độ khoảng 38 - 39% trong năm 2009), còn lại các nước khác đều có tỉ lệ này thấp hơn 30%, trong đó, Philippines chỉ ở mức 14%, Malaysia: gần 20% (xem biểu đồ 11).

Biểu đồ 11 : Tỉ lệ đầu tư so với GDP của một số nước châu Á

Hiệu quả của vốn đầu tư cũng đang giảm thấp đến mức báo động vơi chỉ số ICOR tăng mạnh trong giai đoạn 1991 - 2009. Nếu như trong giai đoạn 1991 - 1995, hệ số ICOR là 3,5 thì đến giai đoạn năm 2007 - 2008, hệ số này là 6,15; năm 2009, hệ số ICOR tăng vọt lên 8; năm 2010, hệ số này giảm xuống còn 6,2; nhưng vẫn còn cao hơn nhiều so với khuyến cáo của WB: đối với một nước đang phát triển, hệ số ICOR ở mức 3 là đầu tư có hiệu quả và nền kinh tế phát triển theo hướng bền vững. So sánh với các nước trong khu vực, ICOR của Việt Nam gần gấp đôi, có nghĩa là hiệu suất đầu tư chỉ bằng một nửa.
Biểu đồ 12: Hệ số ICOR của Việt Nam và một số quốc gia châu Á


Thứ hai, thêm hụt ngân sách liên tục cao, nợ công tăng nhanh. Theo Bộ Tài chính, thâm hụt ngân sách năm 2010 dự kiến giảm 0,4 điểm % GDP xuống còn 5,8% GDP (dự toán là 6,2% GDP), vẫn ở mức cao so với các nước trong khu vực. Do thường xuyên trong tình trạng thâm hụt ngân sách nên nợ công tăng rất nhanh trong những năm vừa qua. Theo Bộ Tài chính, tính đến hết 31/12/2010, dư nợ chính phủ bằng 44,3%, dư nợ quốc gia bằng 42,2% GDP và dư nợ công bằng 56,6% GDP. Mặc dù tỉ lệ nợ công Việt Nam được coi là vẫn nằm trong tầm kiểm soát, nhưng đã trở nên cao hơn hẳn so với tỉ lệ phổ biến 30% - 40% ở các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi khác. Nếu xét mức nợ công bình quân đầu người bình quân đầu người trong vòng 8 năm (từ 2001 đến 2009), mức nợ công bình quân đầu người đã tăng gần bốn lần, từ 144 USD lên tới 548 USD, tức trung bình hơn 18%/năm, trong khi tốc độ tăng GDP bình quân đầu người của cùng thời kì chỉ là 6%/năm#. Nợ công tăng nhanh trong bối cảnh thâm hụt ngân sách cao và kéo dài đã đe dọa tính bền vững của quản lí nợ công và gây áp lực lên lạm phát, đây cũng là nguyên nhân chính khiến xếp hạng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam đều bị các cơ quan xếp hạng tín dụng hạ thấp
Biểu đồ 13: Thâm hụt ngân sách Việt Nam giai đoạn 2005 - 2011
Nguồn: Bộ Tài chính

Biểu đồ 14: Thâm hụt ngân sách của Việt Nam và một số nước chấu Á (2005 - 2009)


Thứ ba, lạm phát cao gây bất ổn kinh tế vĩ mô. Trong năm 2010, chỉ số giá tiêu dùng tăng 11,75% so với tháng 12/2009, vượt xa chỉ tiêu lạm phát Quốc hội thông qua đầu năm là không quá 7% và mục tiêu Chính phủ điều chỉnh là không quá 8%. Trong đó, nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 16,18%, với quyền số 39,93%, nhóm này đã đóng góp vào mức tăng chung của chỉ số CPI khoảng 6,46%, hơn một nửa mức tăng CPI của cả năm. Tiếp đến là nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt, VLXD, tăng 15,74%, với quyền số 10,01%, nhóm này góp phần làm tăng chỉ số chung khoảng 1,57%. Nhóm giáo dục có mức tăng cao nhất 19,38%, với quyền số không lớn là 5,72%, nhưng nhóm này đã đóng góp mức tăng khoảng 1,1% vào mức tăng chung của chỉ số CPI.

Biểu đồ 15: Diễn biến chỉ số CPI theo tháng giai đoạn 2008 - 2010
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Nguyên nhân chỉ số CPI tăng mạnh trong năm 2010 là tổng hòa của các nhân tố như thiên tai, giá cả hàng hóa thế giới tăng, tiền đồng bị mất giá, thâm hụt ngân sách kéo dài, nhập siêu cao..., nhưng nguyên nhân sâu xa có thể tìm thấy trong việc lựa chọn thứ tự ưu tiên các mục tiêu phát triển kinh tế. Đối với nhiều nước đang phát triển như Việt Nam thì tăng trưởng vẫn là ưu tiên số một. Do vậy, suốt một thời gian dài, Việt Nam đã chấp nhận lạm phát cao để theo đuổi mục tiêu tăng trưởng kinh tế với chính sách tiền tệ và tài khóa về cơ bản là nới lỏng. Thành tựu tăng trưởng kinh tế những năm qua là điều đáng ghi nhận, song lạm phát cao, kéo dài so với nhiều nước trong khu vực là một bất ổn, ảnh hưởng đến tăng trưởng bền vững của nền kinh tế.
Thứ tư, thâm hụt thương mại, thâm hụt tài khoản vãng lai vẫn ở mức cao trong khi dự trữ ngoại hối vẫn ở mức thấp, gây sức ép lên tỉ giá. Nhập siêu năm 2010 đạt mức dưới 20% kim ngạch xuất khẩu, nhưng vẫn ở mức cao. Nếu loại trừ đá quý, kim loại quý xuất khẩu thì khả năng nhập siêu  vẫn trên 23%. Đây là nhân tố chính làm cán cân vãng lai thâm hụt khoảng 10% GDP và cán cân thanh toán thâm hụt khoảng 4 tỉ USD. Nhập siêu cao và kéo dài trong nhiều năm, nhất là từ năm 2007 cho đến nay đã làm sụt giảm nguồn dự trữ ngoại hối, tăng nợ quốc gia và gây sức ép giảm giá đồng nội tệ. Thâm hụt cán cân vãng lai lớn cùng với thâm hụt ngân sách cao, nợ công có xu hướng tăng nhanh sẽ là những trở ngại lớn cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế trong những năm tới đây.

Biểu đồ 16: Cán cân thương mại, cán cân vãng lai, cán cân thanh toán giai đoạn 2000 - 2010
Nguồn: Tổng cục Thống kê (Dữ liệu xuất khẩu, nhập khẩu, cán cân thương mại theo số tuyệt đối);
      IMF Country Report No 10/281, September 2010 (dữ liệu cán cân thương mại, cán cân vãng lai, cán cân thanh toán so với GDP với dữ liệu nhập khẩu tính theo giá FOB)

Thứ năm, tỉ giá, lãi suất có nhiều biến động. Năm 2010, thị trường ngoại hối Việt Nam đã chứng kiến sự biến động mạnh của tỉ giá USD/VND, ở một số thời điểm, tỉ giá USD/VND trên thị trường tự do đã tăng lên rất mạnh. Trong năm 2010, NHNN đã thực hiện hai lần điều chỉnh tỉ giá. Lần thứ nhất vào ngày 11/2/2010, tỉ giá USD/VND được điều chỉnh tăng từ mức 1 USD = 17.941 đồng lên mức 1 USD = 18.544 đồng, hay 3,36%. Lần thứ hai vào ngày 17/8/2010, NHNN đã điều chỉnh tăng tỉ giá bình quân liên ngân hàng từ mức 1 USD = 18.544 đồng lên mức 1 USD = 18.932 đồng, tăng gần 2,1%, trong khi vẫn giữ nguyên biên độ ở mức +/-3%. Dù vậy, chênh lệch giữa tỉ giá chính thức và tỉ giá trên thị trường tự do vẫn ở mức cao. Thực tế này đã tác động không nhỏ đến tâm lí, đời sống người dân, đồng thời ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Biểu đồ 17: Diễn biến tỉ giá USD/VND tháng 11/2009 - 12/2010

      Nguồn: SBV, dữ liệu của TVSC

Cùng với những biến động mạnh về tỉ giá, lãi suất trong năm cũng diễn biến khá phức tạp và tăng cao, đặc biệt vào thời điểm cuối năm khi lãi suất huy động VND đã tăng vọt từ 11 - 11,5% lên đến 17% ở một số ngân hàng thương mại với những kì hạn ngắn do việc triển khai chương trình huy động lãi suất cao của Techcombank. Đồng thời lãi suất cho vay cũng leo thang từ 13 - 14% lên 19 - 21%/năm tùy từng khoản vay. Ngay sau đó, với sự can thiệp kịp thời của NHNN, lãi suất huy động đã giảm về mức tối đa là 14% bao gồm cả chi phí khuyến mại. Hiện nay, các ngân hàng đã thực hiện đồng thuận lãi suất huy động VND tối đa 14%/năm; lãi suất cho vay bình quân 15,27%/năm.
Thứ sáu, thị trường chứng khoán biến động thất thường. Tính đến ngày 29/12/2010, tổng vốn hóa thị trường của hai sở giao dịch chứng khoán niêm yết của Việt Nam là 37,128 triệu USD, tương đương khoảng 38,62% GDP. Năm 2010, do chịu tác động từ những bất ổn vĩ mô và khó khăn của nền kinh tế toàn cầu, dẫn đến dòng tiền vào thị trường chứng khoán sụt giảm. Đóng cửa phiên giao dịch ngày 31/12/2010, chỉ số VN-index của Sở giao dịch Tp. Hồ Chí Minh chốt ở mức 484.66 điểm, giảm 10,14 điểm, tương đương giảm 2%, HNX-index chốt ở mức 114.24 điểm, giảm 32% so với thời điểm đầu năm 2010. Thanh khoản trung bình trên thị trường thường ở mức thấp, tại sàn HOSE, bình quân mỗi phiên chỉ có 46,4 triệu đơn vị với giá trị 1506 tỉ đồng được chuyển nhượng. Thị trường chứng khoán trầm lắng gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc huy động vốn.
Biểu đồ 18: Diễn biến chỉ số VN-index năm 2010
Nguồn: Dữ liệu phần mềm phân tích chứng khoán Amibroker 5.20

3. Triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2011
3.1. Một số dự báo của các tổ chức quốc tế về tình hình kinh tế thế giới năm 2011
Theo báo cáo của các tổ chức tài chính và xếp hạng quốc tế, kinh tế thế giới năm 2010 phục hồi chậm chập và có nhiều dấu hiệu cho thấy tốc độ tăng trưởng trong hai năm tới sẽ yếu đi, lạm phát tăng cao do giá lương thực và nguyên liệu đầu vào tăng cao và lượng tiền cung ứng quá mức. Một số nền kinh tế chủ chốt tiếp tục gặp khó khăn về nợ nần nên nhu cầu còn yếu ớt và chưa khuyến khích các nhà đầu tư đẩy mạnh hoạt động sản xuất. Đáng chú ý, tỉ lệ thất nghiệp cao, các chính sách thắt chặt tài chính, tinh thần hợp tác của các nền kinh tế lớn đang giảm và nguy cơ chiến tranh tiền tệ là những yếu tố đe dọa quá trình phục hồi kinh tế.
Theo dự báo của IMF trong ấn phẩm World Economic Outlook xuất bản vào tháng 10 năm 2010, kinh tế toàn cầu sẽ tăng trưởng chậm lại trong năm 2011 với mức tăng 4,2% so với mức 4,8% của năm 2010; trong đó, các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển sẽ tăng trưởng 6,4% so với mức 7,1%; các nước phát triển, tăng trưởng dự báo chỉ đạt tương ứng 2,2% so với mức 2,7%  với một số nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng đang chậm lại đáng kể từ 6 tháng cuối  năm 2010 và 6 tháng đầu năm 2011. Trong các nước châu Á đang phát triển, Việt Nam là một trong số ít nước được dự báo tăng cao hơn so với năm 2010: 6,8% so với 6,5% của năm 2010. Điều đó cho thấy trong năm 2011, bối cảnh kinh tế toàn cầu vẫn còn không ít khó khăn.
Bảng 1: Dự báo tăng trưởng kinh tế một số nước

2009
2010
2011
1. Thế giới
-0.6
4.8
4.2
2. Mỹ
-2.6
2.6
2.3
3. Khu vực châu Âu
-4.1
1.7
1.5
4. Nhật Bản
-5.2
2.8
1.5
5. Trung Quốc
9.1
10.5
9.6
6. Ấn Độ
5.7
9.7
8.4
7. Indonesia
4.5
6
6.2
8. Malaysia
-1.7
6.7
5.3
9. Philippines
1.1
7
4.5
10. Thái Lan
-2.2
7.5
4
11. Việt Nam
5.3
6.5
6.8
Nguồn: World Economic Outlook, IMF, 10/2010

3.2. Triển vọng thực hiện một số chỉ tiêu kinh tế chủ yếu 
3.2.1 Tăng trưởng GDP tiếp tục được duy trì ở mức khá
Ngày 19/11/2010, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng đã kí ban hành Nghị quyết số 51/2010/QH12 về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2011 với mục tiêu tăng trưởng GDP từ 7 - 7,5%. Tại cuộc họp của Chính phủ ngày 30/12/2010 nhằm triển khai Nghị quyết của Quốc hội, theo Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam trong năm 2011 có thể đạt được từ 7 - 7,5%, trong đó các ngành trọng điểm đều tăng mức đóng góp vào tăng trưởng chung của nền kinh tế. Cụ thể, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản dự kiến sẽ tăng khoảng 2,8 - 3%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 7,5 - 8,2%; khu vực dịch vụ tăng 8,2 - 8,5%. Bên cạnh đó, xét về phía tổng cầu, tiêu dùng và đầu tư tiếp tục là động lực chính của tổng cầu trong giai đoạn hậu khủng hoảng. Tổng vốn đầu tư xã hội dự kiến vẫn ở mức cao, chiếm 40% GDP; tiêu dùng đang trong xu hướng tăng (năm 2010, tổng mức hàng hóa bán lẻ và dịch vụ tiêu dùng tăng 24,5%, đóng góp phần lớn vào tăng trưởng). Theo chúng tôi, khả năng hoàn thành mục tiêu tăng trưởng ở mức 7% trong năm 2011 là khá cao.
3.2.2 Nhập siêu tiếp tục ở mức cao
Nghị quyết Quốc hội đặt ra mục tiêu tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu ở mức 10% so với năm 2010, khống chế nhập siêu ở mức dưới 18% kim ngạch xuất khẩu. Theo dự báo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2011 đạt khoảng 74,25 tỉ USD, tăng 10% so với năm 2010; kim ngạch nhập khẩu đạt khoảng 88,8 tỉ USD, tăng tương ứng 9% và nhập siêu năm 2011 dự kiến khoảng 14,5 tỉ USD, tăng 16% so với mức nhập siêu năm 2010 và bằng 19,6% kim ngạch xuất khẩu, cao hơn mức 17,3% của năm 2010. Như vậy, năm 2011, Việt Nam vẫn sẽ tiếp tục đối mặt với tình trạng nhập siêu cao.
3.2.3 Thâm hụt ngân sách vẫn ở mức cao
Ngày 10/11/2010, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về dự toán Ngân sách Nhà nước năm 2011. Theo đó, tổng thu cân đối Ngân sách Nhà nước năm 2011 là 595 nghìn tỉ đồng, tương đương 26,2% GDP. Tính cả 10 nghìn tỷ đồng thu chuyển nguồn năm 2010 sang năm 2011, thì tổng thu cân đối Ngân sách Nhà nước là 605 nghìn tỉ đồng. Tổng chi cân đối Ngân sách Nhà nước là 725,6 nghìn tỉ đồng. Như vậy, thâm hụt ngân sách năm 2011 không quá 120,6 nghìn tỉ đồng, tương đương khoảng 5,3% GDP, có giảm so với thực hiện năm 2010 là 5,8%, nhưng vẫn ở mức cao.
3.2.4 Hoàn thành chỉ tiêu lạm phát sẽ khó khăn
 Mục tiêu tăng trưởng kinh tế của năm 2011 từ 7- 7,5% trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu được dự báo sẽ tăng trưởng chậm lại so với năm 2010. Mô hình tăng trưởng chủ yếu vẫn dựa vào đầu tư (với tổng mức đầu tư xã hội dự kiến là 40% GDP, trong đó, đầu tư công chiếm khoảng 1/3), trong khi hiệu quả đầu tư thấp (thể hiện qua hệ số ICOR vẫn cao) và khó có thể cải thiện trong ngắn hạn. Thâm hụt ngân sách dự báo là 5,3%, vẫn ở mức cao. Rủi ro có thể tiếp tục xẩy ra là chính sách tiền tệ tài trợ cho chính sách tài khóa. Do vậy, áp lực lạm phát vẫn tiếp tục duy trì trong năm 2011.
Việt Nam nhập khẩu đến 90% tư liệu sản xuất, trong đó, có trên 60% nhập nguyên, nhiên, vật liệu phục vụ sản xuất trong nước. Vì vậy, giá thế giới cũng ảnh hưởng đến chi phí sản xuất của doanh nghiệp, làm cho giá thành sản phẩm tăng lên và do đó, sẽ ảnh hưởng đến giá bán trên thị trường. Cùng với sự hồi phục của nền kinh tế thế giới, giá dầu thô và hầu hết các loại hàng hóa cơ bản trên thế giới đang có xu hướng tăng do nhu cầu từ các nước mới nổi đang tăng mạnh mẽ. Gói nới lỏng định lượng lần hai cho đến hết quý II/2011 (quy mô 600 tỉ USD) tại Mỹ, nguy cơ chiến tranh tiền tệ, khủng hoảng nợ châu Âu,... khiến giới đầu tư thế giới mất niềm tin vào các đồng tiền chủ chốt, và xu hướng đầu cơ vào dầu thô và các loại hàng hóa cơ bản trong năm 2011 là không thể tránh khỏi. Theo dự báo của IEA, thời kì giá dầu thấp đã qua đi, dự báo giá dầu có thể tăng lên 100 USD/1 thùng trong năm 2011; giá thép thế giới cũng được dự báo tăng khoảng 10 - 20%.
Với quyền số hai nhóm hàng lương thực và thực phẩm là 32,53% (8,18% và 24,35%)  trong rổ hàng hóa tính CPI, giá lương thực, thực phẩm sẽ đóng góp đáng kể vào mức tăng chung của CPI năm 2011 (năm 2010, hai nhóm hàng lương thực và thực phẩm đóng góp 5,53% vào mức tăng chung của chỉ số CPI). Theo FAO, chỉ số giá lương thực của tổ chức này (dựa trên giá bán buôn của một rổ hàng hóa gồm các mặt hàng như lúa mì, ngô, gạo, các loại hạt cho dầu, các sản phẩm sữa, đường và thịt) đã lên mức 214,7 điểm, mức cao nhất từ khi được thiết lập vào năm 1990 (vượt cả đỉnh cao trong thời kì khủng hoảng lương thực thế giới 2007 -2008). Trong khi nhu cầu lương thực không ngừng tăng lên, sản lượng lương thực thế giới đang có xu hướng giảm do thiên tai, biến đổi khí hậu toàn cầu, hay diện tích đất nông nghiệp giảm mạnh. FAO dự báo sản lượng ngũ cốc thế giới sẽ giảm 2,1% trong niên vụ 2010/2011, góp phần đưa giá lương thực thế giới đang tạo đỉnh sẽ có khả năng tăng cao hơn.
Đóng góp thêm vào lạm phát năm 2011, sẽ là hệ quả của lộ trình tăng giá xăng dầu, điện, than, nước...theo tín hiệu thị trường, hay việc điều chỉnh tăng tiền lương tối thiểu lên 830.000 đ. kể từ ngày 1/5/2011. Chỉ số CPI tháng 1 năm 2011 tăng 1,74% so với tháng 12 năm 2010, nếu so với cùng kỳ năm trước, CPI tháng 1 tăng 12,17%. CPI tháng 1 năm nay cũng tăng cao hơn nhiều so với cùng kỳ những năm trước đó. Cụ thể, từ năm 1996 trở lại đây, thì chỉ có duy nhất tháng 1/2008 là tăng 2,38%, tháng 1 các năm còn lại đều tăng thấp hơn 1,7%. Điều này cho thấy sức ép lạm phát trong năm 2011 sẽ tiếp tục lớn.
Đúng như dự đoán của các chuyên gia, ngày 11/02/2011, NHNN công bố điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng lên mức 1 USD= 20.693 VND (tăng 9,3%) và thu hẹp biên độ giao dịch từ 3% xuống 1%. Việc điều chỉnh tăng tỉ giá USD/VND 9,3% vào ngày 11/02/2011 và 0,5% vào ngày 14/02/2011 càng làm cho bài toán kiểm soát lạm phát thêm khó khăn.
Với những yếu tố khách quan, chủ quan nêu trên, để hoàn thành chỉ tiêu lạm phát năm 2011 dưới 7% như Quốc hội đề ra,  đòi hỏi Chính phủ thực hiện nhất quán định hướng ưu tiên là ổn định vĩ mô, kiềm chế lạm phát hơn là tăng trưởng kinh tế.
3.2.5 Áp lực về tỉ giá, lãi suất
Nhập siêu trong năm 2011 dự báo tiếp tục ở mức cao khoảng 14,5 tỉ USD, trong khi dự trữ ngoại hối được IMF dự báo tăng từ mức 15,3 tỉ USD (tương đương 1,9 tuần nhập khẩu) trong năm 2010 lên 19,2 tỉ USD (2,1 tuần nhập khẩu) vào năm 2011, vẫn còn khá mỏng; các nguồn tài trợ thâm hụt như FDI giải ngân, ODA giải ngân và kiều hối được dự báo có mức tăng khá khiêm tốn. Năm 2009, cán cân thanh toán thâm hụt 8,8 tỉ USD; năm 2010, có sự cải thiện rõ rệt (theo báo cáo của Chính phủ tại cuộc họp thường kì cuối năm, cán cân thanh toán thâm hụt khoảng 4 tỉ USD, còn theo ước tính của IMF thì cán cân thanh toán thặng dư khoảng 1,2 tỉ USD trong điều kiện lỗi và sai sót bằng 0). Năm 2011, theo dự báo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư tại báo cáo trình Chính phủ về tình hình kinh tế - xã hội năm 2010 và dự báo kế hoạch phát triển năm 2011 ngày 17/10/2010 thì dự kiến cán cân thương mại thâm hụt 9,51 tỉ USD, cán cân dịch vụ thâm hụt 1,75 tỉ USD, thu nhập đầu tư thâm hụt 5,12 tỉ USD, chuyển tiền thặng dư 5,5 tỉ USD, và do đó, cán cân vãng lai thâm hụt gần 10,9 tỉ USD. Số thâm hụt này được bù đắp bằng thặng dư trong cán cân vốn và tài chính 11,8 tỉ USD. Cán cân tổng thể thặng dư khoảng 500 triệu USD. Còn theo dự báo của IMF, cán cân tổng thể năm 2010 thặng dư 1,2 tỉ USD và năm 2011, thặng dư khoảng 3,9 tỉ USD trong điều kiện lỗi và sai sót bằng 0. Như vậy, so với năm 2009, cán cân thanh toán năm 2010 và 2011 có sự cải thiện đáng kể. Tuy nhiên,  theo chúng tôi ước tính, cán cân thanh toán trong năm 2010 vẫn thâm hụt khoảng 2,5 tỉ USD và năm 2011, cán cân thanh toán có thể đạt trạng thái cân bằng hoặc nếu có thặng dư cũng không quá dồi dào do phần “lỗi và sai sót” trong cán cân tài khoản vốn gây ra. Thực tế tình trạng căng thẳng trên thị trường ngoại hối và giá vàng liên tục leo thang khiến doanh nghiệp và người dân găm giữ đô la và vàng. Như vậy, việc bố trí lại danh mục đầu tư của doanh nghiệp và người dân sang các loại tài sản bằng ngoại tệ và vàng sẽ tiếp tục gây ra vấn đề “lỗi và sai soát” trong cán cân thanh toán.
Do cán cân thanh toán được cải thiện, nhưng áp lực lạm phát, yếu tố tâm lí vẫn còn, nên trong năm 2011, mặc dù nhìn chung tỉ giá sẽ bình ổn hơn, cũng không tránh khỏi một số áp lực mang tính chu kì. 
Bảng 2: Cán cân thanh toán 2009 - 2011

2009
2010 (F)
2011 (F)
Cán cân vãng lai
- Cán cân thương mại
- Cán cân dịch vụ
- Cán cân thu nhập đầu tư
- Chuyển giao
- 7440
- 8.306
- 1.129
- 4.532
6527
- 9.405
- -10596
- 1649
- 3859
6698

- 9.470
- 10.422
- 1.645
- 4.755
7.340
Cán cân vốn
- FDI (ròng)
- Vay trung và dài hạn
- Vốn ngắn hạn khác (ròng)
- FPI
11.452
6900
4473
- 49
128
12113
7565
2541
439
1627
13.312
7.928
3.176
581
1.692
Lỗi và sai sót
- 12.178
0.0
0.0
Cán cân tổng thể
- 8.166
1208
3.842

Nguồn: Báo cáo thường niên 2009 của NHNN; IMF Country Report No. 10/281, September 2010

Tương tự các vấn đề về lạm phát, tỉ giá, sức ép về lãi suất trong năm 2011 vẫn còn hiện hữu, do các nguyên nhân chính sau: (1) Mặc dù lạm phát năm 2011 được dự báo giảm so với năm 2010, nhưng rủi ro lạm phát vẫn còn thường trực, yếu tố kì vọng lạm phát vẫn tương đối cao; với chủ trương của Chính phủ trong năm 2011 là ưu tiên ổn định vĩ mô, chính sách tiền tệ được dự báo sẽ thận trọng hơn; (2) Chênh lệch giữa đầu tư và tiết kiệm đang gia tăng, do mô hình tăng trưởng dựa vào đầu tư là chủ yếu nên nhu cầu về vốn luôn ở mức cao; do đó, lãi suất khó có thể giảm xuống mức thấp như các nước trong khu vực; (3) Tình trạng quản lí thanh khoản của một số ngân hàng thương mại cổ phần nhỏ mặc dù đã được cải thiện trong thời gian gần đây, nhưng vẫn còn gặp khó khăn, trong khi lại thường xuyên có nhu cầu vốn lớn với mục tiêu tăng trưởng tín dụng cao, ít có khả năng tiếp cận nguồn vốn giá rẻ; (4) Cạnh tranh không lành mạnh về lãi suất của một số ngân hàng tại một số thời điểm trong năm sẽ dịu đi, nhưng khó có thể mất đi.
Bên cạnh đó, sẽ có những yếu tố thuận lợi có thể bình ổn lãi suất theo hướng giảm dần, đó là: (i) Lạm phát năm 2011 dự kiến giảm xuống mức một chữ số thay vì hai chữ số trong năm 2010; (ii) Thâm hụt ngân sách giảm từ mức 5,8% GDP năm 2010 xuống còn 5,3% GDP năm 2011; trái phiếu chính phủ dự kiến phát hành 45 nghìn tỉ đồng so với 56 nghìn tỉ đồng năm 2010, giảm 11 nghìn tỉ đồng; (iii) Nguồn vốn tín dụng sẽ tập trung đầu tư cho khu vực sản xuất, phát triển nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, hạn chế cho vay các lĩnh vực phi sản xuất như bất động sản, chứng khoán... Một số biện pháp Chính phủ đang nghiên cứu và có thể đưa vào triển khai thực hiện trong năm nay để huy động thêm vốn bằng USD và vàng cũng có thể làm lãi suất hạ nhiệt; (iv) Trong trường hợp thị trường tiền tệ có diễn biến bất thường, NHNN có thể can thiệp bằng cách sử dụng Điều 12 Luật NHNN năm 2010 để quy định cơ chế điều hành lãi suất áp dụng trong quan hệ giữa các TCTD với nhau và với khách hàng, các quan hệ tín dụng khác.
Vì vậy, có khả năng lãi suất huy động năm 2011 bình quân sẽ ở mức 9,5 - 10,5% và lãi suất cho vay ở mức 12 -13%/năm

Nguồn tài liệu:
1- Nghị quyết số 51/2010/QH12 về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2011.
2- Nghị quyết số 52/2010/QH12 về dự toán ngân sách nhà nưúác nùm 2011.
3- Báo cáo Thủ tướng Chính phủ về tình hình kinh tế - xã hội năm 2010 và nhiệm và năm 2011.
4- Website của Tổng cục Thống kê, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính.
5- Báo cáo năng lực cạnh tranh của Việt Nam 2010, CIEM, ACI.
6- Báo cáo chuyên đề kinh tế vĩ mô tháng 1/2011, Công ty Chứng khoán Trí Việt.
7- World Economic Outlook, IMF, 10/2010
 8- Key Indicators for Asia and the Pacific 2010, ADB.
 9- IMF Country Report No 06/52, tháng 2/1005; No 10/2815, thaáng 9/2010.



[**] Đại học Quốc gia TP.Hồ Chí Minh
[††] NHNN


 Tải về 





Cách viết đề cương nghiên cứu khoa học

Đối với những người như tôi, viết đề cương nghiên cứu gần như là một … nghề. Năm nào cũng phải viết ít nhất 3 đề cương, có khi là đơn xin đề bạt, cũng có khi là đơn xin tái bổ nhiệm. Viết rất nhiều và thất bại cũng rất nhiều. Thất bại nhiều đến nổi khó đếm hết! Thất bại gần như là một … qui luật! Nhưng cũng có thành công, dù số lần thành công ít hơn số lần thất bại. Chính qua những thất bại, tôi mới học được những bài học đau lòng, và đó là lí do tại sao tôi muốn chia sẻ cùng các bạn trẻ hơn, hay các bạn chưa có kinh nghiệm (hay có ít kinh nghiệm) về cách viết đề cương nghiên cứu. Cố nhiên, tôi không dám hứa nếu các bạn tuân theo những gì tôi hướng dẫn là sẽ thành công, nhưng tôi dám hứa là xác suất thành công sẽ cao hơn là không làm theo những hướng dẫn ở đây. :-)

Trong cuộc sống hàng ngày, kể cả công việc chuyên môn, bất cứ ai trong chúng ta thường gặp những vấn đề đáng tìm hiểu, có khi rất lí tưởng cho nghiên cứu khoa học. Có những vấn đề không hẳn là phức tạp, nhưng có khi lại rất đơn giản. Thường, những vấn đề đơn giản là những vấn đề khó nhất, và có thể dẫn đến những khám phá quan trọng. Tại sao nam giới hay chết sớm hơn nữ giới? Tại sao người dân vùng nông thôn thường có làn da sậm hơn người dân thành thị? Tại sao bệnh nhân tử vong nhiều trong hai ngày cuối tuần? Chất lượng cuộc sống của những bệnh nhân sau khi xạ trị ra sao?



Đó là những vấn đề tuy đơn giản những đòi hỏi chúng ta phải suy nghĩ, tìm câu trả lời, và trong vài trường hợp, tìm giải pháp. Những câu trả lời có khi đã hình thành từ cảm nhận hoặc lương năng bình dân. Nhưng cũng có những câu trả lời xuất hiện một cách bất ngờ. Theo suy luận bình thường, nếu một người hàng xóm mắc bệnh ung thư và bác sĩ cho biết sẽ sống trong vòng 3 tháng nhưng trong thực tế sống đến 3 năm sau khi dùng một loại thảo dược, thì người ta sẽ nghĩ ngay đến thảo dược đó là có ích cho điều trị ung thư. Đó là một phát hiện tình cờ, nhưng phát hiện đó khó có thể đóng góp vào kho tàng tri thức y học, bởi vì chưa được hệ thống hoá. Một cách hệ thống hoá vấn đề là qua nghiên cứu khoa học.


1. Suy nghĩ như nhà khoa học

Do đó, đứng trước một vấn đề, một hiện tượng, chúng ta phải tập cách suy nghĩ như một nhà khoa học. Nhà khoa học suy nghĩ có phần khác với người thường, vì họ ít khi nào chịu sự chi phối của cảm tính. Một ca bệnh chưa đủ thuyết phục họ về một liệu pháp điều trị. Có trường hợp nhiều ca bệnh cũng chưa đủ để thuyết phục, bởi vì họ cần phải so sánh với nhóm không được điều trị (trong khoa học, thường được gọi là “nhóm chứng” – control group). Nói một cách ngắn gọn, nhà khoa học suy nghĩ qua 3 bước: đặt câu hỏi, phát biểu giả thuyết, và tiến hành thí nghiệm.
Câu hỏi nghiên cứu (research question) là một phát biểu mang tính bất định về một vấn đề. Vì mang tính bất định, nên nhà khoa học phải tìm hiểu những yếu tố nào dẫn đến sự bất định. Cần phải phân biệt một câu hỏi nghiên cứu tốt với một câu hỏi dở. Câu hỏi nghiên cứu tốt phải đáng ứng ít nhất 3 trong 5 tiêu chuẩn mà tôi tạm gọi là FINER.
  • F là viết tắt của feasibility, tức tính khả thi. Một câu hỏi nghiên cứu tốt phải khả thi, tức nhà khoa học có kinh nghiệm chuyên môn, có thể tuyển dụng đầy đủ bệnh nhân hay đối tượng nghiên cứu, có phương tiện đo lường và thí nghiệm, v.v.
  • I là interesting, tức thú vị. Một câu hỏi nghiên cứu tốt phải thú vị đối với nhà khoa học, xứng đáng để theo đuổi. Có nhiều nhà khoa học bỏ ra cả đời người chỉ theo đuổi một phân tử rất nhỏ.
  • N là novelty, tức có cái mới. Làm nghiên cứu là một việc làm sản sinh ra thông tin mới, phương pháp mới, hay ý tưởng mới. Một nghiên cứu chỉ lặp lại y chang những gì người khác đã làm thì không có cái gì mới, và được xếp vào nhóm “me too”.
  • E là ethics, tức đạo đức. Một nghiên cứu y khoa phải tôn trọng quyền con người, không làm hại người, phải bảo mật tuyệt đối (không được tiết lộ thông tin cá nhân ra ngoài). Một nghiên cứu y khoa còn phải đáp ứng những tiêu chuẩn về y đức. Nếu không đáp ứng tiêu chuẩn đạo đức / y đức thì dù câu hỏi có thú vị cỡ nào cũng phải bỏ đi!
  • R là relevant, tức liên đới. Thật ra, chữ “liên quan” ở đây có nghĩa là có ảnh hưởng. Một câu hỏi nghiên cứu mà nếu tìm được câu trả lời và có thể làm thay đổi chuyên ngành là một câu hỏi quan trọng. “Tác động” ở đây phải hiểu là có tác động tích cực đến thực hành lâm sàng, đến chính sách y tế của Nhà nước, hay có đóng góp một định hướng mới. Chẳng hạn như câu hỏi “Các chương trình truy tầm ung thư vú có hiệu quả giảm nguy cơ tử vong?” là một câu hỏi tốt vì câu trả lời sẽ làm thay đổi nhận thức của phụ nữ và thay đổi chính sách y tế. Những câu hỏi nghiên cứu, mà nếu có câu trả lời cũng chẳng thay đổi gì cho chuyên ngành hay chẳng đóng góp thêm gì về thông tin thì không đáng theo đổi.

Giả thuyết đối với nhà khoa học rất khác với câu hỏi nghiên cứu. Giả thuyết xuất phát từ câu hỏi nghiên cứu. Câu hỏi nghiên cứu xuất phát từ quan sát thực tế. Một câu hỏi nghiên cứu tốt sẽ dẫn đến giả thuyết khoa học hay.   Giả thuyết khoa học là một phát biểu mang tính tiên lượng giữa hai hay nhiều biến. Hai chữ tiên lượng ở đây rất quan trọng! Một phát biểu như “Có mối liên hệ giữa ung thư vú và loãng xương” không phải là giả thuyết vì không có tính tiên lượng. Nhưng một phát biểu như “Bệnh nhân ung thư vú có nguy cơ loãng xương thấp hơn bệnh không bị ung thư vú” thì được xem là một giả thuyết khoa học (vì có tính tiên lượng).
Cũng nên phân biệt giả thuyết khoa học với giả thuyết thống kê. Giả thuyết thống kê chỉ là một cách phát biểu giả thuyết khoa học để tiện cho việc kiểm định thống kê. Nếu giả thuyết khoa học là “bệnh nhân tiểu đường có tỉ trọng mỡcao hơn người không bị tiểu đường”, thì giả thuyết thống kê là “bệnh nhân tiểu đường có tỉ trọng mỡ bằng người không bị tiểu đường”. Giả thuyết thống kê vừa đề cập còn có khi gọi là giả thuyết vô hiệu (null hypothesis). Nhiệm vụ của nhà nghiên cứu là dùng dữ liệu để bác bỏ giả thuyết vô hiệu (và bác bỏ giả thuyết vô hiệu là gián tiếp chấp nhận giả thuyết đảo), bởi vì theo nhà triết học khoa học Karl Popper, chúng ta không thể nào chứng minh được một giả thuyết khoa học.
Sau khi đã có giả thuyết, bước kế tiếp là làm thí nghiệm (experiment). Thí nghiệm ở đây nên hiểu một cách rộng hơn, chứ không đơn thuần có nghĩa thí nghiệm trong phòng thí nghiệm. Một nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên (randomized controlled trial – RCT) mà theo đó một nhóm bệnh nhân được chia thành hai nhóm nhỏ (nhóm được điều trị và nhóm chứng không được điều trị) được xem là một thí nghiệm – thí nghiệm lâm sàng. Một nghiên cứu bệnh chứng cũng là một thí nghiệm. Thí nghiệm là một bước cực kì quan trọng để thu thập và phân tích dữ liệu, đi đến kết luận liên quan đến câu hỏi nghiên cứu.
Do đó, có thể nói rằng nghiên cứu là một chu trình khép kín. Bắt đầu từ câu hỏi nghiên cứu, nhà khoa học phát biểu giả thuyết, rồi tiến hành thí nghiệm để kiểm định giả thuyết đó. Một công trình nghiên cứu tốt thường mở ra một định hướng mới, và nhiều câu hỏi nghiên cứu mới. Chẳng hạn như câu hỏi “Tại sao người nông thôn có làn da sậm hơn người thành thị”, sau khi có câu trả lời (ví dụ) là do vitamin D, thì nó sẽ mở ra hàng loạt nghiên cứu mới: tại sao người thành thị hay thiếu vitamin D; yếu tố nào quyết định nồng độ vitamin D trong máu; vitamin D ảnh hưởng đến bệnh nào; nồng đồ vitamin D tối ưu là bao nhiêu; v.v. Một công trình nghiên cứu không mở ra một hướng mới là một công trình không xứng đáng để theo đuổi.

2. Đề cương nghiên cứu và văn phong
Thí nghiệm cần phải có qui trình và kế hoạch. Những qui trình và kế hoạch này phải được hoạch định (trước khi tiến hành nghiên cứu) trong một tài liệu mà tiếng Anh gọi là Research Proposal, và dịch sang tiếng Việt là “Đề cương nghiên cứu”. Tôi muốn hiểu hai chữ đề cương như sau: “Đề” là đề nghị, đề xuất; và “cương” là cương lĩnh. Đề cương nghiên cứu, do đó, là một tài liệu mà trong đó nhà khoa học đề nghị cương lĩnh hay chương trình làm việc. Đây là tài liệu quan trọng nhất trong một công trình nghiên cứu, vì qua đó mà cơ quan tài trợ có thể xét duyệt cấp kinh phí.
Tôi nghĩ có thể xem đề cương nghiên cứu như một bản vẽ của kiến trúc sư. Thật vậy, có thể xem nhà khoa học như là một kiến trúc sư. Kiến trúc sư phác hoạ chi tiết xây dựng một công trình trong bản vẽ. Nhà khoa học phác hoạ những chi tiết về qui trình làm nghiên cứu để thu thập và phân tích dữ liệu. Nếu bản vẽ là một tác phẩm của kiến trúc sư, thì chúng ta cũng có thể xem đề cương nghiên cứu như là một tác phẩm chữ nghĩa khoa học nhằm đi tìm câu trả lời cho câu hỏi nghiên cứu.
Đã là tác phẩm chữ nghĩa, thì cách viết đề cương nghiên cứu đóng vai trò rất quan trọng. Quan trọng là vì người đọc (có thể là nhà tài trợ, hay hội đồng xét duyệt) dựa vào đó mà quyết định cung cấp tài trợ hay không. Do đó, người viết (tức nhà khoa học) cần phải suy nghĩ rất cẩn thận, có hệ thống, và sử dụng ngôn ngữ cho chính xác. Nói thì có lẽ dễ, nhưng thực hành thì không dễ chút nào. Tài liệu này có mục đích khiêm tốn là chia sẻ cùng các bạn những kinh nghiệm về cách viết đề cương nghiên cứu y khoa sao cho thuyết phục và nâng cao xác suất được tài trợ.
Viết đề cương nghiên cứu khác với viết bài báo khoa học. Trước đây, tôi đã viết một loạt bài về cách viết một bài báo khoa học (có thể xem ở trang nguyenvantuan.net trong phần “Kĩ năng khác”). Nhưng phương pháp viết bài báo khoa học không thể áp dụng cho viết đề cương nghiên cứu. Những khác biệt chính là mục tiêu và thời gian tính. Mục tiêu của viết đề cương nghiên cứu là thuyết phục nhà tài trợ hay hội đồng xét duyệt rằng chúng ta có ý tưởng tốt, có cách tiếp cận hay, có phương tiện để thực hiện nghiên cứu. Mục tiêu của viết bài báo khoa học là để báo cáo những phát hiện rất cụ thể trong một nghiên cứu và những phát hiện này có ý nghĩa gì. Về thời gian tính, viết đề cương là phản ảnh về tương lai, còn viết bài báo khoa học là báo cáo những gì đã làm trong quá khứ. Viết đề cương mang tính hứa hẹn, nhưng hứa hẹn một cách khoa học (tức có bằng chứng), do đó rất khác với viết báo cáo khoa học thường mang tính biện minh và biện luận.
Theo kinh nghiệm cá nhân, tôi thấy viết đề cương nghiên cứu cung cấp cho mình nhiều cơ hội rất hay. Thứ nhất là cơ hội để sắp xếp ý tưởng mình một cách có hệ thống, có trước, có sau. Những ý tưởng hỗn độn, khi được mô tả trên trang giấy sẽ làm cho chúng ta suy nghĩ logic hơn. Thứ hai, viết đề cương cũng là một cơ hội để cập nhật hoá thông tin, vì chúng ta cần phải tìm hiểu trong y văn xem các đồng nghiệp khác đã làm gì. Thứ ba, từ đó, viết đề cương nghiên cứu cũng có nghĩa là tìm đồng nghiệp mới. Nhìn nhận như thế, viết đề cương có nhiều lợi ích, chứ không phải chỉ là “vẽ vời” theo cách nói mỉa mai của người ngoài cuộc.
Viết đề cương (hay viết văn nói chung) là một cách suy nghĩ. Có lẽ chúng ta đều đồng ý rằng viết văn là một phương tiện để chia sẻ thông tin với những người quan tâm. Người quan tâm có thể là đồng nghiệp của mình, nhưng cũng có thể là người không cùng chuyên ngành. Nhưng tôi muốn nghĩ rằng viết văn cũng là một cách thức hoàn thiện ý tưởng, và hiểu theo cách đó, viết chính là một phương tiện hay một công cụ để suy nghĩ. Suy nghĩ cũng cần phải có phương tiện, và theo tôi viết xuống những câu chữ do mình lựa chọn chính là một phương tiện. Có lẽ chính vì thế mà Nhà văn [và cũng là bác sĩ] Verghese từng nói một câu bất hủ, “I write to understand what I think” (tôi viết để tôi hiểu những gì tôi suy nghĩ). Tôi rất đồng ý với câu này.
Thế thì câu hỏi đặt ra là tiêu chuẩn gì để đánh giá cách viết đề cương nghiên cứu là “tốt” hay “dở”. Kinh nghiệm cá nhân tôi cho thấy có 5 tiêu chuẩn: trong sáng, đơn giản, chính xác, khách quan, và cấu trúc logic.
Trong sáng có nghĩa là tránh những câu văn rườm rà, những từ khó hiểu. Tôi thường nói đùa [và hay lấy làm ví dụ] về câu thơ của một tác giả tôi rất mến mộ (Lê Đạt): Tôi tha thẩn giữa chùa Quán Ngữ / Lời chuộc tuổi mình nói thật khai sinh. Câu đó trích trong tập thơ Đường Chữ. Một thi sĩ khác tôi cũng rất ngưỡng mộ là Hoàng Cầm, người sáng tác thơ một cách siêu thoát. Ông có sáng tác bài Tình Cầm, trong đó có hai câu rất du dương: Nếu anh còn trẻ như năm cũ / Quyết đón em về sống với anhCó thể nói đó là những câu thơ độc đáo, gieo vần tuyệt vời, âm điệu rất nhạc tính, nhưng nhà khoa học không thể viết như thế được. Nhà khoa học phải viết văn trong sáng. Chẳng hạn như nếu nói còn trẻ thì phải định lượng rõ ràng bao nhiêu tuổi là trẻ; nếu nói năm cũ thì phải nói năm nào; nếu nói về sống với anh thì phải nói sống ở đâu. Văn phong khoa học không thể chung chung được. Nhà khoa học không phải nhà thơ. Nhưng rất tiếc, nhiều khi tôi bắt gặp những câu rất thơ trong những bài báo khoa học từ đồng nghiệp Việt Nam. Một triết gia Đức từng phê bình người Á đông rằng chúng ta [người Á đông] hay lẫn lộn giữa thơ và khoa học!
Trong văn phong khoa học, một câu văn phải có thông tin. Câu văn không có thông tin là câu văn thừa. Ví dụ tiêu biểu cho câu văn không có thông tin là [hay thấy trong giới báo chí] “Công trình nghiên cứu có 2 mục tiêu.” vì đọc xong câu văn người đọc không có bất cứ một nội dung nào cả. Nhưng nếu viết “Công trình nghiên cứu có 2 mục tiêu: xác định ảnh hưởng của can thiệp, và xác định yếu tố nguy cơ” thì đó là một câu văn có thông tin. Thử đọc 2 câu:
Ngoài ba khía cạnh trên, chúng tôi còn phân tích vấn đề dựa trên lí thuyết văn hoá xã hội.
Ở đây, lại có nhiều khía cạnh khác.
Hai câu văn này có thể thích hợp cho báo chí, nhưng hoàn toàn thất bại trong khoa học! Nói cách khác, trong văn cảnh khoa học, một câu văn phải tồn tại một cách riêng lẻ (self-contained), có thông tin và có ý; đọc câu văn như thế người đọc không hẳn cần phải đọc câu trước.
Đơn gin có nghĩa là dùng từ ngữ dễ hiểu, chính xác, và câu văn ngắn. Trong tiếng Việt có những câu chữ rất dài để mô tả một ý, nhưng nếu đọc kĩ có thể viết ngắn gọn hơn. Thay vì dùng những danh từ gốc Hán, chúng ta nên cố gắng dùng những danh từ gốc Việt.
Chính xác là định lượng hoá nội dung thông tin. Tránh những từ ngữ mù mờ. Tiếng Việt ta (và tiếng Anh cũng thế) có những chữ như khong, xấp xỉ, độ, gn, đa số, phần lớn, nói chung, v.v. không mang tính định lượng cao. Khoa học là cân đo đong đếm, nên cố gắng viết một cách định lượng. Khó biết bao nhiêu là đa số, 80% hay 90% là đa số? Thay vì viết “Đa số bệnh nhân …”, chúng ta nên viết (nếu có số liệu) “80% bệnh nhân …” thì sẽ rõ ràng hơn. Trong khoa học không có chuyện “nói chung”. Viết đến đây tôi nhớ có lần ông Nguyễn Bá Thanh chất vấn một giám đốc sở giao thông vận tải thuộc Thành phố Đà Nẵng, và ông giám đốc trả lời “Thưa anh, nói chung là ….”, ông Thanh ngắt lời ngay: Nói riêng, chứ không nói chung. Hội trường cười xoà. Ông Nguyễn Bá Thanh đã áp dụng tiêu chuẩn khoa học vậy.
Khách quan là cách viết phi cảm tính, và nhất là không “nhét chữ vào miệng người đọc”. Thay vì viết “Sự khác biệt rấtcó ý nghĩa lâm sàng”, thì nên viết “Sự khác biệt có ý nghĩa lâm sàng” rồi trích dẫn con số hay dữ liệu để người đọc phán xét. Khách quan cũng có nghĩa là tránh giả định (kiểu như Ai cũng biết rng …). Tuân theo nguyên tắc khách quan còn có nghĩa là tránh những câu văn không có chứng cứ.
Cu trúc logic là phải cố gắng sắp xếp ý tưởng một cách có trước có sau, khúc chiết. Có một thống kê [tôi không còn giữ nguồn] cho rằng 85% những hiểu lầm là do cấu trúc đoạn văn, chỉ có 15% hiểu lầm là do nội dung. Do đó, có lẽ đây là tiêu chuẩn quan trọng nhất trong cách viết đề cương. Bất cứ khái niệm gì mới cần phải có giải thích trước đó. Nếu một đoạn văn xuất hiện cụm từ “chất lượng cuộc sống” mà không được đề cập đến trong các đoạn văn trước là một cách viết rất … dở (thiếu tính khúc chiết).
Cấu trúc câu văn và đoạn văn để nhấn mạnh một chủ đề. Chúng ta thử đọc 4 câu văn sau đây:
  1. Mc dù thuc có hiu qu cao, nhưng cũng gây tác hđáng k.
  2. Mc dù thuc gây tác hđáng k, nhưng có hiu qu cao. 
  3. Thuc có tác hđáng k, nhưng rt hiu quả. 
  4. Thuc có hiu qu cao, nhưng gây tác hđáng k
Cái khác biệt chính giữa các câu văn có lẽ không phải nội dung, mà là vị trí nhấn mạnh ý tưởng. Câu hỏi đặt ra là trong một câu văn, cần nhấn mạnh phần nào: phần đầu, phần giữa, hay phần cuối? Các chuyên gia về viết văn khuyến cáo rằng nên dùng phần đầu để nhấn mạnh điểm chính yếu. (Cũng có chuyên gia đề nghị nên dùng phần cuối câu văn để nhấn mạnh). Nên mở đầu câu văn với một từ khoá, nếu chúng ta muốn người đọc chú ý đến chủ đề đó. Trong câu loãng xương là một vấn đề y tế quan trọng, ý tôi nhấn mạnh đến loãng xương. Tuy nhiên, nếu tôi viết Một trong những vấn đề y tế quan trọng nhất hiện nay là loãng xương, thì cũng nói lên cái ý đó, nhưng có lẽ người đọc sẽ hiểu rằng tôi đang nhấn mạnh đến khía cạnh y tế hơn là loãng xương.
Vị trí nhấn mạnh và cách dùng có khi làm cho người đọc hiểu khác. Trong một cuốn sách về cách soạn câu hỏi trong nghiên cứu khoa học, tác giả kể chuyện [vui] về 2 thầy tu, một người tu dòng Đa Minh (Dominican) và một người tu dòng Tên (Jesuit), thảo luận xung quanh vấn đề tội và hút thuốc lá trong khi cầu nguyện. Sau một lúc thảo luận hai người bất đồng ý kiến, và mỗi người đi hỏi bề trên của mình. Tuần thứ hai, họ gặp lại, và có cuộc đối thoại như sau:
Vị tu sĩ dòng Đa Minh hỏi vị tu sĩ dòng Tên: Thế bề trên của anh nói gì?
Vị tu sĩ dòng Tên: Ngài nói ok.
Tu sĩ dòng Đa Minh: Vui nhỉ! Bề trên của tôi nói rằng đó là một tội.
Tu sĩ dòng Tên: Thế anh hỏi bề trên của anh như thế nào?
Tu sĩ dòng Đa Minh: Tôi hỏi ngài rằng hút thuốc lá trong khi cầu nguyện có ok không?
Tu sĩ dòng Tên ồ lên rồi nói: Ah, còn tôi hỏi ngài rằng cầu nguyện trong khi hút thuốc lá có ok không.
Đó là một bài học đáng chú ý về cách đặt chữ vào vị trí thích hợp. Chỉ cần thay đổi thứ tự của chữ là có thể thay đổi ý nghĩa của câu văn, và làm cho người đọc có thể hiểu khác. Trong viết văn khoa học, tác giả không nên để cho người đọc hiểu hai nghĩa!
Ngoài ra, nên tránh cách viết “đánh trống bỏ dùi”. Đó là cách viết tuyên bố một chủ đề, nhưng những câu sau đó lại nói về chủ đề khác. Thử đọc đoạn văn:
Viêm gan siêu vi lao là một bệnh nhiễm trùng thường gặp và nguy hiểm do nhiều loại siêu vi khác nhau gây ra. Các loại siêu vi này rất khác nhau nhưng biểu hiện lâm sàng tương tự nhau.
Câu đầu của đoạn văn trích dẫn trên có 2 ý: sự phổ biến và đa dạng của siêu vi. Nhưng câu thứ hai thì không cung cấp thêm thông tin để bổ nghĩa cho câu đầu. Với những tác giả có kinh nghiệm, mỗi câu văn chỉ nói lên 1 ý mà thôi; tham vọng quá sẽ không chuyển tải hết ý nghĩa.
http://www.cartoonstock.com/newscartoons/cartoonists/cca/lowres/ccan251l.jpg

4. Nội dung một đề cương nghiên cứu
Một đề cương nghiên cứu bao gồm những gì? Trả lời câu hỏi này còn tuỳ thuộc vào “văn hoá” và qui định địa phương. Ở Việt Nam, những đề cương nghiên cứu thường có những đề mục sau đây:
  • Mục tiêu của đề tài;
  • Tổng quan tình hình nghiên cứu và tính cấp thiết của đề tài ;
  • Nội dung nghiên cứu;
  • Phương pháp nghiên cứu, cách tiếp cận vấn đề;
  • Hợp tác quốc tế (nếu có) ;
  • Tiến độ thực hiện;
  • Dạng kết quả dự kiến của đề tài;
  • Yêu cầu khoa học đối với những sản phẩm dự kiến tạo ra;
  • Kế hoạch triển khai;
  • Lợi ích mang lại và tác động của kết quả nghiên cứu;
  • Các tổ chức tham gia nghiên cứu; và
  • Kinh phí.
Những đề mục của một đề cương nghiên cứu trên đây không có vấn đề gì, nhưng cách tổ chức và sắp xếp thông tin thì hơi khác so với nước ngoài. Những đề mục như các tổ chức tham gia nghiên cứu, kinh phí là vấn đề hành chính, đáng lẽ phải trình bày trong một tài liệu riêng. Ở nước ngoài (cụ thể là Úc, Anh, Đức, Thái Lan, Mĩ, v.v., những nơi mà tôi có kinh nghiệm) thì nội dung một đề cương nghiên cứu thường đơn giản hơn Việt Nam. Ở những nước đó, một đề cương nghiên cứu bao gồm những phần sau đây:
  • Tóm lược (synopsis): giống như một tóm tắt cho một dự án nghiên cứu. Thường thường chỉ 1-2 trang giấy;
  • Mục tiêu cụ thể (specific aims);
  • Bối cảnh và tầm quan trọng (background & significance);
  • Kết quả nghiên cứu sơ khởi (preliminary results);
  • Kế hoạch nghiên cứu và phương pháp (research design and methods); và
  • Tài liệu tham khảo.
Tuy những đề mục của đề cương Việt Nam có vẻ hơi nhiều, nhưng số trang thường chỉ dao động trong khoảng 10 đến 20 trang. Ở nước ngoài, như NIH (Viện Y tế của Mĩ chuyên cấp tài trợ cho nghiên cứu y sinh học – và cũng là một trung tâm nghiên cứu) thì có qui định số trang rất rõ ràng. Một đề cương của NIH tối đa là 30 trang (hiện nay thì có thay đổi và giảm xuống còn 20 trang?) Tôi có làm một so sánh giữa một đề cương tiêu biểu của VN và của NIH thì thấy như sau:
So sánh số trang của một đề cương VN và NIH
Đề mục
Vit Nam
Mĩ (NIH)
Tổng quan tài liệu
10
2
Mục tiêu
1
1
Kết quả sơ khởi
0
6-8
Phương pháp
5
10-20
Nói cách khác, đề cương nghiên cứu của VN viết dài về bối cảnh và tổng quan tài liệu, nhưng rất ngắn về phương pháp. Ngược lại, ở nước ngoài (tiêu biểu là NIH của Mĩ), một đề cương nghiên cứu chủ yếu là phần phương pháp (rất dài) nhưng phần tổng quan tài liệu thì ngắn. Rất nhiều đề cương nghiên cứu từ VN mà tôi đọc qua, trong phần tổng quan tài liệu, tác giả viết dài nhưng chẳng liên quan gì đến chủ đề và mục tiêu nghiên cứu! Hầu như đề cương nghiên cứu y khoa nào cũng viết theo một công thức, trong đó có cả phác đồ điều trị, những định nghĩa rất căn bản về bệnh, những yếu tố nguy cơ (mà có lẽ ai trong ngành cũng biết). Có khi đề cương nghiên cứu tìm hiểu tỉ lệ mắc bệnh, nhưng tác giả phải điểm qua một cách khá dài dòng về phương pháp điều trị! Phần lớn những thông tin này thật ra là tác giả dịch từ sách giáo khoa, hoặc dịch từ những bài tổng quan trên các tập san ở nước ngoài (và không buồn sửa biểu đồ tiếng Anh hay ghi nguồn!) chứ tác giả cũng chưa hẳn am hiểu.
Một điểm khác biệt đáng chú ý là đề cương nghiên cứu ở nước ngoài phải có phần “Kết quả sơ khởi”, còn ở Việt Nam thì không có hoặc không yêu cầu. Ở Úc, một đề cương mà không có kết quả sơ khởi (hay những nghiên cứu trước đây cùng chủ đề mà nhà khoa học đã làm) thì không bao giờ được qua vòng đầu xét duyệt, rất rất khó có khả năng được tài trợ. Trong các phần sau đây, tôi sẽ trình bày cách viết 4 phần quan trọng nhất: mục tiêu, bối cảnh, nghiên cứu sơ khởi, và phương pháp nghiên cứu. Tôi sẽ cố gắng đưa vài ví dụ cụ thể từ những đề cương trước đây của tôi và của các đồng nghiệp khác. Vì bài này cũng nhắm đến các bạn nghiên cứu sinh đang hay sắp đi học nước ngoài, nên tôi cũng trình bày vài ví dụ bằng tiếng Anh để các bạn có thể tham khảo.
4.1 Phần mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu là phần quan trọng của một đề cương nghiên cứu, vì đó là “bộ mặt” mà người đọc sẽ nhìn qua. Khi người đọc thấy mục tiêu nghiên cứu có cái gì mới hay thú vị thì họ sẽ đọc tiếp; nếu không, họ có thể xếp lại đề cương và thế là tác giả đã thất bại. Do đó, có thể xem phần mục tiêu nghiên cứu như là một cái test cho người đọc. Chỉ khi nào cái test này được qua thì tác giả mới thành công một phần trong việc thuyết phục người đọc.
Phần mục tiêu nghiên cứu nên được cấu trúc 3 phần như sau:
  • Một đoạn văn tổng quát về vấn đề chung;
  • Phát biểu về mục tiêu chung (tiếng Anh gọi là goal);
  • Phát biểu về mục tiêu chuyên biệt (specific aims), và mỗi mục tiêu nên kèm theo một giả thuyết.
Đoạn văn tổng quát phải nói được vấn đề lớn mà nhà nghiên cứu quan tâm. Đó là một đoạn văn mang tính holistic, hay bối cảnh nghiên cứu mà đề cương này sẽ đóng góp một phần tri thức.
Mục tiêu chung hay mục tiêu tổng quát là mục tiêu lâu dài mà nhà nghiên cứu muốn đạt được. Có thể nghiên cứu hiện nay chưa đạt được, nhưng sẽ đóng góp một phần trong định hướng giải quyết vấn đề về lâu về dài. Trong bóng đá, mục tiêu tối hậu và tổng quát là phá lưới; tương tự, trong nghiên cứu khoa học, mục tiêu tổng quát là nhắm đến giải quyết một vấn đề chung cho chuyên ngành.
Mục tiêu chuyên biệt là những tâm điểm cụ thể. Cụ thể hiểu theo nghĩa có thế đo lường được, có thể kiểm định được. Người viết đề cương kinh nghiệm thường viết mỗi mục tiêu chuyên biệt kèm theo một giả thuyết. Thỉnh thoảng, nếu có “đất”, nhà nghiên cứu nên kèm theo những kết quả dự kiến cho từng mục tiêu. Thông thường chỉ cần 2-3 mục tiêu chuyên biệt là đủ. Nhiều mục tiêu quá sẽ khó thực hiện; ít quá sẽ không đáp ứng tiêu chuẩn của một dự án nghiên cứu khoa học.
Trong thực tế, tôi đã từng thấy nhiều đề cương thất bại (kể cả của chính tôi) vì cách phát biểu mục tiêu chưa đạt. Những sai lầm phổ biến trong cách viết mục tiêu chuyên biệt bao gồm:
  • Mục tiêu phi thực tế, tức thiếu tính khả thi;
  • Mục tiêu không có lí do chính đáng (giống như từ “trên trời rơi xuống”);
  • Mục tiêu mang tính quá mô tả (như tìm hiểu bao nhiêu nam và nữ có hội chứng chuyển hoá);
  • Mục tiêu quá phức tạp, mà đọc lên người ta không hiểu tác giả muốn làm gì;
  • Mục tiêu quá phụ thuộc lẫn nhau (sẽ bàn dưới đây).

Ví dụ 1: Đây là trích dẫn đề cương nghiên cứu về loãng xương của một đồng nghiệp và có sự đồng ý của tác giả.
[Đoạn văn tổng quát để “dìu dắt” độc giả rằng đây là vấn đề quan trọng]: Loãng xương là một bệnh mà lực của xương bị suy giảm, chất lượng xương xuống cấp, và hệ quả là tăng nguy cơ gãy xương. Hệ quả của loãng xương là gãy xương. Chẩn đoán loãng xương dựa vào đo lường mật độ xương. Tuy nhiên, ở Việt Nam chưa có giá trị tham chiếu cho việc chẩn đoán loãng xương.
[Mục tiêu tổng quát đáp ứng vấn đề chung]: Mục tiêu lâu dài của nghiên cứu này là phát triển tiêu chuẩn chẩn đoán loãng xương cho người Việt (nam và nữ) và xây dựng mô hình tiên lượng gãy xương. Hoàn thành mục tiêu này sẽ giúp cho việc chẩn đoán loãng xương chính xác hơn, và nhận dạng những cá nhân có nguy cơ gãy xương cao để can thiệp sớm và giảm qui mô loãng xương trong cộng đồng.
[Mục tiêu chuyên biệt] Để đạt được mục tiêu đó, chúng tôi đề nghị theo đuổi các mục tiêu cụ thể như sau:
  • Mục tiêu 1: Xây dựng giá trị tham chiếu mật độ xương đùi và xương cột sống ở nam và nữ; và qua đó, xác định chỉ số cho chẩn đoán loãng xương ở người Việt.
  • Giả thuyết 1: Mật độ xương ở người Việt thấp hơn mật độ xương ở người Âu Mĩ; do đó, chỉ số T của người Việt cũng khác với chỉ số T của Tổ chức Y tế Thế giới.
  • Kết quả kì vọng: Giá trị tham chiếu về mật độ xương (trung bình, độ lệch chuẩn, chỉ số T) có thể sử dụng cho việc chẩn đoán loãng xương ở nam và nữ Việt Nam.
  • Mục tiêu 2: Xác định tỉ lệ lưu hành loãng xương và gãy xương ở nam và nữ;
  • Giả thuyết 2: Nữ giới có nguy cơ loãng xương và gãy xương cao hơn nam giới, nhưng độ khác biệt sẽ giảm dần trong độ tuổi trên 70.
  • Kết quả kì vọng: Kết quả là tần số loãng xương và gãy xương theo giới và độ tuổi. Những kết quả này sẽ cung cấp chứng cứ về qui mô loãng xương và gãy xương ở người cao tuổi và sau mãn kinh (nữ).
  • Mục tiêu 3: Xác định yếu tố nguy cơ liên quan đến loãng xương và gãy xương, kể cả các markers chu chuyển xương, và qua đó phát triển mô hình tiên lượng loãng xương và gãy xương.
  • Giả thuyết 3: Marker chu chuyển xương tăng theo độ tuổi, và chu chuyển xương cao tương quan với sự suy giảm mật độ xương ở nam và nữ.
  • Kết quả kì vọng: Giá trị tham chiếu về marker chu chuyển xương, và mô hình tiên lượng gãy xương cho người Việt. Với mô hình này, các bác sĩ có thể ước tính nguy cơ gãy xương ngay cả trong điều kiện không có máy DXA.
Ví dụ 2: Trong ví dụ này, tác giả viết phần mục tiêu rất “bài bản”.
[Mở đầu là vấn đề chung]. Exposure to pathogenic microbial lipids, like lipopolysaccharide (LPS), triggers a complex and coordinated protective response by the immune system. A growing body of evidence indicates that triglyceride-rich lipoproteins and apolipoprotein E (apoE) play an integral role in host defense against bacterial infection. Yet, how these non- traditional elements of the immune system contribute to host immunocompetence is unclear. Published data indicate that apoE is protective against bacterial infection and injury. Accordingly, infusion of apoE has been shown to decrease LPS-induced morbidity and mortality in rodents. [2, 3] Also, apoE-deficient mice have an increased susceptibility to lethal infection when injected with live bacteria. [4, 5] But, unexpectedly, our laboratory has recently discovered that infusion of apoE increased rather than decreased mortality after cecal ligation and puncture, an in vivo model of polymicrobial sepsis. [1] We believe that this discordant observation highlights a novel activity for apoE in regulating the host response to pathogenic microbial lipid antigens through activation of thymus-derived lymphocytes (T cells). Consequently, uncovering the role that triglyceride-rich lipoproteins, apoE and T cells play in the mammalian response to infection simultaneously assigns important new biological functions to plasma lipoproteins, further blurs the boundary separating innate and adaptive immunity, and provides unique insights into the host response to infection that could yield innovative therapies for sepsis. [dùng gạch dòng để nhấn mạnh mục tiêu chungThis proposal will investigate how apoE and natural killer T (NKT) cells, a sub-population of T lymphocytes, contribute to the host response to severe sepsis following cecal ligation and puncture in mice. Furthermore, we will test the hypothesis that modifying the expression or activity of apoE can protect against sepsis.
[Phát biểu giả thuyết chung] Our working hypothesis that triglyceride-rich lipoproteins are integral components of the immune system is supported by the following observations. First, the synthesis and secretion of triglyceride-rich lipoproteins is dramatically increased during clinically significant infections, an observation termed “lipemia of sepsis.” Second, triglyceride-rich lipoproteins bind various microbial lipids and thus protect against shock and death in rodent models of sepsis. [6-9] Third, triglyceride-rich lipoproteins clear LPS from the circulation and deliver it to the liver [7, 10], where lipoprotein-LPS complexes subsequently modulate the hepatic immune response to infection. [11-14] And, fourth, apoE has recently been shown to bind and deliver microbial lipids to antigen-presenting cells, a critical step in activating NKT cells and the immune system.
[Phát biểu giả thuyết chuyên biệtThe specific hypothesis driving the proposed research is that apoE, a key constituent of triglyceride- rich lipoproteins, regulates the host response to severe infection through its effects on NKT cell activation and cytokine production. By examining the effect of apoE on an in vivo model of polymicrobial sepsis in mice, we aim to uncover the regulatory impact of apoE on the immune response to infection. Our long term goal is to identify how plasma lipoproteins contribute to host immunocompetence and apply this knowledge to the development of novel and effective treatments for severe bacterial infections.
[Mục tiêu chuyên biệt, dùng tô đậm để nhấn mạnh và gây chú ý. Trong mỗi mục tiêu, tác giả chỉ ra họ sẽ có kết quả gì] The specific aims of the proposal are therefore:
1. To demonstrate that serum apolipoprotein E (apoE) concentrations correlate with morbidity and mortality in a murine model of polymicrobial sepsis.
A. show that apoE increases mortality following cecal ligation and puncture (CLP) sepsis in mice in a dose-dependent manner;
B. show that apoE increases CLP-induced morbidity via changes in Th1 cytokine secretion, liver injury and bacterial clearance;
2. To demonstrate that apoE promotes the activation of natural killer T (NKT) cells during CLP-induced sepsis.
A. delineate the effect of apoE on NKT cell frequency, proliferation, cytokine expression and cytotoxic effector functions in the liver, spleen and thymus following CLP in mice;
B. show that apoE-mediated immune regulation during sepsis is dependent on NKT cell activation using
immunodeficient mice;
3. To test the hypothesis that inhibition of apoE activity protects against the morbidity and mortality of sepsis.
A. show that the biochemical, immunologic or genetic inhibition of apoE activity protects against sepsis;
B. examine the effect of modifying apoE activity during the early versus late phase of sepsis.
Ví dụ 3: Đây là một đề cương nghiên cứu lâm sàng ở Mĩ. Tác giả có cách viết cô đọng hơn. Mở đầu, tác giả mô tả một cách ngắn gọn về nội dung của nghiên cứu. Sau đó, tác giả phát biểu mục tiêu chính (primary aim) và mục tiêu phụ (secondary aim).
[Mở đầu, mô tả ngắn gọn về công trình IRIS và giả thuyết] The Insulin Resistance Intervention after Stroke Trial (IRIS) is a randomized, double-blind, placebo-controlled trial that will test the hypothesis that reducing insulin resistance and its sequelae with thiazolidinedione therapy will prevent stroke and myocardial infarction among patients with a recent ischemic stroke. Eligible subjects are men and women over 44 years of age without diabetes mellitis who have insulin resistance and a non- disabling ischemic stroke. During 3 years of recruitment, 3136 patients will be randomly assigned to pioglitazone, a thiazolidinectone, or placebo.
[Mục tiêu chuyên biệt] The specific aims are as follows. 1. Primary Aim. To determine if pioglitazone, compared to placebo, will reduce the overall risk for fatal or non-fatal stroke or fatal or non-fatal MI among non-diabetic men and women over age 44 years with insulin resistance and a recent ischemic stroke.
Among diabetics with insulin resistance, we hypothesize that pioglitazone will reduce the occurrence of any primary endpoint (fatal or non-fatal stroke or MI) within four years from 27% to 22%. The basis of this hypothesis is research showing... (details about studies associating insulin resistance with increased risk for stroke, MI, etc.)...By these and other mechanisms, we hypothesize that pioglitazone will protect patients with ischemic stroke and insulin resistance against recurrent vascular events.

Trong các ví dụ trên đây, dễ dàng thấy rằng các mục tiêu chuyên biệt tuy nhắm đến một mục tiêu tổng quát, nhưng không lệ thuộc vào nhau. Đây là một chiến lược trong việc soạn đề cương nghiên cứu. Nếu mục tiêu 2 tuỳ thuộc vào sự thành bại của mục tiêu 1, và mục tiêu 3 phụ thuộc vào kết quả của mục tiêu 2, thì đề án sẽ rất … nguy hiểm. Nguy hiểm là vì nếu mục tiêu trước thất bại, thì tất cả các mục tiêu khác đều không thể thành hiện thực, và do đó, công trình nghiên cứu sẽ không khả thi. Bài học ở đây là cần phải thiết kế nghiên cứu sau cho các mục tiêu chuyên biệt ít phụ thuộc vào nhau.

4.2 Phần bối cảnh và tầm quan trọng
Phần bối cảnh và tầm quan trọng, như tên gọi, có chức năng “dàn dựng sân khấu” cho công trình nghiên cứu. Không chỉ dàn dựng, mà còn phải nói lên được tầm quan trọng của công trình nghiên cứu. Không ai muốn đầu tư vào những công trình nghiên cứu không gây ảnh hưởng hay tác động tích cực. Có 2 phần chính là bối cảnh (background) và tầm quan trọng (significance):
Trong phần bối cảnh, tác giả cần phải viết theo phong cách kể chuyện. Nhưng kể chuyện một cách khoa học, sao cho đồng nghiệp không cùng chuyên ngành vẫn có thể hiểu được vấn đề. Mỗi một mục tiêu chuyên biệt trong phần đầu cần phải được lí giải trong phần bối cảnh. Phải viết và thuyết phục người đọc sẽ đọc tiếp, và muốn đạt mục đích đó, tác giả cần phải viết theo công thức chung:
Cái gì đã biết --> cái gì chưa biết --> câu hỏi
Known --> unknown --> question

Nói cách khác, tác giả phải điểm qua những nghiên cứu trước (đã biết), và chỉ ra cho được khoảng trống tri thức (chưa biết), để đặt thành câu hỏi cho nghiên cứu. Ví dụ chúng ta đã biết tình trạng thiếu vitamin D ở các tỉnh miền Nam, nhưng vì miền Bắc có thời tiết khí hậu khác và chưa ai biết tần số thiếu vitamin D ngoài Bắc, nên câu hỏi là tỉ lệ thiếu hụt vitamin D ở cư dân phía Bắc là bao nhiêu.
Về cách viết, không chỉ đơn giản liệt kê những nghiên cứu trước, mà phải dùng “phương pháp 4C”. Phương pháp này viết tắt từ 4 động từ:
  • Compare – so sánh: tác giả cần phải so sánh những thông tin từ những nghiên cứu trước;
  • Contrast – đối chiếu: sau đó đối chiếu và giải thích tại sao có sự khác biệt;
  • Cite – trích dẫn: điều bắt buộc là nếu dùng dữ liệu của đồng nghiệp thì phải trích dẫn; và
  • Critique – phê bình: “Phê bình” ở đây có nghĩa là phê bình một cách kính trọng, chứ không mang tính đánh đổ đồng nghiệp. Cách viết hay nhất là thay vì phê phán, tác giả có thể trình bày một cách hiểu, cách diễn giải khác để xem như là một cách đóng góp vào y văn.

Trong phần tầm quan trọng (significance), tác giả cần phải “giải trình” rằng công trình nghiên cứu sẽ có tác động đến:
  • Chuyên ngành;
  • Chính sách y tế hay thực hành lâm sàng;
  • Phương pháp mới; và
  • Tri thức sẽ rút ra được từ công trình nghiên cứu.
Phần tầm quan trọng có khi phải dùng đến kĩ thuật “pitch” (lên giọng). Nói cách khác, cần viết sao cho người khác có thể trích dẫn một câu từ đề cương. Chẳng hạn như nếu là nghiên cứu về di truyền, tôi có thể viết
The studies in this proposal will provide a basis for understanding allelic heterogeneity influencing clinical endpoints, ultimately impacting on disease development” (những nghiên cứu mô tả trong đề cương này sẽ cung cấp nền tảng để hiểu biết về sự đa dạng alen có ảnh hưởng đến kết cục lâm sàng, và sau cùng là tác động đến sự tiến triển của bệnh).
Một câu như thế đối với vài đồng nghiệp ở Việt Nam sẽ gọi là “nổ”, nhưng ở nước ngoài thì hoàn toàn có thể chấp nhận được. Vấn đề còn tuỳ thuộc vào vị trí của tác giả và uy tín trong chuyên ngành. Nghiên cứu sinh có lẽ không nên viết khiêm tốn hơn, nhưng với người đã có “tên tuổi” thì một câu pitch như thế hoàn toàn bình thường. Nên nhớ rằng viết đề cương là một cách bán ý tưởng, nên tác giả cần phải thuyết phục tầm quan trọng của nghiên cứu.
Ví dụ 4: Trong đề cương cứu dưới đây, tác giả muốn thuyết phục người đọc về tầm quan trọng của công trình nghiên cứu:
Loãng xương và gãy xương là một vấn đề y tế cộng đồng lớn ở nước ta, vì hàng năm có khoảng 200.000 người gãy xương, dẫn đến giảm tuổi thọ và hạn chế lao động. Mật độ xương là một chỉ số lâm sàng quan trọng vì MĐX có thể tiên lượng nguy cơ gãy xương cho một cá nhân. Vì thế, MĐX còn được sử dụng để chẩn đoán loãng xương.
Công trình nghiên cứu này có mục tiêu xây dựng giá trị tham chiếu MĐX cho phụ nữ và đàn ông Việt Nam. Với giá trị tham chiếu này, việc chẩn đoán loãng xương ở người Việt sẽ chính xác hơn và qua đó chúng ta có thể biết được qui mô loãng xương ở nước ta.
Do đó, công trình nghiên cứu mang tính cấp thiết, vì sự hiện diện của máy DXA nhiều ở nước ta nhưng chưa có giá trị tham chiếu cho người Việt. Vì thế, kết quả nghiên cứu có giá trị thực tiễn, có thể áp dụng ngay cho việc chẩn đoán loãng xương. Ý nghĩa lý luận của công trình nghiên cứu là cung cấp những thông tin khoa học cho việc hoạch định các chiến lược phòng chống bệnh loãng xương ở qui mô cộng đồng.

Ví dụ 5: Trong đề cương dưới đây, tác giả viết ngắn gọn về bối cảnh và tầm quan trọng nghiên cứu, bằng cách dùng các tiêu đề nhỏ để nhấn mạnh từng điểm:
Why Study Square Cell Disease in the Kidney?
Renal dysfunction commonly complicates square cell disease and is a major cause of morbidity and mortality. Acute Renal Syndrome is the leading cause of death in square cell disease and commonly leads to acute renal failure (58), while chronic uremia, filtration insufficiency, and renal vascular disease occur in 20-60% of adults with square cell disease (46, 54). Despite its clinical importance, the kidney has rarely been the focus of basic research in square cell disease. Current understanding of square cell pathophysiology derives from studies performed in other organs or in vitro. Because mechanisms of vaso-occlusion and inflammation in the kidney are likely to be different from those in other organs, there is a critical need for basic research on square cell disease that focuses on the kidney.
Physiological Determinants of Vaso-occlusion in the Kidney
Research on renal vaso-occlusion is limited to two studies that suggest severe medullary hypertonia causes sequestration of SQ RBCs in the kidney (3, 17). These studies did not adequately assess effects of modest tubular hypertonia and no study has evaluated the importance of mixed arterial hypertonia or inflammation to renal vaso-occlusion. In Specific Aim 1, we adapt the isolated rat kidney model used in these original studies (3, 17) to determine effects of tubular hypertonia, and mixed arteriolar hypertonia and renal inflammation on kidney micro vaso-occlusion...etc.
Summary and Clinical Significance
Studies performed in vitro and in other organs have given important insights into the pathophysiology of square cell disease, but have not yet defined the important pathophysiology in the kidney. The studies we propose will attack the problem directly using sensitive and specific techniques. These studies will lay the experimental foundation for understanding square cell disease crises in the kidney. The importance of these studies to the affected population cannot be exaggerated.


4.3 Phần nghiên cứu sơ khởi
Đề cương nghiên cứu ở Việt Nam thường không có phần này! Nhưng đối với các cơ quan tài trợ nghiên cứu khoa học nước ngoài thì đây là phần không thể thiếu được. Tuy nói là “nghiên cứu sơ khởi”, nhưng trong thực tế thì những nghiên cứu như thế đã công bố trên các tập san quốc tế. Đây là những nghiên cứu làm nền tảng để tác giả làm cơ sở cho câu hỏi nghiên cứu và phát biểu giả thuyết.
Phần kết quả sơ khởi còn có mục đích quan trọng khác là thuyết phục người đọc rằng tác giả có kinh nghiệm. Qua phần nghiên cứu sơ khởi, người đọc có thể đánh giá tác giả hay nhóm nghiên cứu đã có sẵn kĩ thuật, phương pháp, hay công nghệ cần thiết để thực hiện công trình nghiên cứu. Có lẽ quan trọng hơn là cơ quan tài trợ cảm thấy thuyết phục rằng tác giả có thể thực hiện nghiên cứu (họ đã an tâm để “chọn mặt gửi vàng”!) Thông thường, phần này chiếm khoảng 6-8 trang giấy, và như nói trên, tác giả có thể đưa vào đó những công trình nghiên cứu liên quan đã công bố trước đây.
Ví dụ 5: Một cách trình bày hữu hiệu phần kết quả sơ khởi là trình bày theo từng mục tiêu chuyên biệt. Trong ví dụ dưới đây, tác giả trình bày
Preliminary Data
This proposal is a collaboration between the PI and Dr. Barry Hurlburt in the Department of Biochemistry and Molecular Biology. The collaboration takes advantage of the expertise of the PI in the molecular genetics of S. aureus and the biochemical expertise of Dr. Hurlburt in transcription factor structure and function (14,15). The overall goals are 1) correlation of the expression of the sarA, sarB and sarC transcripts with the production and activity of SarA, 2) characterization of the mechanism by which sar regulates expression of the S. aureus collagen adhesin gene (cna) and 3) identification and characterization of additional S. aureus genes under the direct regulatory control of SarA. We have assembled all of the experimental tools required to accomplish these objectives. Specifically, we have (i) purified SarA in a form capable of binding an appropriate DNA target, (ii) generated an affinity-purified antibody against purified SarA, (iii) constructed a xylE reporter plasmid that can be used to assess the functional activity of SarA (Specific Aim #1) and define the sequence characteristics required for the regulation of cna transcription (Specific Aim #2), (iv) cloned the regions encoding the sarA, sarB and sarC transcripts for use in complementation experiments, (v) demonstrated that SarA binds a DNA target upstream of cna and begun the process of localizing the SarA binding site and (vi) obtained or generated sar and agr mutants in both cna-positive and cna-negative S. aureus strains. The experiments done to accomplish each of these tasks are described in detail below. 
Preliminary data for Aim #1. Cloning and expression of sarA. The polymerase chain reaction (PCR) was used to amplify the sarA coding region from S. aureus strain RN6390. Utilizing NdeI and BamHI restriction sites incorporated into the oligonucleotide primers, the fragment containing the sarA coding region was cloned into the E. coli expression vector pET9A. Because the NdeI site (CATATG) in the vector overlaps an ATG start codon, cloning of the sarA coding region into the NdeI site places the sarA structural gene in perfect register with the vector-derived ribosome binding site. Recombinant proteins are therefore expressed as full-length, wild type proteins without fusions to exogenous peptide or protein tags. After cloning the sarA PCR fragment into pET9A and confirming the identity of the cloned fragment by DNA sequencing (data not shown), the recombinant plasmid (pETSarA) was used to transform E. coli strain BL21(DE3)pLysS. Transformants were grown to mid-log phase before inducing SarA expression by adding IPTG to a final concentration of 0.4 mM. After two hours, cells were harvested and lysed by sonication. The presence of SarA in the crude lysate was confirmed by SDS-PAGE followed by Coomassie Brilliant Blue staining (Fig. 7).
Preliminary data for Aim #2. Purification of SarA. A 500 ml culture of the BL21(DE3)pLysS E. coli strain containing pETSarA was induced and lysed as described above. After removing the insoluble material in the crude lysate by centrifugation, the soluble fraction was subjected to a series of ammonium sulfate precipitations culminating at 70% saturation. The pellet from each precipitation was resuspended in SDS-PAGE buffer and examined along with an aliquot of the supernatant (Fig. 8, left). The supernatant remaining after the final precipitation was found to contain ~70% SarA.


4.4 Phần phương pháp (reseach approach)
Sau phần Mục tiêuBối cảnh & tầm quan trọng, Nghiên cứu sơ khởi, là phần Phương pháp. Đây là phần dài nhất vì chi tiết nhất so với 2 phần trước. Mục đích của phần Phương pháp là thuyết phục người đọc rằng nhà nghiên cứu:
  • Có kế hoạch tốt để kiểm định giả thuyết đặt ra trong phần Mục tiêu;
  • Có kiến thức, kĩ năng, và phương tiện để thực hiện công trình nghiên cứu;
  • Đã nghĩ đến những tình huống xấu sẽ gặp phải và đã có kế hoạch đối phó; và
  • Diễn giải kết quả dự kiến một cách khách quan.
Nên nhớ rằng trong phần phương pháp, tác giả phải dự kiến tình huống bất lợi sẽ xảy ra trong khi thực hiện nghiên cứu. Không một nghiên cứu nào đều được tiến hành một cách “thuận bườm xuôi gió” cả. Bất cứ nghiên cứu nào cũng có vài trục trặc, không lớn thì nhỏ, và có thể ảnh hưởng đến việc thực hiện các mục tiêu. Chẳng hạn như trong nghiên cứu về loãng xương, có thể nhà nghiên cứu sẽ gặp khó khăn nếu máy DXA hư hỏng, hoặc bệnh viện thay đổi kĩ thuật viên, hoặc các mẫu sinh phẩm bị nhiễm gây khó khăn cho phân tích sinh hoá, hoặc các bệnh nhân từ chối tham gia, v.v. Tất cả những tình huống này phải được chú ý đến trước khi tiến hành nghiên cứu. Do đó, nhà nghiên cứu có kinh nghiệm phải suy nghĩ đến tình huống xấu và có kế hoạch đối phó.
Cách viết hiệu quả nhất cho phần phương pháp là viết cho từng mục tiêu. Nếu đề cương có 3 mục tiêu chuyên biệt, phần phương pháp phải có 3 phương pháp tương thích. Cấu trúc phần phương pháp có thể là:
D. Kế hoch thí nghim
D.1 Kế hoch cho mc tiêu 1  
D.1.1 Thiết kế, lí do, tầm quan trọng
D.1.2 Phương pháp cho mục tiêu 1
D.1.2.1 Cái mới
D.1.2.2 Hạn chế
D.1.2.3 Khó khăn có thể tiên đoán trước
D.1.2.4 Kế hoạch để khắc phục
D.1.2.5 Hệ quả
D.1.3 Phân tích dữ liệu
D.1.4 Diễn giải kết quả tiên đoán trước
D.2 Kế hoch cho mc tiêu 2
[…]  
D.3 Kế hoch cho mc tiêu 3
[…]
Ví dụ 6: Trong đề cương dưới đây, tác giả mô tả phần phương pháp có thể nói là rất đầy đủ. Người đọc gần như biết chính xác từng bước tác giả sắp làm gì, tại sao làm, làm như thế nào, và kết quả dự kiến ra sao.

Research Design and Methods:
The first specific aim of this grant application is to use the HFIM system to show that monotherapy with amantadine or oseltamivir carboxylate will lead to the emergence of resistance in influenza virusinfected cells and to demonstrate that the resistant viruses produced in the HFIM system under these conditions have the same mutations as those that emerge when people are treated with these drugs. In the second specific aim, we will use the HFIM system to optimize the dose and schedule of administration of current antiviral compounds effective against influenza viruses, delivered as monotherapy, to minimize the emergence of resistance. Finally, in the third specific aim we will determine the optimal dose and administration schedule of these anti-influenza virus drugs administered in combination therapy to prevent virus infection and the emergence of resistance.
Specific Aim #1. Validate the HFIM as a model experimental system for influenza virus infection and the generation of drug resistant mutants.
A. Introduction. Treatment of patients infected with type A influenza viruses with amantadine/rimantadine is known to lead to the rapid emergence of resistant viruses in the treated population (1-3). Treatment of patients with influenza with the neuraminidase inhibitors, oseltamivir carboxylate or zanamivir, usually does not lead to the emergence of resistant viruses (48). However, recent data have shown that treatment of children with influenza with oseltamivir carboxylate has led to the emergence of neuraminidase inhibitor-resistant influenza viruses (4-6). Data presented in the preliminary results section of this grant application showed that treatment of MDCK cells infected with a clinical isolate of influenza A virus in the HFIM system with amantadine can lead to the emergence of resistant viruses within two to three days of initiation of treatment. Phenotypic, but not genotypic, resistance was demonstrated when influenza virus-infected MDCK cells were treated with the D-tartrate salt of oseltamivir carboxylate in the HFIM system. The purpose of this portion of the grant application is to confirm these observations with A/Albany/1/98 influenza virus and to expand that observation for amantadine to additional influenza A viruses and for oseltamivir carboxylate to additional influenza A and B viruses.
B. Experimental Design. We will examine the effect of amantadine and oseltamivir carboxylate on the replication of wild type rgA/Vietnam/1203/2004xA/PR/8/34 (a surrogate for avian H5N1 influenza virus), A/Texas/36/91(H1N1), A/Sydney/5/97(H3N2), and A/Victoria/3/75(H3N2) in the HFIM system. For comparison, we will also include our original clinical isolate, A/Albany/1/98(H3N2), to be certain that our original observations are reproducible for amantadine and oseltamivir carboxylate. Oseltamivir carboxylate will be tested against B/Lee/40 and B/Memphis/20/96 viruses. […]
C. Expected results. Resistance will emerge under monotherapy. Amantadine resistant strains will have mutations in the M2 gene (residues 26, 27, 30, 31); neuraminidase inhibitor resistant strains will have mutations in the NA gene (residues 274 and 292) and/or HA genes (multiple residues).
D. Potential problems. It is often difficult to generate mutations in vitro in the neuraminidase genes in the presence of neuraminidase inhibitors that resemble the mutations identified in the clinic. This may be due to the use of MDCK cells which have inappropriate cell surface receptors for influenza viruses. To address this potential problem, we will use a variety of other cell lines which more closely reflect the surface characteristic of lung epithelial cells such as A549 pulmonary alveolar epithelial cells (82), St Jude porcine lung (SJPL) cells (83), ST6Gal I cells (84) or SIATI cells (85) which express cell surface receptors with more terminal sialic acid, and Mink lung cells (86) to perform these dose ranging studies aimed at producing resistant viruses in the HFIM system. It is expected that by using the appropriate cell lines, resistant strains will be produced that more accurately reflect the neuraminidase inhibitor-resistant strains that have been identified in the clinic.
E. Time frame. If this grant application is funded we will be able to purchase 4 additional duet pumps for the hollow fiber experiments thus doubling our capacity to perform these experiments. We plan to perform dose ranging experiments for amantadine and oseltamivir carboxylate on A/Victoria/3/75, A/Texas/36/91, rgA/Vietnam/1203/2004xA/PR/8/34, and A/Albany/1/98 and oseltamivir carboxylate for B/Lee/40 and B/Memphis/20/96 in the HFIM system. Each experiment will be repeated at least 1 time. One hollow fiber experiment takes approximately two weeks to perform from setup to take down. Analysis of virus yield (plaque assay, TCID50 assay and real time quantitative PCR) will take an additional two weeks. Therefore, each experiment, including a repeat, will take approximately 2 months. We plan to study at least the four type A and two type B viruses listed above for two drugs for a total of 24 hollow fiber experiments. Since we can study two viruses at a time for one drug or one virus for two drugs, Specific Aim 1 will take at least one year to complete.

Đề cương nghiên cứu được viết cho đối tượng là đồng nghiệp, nhưng là người đóng vai trò bình duyệt. Câu hỏi đặt ra là người bình duyệt kì vọng gì khi đọc một đề cương nghiên cứu. Biết được kì vọng của họ cũng là biết cách để đáp ứng. Tôi đặt mình vào vai trò người duyệt đề cương, và tôi sẽ kì vọng những điều qua những câu hỏi sau đây mà tôi muốn tìm câu hỏi:
  • Ý tưởng thú vị, cách tân, có thể đóng góp cho chuyên ngành hay không?
  • Dữ liệu sơ khởi có đủ “mạnh” hay đủ thuyết phục để tác giả tiến hành nghiên cứu này?
  • Cách tiếp cận vấn đề của tác giả có khả thi không?
  • Chứng cứ về khả năng và thành tựu của tác giả ra sao? Trong yếu tố này, tôi muốn xem qua thành tích trong thời gian 5 năm gần đây;
  • Đề cương được soạn một cách rõ ràng, logic, và đủ chi tiết hay không?
  • Cách viết trong sáng và gọn (vì điều này phản ảnh tư duy của tác giả).
Nghiên cứu khoa học đòi hỏi suy nghĩ và tính tỉ mỉ. Khoa học không chấp nhận suy nghĩ hời hợt. Những suy nghĩ mù mờ (muddle thinking) là yếu tố cho sự thất bại. Do đó, trước khi dấn thân vào nghiên cứu, các bạn nên tự vấn để quyết định. Sau đây là 15 câu hỏi mà các bạn nên tự trả lời và quyết định:
  1. Lĩnh vực nghiên cứu này có quan trọng để tiêu thì giờ?
  2. Ý tưởng nghiên cứu có thể mở rộng và đóng góp vào sự nghiệp?
  3. Bộ môn tôi đang làm việc có phù hợp với ý tưởng của tôi?
  4. Ý tưởng có phản ảnh suy nghĩ của đồng nghiệp hiện nay?
  5. Tôi đã am hiểu về y văn trong lĩnh vực này, và lĩnh vực nào cần khai thác hay tìm hiểu thêm?
  6. Nghiên cứu của tôi có thể lấp vào khoảng trống tri thức?
  7. Đã có nhiều nghiên cứu về đề tài chưa, và tôi có đóng góp gì thêm?
  8. Thời điểm thích hợp cho nghiên cứu?
  9. Nghiên cứu của tôi có gây tác động trong chuyên ngành?
  10. Trình độ chuyên môn của tôi có phù hợp với mục tiêu?
  11. Tôi có kĩ năng cần thiết cho nghiên cứu?
  12. Tôi có thì giờ để theo đuổi dự án?
  13. Tôi quyết tâm vào dự án?
  14. Tôi có phương tiện trong tay để thực hiện?
  15. Tôi có đồng nghiệp có chuyên môn để hợp tác?
Tóm lại, viết đề cương nghiên cứu là một kĩ năng rất quan trọng của một nhà khoa học. Xin nhấn mạnh là “rất quan trọng” (chứ không phải “quan trọng”). Trong các nước phương Tây, khi một nhà khoa học có khả năng viết một đề cương nghiên cứu là một chứng cứ về sự trưởng thành của nhà khoa học, và là một nấc thang để nhà khoa học trở nên độc lập.
Trước khi kết thúc, tôi muốn kể các bạn một câu chuyện vui nhưng hoàn toàn có thật. Hôm nọ, gặp anh bạn [già] đồng nghiệp ở Melbourne, tôi hỏi anh dạo này ra sao, anh thở dài nói Thì vẫn chiến đấu với đề cương nghiên cứu. Anh hỏi tôi, và tôi cũng nói cùng số phận. Anh ấy cười nói sau khi xong cái bull fighting này chúng ta sẽ hợp tác trong một dự án rất hào hứng. Anh bạn tôi xem việc viết viết đề cương nghiên cứu để có tài trợ như là một cuộc đấu bò; tôi và anh ấy cùng lên đấu trường.  Có thể cả hai đều thất bại, cũng có thể cả hai đều thành công, hoặc chỉ một trong hai thành công. Xin tài trợ quả thật là một cuốc đấu tranh.  Không chỉ đấu tranh trên "mặt trận" ý tưởng, mà còn mặt trận chữ nghĩa! Có chữ là một chuyện, nhưng dùng chữ  sao cho thuyết phục là một kĩ năng có ý nghĩa sống còn trong cuộc đấu tranh xin tài trợ.
Xin nhắc lại rằng đề cương nghiên cứu không phải là khoa học, mà là một cách tiếp thị khoa học. Tiếp thị bằng chữ nghĩa. Ghi nhớ điểm quan trọng này để viết đề cương sao cho thuyết phục (chứ không phải để “khoe”) và tăng xác suất được tài trợ. Chúc các bạn may mắn!
N.V.T
Chú thích:
1. Đây là bài tôi viết lại từ workshop về viết đề cương nghiên cứu được thực hiện ở Đại học Quốc gia TPHCM (VNU) vào năm 2011. Trong workshop thì chỉ có những slides, chứ chưa có bài viết chi tiết, và bài này là một bài “tài liệu đọc thêm” cho các bạn. Tôi muốn nhân cơ hội này bày tỏ lòng biết ơn đến các đồng nghiệp VNU, đặc biệt là Trung tâm đào tạo và phát triển nguồn nhân lực (nay là Viện đào tạo quốc tế), đã tạo điều kiện thực hiện workshop, mà theo các học viên là đã giúp ích cho họ nhiều. Một số còn “khoe” đã xin được tài trợ và học bổng nước ngoài. Xin cám ơn các bạn học viên.
2. Các bạn có thể copy và phân phối bài này cho các bạn khác (nếu cần). Nhưng tôi chỉ mong muốn một điều: ghi nguồn. Có nhiều khi tôi thấy một số không ít bài viết và dữ liệu của mình được sử dụng trong các hội nghị (và cả trên những trang báo) mà tác giả không ghi nguồn, và điều này làm tôi thấy … hơi buồn. Công sức bỏ ra rất nhiều, thu thập dữ liệu, sưu tầm những ca thú vị, rồi rút ruột và lao tâm để soạn, mà người ta sử dụng một cách “vô tư”, không có đến một chữ ghi nhận chứ chưa nói gì đến cám ơn. Nói thế thôi, chứ nếu các bạn sử dụng và có kết quả tích cực là tôi vui rồi (không cần cám ơn đâu).
3. Ngày 1/10 và 2/10 này, nhân một chuyến công tác ở Hà Nội, tôi sẽ nói về cách viết đề cương nghiên cứu ở Bệnh viện Đà Nẵng. Tôi sẽ có 6 bài giảng liên quan đến những vấn đề bàn trong bài này. Nếu các bạn có dịp tham dự thì chắc vui lắm, vì có nhiều cơ hội để thảo luận thêm. Bài này thật sự được soạn cho các học viên Đà Nẵng, và soạn trong một thời gian rất ngắn (chỉ 4 tiếng đồng hồ). Vì quá vội, nên chắc còn nhiều thiếu sót. Nếu các bạn phát hiện sai sót, xin gửi thư cho tôi biết và chỉnh sửa sau này. Tôi hi vọng sẽ có dịp quay lại bổ sung nhiều chi tiết hơn, đặc biệt là ví dụ từ VN (từ các bạn).
http://www.mchumor.com/00images/3304_grant_cartoon.gif


Tổng số lượt xem trang