Bài viết của Phan Châu Thành cần được kiểm chứng thêm. Chưa có thời giờ nên ttngbt đặt cục gạch ở đây.
Phan Châu Thành (Danlambao) - Với những người ít quan tâm, không biết đồng chí Lai Teck là ai, tôi xin thưa, đó là cựu Tổng bí thư Đảng Cộng sản Malaysia từ 1938 đến 1947. Đảng Cộng sản Malaysia thành lập bởi Comintern và các đảng viên người Hoa tại Singapore năm 1930, và tự giải tán năm 1989 tại Thailand khi đảng này bị Malaysia “cấm cửa” phải hoạt động chui ở Nam Thái từ 1960…
Điều giống nhau đầu tiên, đó là hai đồng chí Hồ Chí Minh và Lai Teck đều là người Việt (đối với những ai tin Hồ Chí Minh là người Việt), hay hai đồng chí trên đều là người là người Việt gốc Hoa (đối với những ai tin đồng chí HCM là người Hoa). Đồng chí Lai Teck tên Việt là Trương Phước Đạt, sống ở Việt Nam như một người Hoa hoạt động trong phong trào cách mạng cộng sản nhưng lại kiêm nghề chỉ điểm (spy) cho Pháp đến năm 1933 thì biến mất khỏi Việt Nam và năm 1934 xuất hiện ở Malaysia, Singapore với tên Tầu là Lai Teck (Lai Te)...
Điều giống nhau thứ hai là hai đồng chí Hồ Chí Minh và Lai Teck là hai người Việt gốc Hoa đồng niên, cùng sinh năm 1901. Riêng đồng chí Hồ Chí Minh thì còn điều mơ hồ, vì năm 1934 khi từ TQ quay về Moscow đồng chí tự khai với Quốc tế CS là mình sinh năm 1901 (hồ sơ còn lưu), nhưng lại quên trước đó năm 1924 đống chí đã đến Nga từ Pháp và khai sinh từ bên Pháp mà đảng CS Pháp giới thiệu sang thì đồng chí Nguyễn Ái Quốc sinh năm 1890..., trừ khi đó là hai đồng chí khác nhau hoàn toàn (Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh). Những năm 1930s ở Moscow đồng chí Stalin và đồng chí Beria đang “oanh tạc”, à quên: thanh trừng, các đảng viên cộng sản rất ác liệt, nhất là thành viên Quốc tế CS (vốn do Lenin và Troskit lập nên), nên khả năng đồng chí Hồ Chí Minh khai man là rất ít, vì chỉ có... dựa cột.
Điểm giống nhau kỳ lạ thứ ba là cả hai đồng chí cùng sinh ra trên quê hương cách mạng Nghệ Tĩnh!
Như vậy, hai đồng chí Nguyễn Sinh Cung hay Hồ Tập Chương (sau “biến thành” Hồ Chí Minh) và Trương Phước Đạt (Lai Teck sau này) cùng là người Việt gốc Hoa, cùng sinh năm 1901, cùng quê Nghệ Tĩnh và cùng tham gia các hoạt động của đảng cộng sản ngay từ những năm 1930. Liệu họ có biết về nhau, có gặp nhau, có thân nhau, có là đồng chí trong một tổ chức? Câu hỏi trên tôi chỉ đặt ra thôi, chưa có trả lời.
Điểm giống nhau kỳ lạ thứ tư là cả hai đồng chí Hồ Chí Minh và Lai Teck đều cùng xuất hiện trên chính trường với tên mới (và sau trở thành tên thành danh lãnh tụ trong số rất nhiều cái tên bí danh mà hai người đều có) là Hồ Chí Minh và Lai Teck từ năm 1934. Một đồng chí đi Moscow, còn đồng chí kia đi Malaysia, đều xuất phát từ đất mẹ Trung Hoa với sự dọn đường “giúp đỡ” tận tình của đảng CSTQ... để lên nắm quyền hai đảng cộng sản đàn em của Đảng CSTQ là đảng CS Đông Dương- CSĐD (bao gồm cả Đông Dương) và đảng CS Malaysia - CSM (bao gồm cả Singapore).
Điều giống nhau kỳ lạ thứ năm là cả hai đồng chí Hồ Chí Minh và Lai Teck đến với hai đảng CS Đông Dương và Malaysia đều với tư cách cán bộ của Comintern (Quốc tể CS) nhưng lại do đảng CSTQ phao tin về “lãnh tụ mới”, giới thiệu hoành tráng nhưng mơ hồ về “lãnh tụ” (vì lý do bí mật), và chính đảng CSTQ đã đưa “lãnh tụ của Comintern” về Việt Nam và Malaysia (chứ không phải do Comintern từ Moscow có công văn cử đến).
Chúng ta nên nhớ, những năm 1933-1939 Stalin chỉ lo thanh trừng nội bộ đảng CS Nga (giết hàng triệu đảng viên) và đối phó với các nước trong Liên bang Sô viết (giết mấy chục triệu người các dân tộc), và nhất là phải đối phó với Hitler và Châu Âu lúc đó đang chuẩn bị rơi vào đại chiến Thế giới 2, nên không hề quan tâm đến các đảng CS thế giới và nhất là các đảng CS Phương Đông (mà Stalin rất khinh ghét)... Stalin cũng chẳng phân công việc “quản lý các đảng châu Á” đó cho đảng CSTQ... mà đảng CSTQ đã tự ôm “trách nhiệm quốc tế cao cả” đó, với những mưu đồ riêng.
Điều giống nhau kỳ lạ khủng khiếp thứ sáu (chữ khủng khiếp ở đây phải hiểu theo cả hai nghĩa đen và bóng) là từ năm 1933-1934 sau khi hai đồng chí Hồ Chí Minh và Lai Teck xuất hiện lờ mờ trên “chân trời cách mạng” Việt Nam và Malaysia thì hàng loạt và hầu hết các lãnh tụ kỳ cựu và “khai quốc công thần” của hai đảng CSĐD và CSM đều bị lần lượt “vô tình” rơi vào tay mật thám Pháp (ở Việt Nam) và Anh (ở Malaysia, Singapore), tạo nên lỗ hổng quyền lực và sự khan hiếm lãnh tụ khủng khiếp cho hai đảng CSĐD và CSM. Điều đó - sự “ra đi anh dũng” “vô tình” và “đau thương” của hầu hết các lãnh tụ của hai đảng CSĐD và CSM đã diễn ra trong những năm cuối 30s đầu 40s đó trùng với những năm ròng rã đảng CSTQ (qua cộng đồng người Hoa ở khắp nơi) rỉ tai, truyền miệng, thì thầm, “dấm da dấm dứ” trong dân đen hai nước về hai lãnh tụ Hồ Chí Minh và Lại Teck của họ. Hai đồng chí Hồ Chí Minh và Lai Teck chỉ việc “trở về cứu nước” Việt Nam và Malaysia như hai vị lãnh tụ cứu tinh của đảng và của dân tộc, như mưa về ruộng hạn!
Điểm giống nhau kỳ lạ thứ bảy của hai đồng chí Hồ Chí Minh và Lai Teck là khi về nước hầu như ngay lập tức họ trở thành lãnh tụ, và dường như họ biết trước và đã chuẩn bị cho điều đó. Trong hành trang “về nước” của họ đều đã chuẩn bị sẵn hai lá cờ đảng và cờ nước cho hai đảng và hai nước của họ, cứ như là họ đều biết trước mình sẽ là lãnh tụ sáng lập đảng và sáng lập nước! Cờ đảng cho hai đảng của họ đã được chuẩn bị giống y chang nhau và giống như (100%) cờ của đảng CSTQ là cờ đỏ búa liềm, mà cờ đảng CSTQ thì vẫn hơi khác cờ đảng CS Nga một chút. Tức là ba đảng CSTQ, CSĐD và CSM chung một lá cờ... Kỳ lạ hơn nữa là hai lá quốc kỳ mà họ (được) chuẩn bị mang về cho hai nước Việt Nam và Malaysia cũng gần giống nhau và gần giống quốc kỳ mà đảng CSTQ chuẩn bị cho đất nước họ sau này. Đó là, quốc kỳ do đồng chí Hồ Chí Minh chuẩn bị cho Việt Nam là Cờ đỏ một Sao vàng, còn quốc kỳ do đồng chí Lai Teck chuẩn bị cho Malaysia là Cờ đỏ Ba sao vàng, và quốc kỳ do đồng chí Mao Trạch Đông chuẩn bị cho Trung Quốc sau này là Cờ đỏ năm Sao vàng...
Về “gia đình” những lá cờ đỏ sao vàng này tôi đã có một bài viết riêng trên Dân Luận vài tháng trước. Chỉ xin nói lại ở đây là cũng thời gian này, những năm 1930-1940, người Hoa ở các nước Miến điện, Indonesia… cũng lập nên là trở thành lãnh tụ các đảng cộng sản Miama và Indonesia với những lá cờ đảng y chang cờ đảng mà hai đồng chí Hồ Chí Minh và Lai Teck mang về Việt Nam và Malaysia, còn cờ nước cho Indonasia là cờ đỏ Hai sao vàng, và cho Miến điện là Cờ đỏ Bốn sao vàng... Trong bài viết đó tôi cũng đã chỉ ra số lượng sao vàng trên cờ đỏ là tùy theo số sắc tộc chính của các nước đó...
Điều giống nhau và kỳ lạ thứ tám mà hai đồng chí Hồ Chí Minh và Lai Teck cùng chia sẻ, đó là cả hai đồng chí đều rất tự tôn sùng cá nhân, tự biến mình thành thánh nhân trên đảng và dân. Đồng chí Hồ Chí Minh thì tự gọi mình là cha già dân tộc khi 55 tuổi (hay 44 tuổi?), và tự viết sách ca ngợi mình với những bút danh khác như Trần Dân Tiên, T. Lan... còn đồng chí Lai Teck thì tự xưng và tự gọi mình là Mr. Wright - Ngài Chân lý, và bắt toàn đảng CS Malaysia gọi mình là Mr. Wright - ngài Chân lý, ngài Đúng đắn, ngài Không sai!
Hơn thế nữa, cả đồng chí Hồ Chí Minh và đồng chí Lai Teck - Mr. Wright đều luôn có một nhà xuất bản và nhà in mang tên Hồng Kỳ thầm lặng, ẩn dật (đặt bản doanh bí mật ở Hongkong hay đâu đó) luôn viết và in sách, tài liệu ca ngợi cá nhân hai đồng chí đó bằng tiếng Việt và tiếng Malay, tiếng Hoa rồi tung vào Việt Nam, Malaysia, Singapore... tạo uy tín lãnh tụ cho các đồng chí đó trong đảng và trong dân hai nước. Nhà xuất bản Hồng Kỳ này cũng là nơi chuyên viết và in sách “hộ” cho các “lãnh tụ” các đảng cộng sản Indonesia (hai sao) và Miama (bốn sao) nữa.
Điều giống nhau, nhưng không kỳ lạ nữa mà ghê tởm, thứ chín, của hai đồng chí Hồ Chí Minh và Lai Teck là sau khi trở thành lãnh tụ đảng và tìm mọi cách tự ca ngợi mình hay để nhà xuất bản Hồng Kỳ bí mật ca ngợi mình như trên, giai đoạn cầm quyền lãnh tụ đầu tiên của hai đồng chí trong nhiều năm đều dành để thanh trừng nội bộ, thực chất là tiêu diệt hết những người giỏi hơn mình, cách mạng chân chính hơn mình, công lao hơn mình, hoặc những người không phải phe đảng của mình, dù họ đã về phe cách mạng. Đồng chí Hồ Chí Minh làm việc này ráo riết trong 4-5 năm, từ 1945 đến 1949, thường là bằng thủ tiêu kín hay bán thông tin cho Pháp xử lý hộ. Còn đồng chí Lai Teck thì làm nhanh gọn hơn, trong vòng 1-2 năm, thậm chí có lần đồng chí Lai Teck tổ chức Hội nghị TW đảng trong hang Batu gần Kuala Lumpur mà không đến chủ trì (do “hỏng xe”) mà “điều” cảnh sát Anh đến giết chết trên 100 cán bộ chủ chốt của đảng CSM... không phải vì họ nghi ngờ tài đức đồng chí Tổng Bí thư - Ngài Chân lý, mà vì họ muốn đấu tranh độc lập không theo sự chỉ đạo của “một tổ chức người Hoa” tên là Min Yen ở Singapore (thực chất là bộ phận hải ngoại của đảng CSTQ), và vì đồng chí Lai Teck muốn tập trung quyền lực quân sự (của Quân giải phóng Malaysia lúc đó rất mạnh) vào tay mình...
Và điều giống nhau thư mười, tất yếu, của hai đồng chí Hồ Chí Minh và Lai Teck, là sau khi nắm toàn bộ quyền lực chính trị và quân sự trong tay, chiến lược đấu tranh duy nhất của hai đống chí “lãnh tụ dân tộc” đó là... dựa vào đảng CSTQ. Từ năm 1940 đến 1947, dù bản thân còn chìm trong chiến tranh chống Nhật rồi nội chiến, đảng CSTQ và quân Giải phóng Nhân dân TQ đã đào tạo và trang bị, cung cấp toàn bộ cho quân đội của đảng CS Malaysia lúc đó lên đến 39-40 ngàn người. Rất may cho đất nước Malaysia là họ không có chung biên giới với TQ, nếu không thì họ đã bị cộng sản “giải phóng” và là cờ đỏ ba sao của Lai Teck mang về đã là quốc kỳ hôm nay của họ rồi!
Tương tự, như vậy, sau khi diệt hết mọi lực lượng Dân tộc tham gia giải phóng đất nước năm 45 mà không phải cộng sản, đồng chí Hồ Chí Minh mới tổ chức Đại hội Việt Minh năm 1949 chỉ còn toàn cộng sản, rồi “mở chiến dịch Biên giới” mà 1950 cho sĩ quan TQ mang 15 nghìn quân Việt được TQ trang bị và đào tạo hoàn toàn đánh vào 256 quân Pháp ở đồn Đình Lập, mà sau mấy ngày bao vây và tấn công 26 lính Pháp vẫn thoát được về Hà Nội... Tóm lại là, toàn bộ sự nghiệp lãnh đạo chiến tranh đánh Pháp, rồi cải cách ruộng đất, cải cách thương nghiệp hay văn hóa, rồi đánh Mỹ, đồng chí Hồ Chí Minh đều làm theo chỉ đạo của các đồng chí CSTQ, và cho CSTQ (những người đã đưa hai lá cờ đỏ cho đồng chí Hồ mang về và đã làm mọi việc đặt đồng chí lên “ngôi” lãnh tụ đất nước, cha già dân tộc Việt lúc đồng chí mới 44 tuổi...)
Đến đây, lẽ ra là đã hết câu chuyện 10 điều giống nhau kỳ lạ của hai đồng chí Hồ Chí Minh và Lai Teck, hai cựu lãnh tụ của hai đảng CSVN và CSM, như trên. Nhưng để kết thúc bài này tôi xin nói thêm về điều giống nhau thứ 11 của hai đồng chí đó. Đó là hai cái chết khá giống nhau của họ.
Đồng chí Lai Teck, sau gần 10 năm làm lãnh tụ tối cao đảng CSM, năm 1947 đã bị các đồng chí mình phát hiện là gián điệp nhị trùng (cho Anh và cho Nhật) để hại các đồng chí mình và tập trung quyền lực. Thế là Lai Teck đã ôm luôn quĩ đảng (hơn 1 triệu USD năm 1947) chuồn về Hongkong. Các đồng chí Malaysia cử đồng chí Chin Peng (lúc đó 29 tuổi, sau chính là người kế vị Lai Teck) đi bắt Lai Teck về xét xử. Chin Peng về Hongkong báo cáo và hỏi Comintern về Lai Teck thì Comintern nói Lai Teck là người Việt nên do đảng CSVN phụ trách. Chin Peng lại hỏi các đồng chí Việt Nam thì được biết Lai Teck đã đi Bangkok. Chin Peng cùng các đồng chí Việt Nam ở Bangkok đã tìm ra chỗ Lai Teck đang ở, đã đến thắt cổ Lai Teck chết. Tóm lại là đồng chí Lai Teck của chúng ta đã chết dưới tay các đồng chí cộng sản Việt Nam nhà mình. (Đó là theo hồi ký của Chin Peng - My sides of History).
Còn đồng chí Hồ Chí Minh chết ở Hà Nội năm 1969, cũng có thể nói là dưới tay các đồng chí cộng sản Việt Nam. Cụ thể là, từ năm 1958 đồng chí Hồ Chí Minh đã bị các đồng chí của mình (đứng đầu là Lê Duẩn, Lê Đức Thọ) giam lỏng và sử dụng như bù nhìn. Không biết có phải vì các đồng chí cộng sản Việt Nam đã nhìn ra gốc gác gián điệp Tàu của đồng chí Hồ Chí Minh mà làm thế không? Chỉ biết là, bị các đồng chí mình o ép mọi mặt quá suốt hơn chục năm, ngày 2/9/69 đồng chí Hồ Chí Minh đã tự chọn cái chết cho mình bằng cách không nhận sự hỗ trợ y tế nữa... Thế nên cũng có thể gọi là đồng chí Hồ Chí Minh đã chết dưới tay các đồng chí của mình.
Lịch sử thật rối ren mà cũng thật rõ ràng. Chẳng ai có thể lừa được tất cả mọi người mãi mãi. Đồng chí Lai Teck đã thế mà đồng chí Hồ Chí Minh cũng sẽ thế thôi. Đảng CSVN cũng thế, mà đảng CSTQ cũng sẽ vậy thôi.
(Chương 18 của cuốn Nhân Văn Giai Phẩm và Vấn đề Nguyễn Ái Quốc)
Bộ sách Hồ Chí Minh toàn tập, 12 cuốn, 8410 trang, gồm:- 80% diễn văn, công văn chính thức, do các bí thư viết, văn phong thay đổi tùy theo sách lược chính trị mỗi thời và bút pháp từng người.
Kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa, cố thi sĩ Nguyễn Chí Thiện, nhà biên khảo Thụy Khuê và nhà văn Phạm Xuân Ðài tại Người Việt Studio, 2012 (Ảnh: Nguyên Việt/Người Việt)
- 5% chú thích.
- 15% còn lại là văn bản gần 1000 trang, có thể chia làm hai phần: Phần dịch từ tiếng Pháp những bài ký Nguyễn Ái Quốc và phần tiếng Việt gồm những bài ký bút hiệu khác.
Phần tiếng Việt: Gồm những bài đăng báo Việt Nam, ký C.B tập 7 và 8 - C.B là viết tắt của Của Bác, theo Bùi Tín, ký Trần Lực, tập 9 và 10 và ký Chiến Sĩ, tập 11. Loạt bài tiếng Việt phản ảnh tư chất thực tiễn, ngắn gọn, dễ hiểu, không lý thuyết lý luận, không khôi hài, có lẽ đó mới đích thực là văn viết của Hồ Chí Minh. Bài Việt Nam Yêu Cầu Ca, có thể xem là bài thơ đầu tay, phản ánh lối làm thơ nôm na của ông Hồ. Sau này, còn có nhiều bài khác, cùng một phong cách như thơ chúc Tết, thơ Trung Thu và thơ ngâm vịnh. Lối thơ này được in lại trong tập 3.
Phần ký Nguyễn Ái Quốc: Khoảng 700 trang -bản CD bị cắt một số đoạn, so với sách in- là bản dịch những bài viết trên báo Pháp, từ 1919 đến 1927. Bản dịch chưa lột hết cá tính nguyên văn, nhưng cũng làm lộ phẩm chất, tư tưởng, lòng ái quốc và chí khí của người viết. Chính loạt bài này đã "thành danh" Nguyễn Ái Quốc, xác định "tư tưởng Hồ Chí Minh", làm cho ông trở thành thần tượng ngay từ thập niên 1920-1930 của thế kỷ trước.
Nguyên bản tiếng Pháp trên báo, được ký dưới hai dạng: Nguyễn Ái Quấc, trong thời kỳ đầu, sau Nguyễn Thế Truyền giữ lại Nguyễn Ái Quốc.
Phần khảo này có hai mục đích:
- Truy nguyên lai lịch bút hiệu Nguyễn Ái Quấc/Quốc.
- Khảo sát văn bản Nguyễn Ái Quốc.
Để truy nguyên lai lịch Nguyễn Ái Quốc, ta phải trở lại sự thành lập Nhóm An Nam Yêu Nước tại Toulouse.
● Hoạt động của Phan Văn Trường tại Công Binh Xưởng Toulouse
Ra tù năm 1915, Phan Văn Trường tiếp tục là phần tử "nguy hiểm", luôn luôn bị theo dõi. Mật thám dò hỏi người giữ cửa immeuble về mọi hoạt động, giao du của ông. Trong thời gian ở Toulouse, ông không ở trong trại lính, thuê nhà ở riêng, đổi nhà 2 lần, đều ở phố Taur - Rue du Taur. Vì biết mình luôn luôn bị mật thám theo dõi và vẫn tiếp tục chống Pháp, ông giấu kín việc gia đình, có người vợ không giá thú, và con trai không ở cùng địa chỉ.
Ông Khánh Ký cũng xuống Toulouse, ở số 23 đường Braqueville. Nguyễn Thế Truyền, em, chú và em họ cũng về Toulouse học.
Thời kỳ đó, Phan Châu Trinh trải qua nhiều bất hạnh đớn đau, có lẽ không liên lạc thường xuyên với anh em trong một thời gian dài. Bà Phan Châu Trinh mất khi ông ở tù và ông cũng bị chặn tin, không hề hay biết, như trường hợp Nguyễn Thế Truyền. Ra tù, ông bị chính quyền thực dân cắt trợ cấp, hy vọng không biết tiếng Pháp, không thể xoay xở nổi, Phan sẽ phải về nước.
Nhưng Phan học nghề ảnh với Khánh Ký và tự lập được. Ông di chuyển nhiều nơi: Chartres, Pons, Bordeaux, Le Havre, kiếm sống sung túc. Đến tháng 3/1917 Phan lâm trọng bệnh phải vào bệnh viện Cochin 2 tháng. Ra viện, tiền dành dụm đã hết, lại yếu quá không làm việc được. Châu Dật phải nghỉ học, làm việc ở siêu thị Bon Marché để nuôi cha. Marius Moutet can thiệp, Dật được học bổng trở lại, học tiếp niên khoá 1917-18, nhưng đã mắc bệnh lao vì quá vất vả. Pháp không chữa được.
Phan hy vọng cho con về Việt Nam thời tiết ấm hơn, Châu Dật lên tầu về nước ngày 27/9/1919 và mất ở Huế ngày 2/2/1921.
Từ 1916, Phan Văn Trường ở Toulouse vẫn bị André Salles theo dõi nhưng không làm hại được. Đến tháng 9/1917, nhân việc Phan dịch đơn xin hồi hương cho một người thợ, mọi sự lại dấy lên lần nữa, Phan bị khám xét nhà cửa. Bộ Quốc Phòng bắt buộc phải mở cuộc điều tra. Viên sĩ quan phụ trách tìm cách ép những người lính thợ phải khai rằng chính Phan đã "chủ mưu xúi giục" họ viết đơn xin giải ngũ. Thực ra, Phan chỉ dựa trên việc chính quyền thuộc địa dán áp-phích quảng cáo khắp nơi, rằng đi lính chỉ một năm rồi về, để khuyến dụ mọi người "tình nguyện" đi lính cho Tây. Nhưng lần này Phan không bị bắt, một phần vì Thiếu tá chỉ huy trưởng Malacamp có thiện cảm với ông, và nhất là nhờ những người lính thợ, không những không khai mà còn nói chính ông Phan đã ngăn cản chúng tôi nộp đơn xin giải ngũ! Tướng Mas xuống gặp Phan, và sau đó mọi chuyện được dàn xếp ổn thoả.
Sự kiện này cho thấy tinh thần tương trợ của đồng bào và nói lên bộ mặt chìm của an ninh: Bộ Thuộc Địa vẫn nghi ngờ hoạt động bí mật của Phan Văn Trường tại Công Binh Xưởng Toulouse, họ theo dõi để diệt trừ. Phan Văn Trường trong hồi ký chỉ viết về việc ông bị theo dõi, bị nghi "oan" vì đã dịch thư xin hồi hương cho một đồng bào, mà không hở chút gì về hoạt động của ông tại Toulouse.
Về tội xúi giục binh lính Việt xin hồi hương, chắc không oan, vì đó là một chiến lược: Ông muốn vận động một phong trào phản chiến trong lòng những sĩ quan và binh lính Việt. Cũng giống như ông đã gieo vào đầu óc học sinh trường Parangon tinh thần chống Pháp tại Pháp. Và ông luôn luôn khôn khéo, không hành động ra ngoài khuôn khổ luật pháp: Việc lính thợ xin hồi hương, là đúng luật, đúng hạn kỳ một năm mà chính phủ Pháp đã hứa hẹn. Việc này Phan còn làm lại, trên báo L'Annam ở Sài Gòn năm 1926, kêu gọi lính Việt ở Trung Hoa, ngừng chiến đấu cho Pháp, và lần thứ hai này ông bị bắt, bị kết án cùng với một số tội trạng khác, ông phải sang Pháp tự biện hộ, nhưng vẫn bị tù năm 1929.
● Nội dung các văn bản ký tên Nguyễn Ái Quấc/Quốc
Đọc những bài báo ký tên Nguyễn Ái Quấc/Quốc và hai tác phẩm Bản Án chế độ thực dân và Đông Dương (1923-1924), ta có thể hiểu được hoạt động của nhóm Người An Nam Yêu Nước tại Toulouse: Nội dung tố cáo tội ác thực dân một cách xác thực, toàn diện và ghê gớm, chứa đựng trong toàn bộ các văn bản ký Nguyễn Ái Quấc/Quốc này, cho thấy đây là một công trình dài hơi đã được thu thập tài liệu một cách quy mô trong một thời gian dài, trước khi các tác giả chấp bút.
Thời kỳ Phan Văn Trường ở Toulouse, cùng Khánh Ký là thời gian hình thành cuộc cách mạng bằng ngòi bút trên báo chí Pháp từ 1919 trở về sau, với sự trợ giúp của nhóm Nguyễn Thế Truyền (sinh 1898), em Nguyễn Thế Song (1902) và chú Nguyễn Thế Phu (1900), cùng ở Toulouse trong thời điểm đó và cùng giúp Nguyễn Thế Truyền trong các tờ Le Paria, Việt Nam Hồn, Phục Quốc và La Nation Annamite.
Vậy có thể kết luận rằng từ 1916 đến 1919, tại Toulouse, nhóm An Nam Yêu Nước đã tập hợp tài liệu và nhân chứng để chuẩn bị cho cuộc tranh đấu công khai bằng ngòi bút về sau:
1/ Hàng ngày tiếp xúc với lính thợ và sĩ quan Việt, Phan Văn Trường đã thu thập những nhân chứng quan trọng về chính sách dã man của thực dân. Đó là kho lưu trữ lớn nhất, gồm những thông tin từ hai phía: phía chính quyền, qua hồ sơ quân đội Pháp mà Phan tiếp cận được và phía nạn nhân, qua những điều mà người lính thợ Việt Nam hàng ngày kể lại với ông, khi họ nghỉ việc ở xưởng từ 19 đến 21 giờ mới phải vào trại và có nửa ngày chủ nhật nghỉ, như Salles cho biết. Vì vậy "ê-kíp" của ông mới có thể gặp gỡ và ghi lại những nhân chứng nói về các trường hợp cụ thể tội ác thực dân đã xẩy ra ở từng nơi, từng làng.
2/ Năm 1918, Nguyễn An Ninh từ Sài Gòn sang - trước khi đi Pháp, Ninh đã ra Hà Nội học hai năm. Ông biết rõ tình hình cả Nam lẫn Bắc. Sau này, ông còn về nước nhiều lần.
3/ Năm 1919 có nhiều yếu tố hội tụ: Tháng 1, Hội Nghị Hoà Bình khai mạc ở Versailles. Tháng 6, Nguyễn Tất Thành từ Luân Đôn sang Pháp. Bản Thỉnh Nguyện Thư do Phan Văn Trường viết, nhưng Tám điểm hẳn là một sự bàn cãi tập thể, vì Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn An Ninh đều học Luật.
4/ Nguyễn Thế Truyền sau khi học xong kỹ sư, về quê một năm từ tháng 8/1920 đến tháng 8/1921. Thời gian này, ông quan sát tác dụng của phong trào: tên Nguyễn Ái Quốc được người trong nước coi như một vị anh hùng, và khi trở lại Pháp, Nguyễn Thế Truyền đã thuật lại trong bài "Một người Bôn-Sê-Víc da vàng". Ông mở rộng địa bàn tranh đấu trên tờ Le Paria của hội Liên Hiệp Thuộc Địa cùng với các nhà văn, nhà báo Châu Phi, Madagascar. Tại trụ sở Le Paria, Nguyễn Thế Truyền thu thập thông tin, qua chứng từ của các nhà báo và của người đọc ở Châu Phi gửi về toà soạn.
Tất cả dữ kiện đó, tạo ra một ngân hàng thông tin, mà các tác giả sử dụng để viết những bài báo, chính ra là những bản cáo trạng, phơi bày sự thật về chính sách thực dân tại Đông Dương, dưới một bút danh bí mật Nguyễn Ố Pháp, rồi Nguyễn Ái Quấc/Quốc. Nguyễn Tất Thành là người đứng ra nhận tên Nguyễn Ái Quốc.
● Nguyễn Tất Thành / Nguyễn Ái Quốc một lầm lẫn vô tình hay cố ý
Khi viết về thời kỳ lịch sử này, hầu hết các nhà nghiên cứu Pháp-Việt đều coi Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường và Nguyễn Ái Quốc là ba nhân vật chính của phong trào chống Pháp. Điều đó không sai. Nhưng sự sai lầm đến từ sự kiện: Nguyễn Tất Thành là người nhận tên Nguyễn Ái Quốc nhưng không phải là tác giả những bài báo ký tên Nguyễn Ái Quốc. Sở dĩ chưa ai soi tỏ sai lầm này, vì các lý do sau đây:
1/ Vì Hồ Chí Minh tự nhận là Nguyễn Ái Quốc, nên không ai dám cãi lời "Bác". 1948, khi viết "hồi ký" ký Trần Dân Tiên, ông Hồ cần dựa trên uy tín của Nguyễn Ái Quốc -cái tên mà người Việt đã biết, đã coi như anh hùng, qua những bài báo chống Pháp thập niên 1920 tại Pháp- để lập cho mình một căn cước "lãnh tụ tuyệt vời" đúng như lời Lữ Phương: Cuốn "tiểu sử" viết về Hồ Chí Minh của Trần Dân Tiên đã biểu lộ rất rõ cái nhu cầu năm 1948 mà Hồ Chí Minh và cuộc cách mạng của ông đang muốn tạo ra cho phong trào yêu nước cộng sản trước tình hình mới - một lãnh tụ tuyệt vời và chỉ có lãnh tụ đó mới là tuyệt vời thôi". Cho nên ông đã tạo ra các bằng chứng để biện minh Nguyễn Tất Thành chính là Nguyễn Ái Quốc.
2/ Sự kiện này, có thể làm được năm 1948, vì ba người trong cuộc: Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh đã qua đời. Nguyễn Thế Truyền bị bắt từ tháng 5/1941, bị đầy đi Madagascar. Đến tháng 6/1946, Moutet can thiệp, hai anh em ông Truyền mới được thả, nhưng bị quản thúc tại Sài Gòn đến 1947. Tóm lại, 1948, ở Việt Bắc, Hồ Chí Minh tưởng Nguyễn Thế Truyền vẫn đang bị đi đầy, nhóm Ngũ Long không còn ai, vậy mình có thể nhận là chủ nhiệm kiêm chủ bút báo Le Paria, là người lập ra nhóm An Nam Yêu Nước mà không bị ai phản bác. Đúng như dự tính của ông Hồ: không bao giờ Nguyễn Thế Truyền đả động đến việc viết chung bút hiệu. Chỉ khi cuốn hồi ký 41 năm làm báo của Hồ Hữu Tường được in ra năm 1984 tại Paris sau khi ông mất, việc này mới tỏ.
3/ Một mặt khác, sau khi thua trận, người Pháp có mặc cảm tự ti đối với Hồ Chí Minh, mặc cảm này dường như đã thấm vào vô thức của nhiều người, kể cả các nhà nghiên cứu đứng đắn. Vì vậy, dù họ có đặt ra một số nghi vấn về tác giả Nguyễn Ái Quốc nhưng rồi vẫn mặc nhiên coi Nguyễn Ái Quốc là Hồ Chí Minh. Riêng đối với những đảng viên cộng sản Pháp như sử gia Alain Ruscio, và đặc biệt Léo Poldès, người quản lý Câu Lạc Bộ Faubourg, nơi Nguyễn Tất Thành đến học nói tiếng Pháp trước công chúng, thì sự tôn sùng lãnh tụ Hồ Chí Minh còn có ý "kể công" và tuyên truyền cho đảng Cộng Sản Pháp.
4/ Nhiều nhà nghiên cứu ngoại quốc, một mặt, không biết rõ những khó khăn của một người ngoại quốc học viết tiếng Pháp, một mặt, tưởng Nguyễn Tất Thành cũng như hầu hết những thanh niên Việt sang Pháp thời ấy, đều giỏi tiếng Pháp.
5/ Thu Trang trong cuốn Những hoạt động của Phan Châu Trinh tại Pháp, rồi Thu Trang-Gaspard trong cuốn Hồ Chí Minh à Paris, và Lê Thị Kinh trong bộ Phan Châu Trinh qua các tài liệu mới, là những trường hợp đặc biệt, mặc dù hết sức trung thành với "Bác Hồ", nhưng vẫn đưa ra được những bằng chứng nghi ngờ Nguyễn Tất Thành là Nguyễn Ái Quốc.
6/ Sau cùng, sự nhầm lẫn của các nhà nghiên cứu, còn đến từ một sự kiện khác: việc sử dụng những báo cáo sai lầm của mật thám. Yếu tố sau cùng này là rường mối của các sai lầm mà chúng tôi gọi là sai lầm của những nhà nghiên cứu đứng đắn và sự kiện này cần được mổ xẻ, phân tích kỹ càng.
● Nguyễn Như Chuyên
Nguyễn Như Chuyên là loại thám tử trà trộn vào hàng ngũ "địch" vẫn thấy trong các phim trinh thám. Khi chính quyền thực dân thả Phan Châu Trinh và cho ông đi Pháp, họ đã gài sẵn một thám tử đi theo hai cha con, là Nguyễn Như Chuyên, thông dịch viên ở Đông Dương, đi với tư cách "sinh viên" được học bổng 3 năm của Pháp, cùng chuyến tầu. Nhiệm vụ của Chuyên có lẽ chỉ bộ trưởng, toàn quyền và một vài người được giao trách nhiệm trực tiếp biết, vì các bộ não an ninh dường như cũng không biết rõ, vẫn coi Chuyên là "đồng bọn" với hai ông Phan.
Tới Pháp, Chuyên vào học trường Jules Ferry tại Versailles ít lâu rồi bỏ, thường đi về giữa Paris và Le Havre, khai là có cửa hàng ở Le Havre. Gần gụi Phan Châu Trinh, làm thông dịch cho ông, trao đổi thư từ "tâm huyết" với ông trong nhiều năm, được ông coi là đồ đệ. Chuyên ở cùng khách sạn với Phan Châu Trinh, rue l'Abbé de l'Epée, rồi rue Cujas. Khi Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường bị bắt, Chuyên cũng bị bắt, bị điều tra thẩm vấn hệt như "tòng phạm" của hai ông Phan. Chuyên có mon men làm thân ông Trường nhưng ông Trường là người cực kỳ thận trọng, đã cảnh báo ông Trinh, nhưng ông Trinh không nghe. Trong hồi ký, ông Trường trách ông Trinh "khinh xuất" là như thế. Chính Nguyễn Như Chuyên đã mạo khai để hai ông Phan bị bắt về tội "phiến loạn".
Cũng nên đọc qua một đoạn hỏi cung "cò mồi" của quan ba Caron với Chuyên:
"- Hỏi: Hôm khám nhà anh 14/10/1914 ở khách sạn Flandres, 16 Cujas, thấy trong lò sưởi có nhiều giấy tờ đã đốt. Giấy tờ gì vậy?
- Đáp: Chính là các thư của Phan Châu Trinh vì tôi sợ nên đã đốt. Chính qua các thư đó mà tôi biết các khoản tiền chính phủ Đức giúp Phan Châu Trinh cũng như dự định nổi dậy ở Đông Dương trong đó có các thư của Phan Văn Trường về quan hệ của ông ta ở Tàu và sự giúp đỡ của Tàu cho các nhà cách mạng Đông Dương.
- Hỏi: Anh nói thêm chi tiết về kế hoạch nổi dậy?
- Đáp: Phải chờ cơ hội thuận tiện và chiến cuộc ở Âu châu có thể là hiệu lệnh cho cuộc nổi dậy. Quân cách mạng sẽ được các nhà cầm quyền Tàu ở biên giới cấp vũ khí tiền bạc cùng với các lãnh sự Đức ở Tầu. Quan hệ với Tàu do Phan Văn Trường, còn Phan Châu Trinh phải quan hệ với nhà cầm quyền Đức".
Tổ chức mua súng ống là bịa đặt vì hai ông Phan hoàn toàn chống lại bạo động cách mạng. Những câu hỏi được dàn dựng một cách ngu xuẩn: "Hôm khám nhà anh thấy đốt... tư liệu gì vậy? Tại sao Chuyên biết sẽ bị khám nhà mà đốt? Lại nhè đúng lúc công an sắp đến mới đốt để cho họ thấy tro? Tại sao không giữ những thư của Phan Châu Trinh nhận tiền của Đức, nếu có? Tại sao những giấy tờ Phan Văn Trường liên lạc với Tàu làm cách mạng, lại ở nhà Nguyễn Như Chuyên? Phương pháp làm việc của Caron và đồng bọn quả đúng là ô nhục như lời luật sư Moutet nhận định sau này.
Dù là "sinh viên", Chuyên "được" giam vào ngục nhà binh Cherche-Midi ở tù chung với Phan Văn Trường! "Phan Châu Trinh cứ khen Nguyễn Như Chuyên thông minh và là chính trị gia khéo léo, chứ tôi thấy y rất tồi trong vai thám tử mà người ta giao cho hắn đóng cạnh tôi trong ngục Cherche-Midi".
Sau khi đi cung về Chuyên thuật lại với ông Trường: "Họ đã quyết định chặt đầu cả ba đấy. Đây là chiến thuật của Sarraut muốn đánh một cú vang dội. Ông phải viết thư ngay tức khắc cho thủ lãnh luật sư đoàn, hay cho Quan ba Caron, hay một người có quyền thế nào khác, kêu xin cầu cứu đi". Phan Văn Trường chẳng động đậy.
Lần cung hôm sau, ra về, y nói: "Họ đã bắt tôi phải khai là ông nhận tiền của của lãnh sự Đức để mua súng vậy ông còn chần chừ gì nữa". Phan Văn Trường vẫn không nhúc nhích.
Cuối cùng, hắn quát to bằng tiếng Pháp: "Đấy! đấy! Tôi đã bảo hắn là việc hết sức quan trọng, tôi đã khuyên hắn phải viết thư xin những vị có thẩm quyền can thiệp, mà hắn chẳng coi ra gì, cứ rắn như đá, dù hắn đã có hai anh em bị đi đầy".
Sau cùng, Chuyên giả điên, nhẩy vào cắn Phan Văn Trường, một người lính canh cản lại. Chuyên được chuyển vào nhà thương điên, Phan Văn Trường vẫn nghĩ đó chỉ là một vở hài kịch được dàn dựng. Cớ điên để vô hiệu hoá những lời khai man của Chuyên và có cớ xử hai ông được miễn tố. Sự miễn tố này, là công của luật sư Marius Moutet, đồng nghiệp của Phan Văn Trường tại toà Thượng thẩm, và Phan đã gặp trong hội nghị về nhân quyền ở Lille năm 1914, đã là người bảo vệ hai ông Phan, hiệu quả nhất. Quan tư Roux có can thiệp cho ông Trinh, nhưng chỉ thêm rách việc, vì Caron nói thẳng với ông Trinh: Ông đừng tưởng cứ quen Roux mà xong đâu!
Tại Quốc hội, tháng 2/1925, trong cuộc đối chất với Outrey, Moutet kể lại lúc còn đang đi lính, ông được tin Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường, bạn đồng nghiệp của ông tại toà Thượng Thẩm bị bắt. Đang đóng ở Vosges, ông đã viết nhiều thư can thiệp nhưng vô hiệu. Phải đợi đến lúc đắc cử dân biểu, về Quốc Hội, ông mới đến gặp Thủ tướng Viviani và nói rằng: "Tôi muốn trình thủ tướng người ta đã dùng những phương pháp ô nhục. Là thủ tướng, ông cho phép tôi mở lại hồ sơ, tôi muốn chứng minh rằng nó hoàn toàn trống rỗng". Ông Viviani gọi trách nhiệm toà án binh đến và ra lệnh: "Tôi yêu cầu ông đưa ngay hồ sơ cho ông Moutet". Thưa quý vị, tôi đã mở hồ sơ và quả nó trống rỗng. Người ta bảo tôi: "Trống đấy, nhưng hồ sơ thật ở bên Đông Dương kia!"
Albert Sarraut không còn lối thoát. Đành phải tính cách thối lui cho khỏi mất mặt. Và có lẽ bi hài kịch Nguyễn Như Chuyên giả điên được dàn dựng trong hoàn cảnh đó.
Ngày 2/3/1918, một mật báo cho biết: Nguyễn Như Chuyên được đưa vào nhà thương điên Bicêtre từ 22/4/1915 đến 16/4/1916 được ra. Sau khi vào bệnh viện lần thứ nhì, ngày 13/2/1918 Chuyên được ra khỏi để "đi đến Toulouse, số 23 đường Braqueville, nhà người chụp ảnh Khánh Ký, người đã cam kết nhận y để kiếm việc làm cho y". Vậy Bicêtre có lẽ là "địa chỉ tạm thời" mà Chuyên được ở với bệnh danh "trầm cảm" do bác sỹ cấp, để đánh lạc hướng, và Chuyên sẽ về Toulouse với ông Khánh Ký, để tiện bề theo dõi nhóm Yêu Nước.
Sau chiến tranh, Phan Văn Trường trở lại Paris làm luật sư, mật thám vẫn theo dõi các thân chủ của ông, đe dọa nếu mượn Phan Văn Trường, một kẻ phiến loạn, chống nhà nước Pháp biện hộ, thì có ngày mang họa.
● Vấn đề chỉ điểm, mật thám
Chính quyền thuộc địa dùng nhiều mật thám người Việt, dễ len lỏi vào môi trường Việt kiều. Những người có bí danh như Jean, chuyên theo dõi Nguyễn Tất Thành hay Désiré, theo dõi Nguyễn Thế Truyền, đều là Việt. Trong số mật thám có cả các quan: Đốc Phủ Bảy là một trường hợp. Nhưng mật thám có thể đưa những thông tin sai lầm:
Cuốn Cochinchine - Nam Kỳ của Léon Werth, là một tác phẩm văn học giá trị, nói lên sự khâm phục kín đáo của Werth đối với Nguyễn An Ninh và mô tả tỷ mỷ đời sống hàng ngày ở Nam Kỳ dưới sự áp bức của bọn thực dân vô giáo dục trên một dân tộc có truyền thống văn hóa lâu đời nhưng cam chịu. Léon Werth kể lại câu chuyện sau đây: hai mật thám người Việt có nhiệm vụ theo dõi Nguyễn An Ninh ở Sài Gòn, nhưng thay vì theo Ninh, họ lại đi theo Dejean de la Bâtie. Khi Werth và Ninh rời Sài Gòn đi Lục tỉnh, mật thám vẫn tiếp tục theo dõi La Bâtie và làm báo cáo hàng ngày. Đến lúc cơ quan an ninh ở Rạch Giá đánh điện lên, Sài Gòn mới biết là nhầm, hình như hai người này bị đuổi!
Trong năm 1919, Edouard đưa ra những bản báo cáo về Nguyễn Ái Quốc rất dài và tỉ mỉ, đặc biệt mật báo về cuộc thảo luận tối 19/12/1919 ở Villa des Gobelins mà ông được dự - Edouard hình như là Đốc phủ Bẩy, công chức ở bộ Thuộc Địa, "chơi thân" với nhóm Yêu Nước- chép lại lời Nguyễn Ái Quốc diễn thuyết rất hùng hồn về hiện tình Việt Nam và thế giới, trong lúc chính sở mật thám cũng chưa biết Nguyễn Ái Quốc là ai! Đọc bản báo cáo này, người ta có thể nhận ra Nguyễn Thế Truyền vì phù hợp với lối phát biểu của ông, nhất là chi tiết: "Nguyễn Ái Quốc" lấy tàu đi Toulouse.
● Theo dõi Nguyễn Ái Quốc
Vấn đề theo dõi Nguyễn Ái Quốc rất phức tạp, vì những lý do sau đây:
1/ Người Pháp và người Tây phương nói chung, thường dùng Họ thay Tên. Vì vậy, đối với người Pháp, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Ái Quấc, đều là M. Nguyễn. Ấy là chưa kể các Nguyễn khác trong nhóm Yêu Nước, riêng gia đình Nguyễn Thế Truyền có đến bốn năm Nguyễn.
2/ Thời gian đầu, mật thám chưa phân biệt được 3 nhân vật chính: Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh và Nguyễn Tất Thành. Vì vậy, có một số mật báo hoàn toàn trái ngược nhau, ví dụ tả Nguyễn Ái Quốc là người miền Nam, tức Nguyễn An Ninh, hoặc học ở Pháp từ nhỏ, tức Nguyễn Thế Truyền. Có mật báo còn nhầm Nguyễn Ái Quốc với Nguyễn Chuyên, rồi nhầm Nguyễn Chuyên với Nguyễn Như Chuyên... Đến khi chụp được ảnh Nguyễn Tất Thành, mới vỡ lẽ. Nhưng từ bộ trưởng, toàn quyền đến thanh tra, tất cả đều cho là Thành mạo nhận.
3/ Chính Nguyễn An Ninh và Nguyễn Thế Truyền cũng tung hoả mù: Truyền và Ninh cố tình giao các văn bản họ đã viết cho Nguyễn Tất Thành đem khoe với mật thám rằng mình vừa viết xong.
Vì thế, từ cuối 1919, đã có những bản mật báo ghi rõ: Nguyễn Ái Quốc vừa viết xong cuốn sách này, dịch cuốn sách kia... và Daniel Hémery đã dựa vào những báo cáo này để viết câu: "Cuối năm 1919, Nguyễn Ái Quốc đã "sửa soạn ra cuốn sách Les Opprimés- Những Kẻ Bị Đàn Áp, có thể là sơ thảo văn bản tương lai Procès de la Colonisation - Bản Án Chế Độ Thực Dân và nghiền ngẫm dự định dịch các tác phẩm Tây phương, như L'Esprit des lois- Vạn Pháp Tinh Lý sang Quốc ngữ.". Sự thể đã trở thành khôi hài: một người mới sang Pháp 6 tháng, đang học tiếng Pháp, làm sao có thể có những dự tính "đội đá vá trời" như vậy?
Việc vở kịch Le dragon de bambou - Rồng tre, là một ví dụ. Có thể Truyền hay Ninh viết, rồi đưa Thành đem đến cho Léo Poldès, đảng viên cộng sản, người điều khiển các buổi nói chuyện ở Câu Lạc Bộ Ven Đô - Club du Faubourg, khu 17, nơi Tất Thành, từ 14/7/1921, ở ngõ Compoint gần đấy, hay đến để tập nói tiếng Pháp giữa công chúng. Léo Poldès đọc thích quá, đã giúp việc dựng kịch. Ông nhận xét về vở kịch này như sau: "Hoàn chỉnh, hóm hỉnh, đối thoại hài hước quất vun vút như roi, sống động như lối khôi hài của Aristophane".
4/ Ngày 12/10/1919, Guesde báo cáo cho bộ trưởng: "Nguyễn Ái Quốc đã được mời ra sở cảnh sát để hỏi và chụp ảnh ngày 20/9/1919. Anh ta kiên quyết khai tên là Nguyễn Ái Quốc mặc dù ta biết là khai man".
5/ Mật báo ngày 28/11/1919, mô tả khá đúng tình trạng hoả mù ấy: "Chúng tôi thấy ở Paris có một người An Nam hình như gốc Bắc, tự nhận là Nguyễn Ái Quốc. Hắn giấu kỹ danh tánh thật. Chính hắn đã ký những bản truyền đơn đòi tự trị ở Đông Dương. Hắn ở số 6, villa des Gobelins, nhà luật sư Phan Văn Trường, hắn chuyên về vấn đề chính trị và cả ngày ở thư viện Quốc gia, phố Richelieu, thư viện Sainte-Geneviève, Place du Panthéon, ở văn phòng Hội Nhân Quyền, phố L'Université, hoặc nậm nọa với bọn khả nghi cùng chủng loại. Hắn thư từ với Phan Châu Trinh ở Pons, Phan Văn Trường và Khánh Ký hiện đang ở Mayence. Tình báo cho biết tại nhà số 6 Villa des Gobelins bọn An Nam có khi tụ họp tới một giờ sáng, cãi nhau ỏm tỏi đến nỗi láng giềng phải than phiền. (...) Các thám tử của ta theo dõi rất sát tên được gọi là Nguyễn Ái Quốc, một người đã kết thân được với hắn, sớm muộn gì rồi hắn cũng sẽ thổ lộ cho biết danh tánh thật".
Phan Văn Trường cho biết nhà ông lúc nào cũng có vài người canh gác bên kia đường - Villa des Gobelins là một ngõ cụt nhỏ, immeuble khang trang. Vậy thám tử "tìm thấy" Nguyễn Tất Thành ở số 6 Villa des Gobelins là đương nhiên, và Tất Thành nhận mình là Nguyễn Ái Quốc, cũng đương nhiên. Sự tranh luận sôi nổi có thể về đề tài những bài báo sẽ viết. Thời điểm ấy, theo Phan Văn Trường, mọi người đều đến thư viện, đọc và học, vì không có tiền mua than củi để sưởi nhà, rất dễ nhầm người này với người kia, nhất là những người cùng tên Nguyễn.
6/ Ngày 16/9/1920 tổng thanh tra Pierre Guesde thông tri cho Cảnh Sát Cuộc: "Phải gọi Nguyễn Ái Quốc đến hỏi lại: Tên thật là gì? Gốc gác ở đâu? Cha mẹ tên gì? ...
Vì ở Đông Dương mọi người đều phải có thẻ căn cước, giấy thông hành, thẻ thuế thân, không thể có chuyện một người đến Pháp mà không có giấy tờ gì cả".
7/ Ngày 12/10/1920, Pierre Guesde viết bài tổng kết gửi lên bộ trưởng, tình hình vẫn hết sức lộn xộn: Cơ quan an ninh Pháp vẫn chưa xác định được ai là người viết những bài ký tên Nguyễn Ái Quốc, vì họ không tin Nguyễn Tất Thành là Nguyễn Ái Quốc. Chắc chắn do sự khác biệt quá lớn giữa thứ tiếng Pháp mới học của Nguyễn Tất Thành, và thứ tiếng Pháp nhuần nhuyễn tinh vi trong các bài ký tên Nguyễn Ái Quốc. Theo một tài liệu Vidéo của Viện Quốc Gia lưu trữ Âm thanh và Hình ảnh Pháp INA - Institut National
Audiovisuel về buổi Hồ Chí Minh trả lời phỏng vấn một nhà báo Pháp tháng 6/1964, thì quả đúng như thế: Ông Hồ nói tiếng Pháp dở, nhiều lỗi sơ đẳng, có câu ông dịch tiếng Việt từng chữ một, người Pháp không nói như thế. Có chỗ ông không hiểu câu hỏi của phóng viên. Một trình độ Pháp văn như vậy không thể viết được những bài báo ký tên Nguyễn Ái Quốc.
Đứng trước tình trạng: có một "bóng ma" Nguyễn Ái Quốc rất tài tình được mô tả trong các bản mật báo: diễn thuyết liên miên, phát biểu trong các buổi họp của đảng Xã hội, viết sách, viết báo, dịch sách, trả lời phỏng vấn báo Triều Tiên, báo Mỹ... Và một "người thật" là Nguyễn Tất Thành tự xưng mình là Nguyễn Ái Quốc, mà lại nói không thông tiếng Pháp, Pierre Guesde, tường trình về sự hoang mang của mật vụ như sau:
"Paris ngày 12 tháng 10 năm 1920
Thưa ông Bộ Trưởng,
(...) Trước hết, Nguyễn Ái Quốc, giấu danh tánh thật của y. Y không muốn bị lộ tung tích; y đã đổi tên nhiều lần khi di chuyển từ nơi này đến nơi khác, cái tên Nguyễn Ái Quốc hiện nay chỉ đánh lừa được kẻ không biết tiếng An Nam; Nguyễn Ái Quốc có nghiã đơn thuần là "Nguyễn yêu nước". Tất cả mọi cố gắng đều dồn vào việc điều tra hộ tịch của Quốc. Những người chỉ điểm An Nam và các thanh tra an ninh đều bắt tay vào việc và trao đổi thường xuyên với Đông Dương.
Những thông tin do Cảnh Sát Cuộc - Préfecture de Police cung cấp chẳng có gì chính xác (...) Trong buổi nói chuyện với ông thanh tra Cảnh Sát Trưởng, tôi đã thông báo là ông toàn quyền Đông Dương rất có lý khi nhấn mạnh đến việc cần xác định danh tánh Quốc. Tôi còn nói thêm: "Nguyễn Ái Quốc tự nhận mình là người An Nam. Có thật thế không? Ai chứng tỏ điều đó? Y nói rằng y không có giấy tờ nào do nhà cầm quyền Đông Dương cung cấp. Y xen vào chính trị, trà trộn vào những nhóm chính trị, phát biểu trong những buổi hội họp cách mạng, và chúng ta không biết rõ đối thủ là ai! (...)"
Sau buổi tôi nói chuyện cùng ông thanh tra, Nguyễn Ái Quốc bị gọi đến Cảnh Sát Cuộc. Người ta đã chụp hình và hỏi cung y. Việc này xẩy ra ngày 20 tháng 9 (20/9/1920). Những câu trả lời của Quốc được lưu trữ trong biên bản đính kèm. Y vẫn khăng khăng nhận mình là Nguyễn Ái Quốc. Chúng ta chắc chắn đó là lời mạo nhận."
Nhưng ngay sau đó, trong bức thư, Pierre Guesde lại viết những lời ngược lại:
"Trong tình trạng hiện nay của ăng-kết, với những thông tin tiếp được từ Đông Dương, tôi nghĩ có thể xác định rằng Nguyễn Ái Quốc chẳng qua là tên Nguyễn Tất Thành, kẻ đã ở An Nam năm 1908, trong khi xẩy ra bạo loạn, và đã ở Anh trước khi đến Pháp. Mà Nguyễn Tất Thành được coi là kẻ phiến động nguy hiểm.
Ngay từ ngày 25/7/1919, qua điện tín số 1791, chính phủ Đông Dương đã thông báo rằng một bản thỉnh nguyện có ẩn ý, gửi từ Paris, hôm 18/6, cho nhiều tờ báo ở thuộc địa, dưới cái tựa "Những thỉnh nguyện của dân tộc An nam". Bản thỉnh nguyện này, trước tên ký, có ghi: Thay mặt nhóm người An Nam yêu nước: Nguyễn Ái Quốc" (...)
Nguyễn Ái Quốc đã liên kết với nhiều phần tử cách mạng ở Pháp và ở ngoại quốc. Y giao thiệp cùng lúc với nhóm xã hội, nhóm vô chính phủ ở Pháp và những kẻ cách mạng Trung Hoa, Triều Tiên, Nga, Ái Nhĩ Lan, v.v... Y phát biểu trong những buổi diễn thuyết của đảng Xã Hội, đáng chú ý là hôm 1 tháng 5 vừa qua (1/5/1920) và trong những cuộc đình công khác nhau. Y vừa viết xong một cuốn sách trong đó y đòi độc lập cho Đông Dương. Chúng tôi đã có được bản cóp-pi những đoạn chính của cuốn sách này. Tài liệu đính kèm.
Những lời trên đây chứng tỏ sự bối rối của cơ quan an ninh Pháp: Một mặt cho rằng có một Nguyễn Ái Quốc giả, tức là kẻ đến trình diện, tự nhận mình là Nguyễn Ái Quốc. Một mặt lại tin rằng có một Nguyễn Ái Quốc thật -qua các mật báo- người ấy mới chính là Nguyễn Ái Quốc diễn thuyết và là tác giả các văn bản.
Thời gian từ 1919 đến tháng 5/1920, Nguyễn Ái Quốc "thật" được các chỉ điểm Pháp mô tả như một người đã "liên kết với nhiều phần tử cách mạng ở Pháp và ở ngoại quốc. Y giao thiệp cùng lúc với nhóm xã hội, nhóm vô chính phủ ở Pháp và những kẻ cách mạng Trung Hoa, Triều Tiên, Nga, Ái Nhĩ Lan, v.v... Y phát biểu trong những buổi diễn thuyết của đảng Xã hội, đáng chú ý là hôm 1 tháng 5 vừa qua (1/5/1920) và trong những cuộc đình công khác nhau. Y vừa viết xong một cuốn sách trong đó y đòi độc lập cho Đông Dương. Chúng tôi đã có được bản cóp-pi những đoạn chính của cuốn sách này. Tài liệu đính kèm.
Chân dung này chính là Nguyễn An Ninh, nhờ ba yếu tố: vô chính phủ, diễn thuyết liên miên và viết sách đòi độc lập cho Đông Dương. Nguyễn Thế Truyền lúc đó còn học ở Toulouse, chắc không đi về Paris thường xuyên và Nguyễn Tất Thành, mới sang, không rành tiếng Pháp, không thể diễn thuyết và viết sách tiếng Pháp được.
Pierre Guesde viết tiếp: "Những bài báo phát xuất từ Nguyễn Ái Quốc và đồng bọn được đón nhận khá tốt trong một loại báo (đặc biệt báo L'Humanité). Chúng ta thấy những bài ký tên y trong những báo khác nhau, đặc biệt trong tờ L'Humanité ngày 2/8/1919, và trong tờ Le Populaire ngày 4 và 14/10/1919. Y ở số 6, villa des Gobelins, Paris, trong một nhà lầu do Phan Văn Trường thuê. Phan Văn Trường là một trong những tay phiến động nguy hiểm nhất hiện đang ở Đức cùng với Khánh Ký và François Albert, tất cả đều là bạn Nguyễn Ái Quốc cũng như Phan Châu Trinh thường trực ở nhà Nguyễn Ái Quốc và hiện đang ở đây luôn. Kèm đây là lá thư của Nguyễn Ái Quốc gửi cho M. Outrey, từ Biarritz, ngày 16/10/1919, cho thấy ý kiến của Nguyễn Ái Quốc về chính phủ ta như thế nào. (...) Ta có thể xác định rằng Phan Văn Trường là kẻ thông minh nhất và quỷ quyệt nhất trong nhóm. Nguyễn Ái Quốc là thư ký và là người cho Phan Văn Trường mượn tên".
Bản tường trình của Pierre Guesde bị rối loạn vì những thông tin sai lầm của thám tử, nhất là khi François Albert, một người trong nhóm Yêu Nước, bị hỏi cung cũng khai chẳng hề gặp Nguyễn Ái Quốc bao giờ.
Thực ra những thám tử của Guesde lầm mà không lầm vì vô tình, họ đã xác định được 1/3 sự thực: Nguyễn Ái Quốc chính là Nguyễn An Ninh.
Bởi vì, người mà thám tử thấy viết sách, giao thiệp với nhóm Xã Hội, nhóm Vô Chính Phủ và diễn thuyết liên miên, năm 1919-1920, chính là Nguyễn An Ninh. Người "vừa viết xong một cuốn sách trong đó y đòi độc lập cho Đông Dương" cũng là Nguyễn An Ninh, có thể đó là cuốn La France en Indochine. Người viết Lá thư gửi từ Biarritz cho M. Outrey cũng là Nguyễn An Ninh - Sẽ giải thích sau. Trong bản báo cáo, Pierre Guesde rất tinh tường qua những nhận xét khác của ông:
- Một mực không tin Nguyễn Tất Thành là Nguyễn Ái Quốc. Đọc các văn bản Nguyễn Ái Quốc, ông ta đoán đây là người Pháp viết tiếng Pháp. Đặc biệt ông ta chú ý đến những bài quan trọng như La question des indigènes en Indochine - Vấn đề dân bản xứ ở Đông dương do Phan Văn Trường viết; bài L'Indochine et la Corée; une intéressante comparaison - Đông Dương và Triều Tiên, một sự so sánh lý thú và bài Lettre à Monsieur Outrey - Thư gửi ông Outrey do Nguyễn An Ninh viết.
- Ông ta xác định Phan Văn Trường là người nguy hiểm nhất.
Tóm lại, tới ngày 12/10/1920, Pierre Guesde vẫn đinh ninh Nguyễn Tất Thành là người "gánh" cái tên Nguyễn Ái Quốc cho Phan Văn Trường. Điều này cũng không sai, nhưng Guesde cũng chỉ tìm ra 1/3 sự thật: Phan Văn Trường cũng là Nguyễn Ái Quốc.
Trong phụ bản số 2 của bản báo cáo gửi bộ trưởng Thuộc Địa, Guesde kết luận:
"Sau khi trao đổi với toàn quyền Đông Dương, thấy cần phải biết rõ Nguyễn Ái Quốc là ai. Ngày 20/9/1920 đã đưa giấy gọi Nguyễn Ái Quốc đến sở cảnh sát để chụp ảnh và hỏi lai lịch (kết quả kèm theo đây). Thấy rõ đây vẫn là lời khai man".
Và khi Nguyễn Tất Thành đã đi Nga, năm 1923, trong thư gửi toàn quyền Đông Dương ngày 12/9/1923 Pierre Guesde còn viết: "Những bài ký tên Nguyễn Ái Quốc không phải do y viết hoặc đã được sửa chữa rất nhiều. Khả năng nói và viết tiếng Pháp của tay An Nam này không đủ để viết những bài y ký tên".
● Nguyễn Tất Thành trở thành Nguyễn Ái Quốc và xin vào hội Tam Điểm
Khi Nguyễn Tất Thành đến Paris tháng 6/1919, Hội Nghị Hoà Bình đã khai mạc từ 18/1/1919 ở Versailles. Mục đích của hội nghị là xây dựng những quốc gia Âu Châu mới sau thế chiến. Nhóm Yêu Nước muốn lợi dụng tình hình quốc tế thuận lợi, để xác định sự hiện diện của Việt Nam, một đất nước đã bị mất chủ quyền. Có thể họ đã thảo luận với đại biểu các nước khác trong hậu trường Hội Nghị, trước khi tung bản thư Thỉnh Nguyện.
Khi bản Thỉnh Nguyện hoàn tất, tại sao Phan Văn Trường giao cho Nguyễn Tất Thành đem đến Versailles, mà không giao cho một người khác?
Bởi Nguyễn Tất Thành là khuôn mặt mới, vừa chân ướt chân ráo đến Paris, chưa bị mật thám bao vây. Lần xuất hiện đầu tiên này, chưa ai biết Nguyễn Tất Thành là ai.
Nguyễn Tất Thành, xa nước từ 1911, sống vất vả trên tàu, rồi biệt lập ở Luân Đôn, vừa sang Pháp, chưa biết rõ những thông tin về tình hình trong nước, cũng không đủ kiến thức và không rành tiếng Pháp, nên chỉ có thể giữ vai trò khiêm tốn: học Pháp văn, giữ sổ sách chi thu, tập viết những mẩu tin, phụ trách việc in và phát truyền đơn. Không thể viết được những bài xã luận ký tên Nguyễn Ái Quấc/Quốc, nhưng vì muốn trở thành chính khách, Nguyễn Tất Thành xung phong nhận tên Nguyễn Ái Quấc/Quốc.
Việc đưa bản Thỉnh nguyện đến Versailles là chặng đầu. Xin vào hội Tam Điểm, là chặng thứ nhì. Việc này chắc chắn phải do sự sắp đặt của Phan Văn Trường -có thể Phan Văn Trường cũng có chân trong Hội Tam Điểm- vì Nguyễn Tất Thành mới tới Paris, không thể biết rõ về hội Tam Điểm.
Theo Pierre Brocheux: "Tháng 8/1919, Quốc đệ đơn xin vào nhóm Ernest Renan trong hội Tam Điểm (Franc-Maçonnerie), 16 Rue Cadet, nhưng không được".
-Theo Thu Trang: Ngày 14/6/1922, Nguyễn Ái Quốc được kết nạp vào hội Tam Điểm"
Tháng 8/1919, người ta chưa biết Nguyễn Tất Thành là ai. Hội Tam Điểm từ chối. Nhưng đến tháng 6/1922, ba năm sau, Nguyễn Tất Thành đã "chính thức" trở thành Nguyễn Ái Quốc, một tên tuổi trong làng báo chống thực dân. Hội Tam Điểm mới chấp nhận. Nhưng chỉ được vài tháng, Nguyễn Ái Quốc bỏ Tam Điểm, vì sao?
Tam Điểm là một hội kín, có truyền thống lâu đời trên thế giới, dựa trên nguyên tắc cao quý "Thân ái -Fraternité- giữa người và người". Nhưng trên thực tế, hội quy tụ những phần tử ưu tú của xã hội, có thể nắm vận mệnh các dân tộc. Người làm chính trị vào hội Tam Điểm để được bảo vệ khi gặp bất trắc. Trần Trọng Kim cũng ở trong hội Tam Điểm, vì vậy khi làm chính trị, ông có thể nói thẳng mà không sợ chính quyền thuộc địa đàn áp.
Có thể Phan Văn Trường đã tìm cách đưa Nguyễn Tất Thành vào hội Tam Điểm khi Thành mới tới Paris, vì ông tin tưởng ở tương lai người thanh niên nhiệt tình này, và muốn có một thế lực hậu thuẫn cho Tất Thành. Nhưng khi được vào hội rồi, Nguyễn Ái Quốc/Tất Thành không chịu nổi không khí trí thức trưởng giả của hội, nhất là trong những trao đổi, Thành không thể không để lộ những trống vắng về ngôn ngữ và kiến thức của mình trước các thành viên là những phần tử ưu tú của xã hội Pháp. Ngoài ra, còn có thể bị áp lực của đảng Cộng Sản Pháp, nên ít lâu sau Nguyễn Tất Thành đã bỏ hội Tam Điểm.
Về việc Nguyễn Ái Quốc có giấy mời đi dự hội nghị Tours của đảng Xã Hội Pháp, cuối năm 1920, Hoàng Văn Chí cho rằng do Nguyễn Thế Truyền sắp đặt. Có lẽ không đúng, mà vẫn do Phan Văn Trường lo liệu, vì lúc đó Nguyễn Thế Truyền đang ở Việt Nam.
Ta cần phải biết rằng giới chính khách và trí thức Pháp -hay ở nước nào cũng vậy- không dễ thâm nhập, phải là bạn ngồi cùng ghế đại học với họ, hoặc có danh, hoặc có tài. Họ có thể tranh đấu cho cần lao, nhưng họ không làm bạn với những người cần lao, ít học. Một nghịch lý nhưng là sự thật. Vừa đến Paris, làm thợ ảnh, tiếng Pháp chưa thông, làm sao Nguyễn Tất Thành có thể gặp người này, người kia, trong chính giới Pháp? Nếu không được những trí thức thực sự như Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, giới thiệu, và phải "có tên tuổi" trong làng báo như Nguyễn Ái Quốc.
Nhờ những yếu tố này, Tất Thành/Ái Quốc mới có thể được chấp nhận trong môi trường chính trị cánh tả của Pháp. Nhưng "đội" tên Nguyễn Ái Quốc cũng là một gánh nặng, mà đôi khi chính bản thân Nguyễn Tất Thành không kham nổi. Việc tìm lối thoát đi Nga có thể cũng là một cách giải quyết hợp lý hợp tình.
1 Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2000.
2 Phan Văn Trường, sđd, trang 170-171.
3 Vì hồi ký Phan Văn Trường đăng từng kỳ trên báo La Cloche Fêlée từ 30/11/1925 đến 15/3/1926, chủ đích để "vạch trần chính sách thực dân" nên không phải việc gì cũng "công bố" được.
4 Nguyễn Thế Phu là con tuần phủ Nguyễn Duy Hàn người đã bị bom của Quang Phục Hội (Phan Bội Châu) giết chết, nhưng gia đình Nguyễn Thế Truyền không hề nghĩ đến "thù" riêng, khi Phan Bội Bội Châu bị bắt, ông Truyền đã hết sức vận động: diễn
thuyết, viết bài trên báo Le Paria và vận động Hội Nhân Quyền cứu cụ Phan khỏi án tử hình. Đặng Hữu Thụ ghi lại rất rõ những hoạt động của "đảng" Nguyễn Thế Truyền tại Pháp.
5 Theo thư của Bùi Kỷ viết cho Ngô Đức Kế, Lê Thị Kinh, sđd, tập1, quyển 3, trang 183.
6 Lê Thị Kinh, sđd, tập 1, quyển 4, trang 117. Thu Trang, sđd, trang 61.
7 Phan Văn Trường sđd, trang 141.
8 Phan Văn Trường, sđd, trang 144- 145-146.
9 Tranh luận tại quốc hội, ghi lại trên Echo Annamite ngày 11 và 12/1925, Phan Văn Trường trang 208-223.
10 Lê Thị Kinh, sđd, tập1, quyển 4, trang 124.
11 Nhà xuất bản Rieder, 1926, Viviane Hamy, 1997.
12 Chủ báo La cloche fêlée, người Pháp lai, đồng chí của Nguyễn An Ninh.
13 Cochinchine, trang 156.
14 Lê Thị Kinh, sđd, tập 2, quyển 1, trang 126.
15 Xin nhắc lại thời kỳ này hầu như mọi người đều có mặt: Nguyễn An Ninh ở Pháp từ 1918- 10/1922, chỉ về nước một lần trong hè 1920. Nguyễn Thế Truyền về nước một năm từ 8/1920 đến tháng 8/1921.
16 Một người họ Nguyễn trong nhóm Yêu Nước.
17 Daniel Hémery, Ho Chi Minh, De L'Indochine au Vietnam, Gallimard, 1990, trang 45.
18 Trích bài của Léo Poldès, trên báo Ici Paris Hebdo ngày 11/6/1946, in lại trong Hồ Chí Minh Le procès de la Colonisation française, L'Harmattan, 2007, trang 195. Aristophane là kịch tác gia danh tiếng của Hy Lạp.
19 Lê Thị Kinh, sđd, tập 2, quyển 1, trang 49
20 Thu Trang-Gaspard, Hồ Chí Minh à Paris, trang 82-83.
21 Lê Thị Kinh, sđd, tập 2, quyển 1, trang 73.
22 Được đưa lên Youtube, và ông Nguyễn Ngọc Quỳ ở Paris ghi lại trên mạng diendantheky ngày 16/4/2011.
23 Carton 87, S. III, Thu Trang - Gaspard, Hồ Chí Minh à Paris, trang 107-108.
24 Lê Thị Kinh, sđd, tập 2, quyển 1, trang 74.
25 Slotfom Série I, Carton II - Đặng Hữu Thụ, trang124.
26 Pierre Brocheux, Ho Chi Minh, Presses de Sciences PO, 2000, trang 110.
27 Thu Trang, Những hoạt động của Phan Châu Trinh tại Pháp, 1911/1925, Đông Nam Á, 1983, trang 193.-Chương 18 : Nguyễn Ái Quốc, lai lịch và văn bản- Thụy Khuê – Nguyễn Ái Quốc, lai lịch và văn bản (DĐTK).